Danh ngôn

Trong mọi cộng đồng, chúng ta cần một nhóm thiên thần gây rối.

We need, in every community, a group of angelic troublemakers.

(Bayard Rustin – trích bài phát biểu tại New York City 1963)

Trong mọi trường hợp, chắc chắn rằng sự thiếu hiểu biết, đi kèm với quyền lực, là kẻ thù tàn bạo nhất có thể có của công lý.

It is certain, in any case, that ignorance, allied with power, is the most ferocious enemy justice can have.

(James Baldwin - No Name in the Street 1972)

Các cuộc cách mạng và các cá nhân có thể bị giết hại, nhưng bạn không thể giết chết các ý tưởng.

While revolutionaries and individuals can be murdered, you cannot kill ideas.

(Thomas Sankara, một tuần trước khi bị ám sát, 1987)

Không có cảm giác nào cô đơn hơn việc bị chính đất nước mình trục xuất.

There's not a more lonely feeling than to be banished by my own country.

(Kiyo Sato – Kiyo’s Story 2009)

Ban Biên tập

Địa chỉ liên lạc:

1. Thơ

tho.vanviet.vd@gmail.com

2. Văn

vanviet.van14@gmail.com

3. Nghiên cứu Phê Bình

vanviet.ncpb@gmail.com

4. Vấn đề hôm nay

vanviet.vdhn1@gmail.com

5. Thư bạn đọc

vanviet.tbd14@gmail.com

6. Tư liệu

vanviet.tulieu@gmail.com

7. Văn học Miền Nam 54-75

vanhocmiennam5475@gmail.com

Tra cứu theo tên tác giả

Thứ Sáu, 7 tháng 11, 2014

BILLY COLLINS: THƠ ĐẾN VỚI ĐỜI

Nguyễn Đức Tùng

(trong loạt bài "thơ cần thiết cho ai"- bản mới)

 

Có lần đi qua một bức tượng đẹp trong công viên ở California, tôi bất giác nhớ đến bài thơ của Billy Collins. Tôi thầm cảm ơn ông về điều này.

Giữa những khuynh hướng khác nhau của thơ đương đại, hình như ngày càng trở nên khó hiểu đối với đa số người đọc, mỗi ngày một khó hiểu, Billy Collins là người đi ngược dòng. Thơ ông sáng sủa, dễ hiểu.

Hơn thế nữa, đó là một nhà thơ của đời sống đương thời, của những chi tiết bình dị hàng ngày xảy ra quanh chúng ta. Đọc Collins tôi luôn luôn ngạc nhiên: nhìn quanh mình, ở đâu tôi cũng nhìn thấy những điều mà ông vừa mới chỉ ra, chỉ có điều là trước đó tôi không thấy được.

Sinh năm 1941 ở thành phố New York, tốt nghiệp tiến sĩ Anh văn ở đại học California, Riverside, với luận văn về Wordsworth và Coleridge, cặp nhà thơ tri âm tri kỷ, Billy Collins hiện sống ở New York. Hai lần là Nhà thơ Công huân (Poet Laureate) của Hoa Kỳ. Được xem là người được công chúng mến mộ nhất hiện nay.

Collins trò chuyện với độc giả, không bao giờ quên độc giả trong thơ của ông. Đó là một cuộc trò chuyện không ngớt, bài này qua bài khác, ngày này qua ngày khác, miên man bất tận. Lần nào ông cũng có khả năng làm chúng ta ngạc nhiên.

 

bạn cảm thấy thế nào đây

nếu bạn biết

tôi viết những dòng này

thay vì bạn

(1)

 

Hình như từ xưa đến nay, khi sáng tác, trong cơn cảm hứng, khác với các nhà văn, các nhà thơ thường chỉ viết cho mình. Trước hết, họ trò chuyện với chính mình. Billy Collins thì khác, ông đối thoại với người đọc trực tiếp hay kể chuyện cho họ nghe với một ngôn ngữ bỉnh dân như thứ tiếng mà chúng ta nói mỗi ngày. Có lẽ vì vậy mà ông được nhiều người yêu mến, tìm đọc và đôi khi được gọi là nhà thơ của nhân dân.

Collins là một trong số ít người sống dựa vào tác quyền về thơ, không phải làm thêm những việc khác. Thơ được rất nhiều người tìm đọc, nhưng cũng bị chỉ trích nhiều. Collins là nhà thơ viết về quá trình sáng tạo, trong đó có lời tâm sự giữa người viết và người đọc. Đó có lẽ là một trong những lý do được yêu mến: sự gần gũi. Các phương tiện báo chí xem việc Collins được chọn làm nhà thơ công huân là thành công vang dội của loại thơ sáng sủa, bình dân, dễ đọc. Chỉ dựa vào sự thành công về mặt xuất bản để phê bình là điều không công bằng: Robert Frost của Hoa Kỳ, hay Nguyễn Bính của Việt Nam, trước đây, đã từng nổi tiếng như thế.

Thật ra, “Người đọc lý tưởng của ông là một người có học vấn cao, một người đọc nhiều, có thể là kẻ có bằng cấp về văn học Anh, có khi là một thạc sĩ, người có thể nhận ra các tham chiếu điển cố hết sức rộng rãi trong các bài thơ của ông”. (*)

Có một nỗi ao ước thành thật được tương thông với người đọc, ở những mức độ khác nhau.

 

Tôi nhớ một người từng thú thật

Tất cả điều anh biết về Anna Karenina

Là chiếc giỏ nàng ta đựng đồ picnic

(2)

Tuyển tập Poetry 180 nổi tiếng gồm hai cuốn, 360 bài, được Collins biên tập lúc ông đảm nhiệm chức vụ thi sĩ công huân. Có nhiều bài thơ thuộc những khuynh hướng khác nhau. Sự tuyển chọn hay sự liên hệ giữa Collins và một số nhà thơ khác hoặc rất khác ông như David Lehman, Robert Bly, Paul Muldoon, chứng tỏ quan điểm cho rằng Collins là nhà thơ thuần túy giản dị, bình dân, chỉ nhắm mục đích chinh phục độc giả, là một quan điểm có phần nông cạn. Thực ra thơ của Collins không giản dị như thế. Thơ ông đầy sự hài hước, mỉa mai, tự chế giễu, nhưng là một thứ hài hước rất mới, rất đương thời. Giọng điệu trong thơ mang tính đối thoại, khả ái, nhưng sẵn sàng đào sâu các khía cạnh đen tối bí ẩn của tâm hồn con người. Thơ không có xu hướng thôi thúc, gây cảm giác trăn trở, bàng hoàng hay ám ảnh, mà như một người bạn, ngồi bên cửa sổ sẵn sàng kể chuyện và lắng nghe bạn trong buổi chiều êm dịu. Câu chuyện có những khám phá tuy bất ngờ nhưng không làm ai hoảng sợ, chỉ làm giàu thêm cho tâm linh nếu ta lắng nghe.

Trong lời tựa cho tuyển tập Poetry 180 ông viết: “Sau khi đọc thơ cho một thính giả, một học sinh trung học đến gặp tôi với tờ báo của trường trong đó có bài viết của chính cô về thơ. Trong bài viết ấy tôi thấy một bản tóm tắt đáng nhớ về cảm giác bực bội khó chịu mà nhiều người cảm thấy. “Mỗi khi tôi đọc một bài thơ hiện đại,” cô bé nữ sinh viết, “cảm giác giống hệt như là đứa em trai của tôi lấy chân đạp lên gáy của tôi ở trong hồ bơi vậy.” Và ông cảm thấy: “Có một niềm ao ước muốn mang thơ ra khỏi những khung cảnh đầy đọa đau khổ ấy.” (**)

 

Tôi bảo họ cầm lấy bài thơ

Đưa nó lên dưới ánh sáng

Như tấm phim màu

 

Hay áp tai vào nghe tiếng rì rào

 

Tôi bảo thả một con chuột vào bài thơ

Và nhìn cách nó chạy loăng quăng ra ngoài lề

 

Hay bước đi trong căn phòng kia

Sờ tay lên tường dò tìm công tắc điện

Tôi muốn họ chuyển mình trên mặt nước

Qua bề mặt một bài thơ

Và vẫy tay tác giả đứng trên bờ

 

Nhưng tất cả những điều họ làm

Là cột bài thơ vào ghế

Tra khảo nó khi nào có thể

 

Và đập bài thơ với cái gậy

Cho đến khi ý nghĩa nẩy tung ra

 

Đó là một nhà thơ có thể tìm thấy sự chuyển thể trong hiện tượng bình thường. Xu hướng của ông bộc lộ khi nhìn sự vật một cách có trí tuệ. Thơ Collins có tính đương đại cao, bởi vì các lý do sau đây: các đề tài của ông thường bắt nguồn từ đời sống hằng ngày, tính hài hước, tính châm biếm, sự quan sát thông minh có tính logic, sự trao đổi vai trò giữa người viết và người đọc, phủ nhận tính nghiêm túc một cách quá đáng của dòng thơ kinh điển, sự giản dị bất ngờ.

Bất kể chúng ta đọc kỹ hay phân tích kỹ đến đâu, một bài thơ xuất sắc không thể nào được hiểu một cách trọn vẹn, không phải là một căn nhà bạn có thể ở mãi trong đó và thuộc từng góc tối. Mỗi lần bạn trở lại, thấy ở đó một mảnh đất mới, mùa màng của tập trung, hoa quả của các mối lương duyên từ âm nhạc và hình ảnh. Thơ mang lại cho chúng ta những người khác, tâm hồn của họ, nhưng cũng đồng thời đẩy họ ra xa chúng ta hơn.

 

Những Bức Tượng Trong Công Viên

 

Anh nghĩ về em hôm nay

khi dừng chân trước bức tượng kỵ sĩ này

trong công viên

 

Em từng chỉ cho anh

những tư thế đẹp ý nghĩa thế nào.

 

Ngựa chồm hai vó lên cao

là kỵ sĩ đã chết trên chiến trường

 

Còn một chân đưa lên:

kẻ ấy đang trúng thương

 

Nếu cả bốn chân đều chạm đất,

như bức tượng này –

móng đồng bám chặt vào nền đá –

kỵ sĩ vẫn còn trên lưng ngựa

 

Kẻ đăm đăm nhìn nhà hát đóng cửa bên kia đường

đã chết vì một nguyên nhân nào khác không phải chiến tranh

 

Trong bóng râm của bức tượng

anh thầm nghĩ về bao người khác

đã giản dị chất phác đi qua cuộc đời 

không ngựa, không yên, cũng chẳng có gươm

người bộ hành không bao giờ nữa

đặt chân này lên trước chân kia.

 

Anh hình dung bức tượng

của người bệnh co quắp trên giường đá lạnh,

của kẻ tự tử chạm ngón chân mình lên mép gạch đá vân,

 

tượng của những nạn nhân

bị bịt mắt, của kẻ bị giết rồi tay còn che lấy vết thương,

của người chết đuối lặng im trôi nổi trên bầu trời.

 

Và anh đứng chôn chân ở đó,

trên nền cẩm thạch xám hồng

gần những bụi cây công viên,

tên anh và ngày tháng khắc trên bảng đồng,

 

Quỳ gối, mắt ngước nhìn lên,

cầu nguyện với mây trời

bay qua, mãi mãi xin thêm một ngày, thêm một ngày nữa thôi.

(3)

 

Hãy xem ông mở đầu như thế nào:

 

Anh nghĩ về em hôm nay

 

Cũng có thể là:

 

Em nghĩ về anh hôm nay

Hay:

 

Tôi nghĩ về bạn hôm nay

 

Vân vân

Đó là điểm thuận lợi của một số ngôn ngữ như tiếng Anh. Điểm thuận lợi nào bao giờ cũng kèm theo nhược điểm. Nhưng đó là chuyện khác.

 

Câu mở đầu của một bài thơ là câu quan trọng. Vì nó là cánh cửa dành cho người đọc, mở vào thế giới riêng của bài thơ. Nhưng quan trọng hơn cả, cánh cửa ấy hầu như tác giả không tự mình chọn được. Bởi vậy khi lần đầu đọc câu thơ này tôi đã dừng lại một lát: hôm nay có gì lạ? Sao anh lại nghĩ về em hôm nay? Khi mỗi ngày đều nghĩ về em thì hôm nay anh có nghĩ nhiều hơn chăng? Câu mở đầu của Collins là một câu thơ trúng chỗ, không thể di lệch được, nhưng nó lại rất bình thường. Bất cứ một nhà thơ nào cũng có thể làm một câu tương tự.

Vấn đề là vào lúc nào?

 

Khi dừng chân trước bức tượng kị sỹ này

 

Chúng ta được dẫn đến trước một bức tượng trong công viên. Tưởng tượng bạn đi dạo chơi một mình, ngẩn ngơ lạc bước, dừng chân trước nó hồi lâu. Rồi bạn làm gì? Đưa máy ảnh lên chụp hình về khoe với bạn bè hay người yêu chăng? Im lặng thở dài? Hay mua một cây kem vừa mút vừa quay đi?

Ở trên tôi vừa nói thơ Collins dễ hiểu. Đó là nhờ ông dẫn chuyện tài tình. Tôi nhận ra rằng trong hầu hết các bài thơ hay, tiếng Việt hay tiếng nước ngoài, ngôn ngữ của nhà thơ thì dễ hiểu, nhưng chính nhà thơ thì không.  Bạn được nghe kể chuyện một cách thong thả, có một khoảng cách giữa người nói và người nghe, nhưng khoảng cách đó không lớn, bao giờ cũng thân mật, nhờ tính hài hước ngấm ngầm bên trong.

 

Đã chết vì một nguyên nhân nào khác không phải chiến tranh

 

Té ra một người anh hùng cũng có thể chết vì bệnh viêm phổi hay ung thư bàng quang chẳng hạn, hay vì một tai nạn xe cộ lãng xẹt, hay vì tuổi giá âm ỉ tới trong nhà dưỡng lão không con không cháu mà trợ cấp hưu trí hay thương binh không đủ sống.

 

Không ngựa không yên cũng chẳng có gươm

 

Chúng ta để ý rằng tính hài hước trong thơ Collins nhuốm phong cách u mặc phương Tây, nghĩa là nếu xem nó không phải hài hước thì cũng đúng. Bởi vì đó là sự thật được lật trái ra một cách thông minh.  Hình ảnh có tính ẩn dụ (metaphors) trong thơ có hai loại: những ẩn dụ mang tính trang trí và những ẩn dụ chức năng. Thơ càng non tay, loại thứ nhất càng nhiều. Thơ già dặn, loại thứ hai nhiều hơn.

 

Đặt chân này lên trước chân kia

 

Là một câu thơ chuyển tiếp, là một liên tưởng mạnh mẽ và quyến rũ vì nó liên hệ mật thiết với hình ảnh kỵ sĩ trên lưng ngựa. Nó đưa ta trở về với cuộc đời thường, nơi mà thông điệp của Billy Collins bắt đầu. Đó là một ẩn dụ có tính chức năng.

Chúng ta trở lại với hình ảnh ban đầu. Người kỵ sĩ là biểu hiện của cuộc chiến đấu, nhưng là cuộc chiến đầu nào? Đó là cuộc chiến đấu giữa các quốc gia, giữa một nửa nước này và một nửa nước kia, giữa con người và thiên nhiên hay giữa con người và con người trong xã hội? Hay là cuộc chiến đấu nội tâm ở mỗi cá nhân?

Kẻ trên yên ngựa đăm đăm nhìn về một nhà hát đóng cửa bên kia đường. Cuộc đời là sân khấu với những trò yêu ghét, say mê, nhầm lẫn, sự thật và giả dối, vinh quang và ảo vọng, như tấm vải nhiều màu dệt nên một đời người, một dân tộc, sự suy tàn của các phẩm chất tưởng như có tính di truyền vĩnh viễn. Một nhà hát đến hồi đóng cửa hay tạm đóng cửa.

Thực ra sự giản dị của Collins là sự giản- dị- hoá. Ông biết chọn những góc nhìn bất ngờ, thậm chí kì quặc, để từ đó tiến đến gần những tính chất quen thuộc hơn của sự vật. Từ một bức tượng đến số phận của người kỵ sĩ, từ người kỵ sĩ đến số phận con người. Từ kẻ chiến thắng đến người chiến bại, từ anh hùng đến nạn nhân. Đó là đi từ cái riêng đến cái chung, đi từ phía bên này đến phía bên kia của chiến tranh và lịch sử.

Kết thúc bài thơ, người kể truyện bỗng hoá thân vào câu chuyện, biến thành một nhân vật trong bức tranh bao quát. Nhờ sự hoá thân này, anh hùng không đứng cao hơn nạn nhân. Tác giả đã dịu dàng chuyển chúng ta từ tầng sâu suy tư đến hình ảnh gần gũi. Sự dịch chuyển mau lẹ như thế tìm thấy nhiều thí dụ của nó trong thơ Billy Collins. Tuy là thí dụ, chúng không thể bắt chước và lập lại được. 

Tôi nói thí dụ, cũng bởi vì Collins thường dẫn chúng ta quay lại với những hình ảnh cụ thể, hàng ngày, ở cuối mỗi bài thơ của ông. Đọc Collins, không nên dẫn dắt suy luận trừu tượng của bạn đi quá xa: ông gần gũi với phương Đông ở điểm này.

Anh thấy gì? Thấy mình quỳ xuống, biến thành một bức tượng khác, tên anh và ngày tháng được khắc trên bảng đồng. Sự hi sinh nào đó của anh đã được các nhà viết sử công nhận, đã được một tổ chức nào đó công nhận, một giai đoạn công nhận, thậm chí có hy vọng trở thành vĩnh viễn nữa kia. Anh bị chôn chặt vào bức tượng của mình, đóng đinh vào cây thập tự thời gian và cây thập tự không gian.

Thì lúc ấy anh ao ước điều gì?

 

mãi mãi xin thêm một ngày, thêm một ngày nữa thôi

 

Anh cần thêm một ngày để làm gì?

Để làm anh hùng chăng? Để thay đổi thế giới? Hay để được sống giữa mọi người, tất bật đến nơi làm việc, thong thả đi dạo chơi, tay cầm que kem, cười đùa, cãi cọ, sung sướng một cách tầm thường và căm phẫn một cách cao cả như chúng ta, chán nản và hi vọng như chúng ta.

 

Nguyễn Đức Tùng

 

 (*) “His ideal reader is a well-educated, literate person, probably an English major, maybe even the holder of an M.F.A., who can recognize the surprisingly wide range of reference in his poems”. (Adam Kirsch, The Modern Element, NXB Norton, 2008)

 

(**) Billy Collins, Poetry 180, A Turning Back To Poetry, NXB Random House, 2003

 

 

(1)

I wonder how you are going to feel

when you find out

that I wrote this instead of you

 

(2)

I recall someone once admitting

That all he remembered of Anna Karenina

Was something about a picnic basket

 

(3)

Statues In The Park

 

I thought of you today

when I stopped before an equestrian statue

in the middle of a public square.

 

you who had once instructed me

in the code of these noble poses.

 

A horse rearing up with two legs raised,

you told me, meant the rider had died in battle.

 

If only one leg was lifted,

the man had elsewhere succumbed to his wounds;

 

And if four legs were touching the ground,

as they were in this case –

bronze hooves affixed to a stone base –

It meant that the man on the horse,

 

this one staring intently

over the closed movie theater across the street,

had died of a cause other than war.

 

In the shadow of the statue,

I wondered about the others

who had simply walked through life

without a horse, a saddle, or a sword –

 

pedestrians who could no longer

place one foot in front of the other.

 

I pictured statues of the sickly

recumbent on their cold stone beds,

the suicides toeing the marble edge,

 

statues of accident victims covering their eyes,

the murdered covering their wounds,

the drowned silently treading the air.

 

And there was I,

up on a rosy-gray block of granite

near a cluster of shade trees in the local park,

my name and dates pressed into a plaque,

 

down on my knees, eyes lifted,

praying to the passing clouds,

forever begging for just one more day.