Danh ngôn

Trong mọi cộng đồng, chúng ta cần một nhóm thiên thần gây rối.

We need, in every community, a group of angelic troublemakers.

(Bayard Rustin – trích bài phát biểu tại New York City 1963)

Trong mọi trường hợp, chắc chắn rằng sự thiếu hiểu biết, đi kèm với quyền lực, là kẻ thù tàn bạo nhất có thể có của công lý.

It is certain, in any case, that ignorance, allied with power, is the most ferocious enemy justice can have.

(James Baldwin - No Name in the Street 1972)

Các cuộc cách mạng và các cá nhân có thể bị giết hại, nhưng bạn không thể giết chết các ý tưởng.

While revolutionaries and individuals can be murdered, you cannot kill ideas.

(Thomas Sankara, một tuần trước khi bị ám sát, 1987)

Không có cảm giác nào cô đơn hơn việc bị chính đất nước mình trục xuất.

There's not a more lonely feeling than to be banished by my own country.

(Kiyo Sato – Kiyo’s Story 2009)

Ban Biên tập

Địa chỉ liên lạc:

1. Thơ

tho.vanviet.vd@gmail.com

2. Văn

vanviet.van14@gmail.com

3. Nghiên cứu Phê Bình

vanviet.ncpb@gmail.com

4. Vấn đề hôm nay

vanviet.vdhn1@gmail.com

5. Thư bạn đọc

vanviet.tbd14@gmail.com

6. Tư liệu

vanviet.tulieu@gmail.com

7. Văn học Miền Nam 54-75

vanhocmiennam5475@gmail.com

Tra cứu theo tên tác giả

Chủ Nhật, 22 tháng 3, 2015

Gió tự thời khuất mặt

Tiểu thuyết

Lê Minh Hà

4.

Ông Thản ôm người đàn bà đang run bần bật trong cơn nức nở khan, buồn bã. Ông không nghĩ tới việc trách cứ Tam. Có thể làm điều ấy được chăng khi trong trí ông lần lượt diễu lại những con chữ tai ác. Những con chữ làm ông đau đớn vì nỗi bất lực của mình khi nghĩ tới hai đứa con gái còn nhỏ dại và người vợ đã bỏ nhà đi. Vợ ông có khổ sở như thế này không? Có tủi hổ như thế này không? Có tuyệt vọng như thế này không? Đối diện với nỗi đau khổ của Tam, ông chợt hiểu ra rằng ông không được quyền căm hận. Nỗi đau khổ cùng cực suốt mấy tháng qua đã làm ông lầm tưởng. Còn lại trong ông, nguyên vẹn, vẫn là những yêu thương ấy, những yêu thương sâu nặng, sâu nặng đến độ trở thành đảm bảo cho lòng chung thủy nơi ông.

Thế cho nên ông Thản đã không ngần ngại buông bát cơm chiều vào thẳng nhà hộ sinh thăm Tam vừa qua cơn đẻ khó. Chị thư ký công đoàn nhà ăn e dè:

- Thì anh cứ ăn cho xong bữa hẵng nào. Trong ấy giờ có chị tổ trưởng phụ nữ rồi. Lẽ ra phải báo cho phòng hành chính. Nhưng giờ này thì còn có ai ở nhà máy nữa đâu. Vả lại không hiểu sao cô Tam cứ một mực xin được gặp anh... Cô ấy nói gở lắm.

*

Ngân không bao giờ thấu được nỗi đau đớn của người đàn bà tội nghiệp ấy. Mà liệu có ai tận tường điều đó ngoài chính bản thân người trong cuộc đang khổ sở thu vén đời mình. Chị ta nằm như dán vào cái giường trải tấm chiếu không còn biết màu gì của nhà hộ sinh. Khuôn mặt mà tất cả đường nét đều vạc xuống rộc rạc qua cơn mất máu vì đẻ khó bừng bừng đỏ trong cơn sốt. Trên cái tủ con đặt sát giường Tam, chỏng chơ nải chuối và hộp sữa. Chị tổ trưởng phụ nữ nhà ăn - người vẫn thường đứng bếp với Tam - sốt ruột đứng đổi chân ở đầu giường, dáng vẻ vừa thương hại vừa dè bỉu, diễn đạt trọn vẹn lòng tốt bất đắc dĩ với mấy sản phụ tươi tỉnh cùng phòng. Chị ta thấy ông Thản, tươi cười:

- May quá, phó giám đốc có đây rồi. Bác sĩ vừa lại phòng báo chuẩn bị chuyển cô ấy lên viện C anh ạ. Giờ cô ấy mới ngủ có vẻ yên yên. Trước cứ mê, khóc gọi ai mãi.

Người đàn bà ngừng lại, thăm dò:

- Với lại cứ gọi anh...

Ông Thản bình tĩnh:

- Được rồi, chị về qua nhà chị thư ký công đoàn nói tôi nhắn công đoàn xem thế nào trích qũy trợ cấp đột xuất cho cô Tam, mức cao nhất. Cô ấy chưa lo được cho đứa nhỏ. Mà thế này thì chưa biết nằm tới bao giờ...

- Cô ấy may mắn quá, được phó giám đốc quan tâm trực tiếp thế này...

Không có một chút ác ý nào, dường như thế, ẩn sau câu nói. Nhưng hình như mọi lời đồn thổi tai vạ thiên hạ vung vãi làm cho người đời điêu đứng đều bắt đầu như thế chăng? Không như thế, người ta sẽ không thể chịu đựng nổi ngày sống khó nhọc, buồn chán mà tưng bừng của những năm tháng ấy. Không ai biết, trong cơn sốt khô rốc, Tam đã gặp lại người chị họ chết đã bao lâu rồi. Đã nhìn thấy mình trong tấm thân dường như mỏng hẳn đi của Phận sau cơn băng huyết, không động cựa giữa căn phòng bệnh viện huyện âm u cơn gió đồng chiều. Đã thấy lại mình, mười tám tuổi, đưa ngang cánh tay gạt nước mắt ròng ròng, lếch thếch xách gói đồ hai chị em hôm trước tha đi, chạy theo hai người đàn ông bà con hàng huyện đã thuê giúp để võng xác Phận về. Cô gái mười tám tuổi chẳng biết tục lệ làng nước là gì, đã suýt làm cả làng náo loạn.

*

Chiều ấy bà Nhị không hiểu làm sao mà cứ như giẫm phải tổ kiến. Bụng dạ tơ vò. Bà không nói được với ai về nỗi sợ thất đảm đang nghiến lấy tâm can mình. Nắng chiều còn như chan lửa, bà đùng đùng đội nón, vác sào ra thu rơm đang phơi lại, rồi chạy ra chạy vào, luấn quấn với đàn gà và đám thúng mủng, bụng bảo dạ phải nấu nướng rồi sáng mai đùm lên với hai chị em nó.

Buổi tối. Trăng quầng. Bức bối. Bà Nhị chặn cửa chuồng gà xong, ra ngõ, nép dậu cúc tần, thấp thỏm nhìn ngược về phía đầu làng. Thì Tam về tới, giọng khản đặc:

- Mẹ ơi, con đưa chị Phận về. Bây giờ võng chị ấy vào đâu?

- Giời ơi! Chị ấy chết rồi ư? - Bà Nhị nghe hai hàm răng lách cách trong miệng như vào những ngày rét ngọt đi làm bùn cấy cần, hay sang đò sớm đem nón mới chằm đi chợ xa - Nó đâu?

- Chúng cháu đứng đây bà ạ.

Tiếng đàn ông đục đục. Hai bóng người nhô ra khỏi hàng rào ô rô nhà bên, trải dài trong trăng mờ cùng cái võng treo giữa hai đầu đòn xóc, phủ tấm chiếu im lìm. Bà Nhị run giọng, nói như rên:

- Các ông làm phúc... Giời ơi... Đây không phải là nhà chị ấy. Nhà chị ấy chỉ có độc con bé cháu hơn mười tuổi. Con tôi không biết... Tam ơi, con nhờ hai bác võng chị trở lại chỗ cây gạo đầu làng. U đi báo cho bên nhà chị ấy. Giời ơi... ối Phận ơi!

Bà Nhị khóc suốt đêm ấy, khóc khi mắng thẳng mặt thằng cháu chồng phó chủ tịch xã và con vợ chỏng lỏn của nó, khóc khi lẩy bẩy liệm đứa cháu dưới gốc đa đầu làng và chôn nó trong đêm, khóc khi ôm đứa con dại của Phận vào lòng cố dỗ cho nó ngủ. Nhưng sáng ra thì bà không khóc được nữa khi nhìn mặt con gái. Mặt Tam trắng như người nằm ổ, nhưng cô không có cái vẻ yếu lướt tự hào của họ. Cô như người đi lạc, dúi vào đâu ngủ đỗ, rồi đột nhiên bừng tỉnh. Bà Nhị biết thế là vĩnh viễn con mình không còn có thể vô tư. Chỉ một sớm một chiều, cô đã chạm tới nỗi đau đâm suốt đời đàn bà, thuở đó.

Nhưng Tam, dù thế, không tự miễn dịch được cho mình. Nếu những người đàn bà biết bước lùi trước những khao khát hạnh phúc của mình, có lẽ họ đã không đau khổ nhiều như thế. Nhưng như thế, thế giới này còn gì?

Có những lúc niềm cay đắng ngấm trong từng ánh mắt

Có những lúc khói thuốc bay

như khói hương

nguyện cho những đời vẫn sống

Có những lúc nuốt máu trong mồm cho khỏi rớt xuống cống

Có những lúc máu nhỏ xuống thảm cùn

chỉ có con gián biết

Có những lúc máu nhỏ xuống lá mục

chỉ có con sâu biết

Có những lúc thân cát bụi bị hất về cát bụi

bằng một phát súng giảm thanh

Có những cô hồn...

Đồng hương - Berlin 1996

5.

Thế giới này còn gì? Thật là một câu hỏi đàn bà. Chỉ có đàn bà hay những người trẻ tuổi mới băn khoăn và đặt những câu hỏi chẳng để làm gì như thế. Sẽ đến ngày người đàn bà - trẻ con này nhìn đời nhẹ nhõm hơn, ân cần hơn, bớt thiết tha hơn. Và sẽ hiểu dần ra rằng phải học cho bằng được, để mà biết, không phải là đòi hỏi hay chối từ, mà là chấp nhận, chấp nhận tất cả.

Và cũng sẽ đến cái ngày Ngân hiểu ra rằng dính vào chữ nghĩa là dính vào một trò chơi nguy hiểm, mà kẻ đặt cược vào chữ nghĩa thường là kẻ thua. Chữ nghĩa không phải là nơi ẩn giấu của con người khi trốn chạy chính mình. Dính vào chữ nghĩa là sẽ chuốc lấy cho mình những băn khoăn day dứt không có kết thúc. Sẽ tự làm mình rủi ro khi cứ cố phân tích bản thân, cố đi tìm mình trong bóng đời. Điều ấy rồi sẽ được hiểu ra thôi, rất nhanh. Chỉ cần một cơn bệnh trọng. Chỉ cần một lần mấp mé bên bờ sống chết.

Gượng dậy được sau những lần như thế, người đàn bà - trẻ con luôn luôn muốn ra phố lúc bình minh, lúc còn vắng tiếng người xe. Chỉ có tiếng gió chuyển trên vòm đa cổ thụ. Những bình minh êm ả, tiếng gió xôn xao. Những bình minh u ám, tiếng gió dằn dọc. Như trong gió có linh hồn. Của nắng sương. Của đất. Của nước.

*

Cây đa đã đứng đó bao năm nhìn ngó cuộc đời, không biết. Nhưng Ngân thích cây đa già từ khi còn bé tí, nắm chặt ngón tay mẹ, chập chững trên mấy đầu ngón chân những bước đầu tiên ra với phố. Ngày hôm đó cây đa trút lá ra lộc mới. Nắng. Và gió. Vòm đa đón từng cơn gió thả lá rào rào. Con bé con lúc đó mặc cái váy trắng, cổ trễ một bên vai và gấu lại hếch lên một bên, để lộ cặp đùi gầy. Đứa bé ấy ngước nhìn mưa lá, reo vui: “Mẹ... Lá...”. Từ buổi ấy, cây đa bên kia ngõ nhỏ đã là người bạn của Ngân, để chia tay và gặp lại. Trong bao nhiêu năm tháng ấu thơ đứt đoạn. Vì chiến tranh. Cây đa đã trút lá theo Ngân ngày Ngân còn là một đứa bé ba tuổi, ôm con búp bê nhựa mậu dịch nhem nhuốc, nhăn nhó để mẹ nhét vào cái ghế ngồi bằng gỗ đã bắt đầu chật chằng sau xe đạp cùng đủ thứ đồ lỉnh kỉnh. Cây đa đã nổi gió theo cái xe mẹ chở Ngân đi dọc thành phố, đã thấy Ngân gà gật trên con đường dẫn ra ngoại thành về nơi sơ tán, nơi Ngân đã học những bài hát đầu tiên và những chữ cái đầu tiên: “Be bé bằng bông - hai má hồng hồng - bé đi sơ tán bế em theo cùng... Mẹ mua xe gỗ - cho bé ngồi trong - bao giờ chiến thắng đưa bé về phố đông”. “Bố ơi bố mũ bố có sao vàng - sao vuông mũ mẹ mũ con sao gì? Bố cười con cứ ngoan đi - Măng non sao đỏ thiếu nhi Bác Hồ”. Toàn những bài hát lên thời đó nghe vui mà sau này nhớ lại thì sao mà buồn bã. Đã bao trưa Ngân dừng chân dưới bóng đa ngày về lại phố đi học còn phải mang theo cái bàn gấp bố kỳ cạch đóng từ gỗ tạp cùng nửa cục gạch thay cho ghế ngồi. Từ bao giờ, người đàn bà - trẻ con không tự biết, chu kỳ sống của cây đa già đã trở thành một phần vui buồn trong đời. Cây đa biết tất về Ngân, biết kẻ đầu tiên thành tâm ôm ấp đứa bé người đàn bà giả điên sinh ra là Ngân. Không phải là mẹ đứa bé, không phải bà nó, cũng không phải ông Thản, người đàn ông đã tự hứng lấy bao nhiêu đồn thổi và nghi kị độc địa, không hề được một lần nói lại rằng không phải ông thương đứa con của người đàn bà lỡ dở vì tình ý với chị ta, mà chỉ vì...

*

- Cô Tam này! Em bé đói rồi này. Nó cứ mút mãi ngón tay của cháu.

- À, úi chao ôi con bống. Em tè sũng sĩnh ra rồi đây chị Ngân này. Em tè hết nên rỗng bụng đấy mà.

- Cô cho em bé bú đi. Rồi để cháu trông em cho. Máy nước đang vắng, cô đi giặt cho em đi cô ạ.

- Ừ. Ngân giúp cô thế này thì học vào lúc nào? Rồi mẹ có mắng cho không? Độ vài ba hôm nữa bà nhà cô từ trong quê ra đỡ cho cô, cháu sang chỉ việc chơi với em thôi. Rồi chị Ngân dạy em học nhé. Con mẹ nằm đây với chị nhé, để mẹ đi vò ù cái đống tã khai mù khai mịt này.

Lúc ấy con bé lên mấy nhỉ? Con bé đâu đã cạn nghĩa chữ thương người. Cứ xong bài vở là nó kiếm cớ qua nhà cô Tam, để được nắm hai bàn chân nhăn nheo mỏng hơn cả chân búp bê của em bé, để được ngửi cái mùi sữa chua chua phảng phất quanh giường, và chơi trò ra vẻ mình là chị lớn cho thoả ao ước có em. Ao ước ấy, con bé đã bao nhiêu lần kèo nèo mẹ. Nhưng mẹ và bố chỉ cười, bảo có hai chị em nó là đủ rồi, cứ đứa nào cãi nhau thì đứa kia bênh và sau này cúng giỗ thì hai chị em chia nhau việc. Bố bảo thích em thì sang mà chơi với em nhà cô Tam. Mẹ dặn thêm có sang thì trông em đỡ cho cô giặt giũ cơm nước. “Đang chân son mình rồi giờ con bận con mọn một mình ra ra vào vào cái chái đó, rõ tội. Nhà ở quê nghe đâu cũng neo người, có mỗi bà cụ lụi cụi với mấy con gà con qué giờ cũng phải thu xếp ra trông cháu lâu dài... May mà có ông Thản... Người ta bảo...”.

- Bảo bảo cái gì? Toàn những bọn rỗi hơi rách việc. Chuyện chả có gì cứ úp úp mở mở nói qua tai nhau. Thật có muốn tốt cũng phải nhìn quanh.

- Anh thì chỉ được cái... - Mẹ dè dặt mỉm cười trước cơn cáu kỉnh vô cớ của bố, đưa mắt về phía hai đứa con đang hào hứng gắp gắp và và.

Khi đó con bé đâu đã hiểu hết sự độc địa của người đời. Bác Thản nó vẫn gặp chiều chiều ở nhà cô Tam. Bác ngồi yên lặng nhìn hai đứa bé, rất ít khi cười. Không có con bé ở đó thì bác sẽ thay nó trông đứa nhỏ cho cô Tam đi chợ, giặt giũ hay chạy ra tổ phục vụ nước sôi năm xu một phích đầu ngõ. Mấy hôm trước con bé mới thấy cô ngồi nán lại nói chuyện với bác:

- Em nghe bác thôi ăn cơm tập thể. Thế là thế nào ạ? Chị em giờ nấu không ngon hay sao ạ?

- Có gì đâu cô. Ăn tập thể thì cứ phải đúng giờ đúng giấc. Tôi công kia việc nọ hay đến muộn, phiền các chị các bà xong việc ngồi chầu phục vụ nốt tôi. Với lại tự túc thì mới thấy hóa ra mình không ăn hết tiêu chuẩn. Tháng này tôi còn dư ba lạng phiếu thịt, lại cả phiếu cá và đậu phụ. Cô Tam cầm lấy mua thêm. Vài ba hôm nữa bà ngoại ra, thêm miệng ăn trong nhà là gay đó.

- Em trả ơn anh cả đời không nổi. Không có anh thì đã không có con bé cháu bây giờ, thì chắc em ân hận suốt đời. Anh giữ lấy phiếu mua mà dùng, em không dám cầm đâu. Em làm nhà ăn thì lạ gì. Tiêu chuẩn sự nghiệp hành chính có bao nhiêu. Mà anh thì đồng hương đồng khói suốt.

- Ấy cô Tam đừng bận lòng. Anh em tới tôi thì có gì ăn nấy à. Dân Nam tụi tôi sống dễ mà. Cô không cầm thì không lẽ xui tôi mang ra bán cho phe phẩy, rồi kiểm điểm đảng viên lại mắc cái tiếng tiếp tay với tư thương, khéo bình bầu cuối năm trượt cái oạch đó đa... Mà cô Tam này, việc khai sanh cho cháu tới đâu rồi?

- Dạ... Em đang rối cả ruột anh ạ. Em đã hứa với người ta sống chết gì cũng không khai tên người ta ra, không để người ta khổ từ trong nhà ra phố. Nhưng mà lớn lên con tủi nỗi không cha thì... em sợ cháu oán.

- Tôi người ngoài chả dám bàn gì. Nhưng nếu chỉ vì một cái tên đàn ông để làm bố con bé cháu thì... Tên tôi nè. Tôi họ Võ. Mấy đứa nhỏ nhà tôi tên đẹp không à. Võ Hằng Thương con chị. Võ Hằng Tâm con em. Hay con bé này ta đặt là Võ Hằng ... Hằng...

- Giời ơi... Cả cái nhà máy này ai chả biết chỉ độc anh họ Võ. Mẹ con em làm thế sao đành.

- Cô Tam băn khoăn làm gì. Người ta nói mỏi miệng thì người ta thôi. Mà giả dụ họp đảng ủy có ai nói ra nói vào thì bất quá tôi lại tiếp tục lặng im là cùng chứ gì. Cái chính là con bé. Đã sinh ra nó thì phải cho nó được làm người bình thường. Mình đã sống không bình thường mãi rồi. Tôi nghĩ hay gọi nó là con Hằng An. Võ Hằng An.

Cô Tam nước mắt ròng ròng. Con bé con chả hiểu vì sao. Chỉ thấy bác Thản đặt tên cho em bé hay quá. Nghe qua đã chôn ngay vào ruột.

*

- Mẹ này, em bé nhà cô Tam sẽ tên là Võ Hằng An. Sao bố mẹ không đặt cho con tên hay như thế. Tên gì lại là Lều Thoại Ngân. Cô giáo bảo họ nhà mình nghe như họ người Hoa. Thế là chúng nó cứ gọi con là Tàu Phù đanh đá.

- Tên con hay mà. Có gì mà phụng phịu. Con bảo cô Tam đặt tên em bé là Võ Hằng An à?

- Không! Bác Thản đặt. Cô Tam nghe rồi khóc. Tên em bé hay hơn tên cô ấy bao nhiêu.

Mẹ đưa mắt cho bố. Đêm, xoay trở trên cái giường có rệp, Ngân nghe mẹ thì thào:

- Ông Thản liều quá. Rõ là thánh chứ không phải là người. Cái cô Tam không có phận mà gặp ông ấy thì quá phúc. Trước thấy mấy ông miền Nam tập kết ngồi đâu cũng chửi, lại tụ tập bia rượu lu bù, em cứ chờn chợn. Nghĩ người Nam họ hời hợt, cù chầy cù bửa. Ra ở đâu cũng người mình cả, có thế này thế khác.

- Tốt thế rồi thì khổ - Tiếng bố.

Cả bố, cả mẹ, và người cùng nhà máy không ai biết rằng đêm đêm ông Thản vẫn lần đọc lại lá thư cũ kỹ. Thư do con gái ông viết, không biết vì nước mắt hay vì những cơn mưa rừng mà nhoè mất nhiều dòng. Cũng không ai biết, khi đặt tên cho đứa con của người đàn bà khốn khổ, ông đã nghĩ tới một đứa bé khác, đã hình dung mình là một người đàn ông khác, và người đàn bà nước mắt ròng ròng ngồi trước mặt ông không phải là Tam, mà là người vợ ông yêu.

Gửi bố

Đã thấy trong gương tóc đen chen tóc bạc

Bốn năm con xa nhà

Này là nét của mẹ

Này la nét của cha

Này là mũi tẹt da vàng

Lẫn làm sao cho được

Những ngày kiếm ăn quanh

Những ngày gào thét hão

Lý tưởng nào tìm kiếm suốt đời con

Bố ơi

Tóc bố không còn sợi đen

Con còn phiêu bạt mãi

Càng già con càng thương bố hơn.

6.

Sau này, Ngân đã nhiều lúc dằn vặt mình bởi không hề nghĩ rằng khi ngây ngô kể về người đàn ông tốt bụng và kín đáo ấy mình đã làm cho người cha mất ngủ. Nhưng biết làm sao được. Khi đó Ngân còn bé quá. Cái giường đầy rệp không thể làm mất giấc của một đứa trẻ lên mười

Nửa đêm về sáng, người cha lặng lẽ vén màn khoác áo ra đường. Gió từ bờ tre bên đê rờn rợn thổi trên tấm lưng còn âm ẩm mồ hôi. Sao đã mờ đi. Phố phường thanh vắng quá. Cái thanh vắng vẫn mang không khí thời đang chiến của những đêm vừa yên bình trở lại. Vẫn còn nguyên những dãy tăng xê hai bên hè phố. Hầm công cộng cũng chưa lấp. Không còn tiếng còi báo động hú dồn. Người đàn ông đi trong cơn mộng mị, trong nỗi thiếu vắng thắt lòng một Hà Nội cũ càng. Hà Nội của những tiếng rao đêm rải trong sương trước ngày kháng chiến. Hà Nội chợ Hôm thơm nức mùi thức ăn thời hòa bình lập lại. Ngày đó ông hai mươi. Mới chỉ hai mươi.

*

Ngày đó ông còn làm việc ở phố Trần Bình Trọng. Khuya, công việc vãn vãn, mấy chàng trai rủ nhau thả bộ dọc Trần Nhân Tông đi kiếm cái ăn đêm. Hồ Thiền Quang về khuya mơ màng như một con mắt khép khiến chàng trai liên tưởng tới con mắt kia lóng lánh sau mái tóc lơi bên má... Cô gái nhà góc Quang Trung Trần Nhân Tông... Đề tài bàn tán mê mải của mấy anh cán bộ mới về xuôi. Bao lâu rồi ông không còn gặp lại anh em cũ cùng cơ quan độ ấy. Bao lâu rồi ông không một lần thấy lại gương mặt cô gái ngày xưa. Đâu phải vì đã vợ con mà không dám tìm người nhìn lại. Tránh tất cả những quan hệ cũ, người cha tìm cách tránh gặp lại chính mình. Ông căng thẳng toàn bộ con người mình để sống, như tất cả mọi người thời bom đạn, nhưng cũng là để chống lại hồi ức mênh mông cứ tìm cách gọi ông về. Về những ngày tháng ở cơ quan, về một thời mới lớn, về những chiều sương một mình một túi dết công văn, áo nâu quần đùi lên Chiêm Hóa hay lần về ngủ đỗ nơi Ghềnh Quýt. Về những người anh hay than phiền ông lười tưới rau tăng gia ngày ấy. Họ bây giờ ở đâu?

Ông cúi đầu đi, không muốn hỏi mình câu đó. Họ ở ngay đây, giữa lòng thành phố này, chắc là không mất ngủ như ông, chắc là không phải vật vã với khao khát có nguyên cả một căn phòng để đêm về vợ chồng có thể thì thầm những điều ngoài chuyện tem phiếu và lương lậu, để buổi tối con có chỗ mỗi đứa một góc học bài. Họ ở ngay đây, giữa thành phố này, chắc là không phải đổ trống ngực khi gắp thăm cái xe đạp cung cấp cho vợ khỏi phải rều rệu cuốc bộ đi làm đi chợ. Như ông những năm chưa xa xôi gì.

*

Những năm ấy, bao nhiêu đêm đông gió bấc, khi ngồi sau xe ôm lưng bố để bố đạp xe loanh quanh các phố cho qua cơn thở khó, Ngân đã nghe bố kể bao nhiêu chuyện về thời xưa của ông. Tiếng được tiếng mất, lúc bị bạt đi vì gió, lúc bị chìm lấp trong hơi Ngân thở rít như tiếng gió hút qua ống nứa. Khi đó, Ngân chưa cảm thông sâu xa được với cha mình. Chỉ thấy đời buồn khổ quá, nặng nhọc quá, nặng nhọc như sự hô hấp của mình. Tiếng dương cầm khuya thường nghe những đêm xưa ấy không mang lại cho Ngân một cảm giác gì nhẹ nhõm. Nó giống như âm thanh vẳng lại từ một thế giới khác, có thật, rất yên bình, mà không thể nào len vào được. Đấy không phải là ý nghĩ bình thường nên có ở một con bé lên mười.

Cảm giác cô độc của mình bắt đầu từ đó chăng? Nhiều năm sau này, khi ngồi cùng chúng bạn, Ngân lại bắt gặp mình luẩn quẩn với ý nghĩ này. Cảm giác đó chiếm trọn ngày sống của Ngân. Nhưng cô độc không phải là thói quen, chưa bao giờ là thói quen của Ngân. Rất ít người biết điều đó. Bởi thế, rất nhiều người thân với Ngân.

Nhưng những người con trai từng muốn đi qua đời người đàn bà này thì biết rất nhanh. Mặc dù họ không hiểu. Bản năng tự bảo vệ của đàn ông!? Họ làm Ngân kinh ngạc và oán hận, đôi khi, để rồi sau lại thấy cả hai cùng may mắn. Họ nhận ra ngay cái phanh tự động rít lên trong tâm hồn cô gái, ngoài ý muốn của cô. Không ai biết rằng cần phải mặc kệ, cần phải đừng kiêu hãnh thế, cần phải bước dấn thêm một bước cho người đàn bà - trẻ con kia gục đầu vào vai mình, rỏ lên đó những giọt nước nóng bỏng và mặn mòi, để rồi sau đó...

*

Để rồi sau đó... Nếu có thể thế, người đàn bà - trẻ con sẽ nói với anh ta về điều gì. Về tình yêu chăng? Từ tuổi bé thơ lớn lên cùng với phố, Ngân đã nghe được bao nhiêu tiếng thì thầm tình ái vẳng lên từ mặt đất. Tiếng lục đục hối hả dưới hố tăng xê giữa giờ báo động. “Nhanh lên anh, nhanh lên anh, báo yên rồi...”. “Em...”. Tiếng chàng trai rên trong cực lạc không khác gì tiếng người sắp chết. Những đứa trẻ có biết rằng chúng được sinh ra để rồi hấp hối trong những năm tháng ấy như thế nào không? Không phải từ tình yêu. Làm sao có thể có tình yêu giữa hai con người chưa từng biết mặt nhau, chỉ vô tình đi qua đời nhau khi lao vội xuống hố tăng xê vào lúc còi báo động rú. Những đêm hè Hà Nội. Những ban trưa Hà Nội. Không chợ. Không trường. Không ông bà già. Không con trẻ. Chỉ có những người trẻ tuổi đi về theo tiếng còi tầm. Nhưng đấy không phải là một thành phố chết. Vẫn ran ran tiếng ve những buổi chiều lộng gió. Hàng sấu phố Trần Hưng Đạo mùa hoa vẫn rải cánh nhỏ như màu nắng sáng đánh lừa đàn sẻ mỗi bình minh. Mấy gốc ban già đường Thanh Niên dẫu vắng chân người vẫn đơm vầng hồng xôn xao khi mùa xuân đến sớm. Những hàng cây thâm thấp dọc bờ Thành đường Hoàng Diệu vẫn phơi phới một màu vàng nõn như những buổi thu trưa. Và, những đứa trẻ vẫn ra đời. Không phải từ tình yêu, không phải, mà từ nỗi tuyệt vọng của lòng ham sống. Hay cũng có thể là từ thói dễ dãi cả trong hạnh phúc lẫn bất hạnh ở không ít người.

Hay là tiếng thì thầm mời mọc đêm đêm vẫn lan từ gốc cây này tới gốc cây khác ở khoảng phố gần nhà Ngân. Những đứa trẻ lớn lên đã hí hí hố hố gọi chỗ đó là thung lũng tình yêu. Nơi đó nhiều công sở và nhà lãnh đạo. Nơi đó có một bể bơi thiếu niên chỉ những chiều hè sau những năm đánh phá mới lao xao tiếng trẻ. Nơi đó có một vườn hoa nhỏ đối diện cửa nhà xác một bệnh viện. Nơi đó có những bức tường trống chạy dài không bao giờ thiếu khẩu hiệu được viết bởi bàn tay của các họa sĩ nhà nghề nằm kề bên những cánh cổng sắt chỉ mở ngày đôi bận cho xe ra vào. Bọn đàn ông ban ngày thường một tay giữ ghi đông xe đạp một tay vạch quần tương thẳng vào tường, ngay cả lúc khối phố đã cho kẻ thêm bên cạnh các khẩu hiệu khí thế hừng hực hai chữ lạnh lùng: “Cấm đái”. Còn ban đêm, cũng họ, sẽ tìm tới khoảng không gian khai mù mịt lấp ló những ngọn đèn dầu chỉ đủ soi rõ mẹt thuốc lá hay mẹt bưởi sấu ô mai, để mặc cả, âu yếm và chửi rủa. Tất cả những ngọn đèn thành phố cho lắp ở khoảng phố đó đều bị người ta chọi đá vỡ lập tức. Đấy là thiên đường đèn dầu. Của những gã choai choai no cơm rửng mỡ. Của những tay đàn ông nhà quê thoát li xa vợ lương chỉ đủ tậu cái xe đạp tuần tuần tháng tháng về nã thêm gạo của vợ con. Của những người đàn bà xộc xệch vì cơm áo thường từ mấy khu bờ sông lại hay từ đoạn dưới Lương Yên Thúy Ái ngược lên. Ngân rất sợ những âm thanh vọng lại từ nơi đó... Chúng không giống như tiếng bình yên của những bầy chim thức sớm, mặc kệ những vòng bánh xe đạp quay quay, từ mặt phố bay vù lên rồi lại thản nhiên đáp xuống lẫm chẫm bước giữa tinh sương.

*

Nơi đó gần nhà lắm nhưng Ngân thường tránh đạp xe qua. Đi thêm một đoạn nữa, sẽ có thể rẽ ngang, sẽ lại gặp những vòm cây bốn mùa xanh lục, và những khoảng phố êm đềm. Ở khoảng giữa phố Lê Thánh Tông, nhiều năm về trước, đi học về nhìn qua hàng rào gang một biệt thự có lính gác, bọn Ngân buồn cười mãi vì lần nào cũng thấy một ông da nhuôm nhuôm mặc váy quấn một cục trễ rốn. Nghe nói đấy là một lãnh tụ cách mạng ở Miến Điện. Đấy là một chiến sĩ thực sự hay đấy là một tên cốp khủng bố? Làm sao một câu hỏi bất kính như thế khi đó có thể nảy ra trong đầu Ngân!

Nhưng sau này, hồi tưởng lại phố xưa, nhớ cái bụng tròn đen đen bệ vệ lộ ra dưới cạp váy sặc sỡ của ông lãnh tụ Miến Điện, người đàn bà - trẻ con lại băn khoăn nhớ. Những cuộc cách mạng bùng nổ là hạnh phúc hay là bất hạnh của các dân tộc đã đưa vai ra gánh gồng lịch sử? Và những cuộc kháng chiến? Có phải người ta cứ phải đi cho hết con đường máu ấy để trở lại với mình? Những ai, nào những ai ai, sau khi chinh chiến đi qua còn được nhớ?

Đám bạn thường cười Ngân vì nỗi nhồi được vào đầu đủ thứ vớ vẩn và vô nghĩa, như câu hỏi kia hay như màu lá nào kia, trong khi ngày sinh của nhau, chẳng hạn, chật vật lắm Ngân mới có thể giữ được trong đầu. Nhưng một cuộc gặp gỡ tình cờ, một tiếng cười vô cớ, một câu chuyện bâng quơ tất cả đã quên đi thì Ngân lại nhớ rành rẽ nhiều năm. Cần phải nhiều thời gian nữa để Ngân hiểu rằng chai đá được là đỡ khổ. Bao giờ?

Một cách vô thức, Ngân đã tự biến mình thành nơi lưu giữ ký ức của ông bà cha mẹ. Thổi suốt lòng Ngân cho tới bây giờ là tiếng thầm thì của gió những chiều xưa biên giới, là tiếng đêm rì rào bí ẩn trong cánh rừng vây quanh khu nhà cơ quan nơi chiến khu. Bữa cơm cơ quan không có tay đàn bà nấu nướng toàn măng và bí đỏ những ngày đầu kháng chiến. Miếng thịt trâu bạc nhạc người bạn Tày hơn hai tuổi để dành cho sau chuyến giao thông về sớm ngày ấy đậm mãi trong câu chuyện của bố tới bây giờ. “Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo - Nhớ khi tiếng mõ rừng chiều - chày đêm nện cối đều đều suối xa...”. Ngày ấy hình như đúng là thế đấy. Người cha hay nhắc nhỏm những tên đất tên người. Lạ, nghe mãi thành thân quen, như tên quê, như tên người họ hàng gần vì hoàn cảnh gieo neo thành thử chưa bao giờ biết mặt.

*

Chuyện kể:

- Ngày xưa khi bằng “thằng” con gái của bố bây giờ bố đã một mình đi giao thông rồi. Đường rừng quanh co. Lắm dốc lắm. Mình người Hà Nội, tản cư về quê mấy ngày đã biết mùi đồng ruộng rừng rú gì đâu. Đi đường dốc không quen, mỏi lắm. Thế nhưng mấy cô Mán thì lại cứ cười rinh rích hỏi thăm đường miền xuôi thế nào. Nào có ai đã từng ra khỏi mấy dãy núi ấy đâu. Các cô ấy trèo núi quen, đi chân bao giờ cũng nhấc cao thế này này.

- Ông cụ người Thổ, tên là Muỗi, tính hiền lắm, nhà nghèo lắm. Mà có cái gì cũng cho cơ quan. Có năm sinh nhật Bác, cơ quan bày trò ăn uống. Ăn mãi thịt trâu bí ử sợ quá rồi, ông Tuất mới xung phong cải thiện cho anh em. Tưởng làm gì, hóa ra ông ấy tính thịt con chó ông Muỗi cho đã nuôi được tới nửa năm. Đã chuẩn bị đầy đủ riềng húng mắm tôm, mài dao rửa thớt xong xuôi từ chiều hôm trước. Lại còn phân công nhau vào tận trong mấy nhà nằm lảnh sát chân núi tầm cho được dăm ba quả chanh cốm. Cứ thấy con chó len lét len lét, vừa sập tối đã chui tít vào tận góc lán dưới sạp nằm im thít. Anh em bảo chó nó khôn, nó biết sắp chết nên buồn, có anh lại tuyên bố luôn là thà ăn thịt trâu kho thừa lại còn hơn ăn thịt nó. Nỡ nào... Ai ngờ con chó nó ngửi ra mùi cọp. Nửa đêm, nằm trên sàn nứa, cả sạp dài thế này này, nghe oẳng độc một tiếng, tất cả chồm dậy vỗ sạp ầm ầm. Đốt đuốc lên thấy một vệt máu chạy tít từ trong góc dưới sạp ra cửa. Hôm sau, ban ngày ban mặt mới biết con hổ rình gần chỗ trồng bụi ớt từ bao giờ. Hú vía. Hết được xơi thịt chó lại quay ra thương nó quá. Nuôi nó từ lúc nó bằng con chuột mang từ nhà cụ Muỗi về.

Kỷ niệm bố nhắc lại quanh mâm cơm nghe có vẻ vui vui nhiều hơn buồn. Những buổi chiều đi đánh đai gốc trám chờ trám rụng để hôm sau vác giành ra nhặt. Những trưa rủ nhau đi đánh cá suối bằng nhựa cây sui. Những đêm rừng trong quán tản cư ở Sơn Dương. Và cô Mán hồn nhiên se trụi lông mày bằng sợi chỉ. Ngân đâu biết vì sao cha mình thiết tha với ngày cũ đến thế, đâu biết vì sao dù thế ông vẫn không tìm gặp lại bao người trong những câu chuyện ân tình xưa. Mà ông, cũng đã chắc gì ông tự biết, rằng mình thực ra đã sống hết đời người từ sau lần oan khuất kinh hồn mà ông chỉ nói nhẹ nhàng là tai nạn, rằng mình thiết tha với yêu thương xưa chỉ để sống mà san sẻ bớt ngày tháng gian nan cho vợ cho con.

Những ngày tháng lạ lùng với Ngân. Bầy trẻ cùng khu tập thể đi sơ tán vãn cả. Đám lớn theo trường. Đám nhỏ theo cơ quan bố mẹ. Lớp học rã không tăm hơi bè bạn. Chị gái cũng theo trường đi. Chỉ còn Ngân, bé nhỏ và yếu ớt, giữa thành phố trống, chờ bố mẹ đưa về quê ở cùng bà. Sáng sáng bố mẹ đi làm, còn Ngân bê cái ghế con trên chồng mấy cuốn tiểu thuyết người lớn và bát bánh khúc, tròng thêm vào cổ cái bi đông sắt của bố, lùi lũi xuống ngồi một mình ở cửa hầm công cộng vừa được xây cấp tốc trong khu. Cơn gió sớm thênh thang lồng qua các cửa hầm, hơi bom từ Vĩnh Tuy thốc lên hất văng người, hương vị chiếc kem que ngày chiến tranh... Tất cả Ngân đều biết. Không có gì giống cảnh Mát xcơ va để trống trước bước hành quân của đoàn lính viễn chinh Pháp mà Ngân đã đọc được ở “Chiến tranh và hòa bình” chính trong những ngày tháng đó.

Tim ta đau vết thương gì không rõ

Nên cần chi trái gió với trở trời

*

Nếu có thể vui được

Tôi đã không buồn thế này

*

Ràng buộc với cái gì cũng sợ

Đành ràng buộc với tự do

*

...Tháng ngày con lớn lên

Tháng ngày cha đánh mất

Mùa xuân đến bằng những mầm cỏ sắc

Con gái ơi.