Danh ngôn
Trong mọi cộng đồng, chúng ta cần một nhóm thiên thần gây rối.
We need, in every community, a group of angelic troublemakers.
(Bayard Rustin – trích bài phát biểu tại New York City 1963)
Trong mọi trường hợp, chắc chắn rằng sự thiếu hiểu biết, đi kèm với quyền lực, là kẻ thù tàn bạo nhất có thể có của công lý.
It is certain, in any case, that ignorance, allied with power, is the most ferocious enemy justice can have.
(James Baldwin - No Name in the Street 1972)
Các cuộc cách mạng và các cá nhân có thể bị giết hại, nhưng bạn không thể giết chết các ý tưởng.
While revolutionaries and individuals can be murdered, you cannot kill ideas.
(Thomas Sankara, một tuần trước khi bị ám sát, 1987)
Không có cảm giác nào cô đơn hơn việc bị chính đất nước mình trục xuất.
There's not a more lonely feeling than to be banished by my own country.
(Kiyo Sato – Kiyo’s Story 2009)
Ban Biên tập
Địa chỉ liên lạc:
1. Thơ
tho.vanviet.vd@gmail.com
2. Văn
vanviet.van14@gmail.com
3. Nghiên cứu Phê Bình
vanviet.ncpb@gmail.com
4. Vấn đề hôm nay
vanviet.vdhn1@gmail.com
5. Thư bạn đọc
vanviet.tbd14@gmail.com
6. Tư liệu
vanviet.tulieu@gmail.com
7. Văn học Miền Nam 54-75
vanhocmiennam5475@gmail.com
Tra cứu theo tên tác giả
- A. A. Fadeev
- A. Puskin
- A. T.
- Abdulrazak Gurnah
- Abraham F. Lowenthal
- Ace Le
- Ace Lê
- Adam Gopnik
- Adonis
- Adrian Horton
- Agi Mishol
- Ajar
- Akiko Miki
- Alain Guillemin
- Alan Phan
- Alăng Văn Gáo
- Alăng Văn Giáo
- Aldous Huxley
- Aleksandr Griboedov
- Alesandr Blok
- Alex Marshall
- Alex Smith
- Alex Thai
- Alex-Thái Đình Võ
- Alexander Fadeev
- Alexander Solzhenitsyn
- Alexandra Alter
- Alexandre FERON
- Alice Munro
- Alina Lesik
- Alison Flood
- Allen Ginsberg
- Amanda Gorman
- Amartya Sen
- Amelia Glaser
- Amos Oz
- An Nam
- Anatole France
- Anatoly Gavrilov
- Anders Olsson
- André Breton
- André Menras
- André Menras – Hồ Cương Quyết
- André Menras Hồ Cương Quyết
- Andrea Hoa Pham
- Andrea Kendall-Taylor
- Andreas Fulda
- Andreas Wimmer
- Andrew Postman
- Andy Cao
- Anh Anh
- Anh Hồng
- Anh Hồng (nhà thơ)
- Ánh Liên
- Anh Nhi
- Anh Văn
- Anika Zeller
- Anna Akhmatova
- Anna Maria Bracale Ceruti
- Anna Mitchell
- Anne Carson
- Anne Hébert
- Anne Henochowicz
- Annie Ernaux
- António Jacinto
- Antôn Nguyễn Trường Thăng
- Archimedes L.A. Patti
- Arlette Quỳnh Anh Trần
- Arnold Schwarzenegger
- Arthur Koestler
- Arty Abel
- Arvind Subramanian
- Augustina
- Aurélie Coulon
- Aurelien Breeden
- Ba Sàm
- Bá Thụ Đàm
- Bạch Cúc
- Bạch Hoàn
- Bách Mỵ
- Bách Thân
- Bạch X. Phẻ
- Bạch Xuân Phẻ
- Bakhtin
- Ban Mai
- Bàn Văn Thòn
- Ban Vận động Văn đoàn Độc lập Việt Nam
- Bảo Huân
- Bảo La
- Bảo Nhi Lê
- Bảo Ninh
- Bảo Phác
- Bão Vũ
- Barbara Demick
- Bashô
- Batrioldman
- Bauxite Việt Nam
- Bắc Đảo
- Bắc Phong
- Bằng Việt
- BB Ngô
- Bei Dao
- Benjamin Péret
- Benjamin Ramm
- Bertolt Brecht
- Bertrand Russell
- Bettina Rheims
- Bích Ngân
- Biếm họa
- Biên Cương
- Biệt Hiệu
- Bilahari Kausikan
- Billy Collins
- Bình Nguyên Lộc
- Brahma Chellaney
- Branko Milanovic
- Brett Reilly
- Brian Pascus
- Brian Wu
- Brice Pedroletti
- Brodsky
- Bryan
- Bùi An
- Bùi Bảo Trúc
- Bùi Bích Hà
- Bùi Chát
- Bùi Chí Trung
- Bùi Chí Vinh
- Bùi Công Thuấn
- Bùi Công Trực
- Bùi Đức Lại
- Bùi Giáng
- Bùi Hải Quảng
- Bùi Hoàng Tám
- Bùi Hoằng Vị
- Bùi Huệ Chi
- Bui Huy Hoi Bui
- Bùi Mai Hạnh
- Bùi Mạnh Hùng
- Bùi Mẫn Hân
- Bùi Minh Quốc
- Bùi Ngọc Tấn
- Bùi Quang Thắng
- Bùi Suối Hoa
- Bùi Thanh Hiếu
- Bùi Thanh Phương
- Bùi Thanh Tuấn
- Bùi Thụy Băng
- Bùi Tiến An
- Bùi Trân Phượng
- Bùi Trọng Hiền
- Bùi Văn Kha
- Bùi Văn Nam Sơn
- Bùi Việt Sỹ
- Bùi Vĩnh Phúc
- Bùi Xuân Bách
- Bùi Xuân Đính
- Bùi-Viết Văn Đức
- Bulgakov
- Bửu Chỉ
- C.D.
- Cái Lư Hương
- Cái Trọng Ty
- Cam Ly
- Cảnh Chánh
- Cao Bảo Vân
- Cao Bình Minh
- Cao Chi
- Cao Gia An
- Cao Hành Kiện
- Cao Huy Thuần
- Cao Kim Ánh
- Cao La
- Cao Quang Nghiệp
- Cao Tần
- Cao Thị Hồng
- Cao Thu Cúc
- Cao Việt Dũng
- Cao Xuân Hạo
- Cao Xuân Huy
- Carl Bildt
- Carl O. Schuster
- Carlos Assunção
- Carolyn Mary Kleefeld
- Cát Linh
- Cẩm Tú
- Cấn Thị Thêu
- Chan Phuong
- Chanh Tam
- Charles Bo
- Charles Bukowski
- Charles Simic
- Chau Doan
- Chân Minh
- Chân Pháp Xa
- Chân Phương
- Chân Xuân Tản Viên
- Châu Diên
- Châu Hải Đường
- Châu Hồng Thủy
- Châu Hữu Quang
- Chenn
- Chế Diễm Trâm
- Chế Lan Viên
- Chi Mai
- Chi Phương
- Chiêu Dương
- Chiêu Khiêm
- Chiharu Shiota
- Chim Hải
- Chim Trắng
- Chinh Ba
- Chính Tâm
- Chính Vĩ
- Chinua Achebe
- Chơn Không Cao Ngọc Phượng
- Christian Gampert
- Christian Welzel
- Christina Mary Hjortlund
- Christoph Giesen
- Christoph Sator
- Christopher Balding
- Christopher Goscha
- Christy Wampole
- Chu Dương
- Chu Hảo
- Chu Hoạch
- Chu Kim
- Chu Mộng Long
- Chu Quang Tiềm
- Chu Tử
- Chu Văn Lễ
- Chu Văn Sơn
- Chu Vĩnh Hải
- Chu Vương Miện
- Chu Xuân Diên
- Chung Le
- Claire Simon
- Clay Phạm
- Concepcion de Leon
- Connie Hoàng
- Cora Engelbrecht
- Costica Bradatan
- Cổ Ngư
- Cù An Hưng
- Cù Huy Hà Vũ
- Cù Mai Công
- Cù Tuấn
- Cung Minh Huân
- Cung Tích Biền
- Cung Trầm Tưởng
- D. S. Likhachev
- Da Màu
- Dạ Ngân
- Dạ Thảo Phương
- Dã Tượng
- DAD
- Dadolin Murak
- Damien Keown
- Dan Bilefsky
- Dan Slater
- Dana Gioia
- Danh ngôn
- Dani Rodrik
- Daniel Halpern
- Daniel Hautzinger
- Daron Accemoglu
- David Brown
- David Gascoyne
- David Marchese
- David Weinberger
- Ðặng Thơ Thơ
- Demetrio Paparoni
- DEUTSCHE WELLE
- Di
- Di Li
- Diêm Liên Khoa
- Diễm Thi
- Diễm Tường
- Diễn đàn Thế kỷ
- Diệp Duy Liêm
- Diệp Huy
- Ðinh Cường
- Dino Buzatti
- Dipanjan Roy Chaudhury
- Dmitri Prokofyev
- Dmitry Burago
- Dmitry Muratov
- Doãn Cẩm Liên
- Doãn Mạnh Dũng
- Doãn Mẫn
- Doãn Quốc Sỹ
- Dominique Lemieux
- Donald Inglehart
- Donna Ashworth
- Ðỗ Quang Nghĩa
- Ðỗ Quyên
- Du Tử Lê
- Dung Nguyễn
- Dũng Phan
- Dũng Trung Kqd
- Dũng Vũ
- Duy Lam
- Duy Tân
- Duy Thanh
- Duy Thông
- Duyên Anh
- Dư Hoa
- Dư Kiệt
- Dư Thị Hoàn
- Dư Thu Vũ
- Dương Đại Triều Lâm
- Dương Đình Giao
- Dương Khánh Phương
- Dương Kiền
- Dương Ngạn
- Dương Nghiễm Mậu
- Dương Ngọc Thái
- Dương Như Nguyện
- Dương Phương Vinh
- Dương Thắng
- Dương Thiệu Tước
- Dương Thu Hương
- Dương Thuấn
- Dương Tú
- Dương Tường
- Dương Văn Ba
- Dylan Suher
- Đà Văn
- Đàm Hà Phú
- Đàm Hách Thành
- Đào An Khánh
- Đào Anh Kha
- Đào Công Tiến
- Đào Duy Anh
- Đào Hiếu
- Đào Lê Na
- Đào Ngọc Chương
- Đào Nguyên
- Đào Nguyễn
- Đào Nguyên Phương Thảo
- Đào Như
- Đào Phương Liên
- Đào Quang Toản
- Đào Tấn Phần
- Đào Thái Tôn
- Đào Thị Hương
- Đào Tiến Thi
- Đào Trung Đạo
- Đào Trường Phúc
- Đào Tuấn
- Đào Tuấn Ảnh
- Đào Văn Thuỵ
- Đào Văn Tiến
- Đào Vũ Anh Hùng
- Đặng Anh Đào
- Đặng Bích Phượng
- Đặng Chương Ngạn
- Đặng Đình Cung
- Đặng Đình Mạnh
- Đặng Hà
- Đặng Hải Sơn
- Đặng Hoàng Giang
- Đặng Hồng Nam
- Đặng Hùng Võ
- Đặng Hương Giang
- Đặng Hữu
- Đặng Mai Lan
- Đặng Mậu Tựu
- Đăng Nguyên
- Đặng Phùng Quân
- Đặng Quốc Thông
- Đặng Sơn Duân
- Đặng Thái
- Đăng Thành
- Đặng Thân
- Đặng Thị Hảo
- Đặng Thơ Thơ
- Đặng Tiến
- Đặng Tiến (Thái Nguyên)
- Đặng Trung Nghĩa
- Đặng Túy
- Đặng Văn Dũng
- Đặng Văn Hùng
- Đặng Văn Ngữ
- Đặng Văn Sinh
- Đặng Vũ Vương
- Đặng Xuân Thảo
- Đặng Xuân Xuyến
- Đằng-Giao
- Điểm Thọ
- Đinh Bá Anh
- Đinh Cường
- Đinh Hoàng Thắng
- Đinh Hùng
- Đình Kính
- Đinh Linh
- Đinh Ngọc Thu
- Đinh Phương
- Đinh Phương Thảo
- Đinh Quang Anh Thái
- Đinh Thanh Huyền
- Đinh Thị Như Thúy
- Đinh Trường Chinh
- Đinh Từ Bích Thuý
- Đinh Từ Bích Thúy
- Đinh Văn Đức
- Đinh Vũ Hoàng Nguyên
- Đinh Ý Nhi
- Đinh Yên Thảo
- Đoàn Ánh Thuận
- Đoàn Bảo Châu
- Đoàn Cầm Thi
- Đoàn Công Lê Huy
- Đoàn Hồng Lê
- Đoàn Huy Giao
- Đoàn Huyền
- Đoàn Khắc Xuyên
- Đoàn Lê Giang
- Đoàn Nhã Văn
- Đoàn Thanh Liêm
- Đoan Trang
- Đoàn Tùng Nguyễn
- Đoàn Tử Huyến
- Đoàn Việt Hùng
- Đoàn Xuân Kiên
- Đỗ Anh Hoa
- Đỗ Anh Tuấn
- Đỗ Cao Bảo
- Đỗ Duy Ngọc
- Đỗ Đức
- Đỗ Đức Đông Ngàn
- Đỗ Đức Hiểu
- Đỗ Hòa
- Đỗ Hoàng Diệu
- Đỗ Hồng Ngọc
- Đỗ Hồng Nhung
- Đỗ Hữu Chí
- Đỗ Kh
- Đỗ Kh.
- Đỗ Khiêm
- Đỗ Kim Thêm
- Đỗ Lai Thuý
- Đỗ Lai Thúy
- Đỗ Lê Anh Đào
- Đỗ Mạnh Hoàng
- Đỗ Minh Tuấn
- Đỗ Nghê
- Đỗ Ngọc
- Đỗ Ngọc Thống
- Đỗ Quang Nghĩa
- Đỗ Quang Vinh
- Đỗ Quý Toàn
- Đỗ Quyên
- Đỗ Quỳnh Dao
- Đỗ Thắng Cảnh
- Đỗ Thị Thu Trà
- Đỗ Thiên Anh Tuấn
- Đỗ Trí Vương
- Đỗ Trọng Khơi
- Đỗ Trung Quân
- Đỗ Trường
- Đỗ Tuyết Khanh
- Đồng Chuông Tử
- Đông Hoài
- Đông Hồ
- Đông Kha
- Đông Ngàn Đỗ Đức
- Đông Nghi
- Đức Ban
- Đức Đàm
- Đức Flying Bay
- Đức Hoàng
- Đức Lê
- Đức Phổ
- Đức Tâm
- Đức Tiến
- E.E. Cummings
- E.M. Chernoivanenko
- Eamonn Butler
- Eckart Kleßmann
- Eduardo Galeano
- Edward Hirsch
- Elena Pucillo Truong
- Elias Canetti
- Ellen Bass
- Eloisa Amezcua
- Emiel Roothooft
- Emmanuelle Jardonnet
- Eric Weiner
- Erica Frantz
- Erik Harms
- Erik Korling
- Euan Ward
- Evgheni Dobrenko
- F.N.
- Federico García Lorca
- Feliks Kuznesov
- Filip Lech
- Flanny O’Connor
- Florence Noiville
- Florian Altenhöner
- Francis Fukuyama
- Francis Fukuyma
- Frank Dikötter
- Frank O'Hara
- Frankfurt
- Fred Hiatt
- Friedrich Dürrenmatt
- Friedrich Nietzsche
- Fritz J. Raddatz
- Gabriel García Márquez
- Gaither Stewart
- Gaiutra Bahadur
- Gary Leupp
- Gặp gỡ và trò chuyện
- Georg Bönisch
- Georg Trakl
- George Burchett
- George Orwell
- George Perreault
- George Siemens
- Gerhard Will
- Germain Droogenbroodt
- Giang Dang
- Giang Lại Đức
- Giang Nam
- Giáng Vân
- Giáp Văn Dương
- Gideon Rachman
- Giuse Lê Công Đức
- Goethe
- Gonçalo Fernandes
- Gottfried Benn
- Graham Allison
- Grigory Yudin
- Günter Kunert
- Gyảng Anh Iên
- Hà Duy Phương
- Hà Dương Tuấn
- Hà Dương Tường
- Hà Đình Nguyên
- Hạ Đình Nguyên
- Hà Huy Sơn
- Hà Hương
- Hà Lệ Minh
- Hà Ngọc Hòa
- Hạ Nguyên
- Hà Nguyên Du
- Hà Nhân
- Hà Nhật
- Hà Phạm Phú
- Hà Quang Vinh
- Hà Sĩ Phu
- Hà Thanh Vân
- Hà Thế
- Hà Thị Minh Đạo
- Hà Thúc Sinh
- Hà Thủy Nguyên
- Hà Tùng Long
- Hà Tùng Sơn
- Hà Văn Thịnh
- Hà Văn Thùy
- Hà Vũ Trọng
- Hagi Kenaan
- Hai An Vu
- Hải Hạc
- Hải Ngọc
- Hai Thanh
- Han Dang
- Hàn Giang
- Han Kang
- Hàn Vĩnh Diệp
- Hạnh Nguyên
- Hạnh Phước
- Hạnh Viên
- Hannah Beech
- Hào Thiện Nhân
- Haruki Murakami
- Hân Hương
- Heiko Buschke
- Heinrich Heine
- Henri Michaux
- Henry David Thoreau
- Henry Wadsworth Longfellow
- Heriberto Araújo
- Hermann Hesse
- Hiền Trang
- Hiệp Ikaria
- Hiệu Minh
- Hiếu Tân
- Ho Lai-Ming
- Hòa Bình Lê
- Hoa Níp
- Hoài Hương
- Hoài Nam
- Hoài Phương
- Hoài Thanh
- Hoài Việt
- Hoài Ziang Duy
- Hoan Doan
- Hoàn Nguyễn
- Hoàng Ánh
- Hoàng Anh Tuấn
- Hoàng Cát
- Hoàng Cầm
- Hoàng Chí Hiếu
- Hoàng Chính
- Hoàng Cường Long
- Hoàng Dũng
- Hoàng Dương Tuấn
- Hoàng Đăng Khoa
- Hoàng Đỗ
- Hoàng Đông
- Hoàng Đức Truật
- Hoàng Hà
- Hoàng Hải Thủy
- Hoàng Hải Vân
- Hoảng Hãn
- Hoàng Hưng
- Hoàng Khởi Phong
- Hoàng Kim Oanh
- Hoàng Lại Giang
- Hoàng Lan
- Hoàng Lan Anh
- Hoàng Lan Chi
- Hoàng Lê
- Hoàng Lệ
- Hoàng Linh
- Hoàng Long
- Hoàng Mai Ðạt
- Hoàng Mạnh Hải
- Hoàng Minh Trí
- Hoàng Minh Tường
- Hoàng Nam
- Hoàng Nga
- Hoàng Ngọc Biên
- Hoàng Ngọc Hiến
- Hoàng Ngọc Nguyên
- Hoàng Ngọc Tuấn
- Hoàng Nguyễn
- Hoàng Nguyên Vũ
- Hoàng Nhơn
- Hoàng Nhuận Cầm
- Hoàng Phong Tuấn
- Hoàng Phủ Ngọc Tường
- Hoàng Quân
- Hoàng Quốc Hải
- Hoàng Thị Hường
- Hoàng Thị Thu Thủy
- Hoàng Thu Phố
- Hoàng Thúy
- Hoàng Thuỵ Anh
- Hoàng Tiến
- Hoàng Trung Thông
- Hoàng Tuấn Công
- Hoàng Tuấn Phổ
- Hoàng Tùng
- Hoàng Tuỵ
- Hoàng Văn Sơn
- Hoàng Việt
- Hoàng Vũ Thuật
- Hoàng Xuân Phú
- Hoàng Xuân Sơn
- Hoàng Xuân Tuyền
- Hoàng Yến
- Horst Bienek
- Howard Gardner
- Hồ Anh Thái
- Hồ Bạch Thảo
- Hồ Bất Khuất
- Hồ Diệu Vân
- Hồ Dzếnh
- Hồ Đắc Vũ
- Hồ Đình Nghiêm
- Hồ Hải Thụy
- Hồ Hữu Tường
- Hồ Minh Tâm
- Hồ Ngọc Đại
- Hồ Như
- Hồ Phú Bông
- Hồ Tịnh Tình
- Hồ Trường An
- Hồ Tú Bảo
- Hội những người ủng hộ GS. Chu Hảo
- Hồng Anh
- Hồng Hoang
- Hồng Lê Thọ
- Hồng Phú
- Huệ Hương Hoàng
- Huguette Bertrand
- Huong Nguyen
- Huy Cận
- Huy Đức
- Huy Tưởng
- Huyền Thương
- Huỳnh Duy Lộc
- Huỳnh Hoa
- Huỳnh Hữu Uỷ
- Huỳnh Hữu Ủy
- Huỳnh Kim Báu
- Huỳnh Kim Quang
- Huỳnh Lê Nhật Tấn
- Huỳnh Liễu Ngạn
- Huỳnh Ngọc Chênh
- Huỳnh Như Phương
- Huỳnh Sơn Phước
- Huỳnh Tấn Mẫm
- Huỳnh Thế Du
- Huỳnh Thục Vy
- Huỳnh Trọng Khang
- Huỳnh Tuấn Anh
- Hứa Chương Nhuận
- Hương Lan
- Hường Thanh
- Hương Thủy
- Hữu Danh
- Hữu Đông
- Hữu Loan
- Hữu Mai
- Hữu Phương
- Ian Bui
- Ian Johnson
- Igor Poglazov
- Ilza Burchett
- Inrasara
- Iris Radisch
- Isabella Kwai
- Issa
- Issac Bashevis Singer
- Italo Calvino
- Iya Kiva
- J. M. Lotman
- J.B Nguyễn Hữu Vinh
- Jacques Attali
- Jacques Prévert
- Jake Johnson
- James Borton
- James Daniel Spears
- James G. Zumwalt
- James Grossman
- James Joyce
- James Poniewozik
- James Stavridis
- James WrightJuan Felipe Herrera
- Janos Kornai
- Jared Carters
- Jason Lopata
- Jason Morris-Jung
- Jay Nordlinger
- Jaya K.
- Jean Chesnaux
- Jean d'Ormesson
- Jean Piaget
- Jean Przyluski
- Jean Toomer
- Jean-Jacques Brochier
- Jean-Jacques Roth
- Jean-Louis Rocca
- Jean-Luc Chalumeau
- Jean-Marc Roberts
- Jean-Patrick Géraud
- Jean-Paul Sartre
- Jefferson Cowie
- Jeffrey Hanfover
- Jeffrey Nall
- Jessica Swoboda
- Jessie Yeung
- Jiayang Fan
- Jimmy Carter
- Joan Hua
- João Guimarães Rosa
- Joaquin Nguyễn Hòa
- John Barrow
- John Cheever
- John Freeman
- John Keane
- John McCain
- Jon Fosse
- Jonathan Dee
- Jonathan London
- Jörg Wischermann
- Jorge Amado
- Jorge Luis Borges
- Joschka Fischer
- Josée Lapointe
- Joseph Wong
- Joseph Wright
- Josh Rogin
- Joshua Rothman
- Juan Pablo Cardenal
- Juan Pablo Cardenal & Heriberto Araújo
- Julia Cagé
- Julio Cortázar
- Jun’ichiro Tanizaki
- Kahil Gibral
- Kai Hoàng
- Kale
- Kalynh Ngô
- Kamel Daoud
- Kao Phú
- Kap Seol
- Karel Appel
- Karen Tongson
- Kate Chopin
- Kazuo Shiraga
- Kenneth Nguyen
- Keorapetse Kgositsile
- Kerstin Holm
- Kều Jang
- Kha Lương Ngãi
- Khái Hưng
- Khaly Chàm
- Khang Quốc Ngọc
- Khánh
- Khánh Bình
- Khánh Duy
- Khánh Ly
- Khánh Mai
- Khanh Nguyen
- Khanh Pham
- Khánh Phương
- Khánh Trâm
- Khánh Trường
- Khét
- Khế Iêm
- Khiêm Nhu
- Khổng Đức Thiêm
- Khuất Đẩu
- Khuê Phạm
- Khuyết Thư
- Kiệm Hoàng
- Kiến Văn
- Kiệt Anh Hùng
- Kiệt Tấn
- Kiều Duy Vĩnh
- Kiều Loan
- Kiều Mai Sơn
- Kiều Maily
- Kiều Phong
- Kiều Thị An Giang
- Kim Ân
- Kim Chi
- Kim Dung
- Kim Hạnh
- Kim Thúy
- Kim Trần
- Kinh Bắc
- Kính Hòa
- Klaus Wiegerefe
- Kúm
- Kurt-Martin Mayer
- Kỳ Duyên
- Kyoko Numano
- L. N. Tolstoy
- L. V. H.
- La Khắc Hoà
- La Khắc Hòa
- Lã Nguyên
- Lại Nguyên Ân
- Lam Điền
- Lam Ngọc
- Lam Thái Hòa
- Lan Nguyên
- Lang Anh
- Langston Hughes
- LAP
- Larry Diamond
- Lars Vargö
- Laura Cappelle
- Laurent Sagalovitsch
- Lawrence Ferlinghetti
- Lâm Chương
- Lâm Duyên
- Lâm Hạnh
- Lâm Lê
- Lâm Ngân Mai
- Lâm Quang Mỹ
- Lâm Thị Mỹ Dạ
- Leon Trotsky
- Leonard Cohen
- Lê An Thế
- Lê Anh Hoài
- Lê Anh Hùng
- Lê Ân
- Lê Bá Đảng
- Lê Bích Vượng
- Lê Chiều Giang
- Lê Công Định
- Lê Công Giàu
- Lê Công Tư
- Lê Ðình Nhất Lang
- Lê Dũng
- Lê Duy Nam
- Lê Đạt
- Lê Đăng Doanh
- Lê Đình Cai
- Lê Đình Khẩn
- Lê Đình Thắng
- Lê Đỗ Huy
- Lê Đức Dục
- Lê Đức Thôn
- Lê Giang Trần
- Lê Hải
- Lệ Hằng
- Lê Hiệp
- Lê Hoài Nguyên
- Lê Hoàng Diễm Trang
- Lê Hoàng Lân
- Lê Học Lãnh Vân
- Lê Hồ Quang
- Lê Hồng Hà
- Lê Hồng Hiệp
- Lê Hồng Lâm
- Lê Hùng
- Lê Hùng Vọng
- Lê Huyền Ái Mỹ
- Lê Huỳnh Lâm
- Lê Hữu
- Lê Hữu Khoá
- Lê Hữu Khóa
- Lê Hữu Nam
- Lê Kế Lâm
- Lê Khải
- Lê Kim Duy
- Lê Ký Thương
- Lê Lạc Giao
- Lê Luân
- Lê Mã Lương
- Lê Mai
- Lê Mai Lĩnh
- Lê Mạnh Chiến
- Lê Mạnh Đức
- Lê Minh Chánh
- Lê Minh Hà
- Lê Minh Hiền
- Lê Minh Khuê
- Lê Minh Phong
- Lê Ngân Hằng
- Lê Ngọc Luân
- Lê Ngọc Sơn
- Lê Nguyễn
- Lê Nguyễn Duy Hậu
- Lê Nguyễn Hương Trà
- Lê Nguyên Long
- Lê Nguyên Vỹ
- Lê Như Bình
- Lê Oa Đằng
- Lê Phan
- Lê Phú Khải
- Lê Quang
- Lê Quang Đức
- Lê Quảng Hà
- Lê Quang Hợp
- Lê Quang Thành
- Lê Quân
- Lê Quốc Anh
- Lê Quỳnh
- Lê Quỳnh Mai
- Lê Sa Long
- Lê Si Na
- Lê Sơn
- Lê Tất Đạt
- Lê Tất Điều
- Lê Thanh Dũng
- Lê Thanh Hải
- Lê Thanh Phong
- Lê Thanh Trường
- Lê Thân
- lê thi diem thuý
- Lê Thị Hồng Minh
- Lê Thị Huệ
- Lê Thị Hường
- Lê Thị Oanh
- Lê Thị Thấm Vân
- Lê Thiết Cương
- Lê Thiếu Nhơn
- Lê Thọ Bình
- Lê Thời Tân
- Lê Thời Thôi
- Lê Thu Hiền
- Lê Thúy Bảo Liên
- Lê Tiên Long
- Lê Trí Tuệ
- Lê Trinh
- Lê Trọng Nghĩa
- Lê Trọng Nguyễn
- Lê Trung Tĩnh
- Lê Trường Thanh
- Lê Tuấn Huy
- Lê Tuyết Hạnh
- Lê Văn Bỉnh
- Lê Văn Hảo
- Lê Văn Hiếu
- Lê Văn Hòa
- Lê Văn Luân
- Lê Văn Sơn
- Lê Văn Trung
- Lê Văn Tùng
- Lê Vĩnh Tài
- Lê Vĩnh Triển
- Lê Vũ Trường Giang
- Lê Xuân Khoa
- Lê Xuyên
- Li Edelkoort
- Li Zhongqin
- Liêu Diệc Vũ
- Liêu Thái
- Liễu Trương
- Linh Nguyên
- Linh Văn
- Linh Vân
- Linh-Chân Brown
- LKH
- Lorca
- Louis Aragon
- Louise Glück
- Lộc Vàng
- Luân Hoán
- Ludwig von Mises
- Luke Hunt
- Luke Turner
- Lữ Kiều
- Lữ Quỳnh
- Lương Đào
- Lương Thiệu Quân
- Lương Thư Trung
- Lưu Á Châu
- Lưu Bình Nhưỡng
- Lưu Diệu Vân
- Lưu Đức Trung
- Lưu Hà
- Lưu Hiểu Ba
- Lưu Khánh Thơ
- Lưu Mê Lan
- Lưu Minh Hải
- Lưu Na
- Lưu Nhi Dũ
- Lưu Quang Vũ
- Lưu Thuỷ Hương
- Lưu Thủy Hương
- Lưu Trọng Văn
- Lưu Uyên Khôi
- Lý Đợi
- Ly Hoàng Ly
- Lý Ngang
- Ly Phạm
- Lý Quang Hoàn
- Lý Thanh
- Lý Tiến Dũng
- Lý Toàn Thắng
- Lý Trực Dũng
- Lý Xuân Hải
- Lydia Davis
- Lynh Bacardi
- LysP
- M. Gorky
- M.L. Gasparov
- Mạc Phong Tuyền
- Mạc Văn Trang
- Mạc Việt Hồng
- Mạch Nha
- Mạch Quang Thắng
- Madeleine Riffaud
- Mai An Nguyễn Anh Tuấn
- Mai Anh Tuấn
- Mai Bá Ấn
- Mai Bá Kiếm
- Mai Chanh
- Mai Hiền
- Mai Khôi
- Mai Kim Ngọc
- Mai Nhật
- Mai Ninh
- Mai Quốc Ấn
- Mai Quỳnh
- Mai Quỳnh Nam
- Mai Sơn
- Mai Thái Lĩnh
- Mai Thanh Sơn
- Mai Thảo
- Mai Tú Ân
- Mai Văn Hoan
- Mai Văn Phấn
- Mai Văn Tính
- Maki Starfield
- Mamleev
- Mạnh Kim
- Marc Andrus
- Marcel Reich-Ranicki
- Marci Shore
- Marco Ferrarese
- Margarita Lyutova
- Maria Donovan
- Maria Ressa
- Mario Vargas Llosa
- Marion Hennebert
- Mark B. Hamilton
- Mark Binelli
- Mark Frankland
- Mark Osaki
- Mark Strand
- Marta Hillers
- Martin Jankowski
- Martin Kulldorff
- Marty Robbins
- Mary Morose
- Mary Walsh
- Mathias Mayer
- Matthew Clayfield
- Matthew Crawford
- Maurice Blanchot
- Maximilian Steinbeis
- May
- Maya Angelou
- Mặc Đỗ
- Mặc Lâm
- Mân Côi
- McAmmond Nguyễn Thị Tư
- Media Văn Việt
- Michael Burawoy
- Michael Scammell
- Miêng
- Mike Ives
- Mikhail Shishkin
- Mikhail Viktorovich Zygar
- Milan Kundera
- Mimmi Diệu Hường Bergström
- MInh Anh
- Minh Huệ
- Minh Hùng
- Minh Luật
- Minh Quang – Lê Chiên
- Minh Quang Ho
- Minh Tâm
- Minh Thùy
- Minh Thư
- Minh Toàn
- Minh Tuấn
- Monica Berlin
- Mỹ Hằng
- Mỹ Lan
- N. S. Khrushchev
- Nam Dao
- Nam Dao Nguyễn Mạnh Hùng
- Nam Đan
- Nam Đông
- Nam Nguyên
- Nam Sơn
- Naowarat Pongpaiboon
- Natalia lacovelli
- Nataliya Zhynkina
- Natsume Sōseki
- Nay Aung
- ng. anhanh
- Ng.Uyển Nicole Dương
- Ngải Vị VỊ
- Ngân Xuyên
- Nghệ thuật
- Nghiêm Lương Thành
- Nghiêm Phương Mai
- Nghiêm Xuân Hồng
- Nghiên Cứu Phê Bình
- Ngo Thu
- Ngọc Anh
- Ngọc Duy Phan
- Ngoc Hien Bui
- Ngọc Linh
- Ngô Anh Tuấn
- Ngô Bảo Châu
- Ngô Đình Thẩm
- Ngô Đồng
- Ngô Hương Giang
- Ngô Khắc Tài
- Ngộ Không Phí Ngọc Hùng
- Ngô Liêm Khoan
- Ngô Minh
- Ngô Minh Khôi
- Ngô Ngọc Loan
- Ngô Ngọc Trai
- Ngô Nguyên Dũng
- Ngô Nhật Đăng
- Ngô Quốc Phương
- Ngô Quốc Thịnh
- Ngô Thế Vinh
- Ngô Thị Kim Cúc
- Ngô Thị Thanh Lịch
- Ngô Tùng Phong
- Ngô Tự Lập
- Ngô Văn
- Ngô Văn Giá
- Ngô Viết Nam Sơn
- Ngô Viết Trọng
- Ngô Vĩnh Long
- Ngô Xuân Hội
- Ngô Xuân Phúc
- Ngô Xuân Thảo
- Ngu Yên
- Nguyen Duc Thanh
- Nguyễn Hải Hoành
- Nguyễn Anh Dũng
- Nguyễn Anh Tuấn
- Nguyễn Anh Tuấn - đạo diễn
- Nguyễn Bá Chung
- Nguyễn Bách Việt
- Nguyễn Bảo Chân
- Nguyễn Bắc Sơn
- Nguyên Bình
- Nguyên Cầm
- Nguyên Cẩn
- Nguyên Chánh
- Nguyễn Chí Hoan
- Nguyễn Chí Thuật
- Nguyễn Chí Trung
- Nguyễn Chí Tuyến
- Nguyễn Chinh Trung
- Nguyễn Cung Thông
- Nguyễn Cường
- Nguyễn Danh Bằng
- Nguyễn Danh Huế
- Nguyễn Danh Lam
- Nguyễn Ðăng Thường
- Nguyễn Duy
- Nguyễn Dương Quang
- Nguyễn Đạt
- Nguyễn Đắc Kiên
- Nguyễn Đắc Xuân
- Nguyễn Đăng Điệp
- Nguyễn Đăng Hưng
- Nguyễn Đăng Khoa
- Nguyễn Đăng Mạnh
- Nguyễn Đăng Na
- Nguyễn Đăng Quang
- Nguyễn Đăng Thường
- Nguyễn Đình Ấm
- Nguyễn Đình Bin
- Nguyễn Đình Bổn
- Nguyễn Đình Chú
- Nguyễn Đình Cống
- Nguyễn Đình Đăng
- Nguyễn Đình Huỳnh
- Nguyễn Đình Thắng
- Nguyễn Đình Thi
- Nguyễn Đình Toàn
- Nguyễn Đổng Chi
- Nguyễn Đông Thức
- Nguyễn Đức
- Nguyễn Đức Dương
- Nguyễn Đức Hiệp
- Nguyễn Đức Mậu
- Nguyễn Đức Sơn
- Nguyễn Đức Thắng
- Nguyễn Đức Tiến
- Nguyễn Đức Tùng
- Nguyễn Đức Tường
- Nguyễn Gia Trí
- Nguyên Giác
- Nguyên Giác Phan Tấn Hải
- Nguyễn Hà Luân
- Nguyễn Hải Hoành
- Nguyễn Hải Yến
- Nguyễn Hàn Chung
- Nguyễn Hiến Lê
- Nguyễn Hoa Lư
- Nguyễn Hoài Nam
- Nguyễn Hoài Văn
- Nguyễn Hoài Vân
- Nguyễn Hoàn
- Nguyễn Hoàn Nguyên
- Nguyễn Hoàng Ánh
- Nguyễn Hoàng Anh Thư
- Nguyễn Hoàng Diệu Thủy
- Nguyễn Hoàng Diệu Thúy
- Nguyễn Hoàng Giao
- Nguyễn Hoàng Linh
- Nguyễn Hoàng Trung
- Nguyễn Hoàng Văn
- Nguyễn Hồng Anh
- Nguyễn Hồng Giao
- Nguyễn Hồng Hưng
- Nguyễn Hồng Lam
- Nguyễn Hồng Nhung
- Nguyễn Hồng Thục
- Nguyễn Huệ Chi
- Nguyễn Hùng
- Nguyễn Huy Hoàng
- Nguyễn Huy Thiệp
- Nguyễn Huy Vũ
- Nguyên Hưng
- Nguyễn Hưng Quốc
- Nguyễn Hương
- Nguyễn Hữu Đễ
- Nguyễn Hữu Hồng Minh
- Nguyễn Hữu Liêm
- Nguyễn Hữu Nhật
- Nguyễn Hữu Sơn
- Nguyễn Hữu Thiết
- Nguyễn Hữu Việt Hưng
- Nguyễn Hữu Vinh
- Nguyễn kc Hậu
- Nguyễn Khải
- Nguyễn Khánh Duy
- Nguyễn Khánh Trường
- Nguyễn Khắc An
- Nguyễn Khắc Bình
- Nguyễn Khắc Mai
- Nguyễn Khắc Phê
- Nguyễn Khắc Phi
- Nguyễn Khắc Phục
- Nguyễn Khiêm
- Nguyễn Khôi
- Nguyễn Kiến Phước
- Nguyễn Kiều Dung
- Nguyễn Kiều Hưng
- Nguyên Lạc
- Nguyễn Lãm Thắng
- Nguyễn Lan Phương
- Nguyễn Lân Bình
- Nguyễn Lân Thắng
- Nguyễn Lê Hồng Hưng
- Nguyễn Lệ Uyên
- Nguyễn Linh Giang
- Nguyễn Linh Quang
- Nguyễn Lộ Trạch
- Nguyễn Luận
- Nguyễn Lương Hải Khôi
- Nguyễn Lương Ngọc
- Nguyễn Lương Vỵ
- Nguyễn Mai
- Nguyễn Man Nhiên
- Nguyễn Mạnh An Dân
- Nguyễn Mạnh Côn
- Nguyễn Mạnh Đẩu
- Nguyễn Mạnh Tiến
- Nguyễn Manh Trinh
- Nguyễn Mạnh Trinh
- Nguyễn Mạnh Tuấn
- Nguyễn Mạnh Tường
- Nguyễn Minh Anh
- Nguyễn Minh Hòa
- Nguyễn Minh Kính
- Nguyễn Minh Nhị
- Nguyễn Minh Nhựt
- Nguyễn Minh Thuyết
- Nguyễn Mộng Giác
- Nguyên Ngọc
- Nguyễn Ngọc Chu
- Nguyễn Ngọc Giao
- Nguyễn Ngọc Hoa
- Nguyễn Ngọc Lanh
- Nguyễn Ngọc Liễm
- Nguyễn Ngọc Lung
- Nguyễn Ngọc Tâm
- Nguyễn Ngọc Thiện
- Nguyễn Ngọc Tú Anh
- Nguyễn Ngọc Tư
- Nguyên Nguyên
- Nguyễn Nguyên
- Nguyễn Nguyên Bình
- Nguyễn Nhật Tín
- Nguyên Nhi
- Nguyễn Như Huy
- Nguyễn Phạm Hùng
- Nguyễn Phú Yên
- Nguyễn Phúc Vĩnh Ba
- Nguyễn Phượng
- Nguyễn Phương Đình
- Nguyễn Phương Mai
- Nguyễn Phương Mạnh
- Nguyễn Quang
- Nguyễn Quang A
- Nguyễn Quang Bình
- Nguyễn Quang Duy
- Nguyễn Quang Dy
- Nguyễn Quang Đồng
- Nguyễn Quang Hồng
- Nguyễn Quang Hưng
- Nguyễn Quang Lập
- Nguyễn Quang Thạch
- Nguyễn Quang Thân
- Nguyễn Quang Thiều
- Nguyễn Quang VInh
- Nguyễn Quân
- Nguyễn Quốc Lâm
- Nguyễn Quốc Thái
- Nguyễn Quốc Toàn
- Nguyễn Quốc Trụ
- Nguyễn Quốc Tuấn
- Nguyên Sa
- Nguyễn Sĩ Dũng
- Nguyễn Sơn Lâm
- Nguyễn Sỹ Phương
- Nguyễn Sỹ Tế
- Nguyễn Tà Cúc
- Nguyễn Tài Cẩn
- Nguyễn Tấn Cứ
- Nguyễn Tất Nhiên
- Nguyễn Thạch Giang
- Nguyễn Thái Hòa
- Nguyễn Thái Hợp
- Nguyễn Thái Sơn
- Nguyễn Thái Tuấn
- Nguyễn Thanh Bình
- Nguyễn Thanh Châu
- Nguyễn Thanh Giang
- Nguyễn Thanh Hiện
- Nguyễn Thanh Hùng
- Nguyễn Thanh Huy
- Nguyễn Thanh Huyền
- Nguyễn Thanh Mỹ
- Nguyễn Thành Nam
- Nguyễn Thanh Nghị
- Nguyễn Thanh Nguyệt
- Nguyễn Thành Phong
- Nguyễn Thanh Sơn
- Nguyễn Thành Sơn
- Nguyễn Thanh Tâm
- Nguyễn Thành Thi
- Nguyễn Thanh Tuyền
- Nguyễn Thanh Văn
- Nguyễn Thanh Việt
- Nguyễn Thế Hùng
- Nguyễn Thế Thanh
- Nguyễn Thị Ái Tiên
- Nguyễn Thị Bích Hậu
- Nguyễn Thị Bích Ngà
- Nguyễn Thị Bình
- Nguyễn thị Cỏ May
- Nguyễn Thị Dư Khánh
- Nguyễn Thị Hải
- Nguyễn Thị Hậu
- Nguyễn Thị Hiền
- Nguyễn Thị Hoàng
- Nguyễn Thị Hoàng Bắc
- Nguyễn Thị Khánh Minh
- Nguyễn Thị Khánh Trâm
- Nguyễn Thị Kim Chi
- Nguyễn Thị Kim Phụng
- Nguyễn Thị Minh Ngọc
- Nguyễn Thị Minh Thương
- Nguyễn Thị Ngọc Hải
- Nguyễn Thị Ngọc Nhung
- Nguyễn Thị Oanh
- Nguyễn Thị Phước
- Nguyễn Thị Thanh Bình
- Nguyễn Thị Thanh Hải
- Nguyễn Thị Thanh Lưu
- Nguyễn Thị Thanh Xuân
- Nguyễn Thị Thanh Yến
- Nguyễn Thị Thảo An
- Nguyễn Thị Thúy Hạnh
- Nguyễn Thị Thùy Linh
- Nguyễn Thị Thụy Vũ
- Nguyễn Thị Thuyền
- Nguyễn Thị Tịnh Thy
- Nguyễn Thị Từ Huy
- Nguyễn Thị Vinh
- Nguyễn Thiện Tống
- Nguyễn Thiện Tơ
- Nguyễn Thói Đời
- Nguyễn Thông
- Nguyễn Thu Quỳnh
- Nguyễn Thu Trang
- Nguyễn Thùy Dương
- Nguyễn Thúy Hạnh
- Nguyễn Thụy Long
- Nguyễn Thuỵ Phương
- Nguyễn Thùy Song Thanh
- Nguyễn Thỵ
- Nguyễn Thy Anh
- Nguyễn Tiến Dũng
- Nguyễn Tiến Lập
- Nguyễn Tiến Trung
- Nguyễn Tiến Văn
- Nguyễn Trần Bạt
- Nguyễn Tri Phương Đông
- Nguyễn Triệu Nam
- Nguyễn Trọng Bình
- Nguyễn Trọng Chức
- Nguyễn Trọng Huân
- Nguyễn Trọng Khôi
- Nguyễn Trọng Tạo
- Nguyễn Trung
- Nguyễn Trung Bảo
- Nguyễn Trung Dân
- Nguyễn Trung Hiếu
- Nguyễn Trung Kiên
- Nguyễn Trung Thuần
- Nguyễn Trường Giang
- Nguyễn Trường Huy
- Nguyễn Trường Uy
- Nguyễn Tuấn
- Nguyễn Tuấn Anh
- Nguyễn Tuấn Khoa
- Nguyễn Tùng
- Nguyễn Tùng Linh
- Nguyễn Tuyết Lan
- Nguyễn Tuyết Lộc
- Nguyễn Tư Nghiêm
- Nguyễn Tử Siêm
- Nguyễn Tường Bách
- Nguyễn Tường Thiết
- Nguyễn Tường Thụy
- Nguyễn Ước
- Nguyễn Vạn Phú
- Nguyễn Văn
- Nguyễn Văn Ba
- Nguyễn Văn Chính
- Nguyễn Văn Ðậu
- Nguyễn Văn Dũng
- Nguyễn Văn Đài
- Nguyễn Văn Gia
- Nguyễn Văn Hạnh
- Nguyễn Văn Hiệp
- Nguyễn Văn Hòa
- Nguyễn Văn Hùng
- Nguyễn Văn Huyên
- Nguyễn Văn Lợi
- Nguyễn Văn Lục
- Nguyễn Văn Miếng
- Nguyễn Văn Nghệ
- Nguyễn Văn Nho
- Nguyễn Văn Phong
- Nguyễn Văn Phú
- Nguyễn Văn Phước
- Nguyễn Văn Sâm
- Nguyễn Văn Sơn
- Nguyễn Văn Tao
- Nguyễn Văn Thiệu
- Nguyễn Văn Thọ
- Nguyễn Văn Trọng
- Nguyễn Văn Trung
- Nguyễn Văn Tuấn
- Nguyễn Văn Vĩnh
- Nguyễn Văn Xuân
- Nguyễn Vi Khải
- Nguyễn Vi Yên
- Nguyễn Viện
- Nguyễn Việt Anh
- Nguyễn Việt Chiến
- Nguyễn Viết Lãm
- Nguyễn Vĩnh Nguyên
- Nguyễn Vũ Hiệp
- Nguyễn Vũ Tiềm
- Nguyễn Vỹ
- Nguyễn Vy Khanh
- Nguyễn Xuân Diện
- Nguyễn Xuân Hằng
- Nguyễn Xuân Hoàng
- Nguyễn Xuân Hưng
- Nguyễn Xuân Khánh
- Nguyễn Xuân Khoát
- Nguyễn Xuân Nghĩa
- Nguyễn Xuân Nha
- Nguyễn Xuân Quang
- Nguyễn Xuân Thiệp
- Nguyễn Xuân Thọ
- Nguyễn Xuân Tiệp
- Nguyễn Xuân Tường Vy
- Nguyễn Xuân Xanh
- Nguyễn Ý Thuần
- Nguyên Yên
- Nguyễn-Chương Mt
- Nguyễn-hòa-Trước
- Nguyệt Chu
- Nguyệt Quỳnh
- Nguyệt Vi
- Ngự Thuyết
- Người Buôn Gió
- Ngyễn Trung Bảo
- Nh. Tay Ngàn
- Nhã
- Nhã Ca
- Nhã Duy
- Nhã Thuyên
- Nhan Do Thanh
- Nhân Hồng
- Nhật Chiêu
- Nhật Lệ
- Nhất Linh
- Nhật Tiến
- Nhật Tuấn
- Nhất Uyên
- Nhị Linh
- Nhị Ngã
- Nhóm Vì một Hà Nội xanh
- Như Huy
- Như Không
- Như Quỳnh
- Như Quỳnh de Prelle
- Như Ý
- Nhược Thủy
- Niall Ferguson
- Nick Hilden
- Nicolas Casey
- Nikulin
- Nina McPherson
- Ninh Dương
- Ninh Kiều
- Nobert Hummelt
- Nông Hồng Diệu
- NP Phan
- Obama
- Ocean Vương
- Octavio Paz
- Ogden Nash
- Oksana Zabuzhko
- Oleg Kashin
- Ondrej Slowik
- onggiaolang
- Orlando Figes
- Orwell
- Oscar Salemink
- Oscar Wilde
- Pablo Neruda
- Pablo Picasso
- Palmer
- Patrick Frater
- Patrick Lodge
- Paul Auster
- Paul Celan
- Paul Éluard
- Paul Hoover
- Paul Mendez
- Paul Mozur
- Paul Theroux
- Paul-François Paoli
- Paulus Lê Sơn
- Pavel Basinsky
- Pavlo Vyshebaba
- Paweł Kubiak
- Pawel Kuczynski
- Paweł Łepkowski
- Percy Mabandu
- Pervez Hoodbhoy
- Peter B. Zinoman
- Peter Hansen
- Peter Harvey
- Peter Kleiner
- Peter Singer
- Phạm Anh Tuấn
- Phạm Biểu Tâm
- Phạm Cao Hoàng
- Phạm Châu
- Phạm Chí Dũng
- Phạm Chi Lan
- Phạm Chu Sa
- Phạm Công Luận
- Phạm Công Thiện
- Phạm Công Út
- Phạm Duy
- Phạm Duy Nghĩa
- Phạm Đình Trọng
- Phạm Đình Vy
- Phạm Đoan Trang
- Phạm Hải Anh
- Phạm Hải Âu
- Phạm Hiền Mây
- Phạm Hoàng Quân
- Phạm Hồng Sơn
- Phạm Hùng Việt
- Phạm Huy Thông
- Phạm Khiêm Ích
- Phạm Kiều Tùng
- Phạm Kỳ Đăng
- Phạm Lệ Quyên
- Phạm Lê Vương Các
- Phạm Linh
- Phạm Lưu Vũ
- Phạm Minh Hoàng
- Phạm Minh Ngọc
- Phạm Minh Quân
- Phạm Minh Trung
- Phạm Ngọc Lư
- Phạm Ngọc Thái
- Phạm Ngọc Tiến
- Phạm Nguyên Trường
- Phạm Ngữ
- Phạm Phan Long
- Phạm Phú Cường
- Phạm Phú Hải
- Phạm Phú Minh
- Phạm Phú Phong
- Phạm Phú Thứ
- Phạm Phú Viết
- Phạm Phúc Thịnh
- Phạm Phương
- Phạm Quang Ái
- Phạm Quang Long
- Phạm Quang Trung
- Phạm Quang Tuấn
- Phạm Sỹ Sáu
- Phạm Tăng
- Phạm Thành
- Phạm Thành Hưng
- Phạm Thanh Nghiên
- Phạm Thảo Nguyên
- Phạm Thế Cường
- Phạm Thị
- Phạm Thị Anh Nga
- Phạm Thị Hoài
- Phạm Thị Kiều Ly
- Phạm Thị Ngọc
- Phạm Thị Phương
- Phạm Thiên Ân
- Phạm Thiên Thư
- Phạm Tín An Ninh
- Phạm Toàn
- Phạm Trần
- Phạm Trọng Chánh
- Phạm Trung Nghĩa
- Phạm Tuấn
- Phạm Tư Thanh Thiện
- Phạm Tường Vân
- Phạm Văn
- Phạm Văn Khoái
- Phạm Văn Quang
- Phạm Văn Song
- Phạm Văn Tình
- Phạm Văn Vũ
- Pham Viem Phuong
- Phạm Viêm Phương
- Phạm Viết Đào
- Phạm Việt Hưng
- Phạm Vũ Lửa Hạ
- Phạm Xuân Đài
- Phạm Xuân Hùng
- Phạm Xuân Nguyên
- Phạm Xuân Trường
- Phan An Sa
- Phan Ba
- Phan Bội Châu
- Phan Cẩm Thượng
- Phan Châu Thành
- Phan Cự Đệ
- Phan Đạo
- Phan Đắc Lữ
- Phan Đình Diệu
- Phan Độc Lập
- Phan Hải-Đăng
- Phan Hồng Giang
- Phan Huy Dũng
- Phan Huy Đường
- Phan Huy Lê
- Phan Huyền Thư
- Phan Kế Toại
- Phan Khôi
- Phan Lặng Yên
- Phan Mạnh Quỳnh
- Phan Nam Sinh
- Phan Ngọc
- Phan Nguyên
- Phan Nhật Nam
- Phan Nhiên Hạo
- Phan Ni Tấn
- Phan Phương Đạt
- Phan Quang
- Phan Tấn Hải
- Phan Tấn Uẩn
- Phan Thanh Bình
- Phan Thắng
- Phan Thế Hải
- Phan Thị Hà Dương
- Phan Thị Kim Phúc
- Phan Thị Trọng Tuyển
- Phan Thị Vàng Anh
- Phan Thu Vân
- Phan Thúy Hà
- Phan Trang Hy
- Phan Trí Đỉnh
- Phan Trọng Hoàng Linh
- Phan Văn Giưỡng
- Phan Văn Song
- Phan Văn Thắng
- Phan Vũ
- Phan Xine
- Phan Xuân Sinh
- Phannguyên Psg
- Phanxipăng
- Phaolô VI
- Pháp Hoan
- Pháp Vân
- Phapxa Chan
- Phát biểu nhận giải Văn Việt
- Phil Caputo
- Philip Larkin
- Philip Roth
- Phong Linh
- Phong Nguyen
- Phong Quang
- Phố Văn
- Phú Quang
- Phù Sa
- Phúc Lai GB
- Phúc Tiến
- Phunchok Stobdan
- Phùng Anh Kiệt
- Phùng Hi
- Phùng Hoài Ngọc
- Phùng Học Vinh
- Phùng Ngọc Kiên
- Phùng Nguyễn
- Phùng Quán
- Phùng Thành Chủng
- Phùng Thị Hạ Nguyên
- Phùng Thị Như Hà
- Phuong Ta
- Phương Hương
- Phương Phương
- Phương Thảo
- Phương Thuý
- Phương Uy
- Pierre Darriulat
- Pierre Lemieux
- Prashanth Parameswaran
- Qladimir Pyljow
- Quách Hạo Nhiên
- Quách Tấn
- Quách Thoại
- Quảng Diệu Trần Bảo Toàn
- Quang Dũng
- Quang Đức
- Quang Minh
- Quang Phan
- Quảng Tánh Trần Cầm
- Quậy Nguyễn
- Quế Hương
- Quốc Dũng
- Quốc Phương
- Quốc Toản
- Quyên Di
- Quyên Hoàng
- Quỳnh Iris de Prelle
- Quỳnh Vi
- Rabindranath Tagore
- Rainer Maria Rilke
- Ralph Chaplin
- Rebecca Mead
- Rebecca Solnit
- Reiner Traub
- Remo Verdickt
- Riccardo Gazzaniga
- Richard C. Paddock
- Richard Millet
- Richard Serra
- Robert Desnos
- Robert McCrump
- Roger Vu
- Roland Barthes
- Romain Rolland
- Ronald F. Inglehart
- Ruben David Gonzalez Gallego
- Russell Edson
- Ruth Ingram
- Ryszard Legutko
- Salman Rushdie
- Salvatore Babones
- Sam Dresser
- Sạn chữ
- Sandra Kerschbaumer
- Sara Teasdale
- Sarah Pulliam Bailey
- Sarah Thornton
- Sáu Nghệ
- Sergio Bitar
- Shakespeare
- Shannon Van Sant
- Sheikha A
- Sheila Fischman
- Sheila Ngoc Pham
- Sheri Berman
- Shigeeda Yutaka
- Shirin Ebadi
- Shukshin
- Simon Johnson
- Sire Apm Lukwesa
- Slavoj Žižek
- Sohaniim
- Son Kieu Mai
- Song Chi
- Song Hà
- Song Nguyễn
- Song Phạm
- Song Phan
- Song Thao
- Số đặc biệt
- Sơn Ca
- Sơn Hoàng Liên
- Sơn Kiều Mai
- Sơn Nam
- Stefano Harney
- Stephan Koester
- Stephen B. Young
- Steve Earle
- Susan Sontag
- Suzuki Katsuhiko
- Sương Nguyệt Minh
- Sương Quỳnh
- Svetlana Alexievich
- Svetlana Alexievitch
- Svetlana Alexiévitch
- Sylvia Plath
- T. Đ.
- T.Vấn
- Tạ Anh Thư
- Tạ Chí Đại Trường
- Tạ Duy Anh
- Tạ Tỵ
- Tạ Văn Tài
- Tạ Văn Thông
- Tạ Xuân Hải
- Tadeusz Rósewicz
- Tam Ích
- Tamarchenko
- Tàn Tuyết
- Tanaami Keiichi
- Taras Shevchenko
- Tarik Khaldi
- Tawada Yoko
- Tăng Quang
- Tâm An
- Tâm Chánh
- Tâm Don
- Tâm Thường Định
- Tâm Việt
- Tấn An
- Teolinda Gersão
- Teresa Mỹ Chúc
- Thạch Đạt Lang
- Thạch Quỳ
- Thạch Thảo
- Thái Bá Tân
- Thái Bá Vân
- Thái Bảo
- Thái Hà
- Thái Hạo
- Thái Kế Toại
- Thái Kim Lan
- Thái Ngọc San
- Thái Sinh
- Thái Thanh
- Thái Thăng Long
- Thái Tuấn
- Thái Văn
- Thái Văn Đào
- Thái Vũ
- Thạnh Đà
- Thanh Hằng - Anh Khoa
- Thành Lộc
- Thanh Nam
- Thanh Ngọc
- Thanh Phương
- Thanh Tâm Tuyền
- Thanh Thảo
- Thanh Thuỷ
- Thanh Trúc
- Thanh Tùng
- Thanh Xuân
- Thanhhà Lại
- Thảo Dân
- Thao Dinh
- Thảo luận
- Thảo Nguyên
- Thảo Trường
- Thảo Vy
- Thẩm Đống
- Thận Nhiên
- Thân Trọng Mẫn
- Thân Trọng Sơn
- Thế Dũng
- Thế Giang
- Thế Quân
- THẾ THANH
- Thế Uyên
- Thi Hoàng
- Thi Nguyên
- Thi sỹ ỦA
- Thi Vũ
- Thích Nhất Hạnh
- Thích Nữ Chân Không
- Thích Phước An
- Thierry Leclère
- Thierry Lentz
- Thiên Di
- Thiên Điểu
- Thiền Lâm
- Thiền Nguyễn
- Thiên Thai
- Thiện Tùng
- Thiện Ý
- Thiết Thạch
- Thiếu Khanh
- Thiều Mai Lâm
- Tho Nguyen
- Thomas A. Bass
- Thomas Bo Pedersen
- Thomas Mahler
- Thomas S. Mullaney
- Thông Đặng
- Thơ
- Thu Phong
- Thu Vàng
- Thuận
- Thuần Ngô
- Thuận Paris
- Thuận Thiên
- Thục Quyên
- Thụy An
- Thùy Dung
- Thụy Khuê
- Thùy Linh
- Thụy My
- Thủy Tiên
- Thư Bạn Đọc
- Thường Quán
- Thy An
- Tịch Ru
- Tiet Hung Thai
- Tiêu Dao Bảo Cự
- Tiêu Kiện Sinh
- Tiểu Tử
- Tillman Miller
- Timothy Brennan
- Timothy Garton Ash
- Timothy Snyder
- Tina Hà Giang
- Tomas Tranströmer
- Tô Đăng Khoa
- Tô Hải
- Tô Hoàng
- Tố Hữu
- Tô Lan Hương
- Tô Ngọc Vân
- Tô Thẩm Huy
- Tô Thùy Yên
- Tô Văn Trường
- Tôi Đây
- Tôn Thất Thông
- Tống Văn Công
- Trà Đóa
- Trà Nhiên
- Tracy K. Smith
- Tran Dinh Dung
- Tran Nam Dung
- Trang Châu
- Trang Hạ
- Trang Thanh
- Trang Thế Hy
- Trangđài Glassey Trầnguyễn
- Trangđài Glasssey-Trầnguyễn
- Trao đổi
- Trầm Tử Thiêng
- Trần Anh Hùng
- Trần Bá Đại Dương
- Trần Bang
- Trần Bình Nam
- Trần C. Trí
- Trần Cao Lĩnh
- Trần Cao Tường
- Trần Công Tâm
- Trần Công Tín
- Trần Dạ Từ
- Trần Dần
- Trần Doãn Nho
- Trần Dũng Thanh Huy
- Trần Duy
- Trần Duy Phiên
- Trần Duy Trung
- Trần Đăng Khoa
- Trần Đăng Tuấn
- Trần Đĩnh
- Trần Đình Bút
- Trần Đình Hoành
- Trần Đình Lương
- Trần Đình Sơn Cước
- Trần Đình Sử
- Trần Đình Triển
- Trần Đình Trợ
- Trần Độ
- Trần Đồng Minh
- Trần Đức Anh Sơn
- Trần Đức Thảo
- Trần Đức Tiến
- Trần Đức Tín
- Trần Đức Toản
- Trần Gia Huấn
- Trần Gia Ninh
- Trần Hà Linh
- Trần Hạ Tháp
- Trần Hạ Vi
- Trần Hải
- Trần Hạnh
- Trần Hậu
- Trần Hoài Anh
- Trần Hoài Thư
- Trần Hoàng Phố
- Trần Hoàng Trúc
- Trần Hoàng Vy
- Trần Hùng
- Trần Huy Bích
- Trần Huy Minh Phương
- Trần Huy Quang
- Trần Huỳnh Duy Thức
- Trần Hữu Dũng
- Trần Hữu Khánh
- Trần Hữu Quang
- Trần Hữu Tá
- Trần Hữu Thục
- Trần Khánh Triệu
- Trần Kiêm Đoàn
- Trần Kiêm Trinh Tiên
- Trần Kim Trắc
- Trần Kỳ Trung
- Trần Lam
- Trần Lê Sơn Ý
- Trần Lương
- Trần Lý Trí Tân
- Trần Mạnh Hảo
- Trần Mạnh Tuấn
- Trần Minh Phi
- Trần Minh Quốc
- Trần Mộng Tú
- Trần Nam Bình
- Trần Ngân Hà
- Trần Nghi Hoàng
- Trần Ngọc Cư
- Trần Ngọc Hiếu
- Trần Ngọc Tuấn
- Trần Ngọc Vương
- Trần Nguyên Đán
- Trần Nhã Thụy
- Trần Nhương
- Trần Phong Giao
- Trần Phong Vũ
- Trần Quang Đức
- Trần Quang Lộc
- Trần Quốc Nam
- Trần Quốc Thuận
- Trần Quốc Toàn
- Trần Quốc Trọng
- Trần Quốc Vượng
- Trần Quyết Thắng
- Trân Sa
- Trần Song Hào
- Trần Thành
- Trần Thanh Ái
- Trần Thanh Cảnh
- Trần Thanh Huy
- Trần Thanh Vân
- Trần Thắng
- Trần Thế Vĩnh
- Trần Thị Băng Thanh
- Trần Thị Diệu Tâm
- Trần Thị Lai Hồng
- Trần Thị Lam
- Trần Thị NgH.
- Trần Thị Nguyệt Mai
- Trần Thị Phương Phương
- Trần Thị Thanh Thoả
- Trần Thị Trường
- Trần Thiện Đạo
- Trần Thùy Mai
- Trần Tiến
- Trần Tiễn Cao Đăng
- Trần Tiến Dũng
- Trần Tiễn Khanh
- Trần Tố Nga
- Trần Trọng Dương
- Trần Trọng Thức
- Trần Trọng Vũ
- Trần Trung Chính
- Trần Trung Đạo
- Trần Tuấn
- Trần Từ Mai
- Trần Vàng Sao
- Trần Văn Chánh
- Trần Văn Đỉnh
- Trần Văn Khê
- Trần Văn Minh
- Trần Văn Nam
- Trần Văn Thọ
- Trần Văn Thủy
- Trần Văn Tý
- Trần Vấn Lệ
- Trần Việt Hà
- Trần Viết Ngạc
- Trần Vinh Dự
- Trần Vũ
- Trần Vũ Hải
- Trần Vương Thuấn
- Trần Vương Thuận
- Trần Wũ Khang
- Trần Xuân Hoài
- Trần Xuân Linh
- Trần Xuân Lĩnh
- Trần Xuân Thảo
- Trần Yên Hòa
- Trần Yên Nguyên
- Trên
- Trên Facebook
- Trên Facebook/Minds
- Trên kệ sách
- Trên trang diaCRITICS
- Trí Hiệu Dân
- Triều Anh
- Triều Hoa Đại
- Triêu Nhan
- Triều Sơn
- Triệu Tử Dương
- Trịnh Anh Tuấn
- Trịnh Bá Phương
- Trịnh Bách
- Trịnh Cao Hòa Thanh
- Trịnh Chu
- Trịnh Công Sơn
- Trịnh Cung
- Trịnh Duy Kỳ
- Trịnh Hữu Long
- Trịnh Kim Tiến
- Trịnh Lữ
- Trịnh Minh Tuấn
- Trịnh Sơn
- Trịnh Thanh Thủy
- Trịnh Thu Tuyết
- Trịnh Vĩnh Phúc
- Trịnh Xuân Thuận
- Trịnh Xuân Thủy
- Trịnh Y Thư
- Trọng Anh
- Trọng Phú
- Trọng Thành
- Tru Sa
- Trúc Giang
- Trúc Thông
- Trúc Ty
- Trump
- Trung Bảo
- Trung Dũng Kqd
- Trùng Dương
- Trung Trung Đỉnh
- Trư Sa
- Trường An
- Trương Anh Ngọc
- Trương Anh Thụy
- Trương Chính
- Trương Duy Nhất
- Trương Đăng Dung
- Trương Điện Thắng
- Trương Đình Phượng
- Trương Hồng Quang
- Trương Huy San
- Trường Minh
- Trương Ngọc Chương
- Trương Nguyên
- Trương Nguyện Thành
- Trương Nhân Tuấn
- Trương Phượng
- Trương Quang
- Trương Quang Đệ
- Trương Quang Nhuệ
- Trương Quang Vĩnh
- Trương Thị Ngọc Hân
- Trương Thiên Phàm
- Trương Thu Hiền
- Trương Tố Hoa
- Trương Trọng Nghĩa
- Trương Tửu
- Trương Văn Dân
- Trương Văn Vĩnh
- Trương Vũ
- Trương Xuân Thiên
- Tú Mỡ
- Tù Quốc Hoài
- Tù Sâm
- Tú Trung Hồ
- Tuấn Duy
- Tuấn Khanh
- Tuân Nguyễn
- Tuấn Thảo
- Tuệ Anh
- Tuệ Đăng
- Tuệ Nguyên
- Tuệ Nhân
- Tuệ Nhật
- Tuệ Sĩ
- Tuệ Sỹ
- Tùng Dương Cola
- Tung Nguyen
- Turner
- Túy Hồng
- Tuyết Nghi
- Tư
- Từ Dung
- Tư liệu
- Tử Linh
- Từ Mai Trần Huy Bích
- Từ Quốc Hoài
- Từ Sâm
- Từ Thức
- Tưởng
- Tương Lai
- Umberto Eco
- Uông Tăng Kỳ
- Uông Triều
- Uyển Ca
- Uyên Nguyễn
- Uyên Thao
- Uyên Vũ
- V. Erofiev
- Vàng A Giang
- Varlam Shalamov
- Vasco Gargalo
- Vasily Makarovich
- Văn
- Văn Biển
- Văn Cao
- Văn Chinh
- Văn Công Hùng
- Văn Giá
- Văn học
- Văn học Miền Nam 54-75
- Văn Như Cương
- Văn Quang
- Văn Tâm
- Văn Việt
- Văn.
- Vấn đề hôm nay
- Vận Động Ứng Cử Đại Biểu Quốc Hội 2016
- Vân Hạ
- Vân Phi
- Velcrow Ripper
- Veronica Melkozerova
- Vi Lãng
- Vi Trần
- Vi Yên
- Viet Thanh Nguyen
- Viên Linh
- Việt Bách
- Việt Bình
- Việt Dzũng
- Việt Khang
- Việt Lang
- Việt Phương
- Viktor Maslov
- Vinh Anh
- Vĩnh Hảo
- Vĩnh Quyền
- Virginia Heffernan
- Virginia Woolf
- Vladimir Nabokov
- Võ An Đôn
- Võ Anh Minh
- Võ Anh Thơ
- Võ Bá Cường
- Võ Đắc Danh
- Võ Định Hình
- Võ Đức Phúc
- Võ Hồng
- Võ Huy Tâm
- Võ Hương Quỳnh
- Võ Kỳ Điền
- Võ Ngàn Sông
- Võ Phiến
- Võ Thị Hảo
- Võ Thị Thu Hằng
- Võ Tiến Cường
- Võ Tòng Xuân
- Võ Trí Hảo
- Võ Văn Quản
- Võ Văn Tạo
- Võ Văn Thôn
- Võ Xuân Quế
- Võ Xuân Sơn
- Volker Weidermann
- Volodymyr Vynnychenko
- Volodymyr Zelenskyy
- Vũ Bằng
- Vũ Biện Điền
- Vũ Cao Đàm
- Vũ Cát Tường
- Vũ Đình Hòe
- Vũ Đình Huỳnh
- Vũ Đình Liên
- Vũ Đình Phòng
- Vũ Đức Khanh
- Vũ Đức Phúc
- Vũ Đức Sao Biển
- Vu Gia
- Vũ Hà Văn
- Vũ Hạnh
- Vũ Hoàng Chương
- Vũ Hoàng Thư
- Vũ Hồng Ánh
- Vũ Huy Ngọc
- Vũ Huy Quang
- Vũ Khắc Hoè
- Vũ Khắc Khoan
- Vũ Kim Hạnh
- Vũ Kim Thu
- Vũ Lâm
- Vũ Lập Nhật
- Vũ My Lan
- Vũ Ngọc Giao
- Vũ Ngọc Hoàng
- Vũ Ngọc Tâm
- Vũ Ngọc Tiến
- Vũ Nho
- Vũ Oanh
- Vũ Quang Việt
- Vũ Quí Hạo Nhiên
- Vũ Quốc Ngữ
- Vũ Quỳnh Hương
- Vũ Quỳnh Nh.
- Vũ Thành Sơn
- Vũ Thanh Tâm
- Vũ Thanh Tùng
- Vũ Thành Tự Anh
- Vũ Thế Khôi
- Vũ Thị Hải
- Vũ Thị Nhuận
- Vũ Thị Phương Anh
- Vũ Thị Phương Lan
- Vũ Thị Thanh
- Vũ Thị Thanh Mai
- Vũ Thư Hiên
- Vũ Tiến Lập
- Vũ Trọng Khải
- Vũ Tuấn Hoàng
- Vũ Từ Trang
- Vũ Tường
- Vũ Viết Tuân
- Vũ Xuân Tửu
- Vương Bích Ngọc
- Vương Đan
- Vương Huy
- Vương Ngọc Minh
- Vương Tiểu Nhị
- Vương Trí Nhàn
- Vương Trọng
- Vương Trùng Dương
- Vương Trung Hiếu
- Vy Thảo
- W. H. Auden
- Wa Praong
- Walt Whitman
- Walter Isaacson
- Wayne Karlin
- Wells
- Wendy Barker
- Wilhelm Schmid
- Will Nguyen
- William Carlos Williams
- William Nee
- William Stafford
- William Stanley Merwin
- Winston Phan Đào Nguyên
- Wislawa Szymborska
- Wolf Biermann
- Wolfgang Borchert
- Wynn Gadkar Wilcox
- Xie Tao
- Xuân Ba
- Xuân Diệu
- Xuân Dương
- Xuân Đài
- Xuân Minh
- Xuân Phượng
- Xuân Sách
- Xuân Thọ
- Xuân Vũ
- Xương Văn
- Y Chan
- Ý Nhi
- Y Uyên
- Yanis Varoufakis
- Yevgeny Yevtushenko
- Yên Ba
- Yên Khắc Chính
- Yến Năng
- Yên San
- Yên San Thụy Miên
- Yiyun Li
- Yoko Ogawa
- Yōko Ogawa
- Yoko Tawada
- Young Sang Lee
- Yuliya Ilchuk
- Yuno Bigboi
- Yves Sintomer
- Yvette Tan
- Zac Herman
Hiến pháp vi hiến
Hoàng Xuân Phú
pháp vi hiến
quyền bất chính
Một hành vi hay văn bản được coi là vi phạm hiến pháp, gọi tắt là vi hiến, nếu nó vi phạm một quy định nào đó trong hiến pháp.
Văn bản pháp luật vi hiến thì không hiếm. Nhưng hiến pháp mà cũng vi hiến thì hiếm hoi đến mức có thể coi là “đặc sản” của chế độ. Tiếc rằng, Hiến pháp 2013 – do Quốc hội khóa XIII thông qua ngày 28 tháng 11 năm 2013 – lại thuộc loại ấy. Chúng ta hãy cùng nhau phân tích mấy điều khoản vi hiến để làm sáng tỏ nhận định này.
Vì mọi điều khoản trong một bản hiến pháp đều được xem là “chuẩn mực”, nên khi hai nội dung mâu thuẫn với nhau thì có thể dùng điều này phủ định điều kia và ngược lại, để cuối cùng thì cả hai đều trở thành vi hiến. Tuy nhiên, ta sẽ không phủ định triệt để cả hai, mà “tha” cho điều khoản có vị thế ưu tiên hơn trong hiến pháp, và dùng nó để đánh giá những điều khoản khác. Vậy căn cứ vào đâu để xác định vị thế ưu tiên trong hiến pháp? Theo tư duy của các nhà lập hiến, chắc hẳn Chương I có vị thế ưu tiên nhất, và Chương II có vị thế ưu tiên hơn (tức là quan trọng hơn) so với các chương sau. Trong nội bộ một chương, điều được đặt lên trước có lẽ cũng được coi là quan trọng hơn điều bị đặt ở phía sau.
Để chứng minh một điều khoản nào đó của Hiến pháp 2013 là vi hiến, ngoài những quy tắc suy luận lô-gích tối thiểu, ta sẽ chỉ dựa vào bản thân Hiến pháp để lập luận. Kể cả khi trích dẫn Hiến chương Liên hợp quốc hay Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền 1948, thì không có nghĩa là viện dẫn văn bản ngoại lai, mà chỉ nhằm khẳng định đối tượng đang được khảo sát vi phạm Điều 12 Hiến pháp 2013, cam kết rằng:
“Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam… tuân thủ Hiến chương Liên hợp quốc và điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.”
Bài này được chia thành 5 phần như sau:
Phần 1 (Bớt xén quyền con người) phân tích tính vi hiến của Điều 14 Hiến pháp 2013, quy định rằng “các quyền con người… được công nhận… theo Hiến pháp và pháp luật”.
Phần 2 (Ép thầy tu cầm súng) bàn về tính vi hiến của Điều 45 Hiến pháp 2013, quy định rằng “công dân phải thực hiện nghĩa vụ quân sự”.
Phần 3 (Bắt người dưng thờ phụng) chỉ ra sự vi hiến của Điều 65 Hiến pháp 2013, đòi hỏi “Lực lượng vũ trang nhân dân tuyệt đối trung thành… với Đảng… bảo vệ… Đảng… và chế độ xã hội chủ nghĩa… thực hiện nghĩa vụ quốc tế”.
Phần 4 (Tước đoạt quyền sở hữu) chứng minh sự vi hiến của Điều 53 Hiến pháp 2013, quy định rằng “Đất đai… là tài sản công thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý”.
Phần 5 (Chiếm quyền lực Nhân dân) vạch ra tính vi hiến của Điều 4 Hiến pháp 2013, mặc định rằng “Đảng Cộng sản Việt Nam… là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội”, và tính vi hiến của Điều 9 Hiến pháp 2013, ấn định rằng “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân; đại diện… quyền… của Nhân dân”.
Để tránh hiểu lầm là sự vi hiến của Hiến pháp 2013 chỉ dừng lại ở 6 điều khoản kể trên, đoạn kết của bài này đề cập thêm một ví dụ vi hiến, đó là Điều 10 Hiến pháp 2013, quy định rằng “Công đoàn Việt Nam là tổ chức chính trị – xã hội của giai cấp công nhân và của người lao động… đại diện cho người lao động… bảo vệ quyền, lợi ích… của người lao động”.
Ba trong số bảy nội dung vi hiến kể trên đã được góp ý và bị phê phán rất nhiều trong quá trình thảo luận Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992. Song nhà cầm quyền vẫn bất chấp, cố bám giữ bằng được. Khi tranh luận về bản Dự thảo, cả hai phía đều dựa chủ yếu vào quan điểm nhận thức để bảo vệ hay bác bỏ. Lập trường quá khác nhau, nên khó tránh khỏi quá đà, lắm lúc còn nặng lời thóa mạ. Và như một bản năng, mỗi lần đuối lý, thì bộ máy lý luận và tuyên truyền của nhà cầm quyền lại thường quy chụp những ý kiến trái chiều là thù địch hay phản động. Bây giờ, trong bài viết này, mọi lập luận chỉ đơn thuần dựa trên Hiến pháp 2013. Cho nên, nếu vẫn cố quy chụp các kết luận được rút ra ở đây là phản động, thì chẳng khác gì coi Hiến pháp của chế độ đương thời là phản động.
1. Bớt xén quyền con người
Khoản 1 Điều 14 của Hiến pháp 2013 viết rằng:
“Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật.”
Đây là một điều khoản vi hiến rất tinh vi, bởi vì chất vi hiến ẩn khuất trong một mệnh đề được viết gián đoạn: “Các quyền con người… được công nhận… theo Hiến pháp và pháp luật”. Điều đó cũng có nghĩa là: Các quyền con người chỉ được công nhận theo Hiến pháp và pháp luật. Nếu quyền con người nào không hoặc chưa được Hiến pháp và pháp luật công nhận đích danh, thì không hoặc chưa được thừa nhận.
Để chứng minh nhận định trên, ta cần chỉ ra rằng cụm từ “theo Hiến pháp và pháp luật” được gắn với cả bốn động từ trong cái mớ lòng thòng “được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm”. Thật vậy, giả sử cụm từ “theo Hiến pháp và pháp luật” chỉ gắn với động từ cuối cùng là “đảm bảo”, thì phần còn lại (trước đó) sẽ chứa đựng nội dung (hoàn chỉnh) là:
“Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người được công nhận, tôn trọng, bảo vệ.”
Câu này ở thể bị động, nhằm hiến định nghĩa vụ của Nhà nước. Khi chuyển sang thể chủ động, ta thu được mệnh đề:
“Nhà nước công nhận, tôn trọng, bảo vệ các quyền con người.”
Song nội dung này đã có trong Điều 3 Hiến pháp 2013, viết rằng:
“Nhà nước bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân; công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân.”
Vậy thì việc gì phải nhắc lại nó một lần nữa ở Điều 14?
Lập luận vừa rồi có lẽ chưa đủ để chứng minh nhận định trên, bởi vì viết trùng lặp là một căn bệnh của Hiến pháp 2013. Cho nên, cần viện dẫn thêm cả Hiến pháp 1992, trong đó quy định rằng:
“Điều 50 Ở nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hoá và xã hội được tôn trọng, thể hiện ở các quyền công dân và được quy định trong Hiến pháp và luật.”
“Điều 51 … Quyền và nghĩa vụ của công dân do Hiến pháp và luật quy định.”
Rõ ràng, Hiến pháp 1992 nhấn mạnh đến hai lần, rằng “các quyền con người… được… thể hiện ở các quyền công dân và được quy định trong Hiến pháp và luật“ và “quyền… của công dân do Hiến pháp và luật quy định“. Hệ quả pháp lý là: Những quyền nào không “được quy định trong Hiến pháp và luật” thì không được nhà cầm quyền thừa nhận. Hơn thế nữa, vì “các quyền con người” chỉ “được… thể hiện ở các quyền công dân”, nên Hiến pháp 1992 không thừa nhận quyền con người của những người Việt bị mất quyền công dân (chẳng hạn trong thời gian chấp hành án tù giam) và của những người nước ngoài đang có mặt ở Việt Nam (do họ không phải là công dân Việt Nam).
Vì Hiến pháp 2013 “kế thừa” Hiến pháp 1992, như được khẳng định trong Lời nói đầu, nên ý “quyền con người được công nhận theo Hiến pháp và pháp luật” tại Điều 14 Hiến pháp 2013 là kế thừa của ý “quyền công dân được quy định trong Hiến pháp và luật” tại Điều 50 và Điều 51 của Hiến pháp 1992 mà thôi.
Suốt mấy chục năm qua, nhà cầm quyền luôn dị ứng với khái niệm “quyền con người”, coi “nhân quyền” như một thứ xấu xa, cấm kỵ. Mặc dù đó là những quyền hiển nhiên được Tạo hóa ban cho mọi người sinh ra trên Trái đất, như đã được trích dẫn trong “Tuyên ngôn độc lập” khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Không thể phủ định được mãi, giờ đây họ buộc phải “chấp nhận khái niệm quyền con người” trong Hiến pháp 2013. Để tiệm cận được cái chân lý quá hiển nhiên ấy, giới cầm quyền phải vật lộn rất vất vả với chính bản thân mình, đến mức cho rằng cú nhích quá muộn màng đó là “một bước tiến rất lớn”, như đã thể hiện trong lời phát biểu của ông Phan Trung Lý, Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật của Quốc hội khóa XIII và Trưởng Ban Biên tập Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992:
Cần phải lưu ý rằng: Đại từ nhân xưng “Chúng ta” chỉ đúng với ngữ cảnh tâm sự trong nội bộ giới cầm quyền. Còn khi họp báo, nghĩa là nói với “người ngoài”, thì ông Lý nên xưng “Chúng tôi” cho chính xác. Bởi vì đối với quảng đại Nhân dân thì quyền con người là một khái niệm hiển nhiên, đến mức… phải ngạc nhiên: Tại sao họ lại “chậm hiểu” đến như vậy? “Chậm” thì sao không tránh sang một bên, để rộng đường cho Nhân dân đi tới tương lai?
Qua khẳng định của ông Trưởng Ban Biên tập Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992, ta thấy rõ rằng nhà cầm quyền vẫn chưa chịu thừa nhận quyền con người một cách đầy đủ, mà mới chỉ dừng lại ở mức “thể hiện quyền con người trong hiến pháp bằng những quy định cụ thể”. Sao lại ì ạch, khó nhọc đến như vậy? Làm hiến pháp, làm luật, thì phải hiểu được kiến thức sơ đẳng là: Dù muốn thì cũng không thể quy định hay liệt kê hết thảy mọi thứ trong hiến pháp, pháp luật, và nếu điều gì không được liệt kê thì không có nghĩa là nó bị phủ nhận. Để tránh hiểu lầm, 222 năm trước các nhà lập hiến Mỹ đã bổ sung thêm điều sau đây vào Hiến pháp Mỹ:
“Việc liệt kê một số quyền trong Hiến pháp không có nghĩa là phủ nhận hay hạ thấp những quyền khác của người dân.” (Tu chính IX)
Quyền công dân có thể mang tính đặc thù của từng quốc gia, nhưng quyền con người thì mang tính phổ quát trên toàn thế giới, chứ không phải là thứ do nhà cầm quyền của từng nước ban phát. Bình thường thì Nhà nước phải thừa nhận tất cả các quyền con người, cho dù các quyền đó có được đề cập cụ thể trong Hiến pháp và pháp luật hay không. Quyền con người được đề cập trong Điều 3 Hiến pháp 2013 phải mang ý nghĩa như vậy. Do đó, việc Khoản 1 Điều 14 Hiến pháp 2013 hạn chế quyền con người, chỉ “công nhận… theo Hiến pháp và pháp luật”, là vi phạm Điều 3 Hiến pháp 2013.
Điều 56 Hiến chương Liên hợp quốc đòi hỏi:
“Tất cả thành viên cam kết bằng các hành động chung hoặc riêng trong sự nghiệp hợp tác với Liên hợp quốc để đạt được những mục đích ở Điều 55.”
Trong số các mục đích được nêu ở Điều 55 có:
“Tôn trọng và tuân thủ triệt để các quyền con người và các quyền tự do cơ bản của tất cả mọi người không phân biệt chủng tộc, giới tính, ngôn ngữ hay tôn giáo.”
Điều 1 Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền khẳng định:
“Mọi người sinh ra đều được tự do và bình đẳng về nhân phẩm và các quyền.”
Rõ ràng, việc Khoản 1 Điều 14 Hiến pháp 2013 hạn chế quyền con người ở Việt Nam là vi phạm nguyên tắc “các quyền con người… không phân biệt chủng tộc” và “mọi người sinh ra đều… bình đẳng về… các quyền”.
Trong số các quyền con người chưa được nhà cầm quyền Việt Nam “công nhận… theo Hiến pháp và pháp luật” có quyền “tự do tư tưởng”. Vậy là vi phạm Điều 18 Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền:
“Mọi người có quyền tự do tư tưởng, lương tâm và tôn giáo.”
Đó là một quyền rất cơ bản, là tiền đề của nhiều quyền tự do khác. Bởi lẽ, nếu không có quyền “tự do tư tưởng”, tức là “tự do nghĩ khác”, thì cái gọi là “tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình” cũng chỉ là một thứ “tự do nô lệ”, “tự do phụ họa”, dành riêng cho những ai chỉ biết ca ngợi nhà cầm quyền và “ngân nga” tư tưởng được coi là chính thống mà thôi. Đúng như Rosa Luxemburg (1871-1919) – nhà lý luận Mác-xít tiền bối bậc thầy của những người cộng sản Việt Nam – đã viết trong tác phẩm “Về cách mạng Nga” (Zur russischen Revolution – Xuất bản lần đầu vào năm 1922, bàn về cuộc cách mạng của những người cộng sản Nga, tạo dựng ra chế độ Liên bang Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô viết):
“Tự do mà lại chỉ dành cho những người ủng hộ chính phủ, chỉ dành cho các đảng viên của một đảng – dù họ đông bao nhiêu đi nữa – thì đó không phải là tự do. Tự do luôn chỉ là tự do của những người nghĩ khác.”
Đáng lưu ý là: Trong Hiến pháp 2013, một số quyền con người bị hạn chế bằng cách chỉ được thể hiện dưới dạng quyền công dân, ví dụ như:
“Công dân có quyền tự do đi lại và cư trú ở trong nước, có quyền ra nước ngoài và từ nước ngoài về nước.” (Điều 23)
“Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình.” (Điều 25)
Hệ quả pháp lý là: Theo Khoản 1 Điều 14 thì những quyền này chỉ còn là quyền công dân, không được công nhận là quyền con người, nên những người không mang quốc tịch Việt Nam không được hưởng trên đất Việt Nam. Chẳng hạn, người gốc Việt mang quốc tịch nước ngoài có thể không được về quê hương Việt Nam, hay khi đang ở trên đất Việt Nam thì người nước ngoài không có các quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình. Như vậy là vi phạm ba điều khoản sau đây của Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền:
“Mọi người đều có quyền rời khỏi lãnh thổ bất kỳ nước nào, kể cả nước của mình, và quyền trở về xứ sở.” (Điều 13)
“Mọi người đều có quyền tự do ngôn luận và bày tỏ quan điểm; quyền này bao gồm cả tự do quan điểm mà không bị can thiệp và được tự do tìm kiếm, thu nhận và quảng bá tin tức và tư tưởng qua mọi phương tiện truyền thông bất kể biên giới.” (Điều 19)
“Mọi người đều có quyền tự do hội họp và lập hội một cách ôn hòa.” (Điều 20)
Với các chứng cứ kể trên, ta có thể khẳng định rằng Khoản 1 Điều 14 Hiến pháp 2013 vi phạm Điều 12 Hiến pháp 2013, trong đó cam kết “tuân thủ Hiến chương Liên hợp quốc và điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên”.
Tóm lại, Điều 14 Hiến pháp 2013 là vi hiến, vì nó mẫu thuẫn với Điều 3 và Điều 12, tức là vi phạm hai điều có vị thế ưu tiên hơn nó trong cùng Hiến pháp.
Sự vi hiến này không phải là vô tình, mà là sản phẩm truyền thống của “hội chứng ban phép”, tức là lối tư duy thống trị, cho rằng người dân chỉ được làm và chỉ được hưởng những thứ mà nhà cầm quyền cho phép. Nó xuất phát từ ngộ nhận, cho rằng thế lực cầm quyền “cao hơn hẳn” tất thảy Nhân dân và có “quyền sinh quyền sát” đối với cộng đồng Nhân dân. Đó là một căn bệnh trầm kha, đã trói buộc Nhân dân ta và cản trở sự phát triển của Dân tộc ta suốt mấy chục năm qua, biến Dân ta thành một thứ “nô lệ tư duy”. Cái gọi là “đổi mới” (được tiến hành từ những năm 80 của thế kỷ 20) chẳng qua là nhà cầm quyền chịu “cởi trói”, nói đúng hơn là “nới trói”, trả lại cho Dân một phần quyền sinh sống và làm ăn tự do vốn có tự bao đời. Cho nên, nếu muốn thực sự giải phóng Nhân dân, giải phóng Dân tộc khỏi xiềng xích, thì phải cương quyết triệt xóa “hội chứng ban phép” này.
2. Ép thầy tu cầm súng
Điều 45 Hiến pháp 2013 quy định:
“Công dân phải thực hiện nghĩa vụ quân sự…”
Nghĩa vụ này được cụ thể hóa trong Luật nghĩa vụ quân sự như sau:
“Điều 3 Công dân nam giới, không phân biệt dân tộc, thành phần xã hội, tín ngưỡng tôn giáo, trình độ văn hoá, nghề nghiệp, nơi cư trú, có nghĩa vụ phục vụ tại ngũ trong Quân đội nhân dân Việt Nam.“
Khi phục vụ tại ngũ trong quân đội thì phải luyện tập giết kẻ thù, và trong hoàn cảnh cần thiết thì cũng phải giết kẻ thù. Mà kẻ thù, dù xấu xa, phi nghĩa đến đâu, thì cũng là con người. Vì vậy, bắt cả những người có tín ngưỡng tương tự như “Ngũ giới” của Phật tử phải “thực hiện nghĩa vụ quân sự” tức là bắt họ phải tham gia “sát sinh”, là vi phạm “quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo” của họ. Rõ ràng, Điều 45 vi phạm Điều 24 Hiến pháp 2013, hiến định rằng:
“1. Mọi người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo bình đẳng trước pháp luật.
2. Nhà nước tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo.
3. Không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để vi phạm pháp luật.“
Lý lẽ trên đơn giản và hiển nhiên đến mức không thể né tránh câu hỏi: Chẳng nhẽ Quốc hội không có ai thực sự hiểu và bảo vệ tín ngưỡng, tôn giáo hay sao? Các đại biểu “vô thần” không hiểu tín ngưỡng đã đành, chẳng nhẽ các đại biểu mặc áo cà sa cũng không hiểu nốt?
Hay họ hiểu cả, nhưng chỉ định đưa “quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo” vào Hiến pháp để cùng với các quyền tự do báo chí, lập hội, biểu tình… hóa trang dân chủ cho chế độ, chứ chẳng hề có ý định tôn trọng các quyền đó? Nghi ngờ này đã được xác nhận quá nhiều lần trên thực tế, và nay lại được củng cố thêm bởi Khoản 3 của Điều 24 Hiến pháp 2013, quy định rằng “không ai được… lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để vi phạm pháp luật”. Xét về mặt pháp lý, khoản cấm này là hoàn toàn thừa, vì đã có quy định tổng quát tại Điều 46 Hiến pháp 2013 là “công dân có nghĩa vụ tuân theo Hiến pháp và pháp luật”, và hệ quả hiển nhiên là “không ai được vi phạm pháp luật”, bất luận vì lý do gì, cho dù lợi dụng hay không lợi dụng một quyền nào đó. Cho nên, có lẽ vai trò của khoản cấm “lợi dụng” chỉ là tạo cớ để khước từ hay hạn chế “quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo”, như đã trao đổi trong bài “Teo dần quyền con người trong Hiến pháp”.
Nếu thực tâm tôn trọng “quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo”, thì các nhà lập hiến CHXHCN Việt Nam nên thay Khoản 3 của Điều 24 Hiến pháp 2013 bằng Khoản 3 của điều sau đây trong Hiến pháp CHLB Đức (Grundgesetz für die Bundesrepublik Deutschland):
(1) Tự do tín ngưỡng, tự do lương tâm và tự do biểu lộ tôn giáo và thế giới quan là bất khả xâm phạm.
(2) Việc thực thi tôn giáo mà không bị quấy rối được bảo đảm.
(3) Không ai có thể bị ép buộc cầm súng phục vụ chiến tranh trái với lương tâm của bản thân. Chi tiết được quy định trong một luật của Liên bang.”
Khoản 3 này đã được đưa vào Hiến pháp CHLB Đức từ năm 1949, cách nay đã hơn 60 năm. Qua đó có thể thấy tư duy pháp luật và ý thức coi trọng quyền con người của giới cầm quyền Việt Nam tụt hậu đến mức nào.
Trên phạm vi quốc tế, Nghị quyết 1995/83 (ban hành ngày 08/03/1995) của Ủy ban Nhân quyền Liên Hợp Quốc (The United Nations Commission on Human Rights, CHR) đã khẳng định:
“Quyền từ chối phục vụ trong quân đội của mỗi người vì lý do lương tâm là thể hiện hợp pháp của quyền tự do tư tưởng, lương tâm và tôn giáo.”
Và còn nhấn mạnh rằng quyền đó dựa trên Điều 18 Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền của Liên Hợp Quốc (mà Việt Nam là thành viên từ 20/09/1977) và Điều 18 Công ước Quốc tế về các Quyền Dân sự và Chính trị (International Covenant on Civil and Political Rights, mà Việt Nam gia nhập vào ngày 24/09/1982). Nội dung này cũng được tái khẳng định trong một số văn kiện khác của CHR, ví dụ như Nghị quyết 1998/77 (ban hành ngày 22/04/1998) và Nghị quyết 2004/35 (ban hành ngày 19/04/2004).
Mới trúng cử vào Hội đồng Nhân quyền Liên Hợp Quốc (The United Nations Human Rights Council, HRC) nhiệm kỳ 2014-2016, nhà cầm quyền Việt Nam không thể phớt lờ các nghị quyết kể trên của CHR (nay được thay thế bởi HRC), và bỏ qua những cam kết khi ra ứng cử. Vậy mà 15 ngày sau khi trúng cử, Quốc hội lại thông qua một bản Hiến pháp với Điều 45 bất chấp “quyền từ chối phục vụ trong quân đội vì lý do lương tâm”. Như thế là Điều 45 vi phạm cả Điều 12 Hiến pháp 2013, hiến định trách nhiệm “tuân thủ Hiến chương Liên hợp quốc và điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩaViệt Nam là thành viên”.
Sự vi hiến của Điều 45 Hiến pháp 2013 không chỉ dừng ở đó. Để nhận diện điều bị vi phạm tiếp theo, ta hãy ước lượng xem quy mô quân đội sẽ lớn thế nào, nếu điều hiến định này được thực hiện nghiêm túc.
Theo Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật nghĩa vụ quân sự số 43/2005/QH11, “độ tuổi gọi nhập ngũ trong thời bình từ đủ mười tám tuổi đến hết hai mươi lăm tuổi” và “thời hạn phục vụ tại ngũ trong thời bình của hạ sĩ quan và binh sĩ là mười tám tháng”.
Theo kết quả tổng điều tra dân số năm 2009 thì có khoảng 4,577 triệu công dân nam ở độ tuổi 15-19 và khoảng 4,238 triệu công dân nam ở độ tuổi 20-24. Tức là có khoảng 8,815 triệu công dân nam trong độ tuổi 15-24, bình quân mỗi tuổi có khoảng 881.500 người. Như vậy, nếu phân đều số công dân nam trong độ tuổi nhập ngũ (18-25), thì bình quân mỗi năm có khoảng 881.500 công dân nam cần nhập ngũ để "thực hiện nghĩa vụ quân sự".
Trong khi đó, theo thông tin của Đại tá Nguyễn Ánh Dương tại buổi thông báo tình hình cho đoàn Tùy viên quân sự các nước tại Việt Nam, được tổ chức vào ngày 30/09/2013, thì tổng quân số hiện nay của Quân đội nhân dân Việt Nam là 450.000. Để duy trì quân số đó với thời gian phục vụ tại ngũ tối thiểu là 18 tháng = 1,5 năm, thì mỗi năm chỉ cần gọi nhập ngũ chưa đến 450.000/1,5 = 300.000 người. Như vậy là có khoảng (881.500 – 300.000)/ 881.500 = 65,97% công dân nam không bao giờ phải hay được phục vụ trong quân đội.
Đó là tính toán được đơn giản hóa, dựa trên thời gian tại ngũ ở mức thấp nhất (18 tháng). Trên thực tế, bên cạnh lực lượng chuyên nghiệp đông đảo, rất nhiều quân nhân phải phục vụ tại ngũ 24 tháng, theo quy định của Điều 14 Luật nghĩa vụ quân sự hiện hành:
“Thời hạn phục vụ tại ngũ trong thời bình của hạ sĩ quan chỉ huy, hạ sĩ quan và binh sĩ chuyên môn kỹ thuật do quân đội đào tạo, hạ sĩ quan và binh sĩ trên tàu hải quân là hai mươi bốn tháng.”
Và trong số phục vụ tại ngũ còn có rất nhiều phụ nữ. Vì vậy tỷ lệ công dân nam không bao giờ phục vụ trong quân đội còn cao hơn hẳn. Thậm chí, Trung tướng Trần Văn Độ (Chánh án Tòa án Quân sự Trung ương, Phó Chánh án Tòa án Nhân dân Tối cao) nói rằng: “Hiện nay, trong những người đủ tiêu chuẩn, chỉ khoảng 5% thực hiện nghĩa vụ quân sự”.
Sau khi trừ bớt số được miễn hoặc được hoãn (nhưng rồi trở nên quá tuổi nhập ngũ nên cũng thành được miễn) nghĩa vụ quân sự theo quy định của Điều 29 Luật nghĩa vụ quân sự (sửa đổi năm 2005), và trừ cả những người được tuyển vào lực lượng Công an nhân dân, thì tỷ lệ “phi nghĩa vụ quân sự” vẫn còn rất cao. Như vậy, quy mô quân đội hiện tại tất yếu dẫn đến kết cục là có rất nhiều công dân nam không phải hoặc không được “thực hiện nghĩa vụ quân sự”. Do đó, Điều 45 Hiến pháp 2013 gây ra sự bất bình đẳng trước pháp luật trên quy mô rất lớn, tức là vi phạm Điều 16 Hiến pháp 2013, hiến định rằng:
“Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật.”
Tóm lại, trong Hiến pháp 2013, Điều 45 vi phạm ba điều ở vị thế ưu tiên hơn, đó là Điều 12, Điều 16 và Điều 24. Vì vậy, Điều 45 Hiến pháp 2013 là vi hiến!
Hệ quả không chỉ dừng ở đó. Trong chế độ mà tham nhũng ngự trị, hàng năm có hàng triệu công dân nam có thể phải nhập ngũ theo quy định của pháp luật, nhưng quân đội lại chỉ cần và chỉ có thể tiếp nhận một phần rất nhỏ trong số đó, thì dễ xảy ra tiêu cực trên diện rộng để tránh “thực hiện nghĩa vụ quân sự”. Nghĩa là, với việc hiến định “công dân phải thực hiện nghĩa vụ quân sự” tại Điều 45, Quốc hội khóa XIII đã hành động ngược lại với nghĩa vụ được quy định tại Điều 8 Hiến pháp 2013:
“Các cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức, viên chức phải… kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng…”
Vậy thì phải khắc phục như thế nào? Chẳng cần phải sáng tạo ra điều gì mới mẻ, mà chỉ cần khiêm tốn học hỏi thiên hạ và vận dụng những kiến thức đã trở thành kinh điển trên thế giới.
Để không vi phạm Điều 24 Hiến pháp 2013 về “quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo” thì phải chấp nhận để những người khước từ cầm súng vì lý do tín ngưỡng được thực hiện “nghĩa vụ thay thế”. Một ví dụ đáng để tham khảo là Điều 12a Hiến pháp CHLB Đức, với hai khoản đầu tiên được viết như sau:
“(1) Đàn ông đủ 18 tuổi có thể phải phục vụ trong lực lượng quân đội, lực lượng biên phòng, hoặc trong một tổ chức bảo vệ dân sự.”
“(2) Người nào từ chối phục vụ chiến tranh bằng vũ khí vì lý do lương tâm thì có thể phải phục vụ thay thế. Thời gian phục vụ thay thế không được lâu hơn thời gian nghĩa vụ quân sự. Chi tiết được quy định bằng một luật, trong đó không được hạn chế quyền tự do xác định lương lâm và phải đưa ra một khả năng phục vụ thay thế không liên quan tới lực lượng quân đội và lực lượng biên phòng.”
Cụ thể hóa điều hiến định trên, Luật từ chối phục vụ chiến tranh (Kriegsdienstverweigerungsgesetz) của CHLB Đức quy định rằng những người không muốn cầm súng phải trải qua thủ tục xem xét, và nếu được công nhận là “người từ chối phục vụ chiến tranh” (Kriegsdienstverweigerer, conscientious objector), thì sẽ được thay thế nghĩa vụ quân sự bằng “phục vụ dân sự” (Zivildienst, civilian service). Theo Điều 1 của Luật phục vụ dân sự của những người từ chối phục vụ chiến tranh (Gesetz über den Zivildienst der Kriegsdienstverweigerer) thì nhiệm vụ của họ là “phục vụ phúc lợi chung, trước hết là trong lĩnh vực phúc lợi xã hội”, ví dụ như chăm sóc người già, người tàn tật, hoạt động cứu hộ, chuyên chở bệnh nhân…
“Phục vụ dân sự” thay thế cho nghĩa vụ quân sự không phải là chuyện mới mẻ. Nước đầu tiên triển khai “phục vụ dân sự” là Đan Mạch (vào năm 1917), tiếp sau đó là Hà Lan (1920), Thụy Điển (1920), Na Uy (1921) và Phần Lan (1931). Ngược lại với CHLB Đức, một số nước quy định thời gian “phục vụ dân sự” dài hơn thời gian nghĩa vụ quân sự, ví dụ như Áo, Hy Lạp, Na Uy và Phần Lan. Có lẽ đó là một biện pháp để hạn chế tỷ lệ lựa chọn hình thức “phục vụ dân sự”.
Nếu triển khai chế độ “phục vụ dân sự”, Điều 45 về “nghĩa vụ quân sự” sẽ thoát khỏi tình trạng vi phạm Điều 24 Hiến pháp 2013 về “quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo”. Nếu mở rộng diện “phục vụ dân sự” ra ngoài phạm vi của những người khước từ cầm súng vì lý do tín ngưỡng, thì có thể hạn chế phần nào mức độ vi phạm Điều 16 về “bình đẳng trước pháp luật”. Tuy nhiên, không thể và không nên mở rộng phạm vi “phục vụ dân sự” đến mức huy động hết tất cả những người không thực thi “nghĩa vụ quân sự”. Bởi vì cái giá phải trả cho sự “bình đẳng trước pháp luật” đối với “nghĩa vụ quân sự” là quá đắt. Thật vậy, việc tổ chức “phục vụ dân sự” trên quy mô cả triệu người không chỉ là rất phức tạp và quá tốn kém, mà đó cũng là nguồn khổng lồ đẻ ra tiêu cực. Hơn nữa, hiệu quả kinh tế xã hội và chất lượng của hình thức “phục vụ dân sự” kém xa so với việc để cho triệu người đó lao động bình thường, rồi nộp thuế, và dùng tiền thuế để thuê nhân công chuyên nghiệp làm phúc lợi xã hội.
Một sáng kiến mới mẻ, có lẽ chỉ có thể nẩy sinh ở nước CHXHCN Việt Nam, là “cho phép đóng một khoản tiền để không phải thực hiện nghĩa vụ quân sự nhằm bảo đảm sự công bằng giữa những người đủ tiêu chuẩn”. Nó giúp tăng ngân sách và hạn chế tiêu cực trong quá trình lập danh sách thực hiện nghĩa vụ quân sự. Chi phí tổ chức cho việc thu tiền này cũng thấp hơn nhiều so với triển khai “phục vụ dân sự”. Tuy nhiên, giải pháp này không cải thiện triệt để tình trạng bất bình đẳng trước pháp luật, mà ngược lại còn hợp pháp hóa hố sâu ngăn cách giữa kẻ giàu và người nghèo.
Một biện pháp khả thi để giảm bớt sự bất bình đẳng là tăng “công suất dùng người” của quân đội bằng cách rút ngắn thời gian thực hiện “nghĩa vụ quân sự”, giống như Áo (6 tháng), Đan Mạch (4 tháng), Estonia (8 tháng) và Hy Lạp (12 tháng)… Hai câu hỏi nảy sinh là: Có thể rút thời gian tại ngũ xuống mức nào để vẫn còn đủ thời gian huấn luyện, nhằm đảm bảo chất lượng chiến đấu của quân đội? Với mức thời gian đó thì quân đội đã có đủ chỗ để thu nạp hết những người phải thực hiện nghĩa vụ quân sự hay chưa?
Giải pháp triệt để thường được áp dụng trong thời bình là xóa bỏ hoặc tạm dừng chế độ nghĩa vụ quân sự, và xây dựng quân đội tự nguyện thay cho quân đội nghĩa vụ. Một số nước tiêu biểu theo xu hướng này là Anh (từ 1963), Ba Lan (từ 9/2009), Bồ Đào Nha (từ 10/2004), Đức (từ 7/2011), Hà Lan (từ 9/1996), Hungary (từ 11/2004), Italia (từ 7/2005), Mỹ (từ 1973), Pháp (từ 7/2001), Rumani (từ 2007), Tây Ban Nha (từ 1/2002)… Trong số 28 nước tham gia liên minh quân sự NATO, chỉ còn 5 nước duy trì chế độ nghĩa vụ quân sự là Đan Mạch, Estonia, Hy Lạp, Na Uy và Thổ Nhĩ Kỳ. Trong số 28 nước tham gia Liên minh Châu Âu (European Union), ngoài Đan Mạch, Estonia và Hy Lạp, thì chỉ còn 3 nước nữa vẫn duy trì chế độ nghĩa vụ quân sự, đó là Áo, Phần Lan và Síp. Riêng Đan Mạch thì đã xây dựng quân đội tự nguyện từ năm 2005, và chỉ trong trường hợp thiếu người tự nguyện gia nhập quân đội mới “rút thăm” để chọn những người buộc phải nhập ngũ.
Có nhiều lý lẽ biện minh cho việc xóa bỏ hoặc tạm dừng chế độ nghĩa vụ quân sự để xây dựng quân đội tự nguyện, chuyên nghiệp. Chẳng hạn, tinh thần chiến đấu của quân đội tự nguyện tốt hơn hẳn loại quân đội nghĩa vụ được phình to bởi những người bị buộc phải cầm súng một cách bất đắc dĩ. Khả năng chiến đấu của quân đội chuyên nghiệp cao hơn hẳn “quân đội nghiệp dư”. Tất nhiên phải giả thiết rằng quân đội đó chuyên tâm làm nhiệm vụ quốc phòng, chứ không phải lợi dụng danh nghĩa “quốc phòng” để lao vào làm kinh tế, sa đà vào kinh doanh. Và ít nhất, cơ chế quân đội tự nguyện sẽ không vi phạm quyền tự do tín ngưỡng và không gây ra tình trạng bất bình đẳng trước pháp luật trong việc thực hiện nghĩa vụ quân sự.
Trên đây ta bàn nhiều về biện pháp khắc phục sự vi hiến của Điều 45 Hiến pháp 2013, không phải vì muốn “cầm đèn chạy trước ô tô”, mà để chỉ ra rằng việc khắc phục vừa khả thi, vừa có lợi, và hoàn toàn không đáng để phải tiếp tục chấp nhận sự vi hiến đó. Đã đến lúc phải thay đổi tư duy quốc phòng cho phù hợp với tình hình thực tại. Một số ý kiến của nhà báo Huy Đức bàn về vấn đề này trong bài “Động binh, tịnh dân” rất đáng để các nhà hoạch định chính sách quốc phòng tham khảo.
3. Bắt người dưng thờ phụng
Điều 65 Hiến pháp 2013 quy định:
“Lực lượng vũ trang nhân dân tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, Nhân dân, với Đảng và Nhà nước, có nhiệm vụ bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội; bảo vệ Nhân dân, Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa; cùng toàn dân xây dựng đất nước và thực hiện nghĩa vụ quốc tế.”
Điều này là vi hiến, vì nó mâu thuẫn với Điều 45 Hiến pháp 2013.
Thật vậy, đa số hạ sĩ quan và binh sĩ của Quân đội nhân dân Việt Nam là những công dân thực hiện nghĩa vụ quân sự. Nghĩa vụ này được hiến định tại Điều 45 Hiến pháp 2013 trong khuôn khổ “Bảo vệ Tổ quốc là nghĩa vụ thiêng liêng và quyền cao quý của công dân”. Hơn nữa, Hiến pháp 2013 chỉ quy định tại Điều 44 rằng “Công dân có nghĩa vụ trung thành với Tổ quốc”, và đó là đối tượng hiến định duy nhất mà “công dân có nghĩa vụ trung thành”. Vì vậy, với tư cách con em của Nhân dân, những công dân mặc áo lính để thực hiện nghĩa vụ quân sự chỉ có nghĩa vụ trung thành với Tổ quốc và Nhân dân, bảo vệ Tổ quốc và Nhân dân.
Bất cứ chế độ nào, bất cứ chính quyền hay tổ chức chính trị nào thực sự trung thành với Tổ quốc, thật lòng gắn bó với Nhân dân và phục vụ Nhân dân, thì cũng được chung hưởng sự bảo vệ mà những công dân làm nghĩa vụ quân sự dành cho Tổ quốc và Nhân dân. Ngoài khuôn khổ đó, những công dân làm nghĩa vụ quân sự không có nghĩa vụ phải trung thành thêm với bất kỳ tổ chức nào nữa, và cũng không phải bảo vệ riêng bất cứ thứ gì.
Không chỉ quá vô lý, mà còn hết sức hài hước, khi ép buộc cả những người không hề chịu ơn hay gắn bó với Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN), thậm chí còn oán ghét đảng ấy, lại phải “trung thành… với Đảng” và “bảo vệ… Đảng, rồi đòi hỏi cả những người không hề yêu thích chế độ, thậm chí còn coi nó là sai lầm lịch sử, lại phải “bảo vệ… chế độ xã hội chủ nghĩa”.
Tổ chức mang tên “Quân đội nhân dân Việt Nam” có thể nhận thêm trách nhiệm “trung thành… với Đảng” và “bảo vệ… Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa”. Nhưng khi đó, nó không còn là quân đội của những công dân làm nghĩa vụ quân sự, với nhiệm vụ kinh điển là Quốc phòng, tức là bảo vệ Tổ quốc và Nhân dân trước nguy cơ ngoại xâm. Vì vậy, không thể cưỡng bức những người không theo ĐCSVN phải gia nhập quân đội ấy. Ép buộc công dân phải tham gia một tổ chức mang mầu sắc chính trị trái với lương tâm của bản thân là vi phạm Điều 20 Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền, trong đó quy định rằng:
“Không ai có thể bị cưỡng bách gia nhập một liên kết.”
Tức là vi phạm cả cam kết “tuân thủ… điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên” tại Điều 12 Hiến pháp 2013.
Điều 65 Hiến pháp 2013 còn quy định rằng “lực lượng vũ trang nhân dân” phải “thực hiện nghĩa vụ quốc tế”. Nhưng “nghĩa vụ quốc tế” là gì? Nó được xác định theo tiêu chuẩn nào và bằng cơ chế nào? Ai có quyền ấn định cái gọi là “nghĩa vụ quốc tế”? Nếu ấn định sai thì phải chịu trách nhiệm thế nào trước Nhân dân về những mất mát và hy sinh vô nghĩa?
Cho đến nay, nhãn hiệu “nghĩa vụ quốc tế”, hay tương tự, đã bị lạm dụng quá nhiều để ngụy trang cho tham vọng viễn chinh của các thế lực cầm quyền. Khi thì vì bảo vệ thế giới tự do, lúc lại nhằm xuất khẩu cách mạng ra toàn thế giới. Danh nghĩa luôn mĩ miều, mà kết cục chẳng mấy khi tốt đẹp. Ra quân luôn “trống dong cờ mở”, mà thu quân chẳng mấy lúc vinh quang. Năm xưa Liên Xô đưa quân vào Afghanistan, thì bị Mỹ và đồng minh kịch liệt phản đối. Nay Mỹ và đồng minh lại lao vào Afghanistan để thế chỗ sa lầy. Gọi là giúp đỡ, mà thu được là sự oán ghét của người dân sở tại. Nhân danh cứu người, mà lại gây ra gấp bội lần chết chóc. Lấy cớ phá bỏ vũ khí hủy diệt, mà chỉ dựa vào bằng chứng ngụy tạo của thế lực thèm khát chiến tranh. Lúc triệt hạ bọn độc tài, hay lũ diệt chủng, thì nhân danh “nghĩa vụ quốc tế” đã đành, nhưng khi nâng đỡ chúng lên nắm chính quyền cũng nhân danh “nghĩa vụ quốc tế” nốt. “Nghĩa vụ” kiểu gì mà tráo trở như vậy?
Điều quan trọng là “nghĩa vụ quốc tế” của ai? Lý tưởng của ai thì người ấy cứ việc tự tay cầm súng mà triển khai. Tại sao lại bắt những người dân vô can phải bỏ nước ra đi, hy sinh xương máu ở xứ xa xăm, cho thứ “nghĩa vụ quốc tế” được ấn định bởi cảm tính của giới cầm quyền?
Tóm lại, việc quy định lực lượng vũ trang nhân dân phải tuyệt đối trung thành với ĐCSVN, có nhiệm vụ bảo vệ ĐCSVN, chế độ xã hội chủ nghĩa và thực hiện nghĩa vụ quốc tế (tại Điều 65 Hiến pháp 2013) là vi phạm quy định “công dân phải thực hiện nghĩa vụ quân sự” để “bảo vệ Tổ quốc” (tại Điều 45 Hiến pháp 2013).
Phải khắc phục sự vi hiến của Điều 65 Hiến pháp 2013 như thế nào? Cách đơn giản nhất là xóa bỏ nội dung “kỳ dị” ấy ra khỏi Điều 65. Ngược lại, nếu vẫn muốn bám giữ nó, thì phải sửa lại Điều 45 theo hướng xóa bỏ chế độ nghĩa vụ quân sự và xây dựng một quân đội chỉ tuyển chọn những người tự nguyện. Khi đó, thế lực điều khiển quân đội có thể đề ra những yêu cầu và nhiệm vụ theo ý họ, còn công dân thì tự xác định xem bản thân có chấp nhận gia nhập quân đội ấy hay không. Tất nhiên, để có thể đòi hỏi quân đội phải trung thành với đảng và bảo vệ đảng, thì ĐCSVN còn phải chi tiền riêng để nuôi những người lính tự nguyện, không thể phó mặc trách nhiệm chu cấp quân đội cho người dân đóng thuế.
4. Tước đoạt quyền sở hữu
Điều 53 Hiến pháp 2013 quy định:
“Đất đai… là tài sản công thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý.”
Điều này là vi hiến. Để chứng minh kết luận này, ta sẽ quay về cái thời mà sở hữu đất đai còn chưa rơi vào tình trạng “hỗn loạn pháp lý”, rồi sử dụng phương pháp quy nạp để đến với thực tại.
Hiến pháp 1946 – tức là hiến pháp đầu tiên của chế độ này – chỉ có một điều duy nhất đề cập đến quyền sở hữu, đó là:
“Điều thứ 12 Quyền tư hữu tài sản của công dân Việt Nam được bảo đảm.”
Hiển nhiên, đất đai là một dạng tài sản, do đó quyền tư hữu đất đai của công dân cũng được Hiến pháp 1946 bảo đảm. Đó là điều đã trở thành hiển nhiên và cũng là lời cam kết long trọng của chế độ này khi mới ra đời.
Hiến pháp 1959 quy định:
“Điều 14 Nhà nước chiếu theo pháp luật bảo hộ quyền sở hữu về ruộng đất và các tư liệu sản xuất khác của nông dân…”
“Điều 18 Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu của công dân về của cải thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở và các thứ vật dụng riêng khác.”
“Điều 19 Nhà nước chiếu theo pháp luật bảo hộ quyền thừa kế tài sản tư hữu của công dân.”
Như vậy, Hiến pháp 1959 tiếp tục thừa nhận “quyền sở hữu về ruộng đất… của nông dân”, và “quyền sở hữu của công dân về của cải thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở”. Rõ ràng, đất đai được người dân mua bằng thu nhập hợp pháp là “của cải thu nhập hợp pháp”, vừa để sử dụng ngay, vừa là của cải để dành, và khái niệm “nhà ở” tất nhiên gắn liền với đất ở. Hơn thế nữa, Hiến pháp 1959 cũng thừa nhận cả “quyền thừa kế tài sản tư hữu của công dân”. Do đó, đất đai mà người dân đã khai khẩn trước khi Hiến pháp 1959 (Điều 12) quy định “đất hoang… thuộc sở hữu toàn dân”, hoặc đã mua hay thừa kế trước khi Hiến pháp 1959 hết hiệu lực vào ngày 19/12/1980, chắc chắn thuộc “quyền sở hữu của công dân” được “Nhà nước bảo hộ”. Hiến pháp thời đó không cho bất cứ thế lực nào, kể cả ĐCSVN, được phép xâm phạm quyền sở hữu tư nhân về đất đai. Không tổ chức và cá nhân nào, kể cả tập thể Quốc hội và cá nhân các đại biểu Quốc hội, được phép phủ nhận quyền sở hữu tư nhân về đất đai.
Khi Quốc hội khóa VI (1976-1981) thông qua Hiến pháp 1980 vào ngày 18/12/1980 thì Hiến pháp 1959 vẫn còn nguyên hiệu lực. Cho nên, việc Quốc hội khóa VI biểu quyết xóa bỏ quyền sở hữu hợp pháp của tư nhân về đất đai và ấn định rằng toàn bộ “đất đai… thuộc sở hữu toàn dân” (Điều 19 Hiến pháp 1980) là vi phạm thô bạo Hiến pháp đang có hiệu lực.
Trong một chế độ Cộng hòa, nơi mà “tất cả quyền lực… đều thuộc vào Nhân dân” (Điều 4 Hiến pháp 1959), thì việc xóa bỏ quyền sở hữu của người dân về đất đai là sự vi phạm Hiến pháp nghiêm trọng nhất. Hành động vi hiến đó mặc nhiên phủ định tư cách hợp hiến của Quốc hội khóa VI (đại diện cho quyền lợi, ý chí và nguyện vọng của Nhân dân), và vì vậy cũng phủ định luôn cả quyền “Làm Hiến pháp và sửa đổi Hiến pháp” của tổ chức ấy, vốn được hiến định tại Điều 50 Hiến pháp 1959. Nếu chế độ này thực sự dân chủ, thì các đại biểu Quốc hội khóa VI đã “có thể bị cử tri bãi miễn trước khi hết nhiệm kỳ” vì “tỏ ra không xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân”, như đã được hiến định tại Điều 5 Hiến pháp 1959.
Cần nhấn mạnh thêm rằng, việc Quốc hội khóa VI quyết định quốc hữu hóa toàn bộ đất đai bằng mĩ từ “sở hữu toàn dân” cũng vi phạm cả Điều 20 Hiến pháp 1959, quy định rằng:
“Chỉ khi nào cần thiết vì lợi ích chung, Nhà nước mới trưng mua, hoặc trưng dụng, trưng thu có bồi thường thích đáng các tư liệu sản xuất ở thành thị và nông thôn, trong phạm vi và điều kiện do pháp luật quy định.”
Bởi vì Quốc hội khóa VI chỉ hiến định việc tước bỏ quyền sở hữu tư nhân về đất đai, bao gồm cả nơi sản xuất và kinh doanh – là “tư liệu sản xuất ở thành thị và nông thôn” – mà không kèm theo một giải pháp bồi thường nào cả. Trên thực tế, kể từ đó đến nay, Nhà nước không hề tiến hành bồi thường và cũng chẳng có ý định bồi thường cho những người bị mất quyền sở hữu đất đai.
Quy định sai trái rằng “đất đai… thuộc sở hữu toàn dân” không chỉ vi hiến theo Hiến pháp 1959, mà còn vi hiến đối với cả Hiến pháp 1980. Bởi vì đất đai thuộc sở hữu tư nhân nằm trong diện được đề cập tại Điều 27 Hiến pháp 1980:
“Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu của công dân về thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở, tư liệu sinh hoạt, những công cụ sản xuất dùng trong những trường hợp được phép lao động riêng lẻ.”
“Pháp luật bảo hộ quyền thừa kế tài sản của công dân.”
Chính điều hiến định này tiếp tục bảo vệ quyền sở hữu tư nhân về đất đai kể cả khi Hiến pháp 1980 có hiệu lực.
Không chỉ dừng lại ở giai đoạn đó. Chừng nào Hiến pháp kế tiếp còn thừa nhận “quyền sở hữu của công dân về thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở, tư liệu sinh hoạt, công cụ sản xuất…” và thừa nhận “quyền thừa kế tài sản của công dân”, thì chừng ấy Hiến pháp vẫn thừa nhận quyền sở hữu tư nhân về đất đai, và quy định “đất đai thuộc sở hữu toàn dân” vẫn là vi hiến. Trên thực tế, hai nội dung vừa kể đã được duy trì tại Điều 58 Hiến pháp 1992:
“Công dân có quyền sở hữu về thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở, tư liệu sinh hoạt, tư liệu sản xuất, vốn và tài sản khác trong doanh nghiệp hoặc trong các tổ chức kinh tế khác…”
“Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu hợp pháp và quyền thừa kế của công dân.”
Và chúng cũng được tiếp tục duy trì tại Điều 32 Hiến pháp 2013:
“1. Mọi người có quyền sở hữu về thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở, tư liệu sinh hoạt, tư liệu sản xuất, phần vốn góp trong doanh nghiệp hoặc trong các tổ chức kinh tế khác.”
“2. Quyền sở hữu tư nhân và quyền thừa kế được pháp luật bảo hộ.”
Hơn thế nữa, việc “quốc hữu hóa” đất đai vốn thuộc sở hữu tư nhân thành “sở hữu toàn dân” bị ngăn cấm bởi Điều 23 Hiến pháp 1992:
“Tài sản hợp pháp của cá nhân, tổ chức không bị quốc hữu hoá.”
Và điều đó cũng tiếp tục bị ngăn cấm bởi Điều 51 Hiến pháp 2013:
“Tài sản hợp pháp của cá nhân, tổ chức đầu tư, sản xuất, kinh doanh được pháp luật bảo hộ và không bị quốc hữu hóa.”
Tóm lại, trong suốt năm đời Hiến pháp của chế độ này, nếu không phải có được do tham nhũng hay cướp bóc, thì đất đai của tư nhân luôn thuộc phạm trù “thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở, tư liệu sinh hoạt, tư liệu sản xuất” hoặc là tài sản “thừa kế”, phải “được pháp luật bảo hộ”. Ít nhất thì đất đai mà người dân đã từng sở hữu hợp pháp trước khi Hiến pháp 1980 có hiệu lực luôn là “tài sản hợp pháp của cá nhân”. Do đó, Hiến pháp luôn thừa nhận quyền sở hữu tư nhân đối với dạng đất đai ấy. Và đương nhiên, quy định “đất đai… là tài sản công thuộc sở hữu toàn dân”, như tại Điều 53 Hiến pháp 2013, luôn là vi hiến. Nó vi hiến ngay từ lúc “thoát thai”, khi Hiến pháp 1959 còn có hiệu lực, vì vi phạm Điều 14, Điều 18, Điều 19 và Điều 20. Nó vi hiến cả trong cái “nôi chào đời” là Hiến pháp 1980, vì vi phạm Điều 27. Nó tiếp tục vi hiến trong khuôn khổ Hiến pháp 1992, vì vi phạm Điều 23 và Điều 58. Giờ đây, nó vẫn vi hiến, vì vi phạm Điều 32 và Điều 51 của Hiến pháp 2013.
Hơn thế nữa, Điều 53 Hiến pháp 2013 còn vi phạm cả Điều 17 Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền, quy định rằng:
“1. Mọi người đều có quyền sở hữu tài sản cá nhân cũng như tài sản tập thể.
2. Không được tước đoạt tài sản của bất kỳ ai một cách tùy tiện.”
Tức là vi phạm cam kết “tuân thủ… điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên” tại Điều 12 của Hiến pháp 2013.
Không còn nghi ngờ gì nữa, xét về mọi phương diện, Điều 53 Hiến pháp 2013 là vi hiến! Khắc phục thế nào đây? “Cái gì của Xê-da hãy trả lại cho Xê-da”, đừng tham lam, tiếc nuối… tài sản của người khác. Hãy xóa bỏ điều khoản áp đặt mang tính chiếm đoạt, ngụy danh “đất đai… là tài sản công thuộc sở hữu toàn dân”. “Nhất cử lưỡng tiện”, vừa khắc phục một điều khoản vi hiến, vừa giúp chế độ thoát khỏi một sa lầy, như đã trao đổi trong bài “Hai tử huyệt của chế độ”.
5. Chiếm quyền lực Nhân dân
Điều 2 Hiến pháp 2013 long trọng cam kết:
“1. Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân.”
“2. Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân…”
5.1.
Nếu “tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân” thì tối thiểu quyền lựa chọn và xác định “lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội” cũng phải “thuộc về Nhân dân”. Đây là quyền cơ bản nhất, cốt lõi nhất trong số các “quyền lực nhà nước”. Chỉ khi Nhân dân thực thi quyền cơ bản ấy thì Nhà nước mới có thể coi là “của Nhân dân, do Nhân dân”, mới thể hiện được rằng Nước này “do Nhân dân làm chủ”. Song trên thực tế, chưa bao giờ Nhân dân bầu ĐCSVN làm “lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội”. Vậy thì tại sao các nhà lập hiến lại ghi vào Điều 4 Hiến pháp 2013 rằng “Đảng Cộng sản Việt Nam… là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội”?
Không thể ngụy biện rằng Nhân dân đã ủy nhiệm cho Quốc hội thực hiện cái quyền xác định “lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội”. Vì sao?
Thứ nhất, các đại biểu Quốc hội chỉ được bầu ra từ danh sách do bộ máy cầm quyền lựa chọn, dù cử tri bỏ phiếu cho ai thì trúng cử cũng là người của nhà cầm quyền, nên Quốc hội chỉ đại diện cho thế lực cầm quyền, không thể đại diện cho ý chí, nguyện vọng và trí tuệ của toàn thể Nhân dân.
Thứ hai, trong số các nhiệm vụ và quyền hạn của Quốc hội được hiến định tại Điều 84 Hiến pháp 1992 (tức là Hiến pháp có hiệu lực tại thời điểm mà Quốc hội thông qua Hiến pháp 2013) và tại Điều 70 Hiến pháp 2013, không có bất cứ điều khoản nào cho phép Quốc hội bầu ra một thế lực chung chung đóng vai trò “lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội”. Cụ thể, theo Điều 70 Hiến pháp 2013 thì Quốc hội chỉ có quyền hạn bầu ra mấy chức danh như sau:
“Chủ tịch nước, Phó Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Phó Chủ tịch Quốc hội, Ủy viên Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch Hội đồng dân tộc, Chủ nhiệm Ủy ban của Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Chủ tịch Hội đồng bầu cử quốc gia, Tổng Kiểm toán nhà nước, người đứng đầu cơ quan khác do Quốc hội thành lập.”
Và nhiệm kỳ của các chức danh đó đều được hiến định là “theo nhiệm kỳ của Quốc hội”. Quốc hội chỉ được trao quyền hạn trong một nhiệm kỳ năm năm thì không thể được phép bầu ra những chức danh hay quyền lực vô thời hạn như tại Điều 4 Hiến pháp 2013!
Thứ ba, Quốc hội được trao quyền “Làm Hiến pháp và sửa đổi Hiến pháp”, song đó là Hiến pháp được hiểu theo nghĩa lành mạnh thông thường. Không thể lạm dụng quyền lập hiến để tùy tiện ghi vào Hiến pháp những điều “không giống ai”. Trong các hiến pháp thông thường trên thế giới, không thể có chuyện hiến định quyền lãnh đạo vĩnh viễn của một chính đảng duy nhất đối với nhà nước và xã hội. Nhân danh “hoàn cảnh đặc thù”, Quốc hội có thể đưa vào Hiến pháp một số nội dung “khác thường”, nhưng điều đó chỉ được coi là “hợp với lòng Dân” nếu được đa số Nhân dân chấp thuận, thông qua phúc quyết toàn dân, trong đó phải biểu quyết riêng rẽ cho từng nội dung cụ thể, không thể “xập xí xập ngầu biểu quyết cả gói”.
Các đại biểu Quốc hội và cả giới cầm quyền đều biết rõ, rằng họ không thể áp đặt những đứa con do chính họ đẻ ra sẽ phải làm gì trong 10 năm, 20 năm hay 50 năm tới. Vậy mà họ lại ngộ nhận quyền lực, ngang nhiên áp đặt vĩnh viễn muôn dân, những người ít nhất là bình đẳng và hoàn toàn không vướng víu gì với họ.
Giả sử Nhân dân trực tiếp bầu “lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội”, thì họ cũng thừa thông minh để hiểu rằng: Chỉ có thể bầu cho từng nhiệm kỳ. Hiển nhiên là phải dựa vào thể hiện của từng cá nhân và từng tổ chức trong nhiệm kỳ trước để quyết định xem có nên tín nhiệm bầu thêm một nhiệm kỳ nữa hay không. Cũng phải xét xem đương sự có còn đủ điều kiện về sức khỏe và trí tuệ để tái cử hay không. Chẳng ai muốn bầu một vị công thần đã chớm bị bệnh Alzheimer tiếp tục tham gia “lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội”.
Hơn nữa, Nhân dân của thế hệ hôm nay không có quyền quyết định thay cho cả Nhân dân của các thế hệ mai sau. Nếu quan niệm rằng cứ sinh ra trước là có quyền áp đặt hậu thế, thì thế hệ cầm quyền cách nay nửa thế kỷ phải tiếp tục duy trì chế độ quân chủ, và thế hệ cầm quyền hôm nay phải tiếp tục theo đuổi “kinh tế có kế hoạch”, chứ không thể triển khai cái gọi là “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”. Thế hệ này đã ăn sang cả phần tài nguyên của các thế hệ mai sau, để lại cho họ một môi trường bị phá hủy nặng nề cùng với những món nợ khổng lồ. Như vậy đã là quá tệ. Không thể ép các thế hệ mai sau phải chịu đựng thêm những sai lầm hay tệ nạn mà thế hệ mình đang cam chịu.
Trong mọi trường hợp, Nhân dân của thế hệ hôm nay và Quốc hội đương nhiệm đều không được phép hiến định quyền VĨNH VIỄN “lãnh đạo Nhà nước và xã hội” của bất cứ “lực lượng” nào.
Tóm lại, Điều 4 Hiến pháp 2013 là vi hiến, vì nó vi phạm Điều 2 Hiến pháp 2013. Khắc phục thế nào đây?
Nếu vẫn muốn bám giữ Điều 4 thì phải sửa lại Điều 2, xóa các nội dung “Nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân”, “do Nhân dân làm chủ” và “tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân” ra khỏi Hiến pháp. Vì các nội dung bị xóa là những nét đặc trưng của chế độ “Cộng hòa”, nên cũng phải đổi cả tên nước, chẳng hạn thay từ “Cộng hòa” bằng “Đảng quốc”, tương tự như mẫu từ “Vương quốc”.
Ngược lại, nếu vẫn giữ nguyên Điều 2 cùng với thể chế “Cộng hòa”, thì chỉ còn cách xóa bỏ nội dung Điều 4. Làm như vậy sẽ không chỉ khắc phục được một điều vi hiến, mà còn giải thoát cả Hiến pháp Việt Nam và ĐCSVN ra khỏi trạng thái tệ hại, như đã trao đổi trong bài “Hai tử huyệt của chế độ” và bài “Uẩn khúc trong Điều 4 Hiến pháp”.
5.2.
Khoản 1 Điều 9 Hiến pháp 2013 viết:
“Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là tổ chức liên minh chính trị, liên hiệp tự nguyện của tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị – xã hội, tổ chức xã hội và các cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp, tầng lớp xã hội, dân tộc, tôn giáo, người Việt Nam định cư ở nước ngoài.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân; đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhân dân…”
Nhiều thông tin quan trọng được cô đọng trong đoạn trích này.
Trước hết, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam được xác định là “tổ chức liên minh chính trị”. Thành phần của nó là
- “tổ chức chính trị“,
- “các tổ chức chính trị – xã hội, tổ chức xã hội” và
- “các cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp, tầng lớp xã hội, dân tộc, tôn giáo, người Việt Nam định cư ở nước ngoài.”
Như vậy, các tổ chức thành viên được phân thành 3 tầng. Tầng cao nhất là “tổ chức chính trị”. Tầng giữa là “các tổ chức chính trị – xã hội”. Và tầng thấp nhất là “các tổ chức xã hội” (thấp vì không được gán cho chức năng “chính trị”). Nhìn vào 3 chữ “các“, có thể nhận ra rằng các tác giả rất chú trọng việc nhấn mạnh trạng thái số ít, số nhiều. Cho nên, khi không viết chữ “các“ trước “tổ chức chính trị“, thì có nghĩa là chỉ thừa nhận duy nhất một “tổ chức chính trị”. Có thể đoán rằng “tổ chức chính trị” duy nhất ấy chính là ĐCSVN. Tiếc rằng, các tác giả của Hiến pháp 2013 đã phạm phải sai lầm, quên hiến định “ĐCSVN là tổ chức chính trị”, trong khi hiến định cụ thể 5 tổ chức được coi là “tổ chức chính trị – xã hội”.
Nội dung kể trên đã xuất hiện trong Điều 1 Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam số 14/1999/QH10 (do Quốc hội khóa X thông qua năm 1999), nay được Quốc hội khóa XIII hiến định hóa.
Thành phần của tầng “các tổ chức chính trị – xã hội” được hiến định tại Khoản 2 Điều 9 Hiến pháp 2013:
“Công đoàn Việt Nam, Hội nông dân Việt Nam, Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Hội cựu chiến binh Việt Nam là các tổ chức chính trị – xã hội…”
“… là các tổ chức chính trị – xã hội“ có nghĩa đó là tất cả, ngoài ra không còn “tổ chức chính trị – xã hội” nào nữa. Công nhân, “nông dân”, “thanh niên”, “phụ nữ” và “cựu chiến binh” đều được coi là đủ năng lực và đủ tin cậy để tham gia “chính trị”. Vậy mà, giữa thời giới cầm quyền tung hô cái gọi là “kinh tế tri thức” hay “kinh tế trí thức”, họ vẫn không chịu hay không dám gán cho Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam cái nhãn “tổ chức chính trị – xã hội”. Bản thân các vị cầm quyền bây giờ mang đầy học vị và học hàm, sao họ lại e ngại và nghi kị trí thức đến như vậy?
Vì “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân“, nên các tổ chức không thuộc Mặt trận Tổ quốc Việt Nam không có quyền tham gia vào những việc quan trọng thuộc đời sống chính trị của chính quyền này. Điều đó không có nghĩa là mọi thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đều được tham gia… (Nếu không phải như vậy thì phân biệt giữa “tổ chức chính trị – xã hội” và “tổ chức xã hội” để làm gì?)
Trong Điều lệ Mặt trận Tổ quốc Việt Nam do Đại hội II thông qua vào năm 1983, Điều 1 được viết như sau:
“Thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam bao gồm các tổ chức chính trị – xã hội và những công dân của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thiết tha với sự nghiệp đoàn kết đấu tranh xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.”
Vậy là ban đầu mọi tổ chức thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đều được thừa nhận là “tổ chức chính trị – xã hội”. Điều đó cũng phù hợp với Điều 9 Hiến pháp 1992, quy định rằng:
“Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân…”
Nghĩa là mọi thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đều là “cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân”. Song Hiến pháp 2013 đã rút lại sự “hào phóng” ấy, chỉ trao quyền làm “cơ sở chính trị…” cho “tổ chức mẹ” (tức Mặt trận Tổ quốc Việt Nam), và “quyền của mẹ” không có nghĩa là “quyền của các con” (tức các tổ chức thành viên).
Việc phân chia các tổ chức thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thành 3 đẳng cấp, với ĐCSVN là tổ chức duy nhất thuộc đẳng cấp “tổ chức chính trị” và 5 tổ chức được xác định là “các tổ chức chính trị – xã hội”, là bước đi có tính toán trên con đường… ngược chiều dân chủ.
Điều 1 Điều lệ Mặt trận Tổ quốc Việt Nam năm 1983 (được trích dẫn ở trên) cho thấy: Chỉ những ai tán thành “xây dựng chủ nghĩa xã hội” và chịu thừa nhận Tổ quốc Việt Nam là “Tổ quốc xã hội chủ nghĩa” mới có thể là thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Từ đó đến nay, mặc dù Điều lệ đã được chỉnh sửa ít nhiều để thích ứng với tình hình, nhưng bản chất chính trị của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam vẫn không thay đổi, trong khi lực lượng tán thành “xây dựng chủ nghĩa xã hội” ở Việt Nam ngày càng ít đi và chỉ là thiểu số trong Nhân dân Việt Nam. Do đó, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam không đại diện cho toàn thể Nhân dân Việt Nam. Vậy mà Khoản 1 Điều 9 Hiến pháp 2013 lại hiến định rằng “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam… đại diện… quyền… của Nhân dân“.
Không hề được toàn thể Nhân dân bầu ra, thông qua bầu cử phổ thông, mà lại đứng ra “đại diện quyền của Nhân dân” và “là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân”, thì đó là bằng chứng cho việc coi thường Nhân dân, vi phạm nghiêm trọng nguyên tắc “tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân”. Nghĩa là Điều 9 Hiến pháp 2013 vi phạm Điều 2 Hiến pháp 2013.
Điều 4 Hiến pháp 1980 quy định
“Đảng cộng sản Việt Nam… là lực lượng duy nhất lãnh đạo Nhà nước, lãnh đạo xã hội.”
Hiến pháp 1992 và Hiến pháp 2013 bỏ chữ “duy nhất”, chỉ còn giữ lại quy định
“Đảng cộng sản Việt Nam… là lực lượng lãnh đạo Nhà nước, lãnh đạo xã hội.”
Tuy nhiên, thay đổi đó không có nghĩa là Điều 4 Hiến pháp 2013 tiến bộ hơn Điều 4 Hiến pháp 1980. Vì Điều 9 Hiến pháp 2013 chỉ công nhận duy nhất một “tổ chức chính trị” trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, “là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân”, nên dù bỏ đi hai chữ “duy nhất” thì cũng chỉ còn đúng một “lực lượng lãnh đạo Nhà nước, lãnh đạo xã hội” mà thôi. Hơn nữa, hiến định duy nhất một “tổ chức chính trị” có nghĩa là chỉ chấp nhận sự tồn tại của một đảng chính trị duy nhất, đó chính là ĐCSVN. Nghĩa là Điều 9 Hiến pháp 2013 vi phạm cả quyền tự do lập hội, được hiến định tại Điều 25 Hiến pháp 2013. (Xem bài “Hiến pháp 2013 – Sửa nhầm hay đổi thiệt?” để thấy rằng Hiến pháp 2013 không cho phép hạn chế quyền tự do lập hội.)
Tóm lại, Điều 9 Hiến pháp 2013 là vi hiến, vì nó vi phạm Điều 2 và cả Điều 25 của Hiến pháp 2013.
*
* *
Trên đây chỉ là mấy ví dụ, chứ không phải là tất cả các điều khoản mâu thuẫn trong Hiến pháp 2013. Vẫn còn những hạt sạn khác, chẳng hạn Điều 10 Hiến pháp 2013, viết rằng:
“Công đoàn Việt Nam là tổ chức chính trị – xã hội của giai cấp công nhân và của người lao động được thành lập trên cơ sở tự nguyện, đại diện cho người lao động, chăm lo và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động…”
Đằng sau điều hiến định này ẩn chứa một nội dung sâu xa: Vì được hiến định là “tổ chức chính trị – xã hội…”, chứ không phải là “một tổ chức chính trị – xã hội…” hay “một trong các tổ chức chính trị – xã hội…”, nên “Công đoàn Việt Nam là tổ chức chính trị – xã hội” duy nhất “của giai cấp công nhân và của người lao động… đại diện cho người lao động, chăm lo và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động…”. Tức là người lao động (trong đó có công nhân) không được phép thành lập thêm những tổ chức công đoàn khác để đại diện cho mình và bảo vệ mình, mặc dù trên thực tế Công đoàn Việt Nam không làm nổi nhiệm vụ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của mọi người lao động. Như vậy, Điều 10 Hiến pháp 2013 vi phạm quyền tự do lập hội, được hiến định tại Điều 25 Hiến pháp 2013.
Một số điều khoản vi hiến của Hiến pháp 2013 được truyền nhiễm từ mấy Hiến pháp trước. Lẽ ra, thời gian trôi qua thì nhận thức cũng phải khá hơn, đủ để nhận ra và khắc phục phần nào những sai lầm ấu trĩ đã phạm phải trong quá khứ. Nhưng tiếc thay, bên cạnh những di sản vi hiến vẫn được “bảo toàn”, lại xuất hiện thêm những sáng tạo vi hiến mới…
Điều 74 Hiến pháp 2013 quy định Uỷ ban thường vụ Quốc hội có nhiệm vụ “giải thích Hiến pháp…”. Bao giờ thì Uỷ ban thường vụ Quốc hội giải thích, và sẽ giải thích thế nào về những mâu thuẫn mang tính vi hiến trong Hiến pháp 2013?
Điều 119 Hiến pháp 2013 quy định: “Mọi văn bản pháp luật khác phải phù hợp với Hiến pháp.” Làm sao có thể đòi hỏi “Mọi văn bản pháp luật khác phải phù hợp với Hiến pháp”, khi chính bản thân Hiến pháp cũng không “phù hợp với Hiến pháp”? Biết tuân theo điều nào của Hiến pháp khi chúng mâu thuẫn với nhau?
Đối với Hiến pháp 2013, khi thông qua nó thì Quốc hội đã tiên phong thực hiện “hành vi vi phạm Hiến pháp” đầu tiên. Trong các “hành vi vi phạm Hiến pháp”, thì ban hành Hiến pháp vi hiến là “hành vi vi phạm Hiến pháp” nghiêm trọng và đáng chê trách nhất. Nghiêm trọng bởi nó gây tác hại cho cuộc sống của hơn 90 triệu người dân và cả tương lai Dân tộc. Nghiêm trọng bởi nó đẩy các nhà lập pháp và hành pháp rơi vào hoàn cảnh buộc phải vi hiến, vì nếu tuân theo điều này thì lại vi phạm điều kia. Nghiêm trọng bởi “hành vi vi phạm Hiến pháp” này mang tính “đầu têu”, vì Quốc hội nêu gương xấu cho bộ máy chính quyền ở tất cả các cấp trong việc vi phạm Hiến pháp và pháp luật. Đáng chê trách bởi lỗi này dễ tránh nhất, vì lập hiến ở vị thế chủ động, không bị lệ thuộc vào các văn bản pháp quy khác.
Điều 119 Hiến pháp 2013 cũng quy định: “Mọi hành vi vi phạm Hiến pháp đều bị xử lý.” Vậy Quốc hội sẽ “xử lý” cái “hành vi vi phạm Hiến pháp” ấy của chính mình như thế nào?
Bất luận Quốc hội sẽ giải thích và tự xử lý thế nào, thì chúng ta cũng phải băn khoăn với câu hỏi: Một văn bản chứa đựng nhiều điều khoản mâu thuẫn với nhau như thế, thì có xứng đáng là Hiến pháp hay không?
Ngày 4 tháng 9 năm 2014
H. X. P.
Cùng tác giả:
Hiến pháp 2013 – Sửa nhầm hay đổi thiệt?
Đảng và Nhân dân – Vị thế bị tráo
Uẩn khúc trong Điều 4 Hiến pháp
Rủi cho Phương Uyên – May cho Dimitrov
Quốc hiệu nào hội tụ lòng Dân?
Chỗ đứng của Nhân dân trong Hiến pháp
Teo dần quyền con người trong Hiến pháp
Một số khía cạnh hình sự của vụ án Tiên Lãng – Hải Phòng
Nhân vụ Tiên Lãng bàn về công vụ
Về huyền thoại điện hạt nhân giá rẻ
Mạn bàn về an toàn điện hạt nhân
Nguồn: hpsc.iwr.uni-heidelberg.de