Danh ngôn

Trong mọi cộng đồng, chúng ta cần một nhóm thiên thần gây rối.

We need, in every community, a group of angelic troublemakers.

(Bayard Rustin – trích bài phát biểu tại New York City 1963)

Trong mọi trường hợp, chắc chắn rằng sự thiếu hiểu biết, đi kèm với quyền lực, là kẻ thù tàn bạo nhất có thể có của công lý.

It is certain, in any case, that ignorance, allied with power, is the most ferocious enemy justice can have.

(James Baldwin - No Name in the Street 1972)

Các cuộc cách mạng và các cá nhân có thể bị giết hại, nhưng bạn không thể giết chết các ý tưởng.

While revolutionaries and individuals can be murdered, you cannot kill ideas.

(Thomas Sankara, một tuần trước khi bị ám sát, 1987)

Không có cảm giác nào cô đơn hơn việc bị chính đất nước mình trục xuất.

There's not a more lonely feeling than to be banished by my own country.

(Kiyo Sato – Kiyo’s Story 2009)

Ban Biên tập

Địa chỉ liên lạc:

1. Thơ

tho.vanviet.vd@gmail.com

2. Văn

vanviet.van14@gmail.com

3. Nghiên cứu Phê Bình

vanviet.ncpb@gmail.com

4. Vấn đề hôm nay

vanviet.vdhn1@gmail.com

5. Thư bạn đọc

vanviet.tbd14@gmail.com

6. Tư liệu

vanviet.tulieu@gmail.com

7. Văn học Miền Nam 54-75

vanhocmiennam5475@gmail.com

Tra cứu theo tên tác giả

Chủ Nhật, 9 tháng 11, 2014

CHẾ ĐỘ PHONG KIẾN Ở LIÊN XÔ (3)

Anatoly Tille

Phạm Nguyên Trường dịch

Chương 4. Chế độ nhà nước

Nước Nga vĩ đại kết đoàn liên bang bền vững của các nước cộng hòa tự do.

(Quốc ca Liên Xô)

Điều 70 hiến pháp Liên Xô tuyên bố rằng Liên Xô là “một nhà nước thống nhất, được thành lập theo nguyên tắc liên bang xã hội chủ nghĩa, trên cơ sở quyền tự quyết và tự nguyện liên kết của các nước Cộng hòa Xô viết Xã hội chủ nghĩa bình đẳng với nhau về quyền lợi và nghĩa vụ”.

Xin bắt đầu bằng nguyên tắc “tự quyết” và “tự nguyện”. Trước hết chúng ta cùng xem xét Sắc lệnh về hòa bình, một trong những sắc lệnh quan trọng nhất trong số các “sắc lệnh Tháng Mười”, niềm tự hào của ngành tuyên truyền và khoa học pháp lí Liên Xô (nhưng không được trích dẫn!). Sắc lệnh này do chính Lenin viết, rất đáng lưu ý và đáng được phổ biến. Sắc lệnh này đưa ra định nghĩa về sự chiếm đóng như sau: “… đấy là bất kì một sự liên kết nào của một sắc tộc nhỏ và yếu vào một nhà nước lớn và mạnh mà không có sự đồng ý và mong ước, được thể hiện một cách rõ ràng, chính xác và tự nguyện của sắc tộc ấy, dù sự liên kết đó được thực hiện khi nào, dù dân tộc liên kết hay bị kìm giữ bằng vũ lực có phát triển hay lạc hậu đến đâu”. Và đây là những điều kiện của quyền tự quyết: “Nếu một dân tộc nào đó bị giữ trong biên giới của một nhà nước bằng vũ lực, nếu dân tộc đó, trái với ước nguyện của họ, dù ước nguyện này được thể hiện trên báo chí, trong các cuộc hội nghị, trong các nghị quyết của các đảng phái và các cuộc khởi nghĩa chống lại ách áp bức dân tộc, không được quyền biểu quyết một cách tự do, với điều kiện rút toàn bộ quân đội của nước sát nhập hay nói chung là nước lớn hơn, để giải quyết - mà không bị bất cứ áp lực nào - vấn đề hình thức nhà nước thì việc sát nhập được coi là chiếm đóng nghĩa là bằng xâm lược và đàn áp!”.

Tuyệt vời!

Nhưng nếu xem xét toàn bộ lịch sử xây dựng Liên bang các nước Cộng hòa Xô viết Xã hội chủ nghĩa từ quan điểm của tài liệu lịch sử này thì ta có thể nói một cách tự tin rằng đấy là lịch sử của những cuộc chiếm đóng, nghĩa là bằng xâm lược và bạo lực; quyền tự quyết của các dân tộc và liên kết tự nguyện của các nước cộng hòa chưa bao giờ xảy ra cả. Ngay từ năm 1919, tại đại hội VIII của Đảng, Piatakov đã yêu cầu từ bỏ khẩu hiệu quyền tự quyết của các dân tộc: “Liệu chúng ta có cho phép quần chúng lao động Ukraine toàn quyền quyết định hình thức nhà nước của giai cấp vô sản và nông dân Ukraine không? Tất nhiên là không!”. Và trong cương lĩnh của Đảng do đại hội thông qua đã không còn từ “tự quyết” nữa.

Trên thực tế “quyền tự quyết dân tộc” và “liên kết tự nguyện” được thực hiện như thế nào? Có rất nhiều sách báo và tài liệu về vấn đề này. Ở đây không có điều kiện mô tả những bước thăng trầm, những âm mưu của các giai cấp và chủng tộc, những bi hài kịch và những trò hề, những vụ đàn áp, khi các dân tộc muốn thể hiện ý chí của mình, và đấy cũng không phải nhiệm vụ của cuốn sách này. Chỉ xin xem xét khía cạnh pháp lí của vấn đề.

Xin bắt đầu từ tên gọi: Cộng hòa xã hội chủ nghĩa liên bang Nga (RSFSR), cái tên dùng để chỉ liên bang Nga, nhà nước lớn nhất trên lãnh thổ Liên Xô nghĩa là đế chế Nga mà Lenin đã có lần gọi là “nhà tù của các dân tộc”. Cách mạng khơi lại ước vọng tự nhiên của các dân tộc: trốn khỏi nhà tù. Và chính ở đây, người ta thấy sự mềm dẻo thiên tài của Lenin. Trong khi “Bạch vệ” bám chặt khái niệm “thống nhất, không thể nào chia cắt” làm cho nhân dân oán hận, thì Lenin lại theo đuổi mục đích ấy với những khẩu hiệu về quyền tự quyết. Đầu tiên ông lựa chọn hình thức tự trị, nhưng sau này, khi thấy các lực li tâm quá lớn, ông chuyển sang thành lập các nước cộng hòa liên bang “độc lập”.

Từ năm 1918 đến năm 1922, trong nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa liên bang Nga có hơn 20 nước và tỉnh tự trị được thành lập[1]. Tiêu chí dân tộc trong các khu vực tự trị này được xác định một cách rất tương đối. Ngày 30 tháng 4 năm 1918 đại hội Xô viết Turkestan (dĩ nhiên là do những người Bolshevik tổ chức và lãnh đạo), một đơn vị hành chính của nước Nga Sa hoàng có nhiều sắc dân sinh sống, tuyên bố thành lập nước cộng hòa tự trị Turkestan. Hiện nay trên vùng lãnh thổ này có đến bốn nước cộng hòa liên bang. Chẳng bao lâu sau chính quyền Xô viết đã bị lật đổ, chính quyền này chỉ được tái lập sau một cuộc chiến tranh đẫm máu.

Sau Turkestan, đến lượt các nước cộng hòa tự trị khác (Bashkirskaia, Tartarskaia, Công xã lao động Karelskaia, Công xã lao động Đức vùng Volga…) được thành lập theo các nghị định của Ban chấp hành trung ương Cộng hòa xã hội chủ nghĩa liên bang Nga, nghĩa là theo các quyết định của cơ quan hành pháp Nga. Không ai hỏi ý kiến của nhân dân hết.

Cuối năm 1918, đầu năm 1919, đại hội các Xô viết ở Litva, Latvi, Estonia và Bạch Nga tuyên bố thành lập các nước cộng hòa và thông qua hiến pháp tương tự như hiến pháp Cộng hòa xã hội chủ nghĩa liên bang Nga. Ngày 25 tháng 12 năm 1918, Ban chấp hành trung ương Cộng hòa xã hội chủ nghĩa liên bang Nga thông qua các nghị định của Hội đồng dân ủy Cộng hòa liên bang Nga về việc công nhận nền độc lập của các nước cộng hòa vùng Baltic, nhưng bản chất pháp lí của mối quan hệ của các nước này với Cộng hòa xã hội chủ nghĩa liên bang Nga thì lại không được xác định. Chính quyền Xô viết ở Baltic không tồn tại được lâu. Những người Bolshevik bị đánh bật khỏi khu vực và mặc dù không muốn nhưng họ buộc phải công nhận nền độc lập của các nước đó, lần này thì công nhận thật sự. Tình hình Phần Lan cũng tương tự như thế, những đội quân của Toibo Antikainen đã cố gắng thiết lập chính quyền Xô viết tại đây bằng một cuộc chiến đẫm máu nhưng đã chịu thất bại, cuối cùng, Cộng hòa xã hội chủ nghĩa liên bang Nga phải công nhận nền độc lập của Phần Lan.

Các nước cộng hòa “độc lập” kí với nhau các “hiệp định” xác định sự thống nhất về hải quan, thuế vụ, giao thông và bưu chính v.v… Nhưng năm 1921, khi Stalin chuẩn bị dự thảo nghị định về việc liên kết các nước cộng hòa trên cơ sở tự trị thì bị Lenin kịch liệt phê phán và đề nghị thành lập liên bang. Ngày 30 tháng 12 năm 1922, đại hội lần thứ nhất Xô viết Liên Xô tuyên bố thành lập Liên bang các nước cộng hòa xô viết xã hội chủ nghĩa gồm bốn nước: Nga, Ukraine, Bạch Nga và Ngoại Kavkaz. Tại vùng Ngoại Kavkaz có rất nhiều dân tộc và sắc dân sinh sống cho nên không thể coi Cộng hòa Ngoại Kavkaz là được thành lập trên cơ sở dân tộc được. Ý kiến của nhân dân không những không được ai hỏi tới mà sau đó họ còn chiến đấu một cách tuyệt vọng cho nền độc lập của mình. Các cuộc khởi nghĩa đã bị lực lượng vũ trang, có sự trợ giúp của các đảng viên Bolshevik địa phương, đàn áp một cách khốc liệt.

“Thể hiện ý chí của nhân dân”, Ban chấp hành trung ương (cơ quan hành pháp) Turkestan và đại hội các xô viết của Bukhara và Khorezma (1924) đã quyết định thành lập hai nước cộng hòa liên bang là Uzbekistan và Turkmenistan và hai nước cộng hòa tự trị là Tadgikistan và Kirgidia.

Hiến pháp Liên Xô năm 1936 ghi nhận sự tồn tại của 10 nước cộng hòa trong liên bang.

Năm 1939, Hitler và Stalin, hiện Xô viết tối cao Liên Xô đã công nhận như thế, quyết định chia nhau châu Âu. Trên bản đồ phân chia vào ngày 28 tháng 9 năm 1939, Stalin đã đặt bút kí bên trên Hitler, chữ kí này dài đến 58 centimet. Sau khi phái đoàn của Ribentrov trở về từ Moskva, Hitler đã reo lên: “Toàn thế giới đã nằm trong túi ta”. Nếu Stalin không reo lên như thế thì cũng không nghi ngờ gì rằng ông ta lập tức bắt tay vào hành động.

Sau khi chia Ba Lan, Stalin nhắm ngay tới Phần Lan. Ngày 21 tháng 3 năm 1940, Xô viết Tối cao Liên Xô ra nghị định chuyển nước cộng hòa tự trị Karel thành nước cộng hòa liên bang Karel - Phần Lan. Nhưng ngày 16 tháng 7 năm 1956, Xô viết Tối cao Liên Xô “sau khi xem xét nguyện vọng của người lao động (?), sau khi xem xét thành phần dân tộc, sự thống nhất về kinh tế và các mối liên kết chặt chẽ với Cộng hòa xã hội chủ nghĩa liên bang Nga” (những chuyện này không có hồi năm 1940?) đã quyết định chuyển nước cộng hòa này thành nước cộng hòa tự trị nằm trong thành phần Cộng hòa xã hội chủ nghĩa liên bang Nga.

Lịch sử nhập rồi tách các nước cộng hòa vùng Baltic và nước cộng hòa Moldavia thì ai cũng biết, chẳng cần nói thêm ở đây.

Tuy vậy, không thể không nói đến số phận của một vài dân tộc: Chủ tịch đoàn Xô viết Tối cao Liên Xô, ngày 7 tháng 9 năm 1941, đã ra nghị quyết chia “nước cộng hòa của người Đức vùng Volga” cho hai tỉnh Saratov và Stalingrad, còn chính người Đức sống ở đấy thì bị trừng phạt như những tội phạm hình sự, không thông qua tòa án, bằng cách lưu đày đến các trại cải tạo và lao động khổ sai ở Sibiri và Kazakhstan. Một phần ba đã chết trên đường lưu đầy. Người Đức là dân tộc đầu tiên, trong đó có cả người già, phụ nữ và trẻ con còn ẳm ngửa, bị tuyên bố là tội phạm. Hiến pháp và các văn bản pháp quy khác đã bị vi phạm một cách trắng trợn nhất. Thí dụ, hiến pháp ghi nhận rằng lãnh thổ của các nước cộng hòa liên bang không thể bị thay đổi khi chưa có sự thỏa thuận của các nước này, trong khi đó Cộng hòa xã hội chủ nghĩa liên bang Nga không đưa ra bất kì văn bản nào về việc chia cắt đã nói ở trên. Cần nói thêm rằng, năm mươi năm sau, mặc dù về danh nghĩa, người Đức đã được phục hồi, nhưng các văn bản cũ thì vẫn chưa bị hủy bỏ và nước cộng hòa của người Đức thì chưa được tái lập.

Hiện nay người ta đã chính thức công nhận rằng nhiều dân tộc, trong đó có người Đức, người Tatar ở Krưm, người Triều Tiên, người Thổ Nhĩ Kì, người Meskhetin, người Tretren, người Ingush… đã bị đối xử một cách vô cùng bất công. Chưa một người nào trong số họ được đền bù cho số tài sản bị cướp đoạt và những đau khổ mà họ phải chịu đựng. Hơn thế nữa, nhiều người còn bị ngăn cản, không được trở về quê hương bản quán. Lí do được đưa ra: “hoàn cảnh thực tế”, sự phản đối của dân chúng địa phương v.v.. Thế mà sau khi người Mekhetin ở Pergan bị giết hại, buộc phải đưa họ đi nơi khác thì lại tìm được đất và nhà cho họ ở các tỉnh miền Bắc nước Nga, có ai hỏi ý kiến dân địa phương không? Tại sao không đưa họ trở về quê hương bản quán?

Các nhà bình luận hiện nay thích nói rằng biên giới giữa các nước cộng hòa được hoạch định một cách tùy tiện, không tính đến quyền lợi của các dân tộc, theo kiểu “lấy tẩu thuốc vẽ lên bản đồ”. Đúng như thế. “Chính sách dân tộc của Đảng cộng sản theo đường lối của Lenin và Stalin” luôn luôn là chính sách đế quốc chủ nghĩa, dựa trên nguyên tắc “chia để trị”. Lenin, Stalin và những người kế tục họ, kể cả Gorbachev và Yeltsin, đều không tôn trọng ý chí của nhân dân. Các đường biên giới được tính toán kĩ để sao cho các dân tộc luôn luôn mâu thuẫn, không thể liên kết được với nhau, sao cho chính quyền trung ương luôn luôn có thể đóng vai người phán xử cuối cùng. Chính vì thế mà tỉnh Nogornưi Karabakh với tuyệt đại đa số dân chúng là người Armenia lại bị tách khỏi Armenia và đưa vào lãnh thổ Azebaigian, còn tỉnh Nakhitrevan thì lại bị tách khỏi Azerbaigian. Cuộc xung đột ở Karabach có thể đã được giải quyết dưới thời Gorbachev, nhưng ông ta không muốn như thế.

Các nước cộng hòa liên bang chưa bao giờ được độc lập. Các viên toàn quyền đều được bổ nhiệm từ Moskva. Như sẽ được chứng minh sau đây, bộ máy trung ương tập quyền của Đảng đã đóng vai trò của chính phủ. Tại tất cả các nước cộng hòa đều diễn ra quá trình Nga hóa, người Nga tràn ngập khắp nơi, sự đồng hóa diễn ra cả bằng vũ lực nữa. Thí dụ, tại các nước vùng Baltic, việc đồng hóa được thực hiện bằng cách đưa vào đấy các đơn vị quân đội và xây dựng những xí nghiệp to lớn một cách không cần thiết rồi sau đó phải “mời” các chuyên gia từ Nga sang. Tôi còn nhớ rất rõ những người lãnh đạo gốc Latvi-Litva “dân tộc chủ nghĩa”, phản đối cách làm đó, đã bị đàn áp như thế nào.

Những điều vừa trình bày cũng đủ để độc giả hiểu rằng không làm gì có chuyện liên bang, liên hiệp gì hết. Liên Xô là một nhà nước trung ương tập quyền, một đế chế phong kiến cuối cùng trên hành tinh chúng ta.

Gorbachev, bằng việc giảm bớt quyền lực và đàn áp, đã khơi mào cho quá trình tan rã Liên Xô. Nhưng ông ta vẫn có ý định đè bẹp tinh thần dân tộc bằng các biện pháp cũ. Cách làm thật đơn giản: khi một nước cộng hòa nào đó có ý định đòi được tự chủ thì ngay lập tức sẽ xuất hiện xung đột sắc tộc (tại Moldavia, xung đột xảy ra ở các tỉnh Tiraspol và Gagauzia, tại Armenia thì xảy ra ở Karabach, tại Grudia thì xảy ra ở Abkhazia và Nam Osetia v.v…) hoặc là những vụ thanh toán lẫn nhau giữa các dân tộc đã từng sống đoàn kết bên nhau hàng chục năm trời. Ta sẽ xem xét một cách kĩ hơn những sự kiện ở Azerbaigian, nơi xảy ra các vụ giết hại người Armenia một cách “bất ngờ”. Rất nhiều người già, phụ nữ và trẻ em bị giết hại môt cách cực kì dã man ở Sumgaite. Không phải vô tình mà tôi đưa chữ bất ngờ vào ngoặc kép: trước đó người ta đã biết rằng sẽ xảy ra những vụ giết người, chính quyền đã được thông báo và đã bảo đảm sẽ bảo vệ người Armenia… Sau vụ chém giết, báo chí chính thức đã viết về “những tên tổ chức” và sự trừng phạt không thể tránh khỏi. Nhưng sau đó thì “không tìm thấy” bọn chúng. Một vài kẻ a dua bị trừng phạt rất nhẹ (so với tội lỗi của chúng). Trong khi đó, lại có thông tin nói rằng đấy là do lực lượng Alfa, một lực lượng chuyên về phá hoại và giết người của KGB, thực hiện. Sau đó là vụ tương tự về tính chất nhưng lớn hơn rất nhiều về số nạn nhân đã xảy ra ở Baku. Lần này, không những người ta đã biết trước các vụ cướp bóc và giết người mà còn kịp đưa cả quân đội tới, nhưng hóa ra cũng giống như ở Varsava ngày nào, quân đội đã án binh bất động cho đến khi vụ chém giết chấm dứt. Gorbachev tuyên bố tình trạng khẩn cấp và đưa bộ đội vào Baku khi trong thành phố đã không còn một người Armenia nào nữa. Binh lính nổ súng vào bất kì người nào họ gặp, hàng trăm dân thường thiệt mạng trong khi binh lính không hề hấn gì cả. Chỉ cần đọc các nghị định thời đó là thấy ngay ý nghĩa của các sự kiện: cấm bãi công, giải tán các tổ chức xã hội, cấm mít tinh v.v… Báo chí lại viết về “những kẻ tổ chức” các vụ bạo loạn, nhưng rồi vẫn không tìm ra. Vấn đề là ai sẽ tìm, họ tự đi tìm mình à[2]?

Thế mà việc ban bố tình trạng khẩn cấp và vụ đàn áp phong trào dân tộc như thế lại được các nước phương Tây tỏ ra “thông cảm” đấy.

Cho đến nay người ta vẫn chưa tìm được những kẻ tổ chức các vụ giết người hàng loạt ở Tbilisi, các vụ bắn vào thường dân ở Vinhius và Riga… Cũng như mọi khi, Gorbachev không “biết gì hết”. Những người trao cho ông ta huân chương hòa bình Nobel cũng không biết gì hết.

Gorbachev còn định sử dụng cả những biện pháp chính trị nhằm ngăn chặn các xu hướng li tâm của các nước cộng hòa. Theo “con đường của Lenin”, ông ta có ý định trói tay các nước cộng hòa và buộc họ phải kí một hiệp định liên bang mới.

Nhưng ngay lúc đó đã xảy ra cuộc đảo chính tháng 8 năm 1991, do những người thân cận nhất, những chiến hữu của ông ta thực hiện. Không ai biết cuộc đảo chính diễn ra như thế nào, Gorbachev đóng vai trò gì? Tất cả đều mờ mịt, phiên tòa đã bị hoãn đi hoãn lại nhiều lần và bây giờ thì không ai biết nó có diễn ra hay không.

Trong khi đó tổng thống B. Yetsin của nước Nga vì muốn tước quyền lực của Gorbachev đã giải tán luôn Liên Xô.

Ba người: Yeltsin, Kravtruk và Shushkevik, không cho quốc hội biết, cũng chẳng cần các nước cộng hòa khác, đã tự tuyên bố giải thể Liên Xô và thành lập Cộng đồng các quốc gia độc lập. Theo quan điểm pháp lí thì đây rõ ràng là một cuộc đảo chính và theo đúng tinh thần của điều 1 bộ luật hình sự thì họ đã mắc tội “Phản bội tổ quốc”… vì đã làm phương hại đến sự toàn vẹn lãnh thổ của Liên Xô.

Anatoly Sharansky bị xử 15 năm tù theo điều khoản này, hình như ông bị giam mười năm rồi được thả dưới áp lực dư luận quốc tế. Tất cả các báo đều đưa tin về phiên tòa này, thế mà cá nhân tôi không thấy ông ta có những hành động cụ thể nào. Theo những gì tôi biết thì ông ta chuyển ra nước ngoài tin tức về những người Do Thái muốn đi ra nước ngoài. Không hiểu Sharansky hay những người cản trở người Do Thái đi ra nước ngoài, mặc dù nước ta đã kí Tuyên ngôn nhân quyền, làm phương hại đất nước nhiều hơn. Dù sao mặc lòng, hoạt động của ông ta không thể nào so sánh được với “âm mưu của bè lũ tam nhân”, những kẻ đã xóa sổ Liên Xô và tước quyền của Tổng thống được bầu một cách hợp pháp. Xin nhắc lại rằng lúc đó nhân dân lao động đã thể hiện “ý chí” của mình bằng cách nói “có” với Liên Xô, dù rằng cách hỏi có hơi đáng ngờ.

Tiếp theo sẽ là gì? Thật khó dự đoán, trước hết là vì chính sách đối nội và đối ngoại của người đứng đầu nhà nước và chính phủ Yeltsin là không thể dự đoán được (“quốc hội” và chủ tịch của nó thì chẳng cần nói làm gì). Nói chung, ông ta sẽ tiếp tục đường lối của Gorbachev, một đường lối đã làm Liên Xô tan rã. Khi nói với các nước cộng hòa: “Có khả năng đến đâu thì độc lập đến đấy”, ông ta đã kích động “phong trào” đòi độc lập của các khu tự trị, thậm chí một số vùng cũng đòi được độc lập. Những cuộc xung đột sắc tộc tiếp tục được kích hoạt, đấy chính là cách làm cho nhân dân xao lãng khỏi các khó khăn kinh tế. Trong khi ông bộ trưởng ngoại giao đi vãn hồi hòa bình ở Nam Tư thì bộ trưởng bộ quốc phòng lại phát cho các bên tham chiến ở Kavkaz xe tăng, máy bay lên thẳng và bệ phóng hỏa tiễn Grad có kèm cả tên lửa. Nắm trong tay một đội quân đông nhất thế giới và quân đội đang còn phục tùng “trung ương”, hoàn toàn đủ sức quét sạch các bên tham chiến thì họ lại lậy van người ta đưa đội quân “mũ nồi xanh” của Liên Hiệp Quốc vào…

Tóm lại, có thể nói rằng Liên bang các nước cộng hòa xô viết xã hội chủ nghĩa không phải là một liên bang mà là một nhà nước tập quyền, không phải là nhà nước Xô viết vì các Xô viết chẳng có quyền hành gì, cũng không phải là xã hội chủ nghĩa mà là một nhà nước phong kiến, không phải là những nước cộng hòa mà là những nước quân chủ chuyên chế tuyệt đối (các công quốc chư hầu).

Chương 5. Đảng Cộng sản

Từ lâu người ta đã biết rằng cái gọi là “Đảng cộng sản” thực chất là một tổ chức nhà nước, được quốc tế công nhận: Tổng bí thư Đảng, dù không nắm giữ chức vụ nhà nước nào, vẫn cứ thay mặt nhà nước kí các hiệp định, ông ta cũng được đón tiếp như nguyên thủ quốc gia[3].

Hiến pháp Cộng hòa xã hội chủ nghĩa liên bang Nga năm 1918 (hiến pháp “Lenin”) và tương tự như thế, hiến pháp năm 1924 không nói đến Đảng và không xác định vị trí của Đảng trong hệ thống nhà nước, mặc dù ngay lập tức, Đảng đã nhảy vào vị trí lãnh đạo chính phủ. Hiến pháp Liên Xô năm 1936 (hiến pháp “Stalin” đúng hơn phải gọi là hiến pháp “Bukharin”) hay “Hiến pháp của chủ nghĩa xã hội” coi Đảng là “hạt nhân lãnh đạo tất cả các tổ chức của nhân dân lao động, cũng như các tổ chức xã hội và nhà nước”, nhưng đặc điểm này được ghi ở điều 126 chương 6, sau khi đã liệt kê một loạt tổ chức xã hội khác. Hiến pháp “Brezhnev” năm 1977[4] đã đưa ngay đặc điểm này vào điều 6, các tổ chức xã hội khác được liệt kê trong điều 7, như vậy là vai trò của Đảng trong hệ thống chính quyền đã được nhấn mạnh thêm.

Nghịch lí là ở chỗ Đảng cộng sản đã thôi tồn tại ở Liên Xô từ rất lâu rồi. Lenin, người thành lập ra nó đã tiêu diệt nó ngay sau khi Cách mạng Tháng Mười thành công. Đảng cộng sản, “một Đảng kiểu mới” ngay từ khi mới thành lập đã đặt ra cho mình mục đích giành chính quyền và toàn bộ tổ chức “của những người cách mạng chuyên nghiệp” được xây dựng để phục vụ mục đích này. Đảng là liên minh chính trị của những người đồng quan điểm. Nhưng sự thống nhất quan điểm của số đông chỉ có thể xác định khi từng người có điều kiện thể hiện quan điểm của mình. Không bao giờ có sự thống nhất tuyệt đối, nhưng nhờ thảo luận mà có thể xác định được một quan điểm chung. Trước cách mạng, đôi khi Lenin đã phải chiến đấu chống lại đa số trong Đảng, có lúc ông phải một mình chống chọi lại tất cả, ông từng chia tách Đảng, nhưng quan điểm của mình thì kiên quyết bảo vệ đến cùng. Nhưng tại đại hội X (1921) Lenin cho thông qua nghị quyết “Về sự thống nhất của Đảng” và sau đó mọi hoạt động bè phái đều bị coi là bất hợp pháp. Từ đó trở đi, sự thống nhất về tư tưởng được quyết định từ bên trên, toàn Đảng phục tùng trung ương, tuân theo một cây gậy chỉ huy của trung ương. Trước khi chiếm được chính quyền, Plekhanov đã nói rằng những người Bolshevik lèo lái ban chấp hành trung ương, buộc toàn Đảng phải lệ thuộc vào ban chấp hành. Sau khi giành được chính quyền thì điều đó càng trở nên ràng hơn. Mặc dù đến tận năm 1927, trong giai đoạn diễn ra các cuộc đấu tranh giành quyền lực sau khi Lenin qua đời, sự bất đồng về tư tưởng và hoạt động bè phái vẫn thường xảy ra, nhưng những người có tư tưởng như thế luôn luôn bị đàn áp bằng những biện pháp khủng bố khốc liệt nhất. Sau giai đoạn này, các Đảng viên buộc phải tuân thủ một cách vô điều kiện “đường lối chung của Đảng” dù đường lối ấy có vặn vẹo thế nào cũng mặc. Dù có xảy ra những bước ngoặt đột ngột đến mức nào, Đảng viên cũng phải ủng hộ và vận động quần chúng ủng hộ đường lối của Đảng và thực hiện các mệnh lệnh của trung ương như những người lính thực thụ. Chính vì lí do đó mà nhiều nhà lãnh đạo thường tự nhận: “Tôi là người chiến sĩ của Đảng”.

“Đảng cộng sản” chưa ở đâu và chưa bao giờ là “Đảng của giai cấp công nhân” như nó thường tự tuyên bố. Quyền lãnh đạo Đảng luôn luôn nằm trong tay tầng lớp trí thức phi giai cấp và những kẻ phiêu lưu[5].

Sau khi giành được chính quyền thì số lượng những kẻ phiêu lưu và háo danh chui vào Đảng lại càng nhiều hơn. Trong khi đó “Đảng” vẫn cố gắng giữ nguyên cái hình thức bên ngoài “là đội tiên phong của giai cấp công nhân” bằng cách xuyên tạc các số liệu (cán bộ Đảng và các bộ trưởng cũng được coi là công nhân nếu họ đã từng làm lao động chân tay một thời gian) và cố ý kết nạp các Đảng viên là công nhân. Công nhân nói chung chẳng thích thú gì với chuyện vào Đảng thì được kết nạp một cách dễ dàng, trong khi trí thức thì bị hạn chế[6].

Đa số Đảng viên công nhân chỉ có tính chất trang trí cho các báo cáo, họ không có bất cứ vai trò gì. Dưới thời Gorbachev, khi tư tưởng đã tương đối cởi mở hơn thì chính công nhân lại là những người ra khỏi Đảng trước, vận động họ vào Đảng là việc cực kì khó khăn[7].

Vì không có chuyện thống nhất về tư tưởng cho nên trở thành Đảng viên cũng có nghĩa là phải tuân thủ kỉ luật Đảng như một người lính. Nếu Đảng quyết rằng phải trồng ngô ở Estonia hay ở tỉnh Vologod, nơi, ngay một người không hiểu gì về nông nghiệp cũng biết rằng ngô không thể nào sinh sôi nảy nở được thì Đảng viên vẫn phải bảo đảm kế hoạch gieo trồng, dù biết rằng làm như thế là có tội với dân, với nước. Nếu “Đảng” đem quân vào Hungaria, Tiệp Khắc hay Afghanistan thì tất cả Đảng viên đều phải ủng hộ. Nếu hôm qua chủ nghĩa Hitler còn là “kẻ thù không đội trời chung” mà hôm nay Đảng ra lệnh không coi nó là kẻ thù thì tất cả Đảng viên phải không coi nó là kẻ thù. Ngày mai nó lại có thể trở thành kẻ thù nhưng nếu anh gọi nó là kẻ thù trong ngày hôm nay thì có nghĩa là anh “chống lại quan điểm của Đảng” đấy.

Đối với một số người thì vào Đảng là bắt buộc. Không cứ phải là công chức, thí dụ, nếu bạn muốn làm việc trong lĩnh vực lô gích học, tâm lí học, triết học và những ngành “khoa học xã hội” khác thì vào Đảng là yêu cầu bắt buộc.

Không phải Đảng viên cũng có thể leo lên các chức vụ cao (thí dụ như Lysenko, chủ tịch Viện hàn lâm khoa học nông nghiệp), nhưng bị khai trừ khỏi Đảng không chỉ đồng nghĩa với việc xóa tên khỏi tầng lớp “cán bộ” (nomenclature) hay mất công ăn việc làm mà cuộc sống còn bị nhiều sất bất sang bang nữa. Vì vậy, việc bảo vệ sự thống nhất quan điểm của Đảng, bảo vệ kỉ luật Đảng là một vũ khí cực kì lợi hại.

Đa số quần chúng đảng viên chẳng có ảnh hưởng gì đến “đường lối, chính sách của Đảng”. Về thực chất, Đảng chỉ là bộ máy của Đảng, là tầng lớp “nomenclature”. Đấy cũng là bộ máy nhà nước. Điều đáng lưu ý là bộ máy của Đảng không bao giờ được nhắc tới trong điều lệ Đảng. Lần đầu tiên nó được nhắc tới trong điều lệ được thông qua năm 1986: “Trong ban chấp hành trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô, ban chấp hành trung ương Đảng các nước cộng hòa, trong ban chấp hành Đảng bộ các khu, các tỉnh, thành phố, huyện sẽ thành lập bộ máy của Đảng để tổ chức và kiểm tra việc thực hiện các nghị quyết của Đảng và giúp đỡ các tổ chức cấp dưới”. Công thức được dẫn ra bên trên không thể hiện được vai trò thực sự của bộ máy Đảng. Xin lưu ý sự kiện sau đây: Ban chấp hành trung ương, theo điều lệ, là một cơ quan lãnh đạo tập thể gồm hàng trăm ủy viên chính thức và ủy viên dự khuyết. Nghĩa là tất cả các nghị quyết phải được thông qua tại các phiên họp toàn thể. Nhưng đa số các nghị quyết của Ban chấp hành trung ương, nghị quyết liên tịch giữa Ban chấp hành trung ương và Hội đồng bộ trưởng và các cơ quan khác (nhất là trong “giai đoạn cải tổ”) được thông qua bên ngoài hội nghị. Ban chấp hành trung ương nào ra nghị quyết? Tất nhiên là bộ máy của Ban chấp hành chuẩn bị dự thảo, còn Tổng bí thư, đấy là nói khi ông này có quyền lực tuyệt đối, sẽ quyết định hoặc tiến hành thảo luận trong Bộ chính trị hay Ban bí thư. Người ta chỉ lấy danh nghĩa Ban chấp hành để công bố nghị quyết mà thôi.

“Tập trung dân chủ” được coi là nguyên tắc xây dựng Đảng, tất cả các chức vụ, từ dưới lên trên, đều được bầu và chịu trách nhiệm trước tổ chức Đảng bầu ra mình. Trên thực tế, tất cả cán bộ Đảng đều do cấp trên cử và chỉ chịu trách nhiệm trước cấp trên mà thôi.

Không phải đại hội Đảng bầu ra Ban chấp hành trung ương mà là Ban chấp hành trung ương lựa chọn đại biểu dự đại hội. Bộ máy của Ban chấp hành trung ương (đa số cán bộ của bộ máy không phải là ủy viên trung ương) “lựa chọn” các ủy viên trung ương, các ủy viên Ban bí thư, các ủy viên trung ương các nước cộng hòa, ủy viên Đảng ủy các khu vực và các tỉnh Đảng bộ. Vì phụ thuộc vào bộ máy của Ban chấp hành trung ương, cơ quan quản lí tất cả các cán bộ lãnh đạo, nên “nomenclature” phải tìm mọi cách chiều chuộng các cán bộ từ cấp trưởng phòng hay thậm chí các chuyên viên của trung ương trở đi, cũng từ đó nảy sinh hiện tượng các “viên chức của trung ương có thể hành hạ ủy viên ban chấp hành khu vực, ủy viên thị ủy hay tỉnh ủy. Cần phải nhắc lại rằng bộ máy là để phục vụ các cơ quan dân cử và thực hiện các nghị quyết của các cơ quan này chứ không phải ngược lại”, đấy là lời của M. Gorbachev, một người hiểu rõ hơn ai hết công việc của bộ máy (báo cáo về chuyến đi của M. Gorbachev đến Tashken. Báo Tin tức, ngày 10 tháng 4 năm 1988). Nhưng nếu phải “nhắc lại” thì cũng có nghĩa là người ta đã quên. Họ đã quên là vì thực tế công tác của bộ máy trái ngược hoàn toàn với lí thuyết. Mặc dù đại hội XXVIII của Đảng Cộng sản Liên Xô (liệu nó có phải là đại hội cuối cùng không?) có vẻ dân chủ hơn các đại hội trước, nhưng nó vẫn là đại hội của bộ máy chứ không phải của các Đảng viên.

Ông A. Iakovlev, ủy viên Bộ chính trị, đã nêu lên đặc trưng của hệ thống hiện nay là: “một nền kinh tế trì trệ, phản dân chủ một cách trắng trợn, quan liêu và tham nhũng. Các cơ quan của Đảng, trên thực tế, đã thay thế tất cả các tổ chức khác, nhưng lại không chịu bất kì trách nhiệm về kinh tế hay pháp lí nào về các chỉ thị và nghị quyết của mình” (Sự thật, ngày 23 tháng 6 năm 1990).

Đã hình thành một hệ thống cấp bậc nghiêm ngặt với những đặc quyền đặc lợi được xác định một cách cũng rất nghiêm ngặt, mỗi người trong số họ bám lấy đặc quyền đặc lợi này còn chặt hơn những ông nghị viên Nga ngày xưa bám vào chiếc ghế trong nghị viện. Tất cả, không trừ một ai, từ anh chuyên viên khu ủy cho đến anh cán bộ trung ương.

Tuy vậy, cũng không được coi thường vai trò của các ủy viên trung ương. Tuy không thật chính xác về mặt lịch sử, nhưng ta có thể so sánh Ban chấp hành trung ương với nghị viện của nước Nga xưa. Các ủy viên ban chấp hành (không kể những cô thợ vắt sữa hay những anh thợ tiện chỉ làm nhiệm vụ trang trí) đều nắm giữ những chức vụ quan trọng trong hệ thống quản lí nhà nước: Bí thư Ban chấp hành của các nước cộng hòa liên bang, bí thư tỉnh ủy, bộ trưởng, lãnh đạo KGB, lãnh đạo Bộ quốc phòng… Mỗi Tổng bí thư mới đều tiến hành thay đổi thành phần Ban chấp hành, đều đưa “người của mình” vào để có thể tạo ra một đa số ngoan ngoãn ủng hộ mình. Ban chấp hành chưa bao giờ đóng vai trò quan trọng trong các cuộc “đảo chính cung đình”, các cuộc đảo chính bao giờ cũng được thực hiện trong Bộ chính trị, nhưng kết quả lại cần phải được hội nghị Ban chấp hành ủng hộ.

Tổng bí thư của tất cả các “nước xã hội chủ nghĩa”, không phụ thuộc vào chức vụ trong bộ máy nhà nước, là người có quyền lực cao nhất. Trên thực tế, quyền lực này còn độc đoán và rộng hơn quyền lực của Sa hoàng. Vì vậy, nên coi chính quyền ở Liên Xô và các nước “xã hội chủ nghĩa” khác là nhà nước quân chủ chuyên chế, độc tài, chứ không phải là nước cộng hòa hay liên bang các nước cộng hòa gì cả. Hình thức chính quyền như thế cũng phù hợp với - theo đúng lí thuyết mác-xít về nhà nước và pháp luật - quan hệ sản xuất phong kiến và các quan hệ đặc thù khác của xã hội phong kiến.

Nguyên tắc “tôn sùng lãnh tụ” một cách công khai của Đảng phát xít của Hitler được che đậy bằng nguyên tắc “tập trung dân chủ” trong các nước “xã hội chủ nghĩa”, song sự tương đồng của các Đảng ấy rõ ràng đến nỗi chẳng cần mất thì giờ xem xét làm gì[8].

Mặc dù về danh nghĩa, tất các các cơ quan của Đảng, kể cả tổng bí thư đều do Đảng viên bầu, nhưng trong hệ thống bầu cử nhiều tầng nấc như thế, các ứng cử viên do cấp trên lựa chọn bao giờ cũng trúng cử, ngay cả khi tổ chức bỏ phiếu kín. Stalin chỉ có mấy “phiếu chống” mà số “chống” lại nhiều hơn Kirov, mà Kirov và hai phần ba đại biểu đại hội XVII, đại hội được gọi là “Đại hội của những người chiến thắng”, đã mất mạng rồi! Stalin quả là một người đùa ác!

Trong các nhà nước phong kiến, quyền lực của nhà vua được hỗ trợ bởi tôn giáo: hoàng đế là thiên tử, là con trời. Trong các “nước xã hội chủ nghĩa” lãnh tụ cũng được thần thánh hóa, ông ta được coi là người có trí tuệ siêu việt, thông thái không ai bằng, không có lĩnh vực hoạt động nào mà ông ta không thông hiểu, không có lĩnh vực nào mà những lời giáo huấn của ông ta không được đem ra áp dụng như những chân lí cuối cùng. Việc thần thánh hóa Lenin bắt đầu ngay từ khi ông ta còn sống. Một người mới thoát nạn mù chữ là Khrushchev cũng sẵn lòng đưa ra các giáo huấn cho các nhà văn và các nghệ sĩ, đa số những người này (ít nhất là về mặt công khai) đã ngoan ngoãn chấp nhận những lời giáo huấn đó. Nếu cả Stalin, cả Khrushchev lẫn Brezhnev (chưa nói đến Trernenko), trước khi giữ chức tổng bí thư đều chưa có gì chứng tỏ là những nhà thông thái siêu quần (Trotsky còn coi Stalin là “một sự tầm thường vĩ đại”) thì ngay sau khi lên chức, từng lời họ nói, thực chất là do các chuyên viên như Burlatsky viết, đều được nghiên cứu trong “hệ thống các trường Đảng”, được thảo luận trong các hội nghị và hội thảo khoa học, được hàng triệu các tuyên truyền viên, cổ động viên đem ra truyền bá chẳng khác gì các lời phán truyền của thượng đế.

Chưa nói đến con người “bất tử” là Lenin, một người được đặt trong Lăng giữa Hồng trường cho toàn dân chiêm ngưỡng, không ai đủ sức tính hết được các chức tước và danh vị của Stalin: Lãnh tụ của toàn thể loài người tiến bộ, Người cha, người thày và người bạn, Nhà bác học vĩ đại nhất của mọi dân tộc và mọi thời đại, Người cầm quân vĩ đại nhất của mọi dân tộc và mọi thời đại vân vân và vân vân… Ngay cả Brezhnev, một người chỉ mới đeo lon đại tá phụ trách chính trị và chưa từng chỉ huy ngay cả một đại đội cũng thành… “người cầm quân vĩ đại” như thường. Tôi không hiểu đối với đất nước thì giữa việc tặng cho Brezhnev huân chương “Chiến công” (trái với tiêu chí của Huân chương này) và tước danh hiệu này sau khi ông ta chết, điều nào nhục nhã hơn. Cả hai đều có đóng góp của Gorbachev.

Ở phương Tây, khi thấy các nước “xã hội chủ nghĩa” coi các lãnh tụ quá cố chẳng khác gì những người còn sống, lúc thì đưa lên tận mây xanh, lúc thì chửi rủa hết lời, người ta nói rằng các nước này có quá nhiều “tử khí”. Kể cũng có cơ sở.

Thái độ đó không hoàn toàn là đặc điểm dân tộc của người Nga. “Những người cầm lái vĩ đại” như Mao Trạch Đông, Kim Nhật Thành, Fidel Castro, Hồ Chí Minh, Enver Hoxha, Tito và nhiều người khác đã và đang được được đối xử hệt như thế[9].

Thần thánh hóa lãnh tụ là hiện tượng gắn bó hữu cơ với hệ thống nơi một cá nhân độc chiếm quyền lực suốt đời. Nếu không thế thì trong điều kiện hiện nay không thể nào lí giải nổi cái sự tham quyền cố vị đến chết như thế. Chủ nghĩa vô thần cộng sản và thần thánh hóa là hai xu hướng loại trừ nhau. Quan điểm của “chủ nghĩa duy vật lịch sử”, bản chất của chế độ kinh tế hay quyền lực nhà nước không thể giải thích được hiện tượng này vì “nhân dân là người làm nên lịch sử”, họ cũng là người lựa chọn ra lãnh tụ. Dĩ nhiên lãnh tụ phải là người thể hiện được trí tuệ của nhân dân. Ngay Trernenko thì cũng vậy thôi[10].

Tất nhiên điều đó cũng không loại trừ được các cuộc đảo chính cung đình, và cũng giống như thời các Pharaoh, lãnh tụ bị lật đổ (hay quá cố) sẽ bị đem ra “đấu tố”, sẽ bị ấn xuống tận bùn đen, tượng của ông ta sẽ bị đập phá, tên tuổi sẽ bị xóa khỏi bảng vàng bia đá.

Nhưng khi còn tại vị thì ông ta là thượng đế, là vua!

Sự thần thánh hóa còn lan sang cả các thành viên gia đình nữa. Trên tờ tạp chí Triều Tiên từng có bài viết về con trai Kim Nhật Thành với nhan đề: “Một trí tuệ bí ẩn”, trong đó có những câu như: “Nhà lãnh đạo thiên tài Kim Jong Il, người đại diện cho trí tuệ của dân tộc và sự thông thái của nhân loại…” v.v… Ceauşescu được gắn các danh hiệu: “Thiên tài vùng Karpat”, “Ánh thái dương”…, còn vợ ông ta thì được gọi là: “Người mẹ của nước Rumania”, “Nhà bác học vĩ đại”..v.v..

Một số người có thể phản bác bằng cách nói rằng thời quân chủ ngai vàng được thừa kế, nhưng lời phản bác như thế không có mấy giá trị: trong thời kì đầu của chế độ phong kiến việc bầu vua chúa không phải là chuyện hiếm. Ngoài ra, việc thừa kế cũng đã được rục rịch chuẩn bị rồi: Ceauşescu đang chuẩn bị cho con trai tên là Nika tiếp thu ngai vàng, ở Bắc Triều Tiên công việc chuẩn bị như thế cũng đang được tiến hành.

Tất nhiên là cần phải nói đến các sự kiện năm 1989, khi các chế độ ở Đông Âu bắt đầu sụp đổ, còn Liên Xô thì lung lay.

Gốc rễ của nó là sự sụp đổ, sự phá sản của hệ thống kinh tế phong kiến trong điều kiện của nền kinh tế phát triển trên toàn thế giới. Chỉ nhờ sự giàu có đặc biệt và sức mạnh quân sự của Liên Xô, các chế độ thối nát đó mới tồn tại được, nhưng bây giờ thì chính nền kinh tế tập trung quan liêu của Liên Xô cũng cáo chung rồi.

Giai cấp cầm quyền buộc phải cải tổ. Nhưng họ cũng không thể nào khắc phục được những mâu thuẫn không thể dung hòa: Liên Xô, Hungary, Ba Lan muốn dùng tư bản nước ngoài để khôi phục lại nền kinh tề đã tan hoang, như vậy là, họ buộc phải chấp nhận ở một mức độ nào đó tư bản tư nhân, tư nhân hóa và thị trường. Gorbachev định làm như Lenin đã làm năm 1922: tạm thời lùi một bước để bảo toàn giai cấp cầm quyền, nhưng hiện nay thì không thể làm thế được nữa. Có thể vá một miếng vải còn tốt, nhưng khi miếng vải đã nát thì chỉ không còn chỗ nào mà bám nữa.

Thị trường “xã hội chủ nghĩa” là không khả thi. Giai cấp cầm quyền và chế độ của nó sống dựa vào “sở hữu xã hội chủ nghĩa”, hình thức sở hữu này chỉ dẫn đến đói nghèo, suy kiệt, năm năm “cải tổ” và tình trạng kinh tế ngày càng xấu đi của Liên Xô đã cho ta thấy rõ điều đó; thủ tiêu hình thức sở hữu này cũng có nghĩa là giai cấp cầm quyền và chế độ của nó sẽ tiêu vong. Gorbachev cố gắng thực hiện một chính sách “có căn nhắc và hài hòa” (ông ta rất thích nói như thế), để làm sao chó sói thì no mà cừu thì còn nguyên, nhưng hóa ra chỉ làm cho cả hai phía cùng tức giận mà thôi.

Các cuộc cải cách của ông ta là nhằm củng cố chế độ chứ không phải là tháo dỡ nó. Ngay cả chính sách đối ngoại hòa bình của ông ta cũng là do sự phá sản về kinh tế mà ra, khủng hoảng kinh tế không cho phép giữ nguyên bộ máy quân sự khổng lồ như cũ. Sự bất mãn và nguy cơ từ phía bộ máy của Đảng được Gorbachev dung hòa bằng cách làm cho nó ít phụ thuộc vào Bộ chính trị và Ban chấp hành trung ương, đồng thời lại cố gắng giữ quyền lãnh đạo cho nó cả trong Đảng lẫn trong các cơ quan chính quyền.

Cơ cấu các tổ chức Đảng ở địa phương là bản sao cơ cấu ở trung ương: Khi còn được cấp trên ủng hộ thì bí thư khu vực cũng có quyền lực không hạn chế đối với địa hạt của mình.

Cải cách của Gorbachev có mang lại thay đổi hay không? Đầu tiên, với khẩu hiệu “Tất cả chính quyền về tay Xô viết!”, Gorbachev kiên quyết chuyển các chức năng quản lí nhà nước từ các cơ quan Đảng sang các cơ quan chính quyền, các cơ quan Đảng chỉ làm nhiệm vụ chính trị, chỉ thực hiện chức năng định hướng, không còn chịu trách nhiệm về kinh tế và quản lí kinh tế nữa. Các cán bộ Đảng không còn phải kiêm nhiệm chức vụ trong các cơ quan nhà nước nữa. Nhưng sau đó, dưới áp lực của bộ máy của Đảng, Gorbachev đã thay đổi đường lối và chuyển sang hình thức kết hợp các chức vụ Đảng với chức vụ quản lí nhà nước, thí dụ, bí thư huyện ủy kiêm luôn chức vụ chủ tịch huyện, bí thư tỉnh ủy thì kiêm chủ tịch tỉnh v.v…[11] Vì vậy khi Đảng cộng sản bị giải tán thì tầng lớp “nomenclature” vẫn giữ nguyên được chức vụ.

“Tất cả vẫn y nguyên, lời của ông bí thư vẫn là luật, vẫn không được bàn cãi mà phải thực hiện bằng mọi giá, nếu anh không thực hiện thì sẽ có nhiều chuyện lôi thôi. Như người ta nói, những kẻ “lên bằng đầu gối” đã mất giá khá nhiều, nhưng đây là nói trong các cơ quan dân cử và ở những thành phố lớn. Còn ở ngoại vi (chỉ cần cách thủ đô chừng hai trăm cây số thôi), thời gian như đã ngừng trôi. Mọi sự không vâng lời, mọi sự phản đối đều bị đàn áp một cách khốc liệt, bộ máy quyền lực vẫn hoạt động trong chế độ đàn áp, chưa có gì thay đổi cả… Nếu một người trước đây từng là bí thư, thì nay ông ta còn là chủ tịch Hội đồng nữa. Pháo đài quyền lực không hạn chế chỉ thêm mạnh hơn mà thôi! Điều 6 đã bị loại bỏ, thế cũng là đáng mừng rồi, nhưng nếu chú ý một chút thì ta sẽ thấy: hầu như tất cả các bí thư đều tự động trở thành chủ tịch Xô viết khu vực” (Tin tức, ngày 8 tháng 6 năm 1990).

[1] Sau cách mạng đã diễn ra quá trình hình thành “các nước cộng hòa độc lập” đầy hỗn loạn tại các tỉnh, các huyện, các thành phố. Không nói đến nước Cộng hòa viễn đông nổi danh, ngay tại thị trấn Kirsanov thuộc tỉnh Tambov cũng thành lập nước cộng hòa với chính phủ riêng. Thậm chí một số tập thể cũng tự tuyên bố là nước cộng hòa. Những “nước” này chẳng có liên quan gì với quyền dân tộc tự quyết hết.

[2] Hiện nay người ta biết rằng vụ này được thực hiện theo lệnh của Gorbachev, viện sĩ Primakov chỉ đạo, còn bộ trưởng quốc phòng Iazov thì trực tiếp chỉ huy.

[3] Có thể thấy bức tranh tượng trưng này trong những buổi quốc tang ở Moskva: Dẫn đầu đoàn đại biểu đón các vị khách nước ngoài là Andropov (sau này là Trernenko, sau đó nữa là Gorbachev), phía sau là Kosưgin, người đứng đầu chính phủ, cuối cùng mới đến ông Kuznetsov, người đứng đầu cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất. Bức tranh này thể hiện chính xác quan hệ giữa các cơ quan quyền lực nhà nước Liên Xô.

[4] Hóa ra tổng bí thư nào cũng muốn giữ ghế đến cuối đời, mà điều đó phải được ghi trong hiến pháp thì mới thực sự an tâm. Khrushchev đã thành lập ủy ban soạn thảo, nhưng chưa kịp công bố hiến pháp thì đã bị lật. Công việc được Brezhnev hoàn thành. Andropov và Trenenko thì không có thời gian. Gorbachev cũng định làm hiến pháp, công việc vừa bắt đầu thì ông ta bị lật.

[5] Lòng căm thù của lãnh đạo Đảng đối với tầng lớp trí thức chân chính là đặc trưng xuyên suốt trong toàn bộ lịch sử Đảng. Lenin, Trotsky, Stalin, Khrushchev đều săn đuổi tầng lớp trí thức. Chuyện đó đã xảy ra trong giai đoạn cách mạng, trong cuộc nội chiến và trong những năm 1930-1940. Kedrov, nhân viên an ninh được ca ngợi hiện nay đã tiêu diệt toàn bộ giới trí thức tỉnh Vologda, sau khi chiếm các nước vùng Baltic, Tây Ucraine, Bạch Nga và Moldavia, nhiều giáo sư, bác sĩ, luật sư v.v… bị đầy và bị giết hại ở Siberia. Khi bà M. Andreeva (vợ Gorky) phàn nàn về những vụ bắt giữ giới trí thức thì Lenin (ngày 18 tháng 9 năm 1919) đã trả lời: “Không bắt thì thật có tội…” và nhân vụ bắt giữ nhà văn Korolenko, Lenin viết: “Những “tài năng” kiểu đó có ngồi tù vài tuần cũng không sao… Lực lượng trí thức của công nhân và nông dân sẽ phát triển và lớn mạnh trong cuộc đấu tranh lật đổ giai cấp tư sản và bè lũ tay sai, những tên trí thức, đấy tớ tư bản nhưng lại cho rằng mình là trí tuệ của dân tộc, trên thực tế đây không phải là đầu óc mà là cục cứt”. Hiện nay thì “trí thức” được lãnh đạo Đảng coi là một từ đáng khinh.

[6] Chúng tôi được giao “kế hoạch” kết nạp 3 người vào dự bị… “Tiêu chuẩn” kết nạp cán bộ khoa học kĩ thuật là: cứ 4 công nhân thì một cán bộ khoa học kĩ thật” (Sự thật, ngày 15 tháng 1 năm 1988). “Cải tổ” đã được 3 năm.

[7] Trong khu vực mang tên Dzerjinsky ở Moskva 47% số người ra khỏi Đảng vào năm 1989 là công nhân, trong khi tỉ lệ công nhân vào Đảng là 17% (Báo Moskva buổi chiều ngày 19 tháng 12 năm 1989)

[8] Xem: A. Unger. Tо Totalitarian Party. Party and People In Nazi Germany and Soviet Russia, L, 1974.

[9] “Bài hát về đại tá Kim Nhật Thành", "Đồng chí Kim Nhật Thành là mặt trời của nhân loại” (có những câu như sau: “Lãnh tụ vĩ đại Kim Nhật Thành, người là mặt trời của đất nước Triều Tiên, ngọn hải đăng của loài người, nhà tư tưởng lớn thời nay, anh hùng huyền thoại muôn đời, nhà chiến lược thiên tài của cách mạng…”. Đấy là nội dung tờ tạp chí Triều Tiên in bằng tiếng Nga (số 4 năm 1984). Trong đó còn có: “Trường ca về chiến công cách mạng vĩ đại của lãnh tụ kính yêu”v.v…

[10] Không thể không ghi nhận quy luật này, nhưng ở nước ta thì không được nói. Cách đây mấy năm, giáo sư Makhnenko thuộc trường đại học hàm thụ luật ở Moskva bắt đầu công khai phát triển ý tưởng rằng “sùng bái cá nhân” là quy luật của tất cả các nước “xã hội chủ nghĩa”. Dĩ nhiên là ông bị phản đối kịch liệt, không luật sư-đồng nghiệp nào ủng hộ ông. Giáo sư Makhnenko tự sát, ông chỉ để lại mảnh giấy với dòng chữ: “Chán nói dối quá rồi!”

[11] “Trong các tỉnh và các khu, bí thư thứ nhất vẫn là vua, là trời. Ông ta quyết định chính sách kinh tế, mức độ công khai và dân chủ và điều đáng ngại nhất là chính ông ta quyết định tốc độ thay đổi” (Tin tức, ngày 21 tháng 3 năm 1990)