Danh ngôn

Trong mọi cộng đồng, chúng ta cần một nhóm thiên thần gây rối.

We need, in every community, a group of angelic troublemakers.

(Bayard Rustin – trích bài phát biểu tại New York City 1963)

Trong mọi trường hợp, chắc chắn rằng sự thiếu hiểu biết, đi kèm với quyền lực, là kẻ thù tàn bạo nhất có thể có của công lý.

It is certain, in any case, that ignorance, allied with power, is the most ferocious enemy justice can have.

(James Baldwin - No Name in the Street 1972)

Các cuộc cách mạng và các cá nhân có thể bị giết hại, nhưng bạn không thể giết chết các ý tưởng.

While revolutionaries and individuals can be murdered, you cannot kill ideas.

(Thomas Sankara, một tuần trước khi bị ám sát, 1987)

Không có cảm giác nào cô đơn hơn việc bị chính đất nước mình trục xuất.

There's not a more lonely feeling than to be banished by my own country.

(Kiyo Sato – Kiyo’s Story 2009)

Ban Biên tập

Địa chỉ liên lạc:

1. Thơ

tho.vanviet.vd@gmail.com

2. Văn

vanviet.van14@gmail.com

3. Nghiên cứu Phê Bình

vanviet.ncpb@gmail.com

4. Vấn đề hôm nay

vanviet.vdhn1@gmail.com

5. Thư bạn đọc

vanviet.tbd14@gmail.com

6. Tư liệu

vanviet.tulieu@gmail.com

7. Văn học Miền Nam 54-75

vanhocmiennam5475@gmail.com

Tra cứu theo tên tác giả

Thứ Năm, 13 tháng 11, 2014

MẢNH VỠ CỦA BỨC TƯỜNG

Nguyễn Đức Tùng

Hà Nội mừng đón Tết hoa chen người đi liểu rủ mà chi. Anh tôi thường ngâm nga bài hát ấy mỗi khi thật vui hay buồn, nhưng cũng có khi vì anh gặp câu hỏi khó, kẹt quá không trả lời được, vừa hát vừa nhìn vào mắt người đối diện. Anh là chồng của chị họ tôi, sinh ở Hà Nội, gia đình vào Huế năm 1950, lúc anh lên ba tuổi. Anh tham gia phong trào sinh viên chống chế độ Việt Nam Cộng hòa, cùng lứa với Ngô Kha, bị bắt, được thả, bị bắt lại, lên rừng sau trận Mậu thân, chiêu hồi năm 1970, di tản năm 1975, tức là anh mang theo trong người một cuốn sách bỏ túi của lịch sử Việt Nam cận đại.

Nỗi lòng kín đáo của đàn ông khó biết. Kỷ vật của anh lớn bằng nắm tay. Gọi đó là cục gạch hay xi măng vỡ đều đúng, chứa cát, sạn, gạch đá, xương lá khô, ngày, tháng, năm, tuần lễ, đất, vảy cá, sương mù, kim đồng hồ cũ, những lớp sơn xanh đỏ, bề mặt bám bụi như mới được gỡ ra từ một kè đá từng va đập nhiều cơn sóng dữ của thời gian bão táp.

- Nó ở đâu ra? Một người khách hỏi.

- Đừng đụng tay vào. Chỉ được ngắm thôi. Một người trả lời.

Mọi người ngồi quanh chăm chú nhìn mảnh vỡ còn lại của bức tường Bá Linh, thì thầm, kính cẩn, nghẹn ngào, sung sướng, mặt sáng bừng, xúc động. Một hồi lâu không ai nói gì.

Một ông lớn tuổi, trán hói, tóc hoa râm nhưng mặt bầu bĩnh như trẻ con hút liên tiếp hết hai điếu thuốc Con Mèo trước khi chậm chạp đưa tay sờ vào phần lồi ra nhất của viên gạch, có một vệt sơn xanh. Tôi ho sặc sụa vì khói thuốc của ông. Đó là một luật sư kiêm dân biểu quốc hội ở Sài Gòn ngày trước mà tôi chưa gặp trước đó bao giờ. Ông vừa dặn mọi người không được đụng tay vào, nhưng không cưỡng được cám dỗ.

Anh tôi, tình cờ đi dự một lớp tập huấn ở Tây Bá Linh, vì anh là quản đốc giỏi của nhà máy hóa chất của Edmonton, đúng vào dịp bức tường nổi tiếng bị phá vỡ ngày 9 tháng 11, năm trước, trong cuộc cách mạng ở nước Đức.

- Làm sao anh lấy được vật này? Tôi hỏi.

Anh kể lại: anh đi taxi tới gần sát bức tường. Nhiều người quá, họ tràn qua các đại lộ reo hò vui mừng, có vài người đập phá, nhưng đa số là trôi đi trong niềm vui bất tận. Những người từ Đông Đức tràn qua bắt tay với những người ở phía Tây qua hàng rào, họ cõng nhau, đứng lên vai nhau, đánh đu qua những nhành cây ít ỏi còn cho phép mọc gần bức tường. Tài xế taxi không dám lái đến gần, anh phải đưa thêm tiền để họ đưa anh tiến sát vào. Một chàng thanh niên đầu tóc bù xù tay trái cầm một trai rượu sâm banh, gõ cửa kính xe ra hiệu cho anh hạ xuống. Chàng ta chìa ra một cái rổ đựng mấy viên gạch vỡ bảo anh có thể mua về làm kỉ niệm. Anh chọn một cái, khá lớn, nhưng không có tiền Đức, anh trả mười đô Mỹ. Hay năm, hay hai mươi, vui quá, anh không nhớ.

Viên gạch được gói kỹ trong giấy báo đặt vào trong một cái hộp bằng gỗ sơn mài hình như là hộp trang điểm phụ nữ. Từ hôm về nhà ngày nào anh cũng mang ra ngắm nghía một lúc nhưng dứt khoát không chịu rửa sạch nó bằng nước vì bụi bặm vẫn còn bám quanh lớp sơn bên ngoài.

Những người đàn bà nóng ruột vì thức ăn đã nguội, trời sắp mưa.

Tháng Tư, mùa xuân năm nay đã tới sớm. Chiếc bàn ăn kê ngoài trời. Chúng tôi ngồi ở góc vườn dưới bóng mát của hai cây lê ra hoa trắng, hoa sắp tàn, rụng đầy, anh chị tôi dọn những món ăn Việt Nam, ít khi gặp ở thị trấn này, gần thành phố Edmonton. Lẩu tôm chua, rau muống, bánh phồng tôm, chả Huế, và những thứ rau mà tôi không biết hết tên. Anh tôi khệ nệ bưng từ nhà để xe những két bia Budweiser và mấy chai rượu mạnh để dành từ mùa đông, mặc dù người khách nào đến cũng mang theo một thứ gì đó để uống. Anh ngồi đầu bàn, tôi ngồi bên tay trái của anh, năm bảy người bạn thân quen ngồi quanh bàn sát vào nhau nói cười la hét ầm ĩ. Đó là bữa ăn Việt Nam đầu tiên đối với tôi sau gần mấy năm đi học. Những người đàn bà lúi húi trong bếp chạy đi chạy lại mang thức ăn. Mặc dù ở Canada chín, mười năm, cảm thấy hoàn toàn ngang hàng với đức ông chồng, nhưng họ vẫn giữ thói quen cũ, ít khi ngồi cùng một lúc, nhất là khi những người đàn ông vừa uống rượu, uống bia, vừa nhả khói, la hét.

Mùa xuân năm nay kéo dài, không phải vì thời tiết mà vì con người. Nhưng cuối cùng hè cũng sắp đến, hơi nóng ngoài mặt đường nhiều hôm gặp nắng bốc lên ngùn ngụt mặc dù một vài nơi trong thị trấn tuyết vẫn chưa kịp tan hết. Sau mùa xuân Thiên An Môn một vài tháng, tình hình Đông Âu diễn biến mau lẹ, ngoài sự tưởng tượng. Ba Lan. Công đoàn Đoàn kết. Tiệp Khắc. Cách mạng nhung. Bức tường Berlin. Hungary. Rumani. Xử bắn vợ chồng Ceaucescu. Chúng tôi trò chuyện khi miệng vẫn còn nhai nhồm nhoàm, có khi bắn cả nước bọt sang người khác.

Thằng bạn tôi làm đổ ly bia lên quần jeans của tôi. Anh tôi bị sặc vì vừa hút thuốc lá vừa nhai một cái đùi gà. Chuyện nhỏ. Anh đưa điếu thuốc cho ông bạn trung úy pháo binh hút dùm, hồi ấy ai mà chẳng hút thuốc, rồi hét to:

- Khi nào thì đến Việt Nam? Một người nói: ba năm. Ông luật sư dân biểu đi học tập cải tạo về, vượt biên bằng đường bộ đến trại tị nạn Thái Lan, đặt ly rượu xuống bàn, khoanh tay ngẫm nghĩ.

Mọi người nhao nhao tranh luận nhưng cuối cùng quay lại nhìn ông chờ đợi.

Ông dân biểu hạ giọng: ba tháng.

Thực sự ông đã điện thoại nhiều nơi để hỏi giá vé từ Canada qua Los Angeles về Việt Nam. Hồi đó việc du lịch gặp dư luận khó khăn, những người về Việt Nam bị tai tiếng, nên họ thường bay tránh qua các nước khác. Ông dân biểu đã lớn tuổi không có ý định trở lại tham chính, nhưng lòng đầy nhiệt huyết ông tin rằng với chút ít kiến thức của mình có thể góp một tay cho chính quyền dân chủ non trẻ ở Việt Nam sau khi chế độ đương thời giải thể, ít nhất là về tư pháp, vốn là ngành của ông. Một người bạn của anh tôi, một nhà báo, tóc bạc như cước, trước có viết bài trên báo Sóng Thần của Chu Tử, trầm tư: sự sụp đổ nhanh như ở Đông Âu tạo ra tình huống nguy hiểm, không tránh khỏi cướp bóc loạn lạc. Phải giữ nguyên các công chức hành chánh của chính quyền hiện nay. Anh ngậm pipe, vừa nói vừa nhả khói, trông sang trọng không chịu được. Mon père fume la pipe.

Anh tôi nghiêm nghị bảo: tôi sẽ bán căn nhà này và đem hết vốn liếng dành dụm được, về quê sống như một người nông dân bình thường, sáng cày ruộng chiều đọc sách, mở trường dạy trẻ. Tôi nghĩ thầm nhưng không nói ra, mặc dù có lúc nhảy bưng theo Mặt trận Giải phóng, anh vốn con nhà giàu, lớn lên ở thành Nội, chưa từng cuốc đất hay cày ruộng.

Ông bác sĩ quân y gốc Hải Dương, quen anh tôi từ thuở tiểu học, rút trong túi ra một bức thư viết trên giấy học sinh nhàu nát: bức thư của một người bà con đang làm trưởng phòng công nghiệp huyện. Ai cũng biết thư ấy, vì ông đã đọc nó ít nhất hai lần trong bữa tiệc. Ông đọc lại, thong thả:

Thưa chú,

Cháu biên thư hỏi thăm sức khỏe chú thím. Công tác của chú bên ấy có tốt không. Về phần cháu mọi sự vẫn thường, các em ngoan, học giỏi đi làm về biết giúp bố mẹ, phần cháu từ bốn tháng nay không có lương. Lương thực bị cắt giảm, tem phiếu không mua được vì cửa hàng không còn gì để bán. Đi làm về cháu liền xách giỏ đi bắt cua, đi nơm cá, nhưng sản lượng kém vì ai cũng ra đồng bắt cua mò ốc, có ngày cháu về tay không. Vẫn biết chú mới qua bên đấy cũng còn nhiều lo toan ở xứ người…

Ông luật sư vừa húp bát canh vừa mắng một người đàn ông ngồi bên cạnh:

- Chú chẳng biết đếch gì. Đây là lúc phải hòa giải, chứ giết chóc nhau làm gì nữa. Chúng ta muốn một Đông Âu cho Việt Nam là để làm gì?

- Là để thiết lập một chính quyền quốc gia mạnh hơn Việt Nam Cộng hòa đầy tham nhũng ngày xưa.

Anh tôi quay lại từ từ nhìn người nói xong câu ấy một lúc thật lâu rồi từ tốn nói:

- Tôi không nghĩ vậy. Là để tiến hành một cuộc hòa giải chưa từng có trong lịch sử từ thời Trịnh Nguyễn phân tranh.

Mọi người im lặng một lúc lâu.

Một người gọi: em ơi, còn nước đá không?

Nước đá được đem ra, cùng với món bò xào lăn trộn "xà lách xoong".

Người đàn ông ngồi bên tay phải của anh tôi, một người thợ nhà in, một nhà thơ chuyên làm thơ Đường luật cổ phong và Lục bát song thất, lớn tiếng:

- Hòa giải là mắc mưu cộng sản. Đồ ngây thơ.

Ông trung úy pháo binh đáp lễ:

- Mày mới ngây thơ.

Hai người đàn ông xắn tay áo, kéo nhau ra bãi cỏ.

Chẳng ai để ý đến họ vì món lẩu chua của chị tôi rất ngon, trời quá nóng còn làm cho mùi bia ướp lạnh thêm quyến rũ, và tin tức từ Đông Âu dồn dập mang lại còn quyến rũ hơn nhiều. Thời gian đó tôi bận đi học, suốt ngày lang thang trong hành lang bệnh viện dài hun hút. Ra đi từ năm giờ sáng, về nhà lúc chín giờ tối, suốt mấy tuần lễ không thấy mặt trời. Anh tôi đi làm trong xưởng hóa chất nên mỗi buổi tối đều về nhà đúng giờ. Vừa bước vào nhà, ôm hôn vợ và con xong, là anh lao ra phòng khách, dán mắt vào màn hình tivi, anh chỉ xem đài truyền hình CNN và ăn bữa tối tại chỗ. Khắp nơi trên thế giới, nhiều người đều như thế. Hàng triệu người như thế. Tim đập rộn ràng trong hàng triệu lồng ngực. Đến Canada vài năm, anh tôi được hãng cho đi học thêm và sau đó được trả lương khá hậu, anh chị có ba con nhỏ, đều gửi nhà trẻ, nhưng chị làm hai công việc khác nhau nên thu nhập cũng khá. Ở thị trấn nhỏ này chỉ có độ vài chục gia đình người Việt mới đến từ các trại tị nạn Đông Nam Á. Sau khi thanh toán xong một cái đùi gà chiên, tôi biểu lộ tư tưởng của mình rằng thời gian ba tháng mà ông dân biểu đưa ra cho chế độ hiện hành ở Việt Nam có lẽ là hơi quá lạc quan. Ông trừng mắt nhìn tôi có vẻ bực bội rồi hỏi: thế cậu nghĩ bao lâu?

Tôi rụt rè trả lời: em không biết được, nhưng chắc cũng khá lâu. Một người đàn ông để tóc dài, râu không cạo, nhỏ thó trong bộ quần áo dính đầy sơn, nhìn tôi rồi phán: thế thì cho thằng này lấy mọi da đỏ rồi cho nó ở lại Canada luôn; nhưng chúng mình thì về quê chứ? Ông cựu tù cải tạo, bạn của ông dân biểu, bảo: trước hết cần phải bắt nhốt một triệu đảng viên cộng sản, cho chúng đi học tập cải tạo về hòa giải dân tộc trong một tháng. Ông này có lẽ đọc thơ Cao Tần hơi nhiều. Câu nói của ông làm không khí bỗng trầm xuống. Trung úy pháo binh, có tật nói lắp khi xúc động, suốt buổi không nói câu nào, bảo: tha thứ hết. Chính quyền dân chủ mới cần ổn định cái đã. Nhưng cần nhất là khuyến khích đồng bào làm ăn buôn bán, xây nhà thờ, xây trường học, xây chùa. Mà một tháng học tập là một tháng đó nghe. Thằng nào giữ bọn tù binh lâu hơn nữa, tao bắn bỏ chúng nó trước, thề có Chúa.

Anh tôi cũng trở về đạo Công giáo sau khi lập gia đình với chị tôi. Ông dân biểu, tham gia phong trào Phật giáo chống tổng thống Ngô Đình Diệm, hồi trước quen thân các thầy ở Ấn Quang, bị vợ bỏ lúc mới đến Canada được sáu tháng, đả kích: nhà thờ thì cần gì phải xây vội, Chúa với Phật ở trong lòng mình. Cần nhất là khuyến khích tự do ngôn luận. Tôi đi cải tạo ngoài Bắc thấy bà con ngoài đó không có tự do ngôn luận gì cả. Anh tôi ngước nhìn cây lê, lá xanh mầm nhú còn non, mây đen trắng bay lưng trời, trầm ngâm một lát rồi bảo: thôi quên hết đi. Quên hết hận thù, quên tội ác, quên nguyên cớ chiến tranh. Không cộng sản cũng chẳng quốc gia. Nếu có nhân tài ra giúp đất nước, tôi sẽ vận động xây một đường tàu hiện đại từ ải Nam Quan đến mũi Cà Mau, cho đồng bào đi vé free một năm để thăm họ hàng trong Nam ngoài Bắc. Tôi sẽ ra Hà Nội, đi thăm Hồ Tây, lên đê Yên Phụ để ngắm sông Hồng cuồn cuộn chảy.

Mọi người thi nhau phun khói thuốc lá. Mấy đĩa bánh phồng tôm được đưa lên cùng với nước giải khát. Hai người đàn ông vật lộn ngoài bãi cỏ đã ngồi lại bên nhau thủ thỉ trò chuyện. Tôi ngồi im lặng nhớ về những ngày đầu tiên lang thang với Hoàng trên xứ Canada tuyết trắng, nhớ trại tị nạn tôi đã sống ba năm mấy tháng, nhớ mười bảy ngày lênh đênh trên biển Đông, bốn lần cướp biển, sáu mươi ngày trên vịnh Thái Lan, nhớ làng tôi, bến đò cũ liễu xanh cát trắng như mơ, trước chùa của thầy Thích Đôn Hậu. Nhớ ba tôi đã nằm xuống khi tôi vừa đi xa. Nhìn thấy ngôi mộ nhỏ của ông mới đắp trong vườn. Ông trung úy pháo binh nâng chiếc đàn ghita lên, hát Người con gái Việt Nam da vàng yêu quê hương như yêu đồng lúa chín. Mặt trời bắt đầu lặn xuống sau đỉnh núi xa, vài giọt mưa lác đác rơi trên mặt, trời chập choạng tối nên không ai nhìn rõ anh tôi đang khóc. Chỉ tôi nhìn thấy. Những người khác im lặng thẫn thờ. Một người đàn bà đến bên cạnh anh tôi, ghé tai nói một điều gì, đèn trong nhà bật sáng. Con chim trong lồng hót.

Hai mươi năm trôi qua khi tôi về thăm lại anh tôi ở thị trấn nhỏ gần Edmonton. Nhà còn, vườn còn đó. Anh tôi không bán nhà đi vì vẫn thích chỗ ở của mình và đã thôi ý định hồi hương về Việt Nam. Ông luật sư đã chết trong nhà dưỡng lão vì bệnh thiếu máu cơ tim. Bác sĩ quân y đã lấy vợ và di cư sang Úc. Trung úy pháo binh trở thành một người nghiện rượu, cưới một cô vợ trẻ tuổi từ Việt Nam, được ba năm thì cô ta bồng con đi mất. Anh tôi từ trong nhà bước ra đứng sau lưng tôi, không nói gì. Trời tối dần. Thấy tôi im lặng nhìn cây mấy cây lê, chỗ đặt cái bàn gỗ cũ, anh nói thêm: cái ngày ấy chúng mình thật ngây thơ. Nghĩ lại vẫn hơi xấu hổ. Anh chị về Việt Nam một lần rồi không về nữa vì cha mẹ, bà con thân thuộc, người thì đi nước ngoài, người thì qua đời hết, phố phường và xóm làng thay đổi, người mới đến lạ hoắc, đời sống ngày càng nặng về tiền bạc, tình cảm ngày càng nhạt dần. Tình yêu quê hương như mối tình đầu ngây thơ, ngu dại, quê một cục. Anh ít đọc báo tiếng Việt và không buồn xem tin tức, hai vợ chồng chờ cho con cái lớn sẽ bán nhà dọn về đảo Nanaimo ngoài khơi Vancouver.

Ở bên đảo ấm áp hơn, anh bảo, khi chết, cũng tiện cho con cái. Anh đã dặn vợ con về chuyện hậu sự, là khi mất, anh muốn được chôn ở chốn thân thuộc, gần bên dòng sông Hương tuổi nhỏ mà anh bơi lội mỗi ngày trong mùa hè nóng nực. Bơi lội nô đùa trên sông, rồi trèo lên gò cao hứng gió chờ khô quần áo, cùng với dăm người bạn vừa đi trên phố vừa thổi sáo. Anh tôi ra hiệu cho tôi đi theo. Hai chúng tôi lặng lẽ đi ra góc vườn chỗ gần ngọn đèn đường có một cái băng ghế nhỏ, trước tôi chưa để ý, kê gần bên gốc cây cưa ngang làm bàn cà phê. Anh từ từ rút trong túi áo khoác ra một gói giấy báo cũ rồi để hẳn xuống mặt bàn bảo tôi mở ra. Tôi làm theo, mở mấy lớp giấy báo gói thật kỹ: cục gạch nằm trên bàn, tôi nhận ra ngay, vẫn màu xám với màu sơn xanh, sần sùi cát sạn, những vệt sơn vẫn còn như mới nguyên.

- Cậu còn nhớ nó không?

Làm sao tôi quên được. Anh bảo: chị định vứt nó đi mấy lần nhưng anh giữ lại, dù gì cũng là kỷ niệm. Tôi nghĩ thầm: kỷ niệm của một giấc mơ. Tôi đưa tay sờ vào chỗ có hòn sỏi nhô ra nơi ngày xưa ông dân biểu chậm chạp nhẹ nhàng đưa ngón tay trỏ múp míp chạm nhẹ vào sau hai điếu thuốc lá Con mèo.

- Thế còn cái hộp đựng nó ngày xưa đâu?

Anh nhìn tôi ngạc nhiên. Dọn nhà nhiều lần, những thứ lỉnh kỉnh từ từ mất đi mà anh không để ý. Cục gạch gói trong giấy báo anh nhét trong góc tủ áo quần vì như thế tiện hơn là để trong một cái hộp sơn mài. Anh nhìn tôi hát: em tôi đi màu son lên đôi môi, khăn san bay lả lơi trên vai ai. Hà nội mừng đón Tết...

Nó cũng như giấc mơ của người Việt Nam, vẫn còn đó, nằm im trong góc tủ, nhắc chừng chúng ta, sâu xa, đau đớn, âm ỉ, mỗi ngày như vết thương, nhưng nó biết tự mình làm mất đi cái vẻ huy hoàng rực rỡ coi bộ không xứng đáng lắm với vị trí bây giờ, vì xã hội ngày nay chẳng mấy ai còn xem cục đá ấy là chuyện lớn lao.

Nguyễn Đức Tùng