Danh ngôn

Trong mọi cộng đồng, chúng ta cần một nhóm thiên thần gây rối.

We need, in every community, a group of angelic troublemakers.

(Bayard Rustin – trích bài phát biểu tại New York City 1963)

Trong mọi trường hợp, chắc chắn rằng sự thiếu hiểu biết, đi kèm với quyền lực, là kẻ thù tàn bạo nhất có thể có của công lý.

It is certain, in any case, that ignorance, allied with power, is the most ferocious enemy justice can have.

(James Baldwin - No Name in the Street 1972)

Các cuộc cách mạng và các cá nhân có thể bị giết hại, nhưng bạn không thể giết chết các ý tưởng.

While revolutionaries and individuals can be murdered, you cannot kill ideas.

(Thomas Sankara, một tuần trước khi bị ám sát, 1987)

Không có cảm giác nào cô đơn hơn việc bị chính đất nước mình trục xuất.

There's not a more lonely feeling than to be banished by my own country.

(Kiyo Sato – Kiyo’s Story 2009)

Ban Biên tập

Địa chỉ liên lạc:

1. Thơ

tho.vanviet.vd@gmail.com

2. Văn

vanviet.van14@gmail.com

3. Nghiên cứu Phê Bình

vanviet.ncpb@gmail.com

4. Vấn đề hôm nay

vanviet.vdhn1@gmail.com

5. Thư bạn đọc

vanviet.tbd14@gmail.com

6. Tư liệu

vanviet.tulieu@gmail.com

7. Văn học Miền Nam 54-75

vanhocmiennam5475@gmail.com

Tra cứu theo tên tác giả

Thứ Hai, 13 tháng 3, 2017

Điểm sách Những người tỵ nạn /The Refugees của Nguyễn Thanh Việt

Lê Tất Đạt

(Sách dày 209 trang, Groove Press New York xuất bản

Tháng Hai, 2017, giá bán $CDN 36.50)

clip_image002

The Refugees là một tuyển tập gồm tám truyện ngắn của Nguyễn Thanh Việt, Giáo sư Nghiên cứu Mỹ Quốc tại Đại học UCLA, người năm ngoái đã đoạt giải Pulitzer Prize với tác phẩm The Sympathizer. Tất cả tám truyện này dài gần bằng nhau và cùng lấy cộng đồng người Việt ở California làm bối cảnh.

Các nhân vật phần lớn sinh ở Việt Nam, di cư qua Mỹ bị vướng mắc vào hai nền văn hóa tương phản và bóng ma dĩ vãng. Sự dị biệt Đông Tây không thể hòa hợp một phần vì sự khác biệt rõ rệt về nhân dáng bên ngoài và suy nghĩ bên trong. Bóng ma đây là tiếng sáo diều đồng vọng, những bờ đê ruộng nước làng quê. Bóng ma đây là những thương yêu ấp ủ, những đầm ấm ngọt bùi, những tai bay họa gió. Người đi là bỏ một nửa linh hồn. Kẻ ở lại gửi một nửa còn lại ra đi. Cả hai đều dở chết dở sống, chập chờn như bóng ma. Cả hai đều cố tìm nơi trú ẩn, xa cách muôn trùng hay ẩn nấp bên trong chính mình đều cùng chung nỗi xót xa, cùng chung nỗi đọa đày. Dù vậy họ vẫn thể hiện nền văn hóa tiêu biểu Đông phương mà họ đã thừa hưởng cùng niềm kiêu hãnh và ý chí vươn lên để cải thiện đời sông.

Truyện mở đầu Black-Eyed Women kể về nột người đàn bà Mỹ gốc Việt làm nghề viết văn mướn (ghostwriter) và là người kể chuyện. Tựa đề Những người đàn bà mắt đen gợi lên ý niệm mơ hồ, huyền ảo vì thực ra trên đời không có mấy người mắt đen ngoài những người có ma lực nào đó truyền thông được với người chết. Để hỗ trợ thêm ý nghĩa, người kể chuyên hay tác giả ma đã đối diện với bóng ma của người anh mà ba thập niên trước bị hải tặc giết chết trên biển sau khi nhanh trí cứu cô thoát chết trong chuyến vượt biển tìm tự do của gia đình vào thời điểm miền Nam bị thất thủ. Đây là chuyện của thương yêu và mất mát, của bạo lực và vi phạm có thể không còn xa lạ gì đối với độc giả trong hoàn cảnh chiến tranh. Nhưng cái nổi bật làm người đọc rúng động là nét tương phản giữa hai anh em, người sống và kẻ chết, hay kẻ sống người chết khi “người chết còn đi tiếp song người sống chúng tôi thì chỉ ở lại nơi đây” (The dead move on, but the living we just stay here). Cô nhớ lại những buổi chiều trên quê nhà, nhớ mùi ẩm mốc và sâu bọ trong hầm trú ẩn bom đạn dưới gầm giường, nhớ tiếng gầm sấm động máy bay phản lực vút qua trên bầu trời. và nhất là cảnh tượng kinh hoàng trên biển cả khi con tàu bị bọn hải tặc tấn công.

Truyện thứ hai, The Other Man kể về một thanh niên 18 tuổi, từ Việt Nam mới qua đến San Francisco không bao lâu sau ngày miền Nam sụp đổ, ở đây cậu đã hội nhập vào cộng đồng đồng tính luyến ái. Trong cuộc sống mới hàng ngày cậu vẫn bị bủa vây bởi những ký ức của cuộc trốn thoát ngặt nghèo từ Việt Nam: cậu cố quên hình ảnh những người giành giật, xô lấn, níu kéo lửng lơ trên không và rơi tòm xuống biển hoặc bị đốn gục dưới nòng súng của binh sĩ, những người cũng cố tìm cho chính mình một lối thoát thân. Tác giả viết: “Hắn cố quên đi những điều hắn đã tìm thấy; mạng sống của kẻ khác đâu còn có nghĩa lý gì với hắn khi chính mạng sống của hắn đang lâm nguy.” (He tried to forget what he’d discovered, how little other lives mattered to him when his own was at stake). Đây cũng có lẽ là lời phân trần chung cho tập thể người Việt về tinh thần thiếu hợp tác, thiếu tham gia và thiếu đóng góp vào những công cuộc cứu trợ, chúng tôi còn gánh nặng cho chính bản thân và gia đình và thân thuộc ở quê nhà làm sao “lý” đến việc của các ông được.

Truyện thứ ba War Years kể người con trai một chủ tiệm tạp hóa ở San Jose, nhớ lại sự phản kháng của mẹ cậu, bà Bình, trước sự đòi hỏi “cống hiến” tài vật vào công cuộc phục quốc ở quê nhà. Truyện này là một bức tranh thu nhỏ của những gì xảy ra giữa cộng đồng người Việt ở California trong thập niên 1980 mà tác giả đã dùng làm bối cảnh cho tác phẩm The Sympathizer, một tác phẩm gây được nhiều tiếng vang trên toàn cầu.

Trước sự hăm dọa tống tiền của người “chiến sĩ” bà chủ tiệm tạp hóa đã hùng dũng tuyên bố: “Mày chỉ là một tên trộm, một kẻ tống tiền, bằng cách làm cho người khác còn tưởng rằng họ có thể theo đuổi cuộc chiến này.” (You are nothing but a thief and an extortionist, making people still think they can fight this war). Và dù nói vậy chung cuộc bà cũng nộp một phong bì với 200 đô la, số tiền mà bà nói đã chắt chiu dành dụm được từ tiền lời 5 xu (cent) một hộp xúp, 10 xu cho nửa ký thịt heo, 25 xu cho một bao gạo 4 ký rưỡi. Người đọc sẽ tự hỏi cái “thế lực” này có sự hỗ trợ nào mà một người đàn bà “chì” như bà Bình, từng chống lại tên cướp có súng vào đánh cướp tiệm của bà mà lại phải “cúng” tiền mồ hôi nước mắt cho lực lượng không biết thực hay ma này. Dù sao thì bà cũng đã hai lần di cư, lần thứ nhất từ Bắc vào Nam nên bà chỉ muốn được yên ổn làm ăn và đó là cái nhược điểm mà bọn người không lương tâm nắm vững được.

Truyện I’d love you to want me mượn tựa đề từ một bài hát thời trang thịnh hành năm 1972 của Lobo. Khi nghe bản nhạc vị Giáo sư bị mất trí (dementia) “gợi nhớ” tên một người đàn bà không phải vợ mình. Đây là nỗi đớn đau vô bờ bến bên cạnh nỗi muộn phiền sống lưu vong của người vợ một mực thủy chung. Bốn mươi năm tình nghĩa vợ chồng với những tiếng xưng hô Anh, Em ngào ngọt bỗng một hôm được thay bằng tên một người đàn bà xa lạ mà ông từng âu yếm nghe chung bài hát, cùng ôm nhau nhảy một khi bản nhạc được tấu lên làm người vợ bị như bị một nhát dao đâm mới, tuyệt vọng vô bờ. Sự phản bội chua chát này và trạng huống người chồng cùng một lúc xuất hiện làm người đọc xót xa cho người đàn bà bất hạnh ở tuổi cuối đời. Truyện này làm tôi nhớ lại phim Away from Her một phim bi thảm của Canada năm 2006, nói về một người vợ bị bệnh Alzheimer ở trong nhà dưỡng lão đã nhận một bệnh nhân xa lạ là người tình của mình. Xem phim và đọc truyện bỗng thấy đời sống về già buồn ghê!

Trong The American các nhân vật hầu hết là người Mỹ, được nhìn qua lăng kính của một “người ngoài” đã từng tham dự tích cực vào cuộc chiến. Ông là một cựu phi công oanh tạc cơ B-52, từng thả vô số bom xuống chiến trường Việt Nam và lần đầu tiên đặt chân lên đất nước này. Điều cần “xét xem” lại ở đây là những “thành quả” của các cuộc dội bom B-52 ồ ạt mà theo ông “Ở cao độ mười nghìn mét, thả những trái bom nhắm vào các mục tiêu lớn bằng sân đá banh thì cũng như thả những trái banh đánh golf từ trên mái nhà rơi vào một cốc cà phê (Aimming from forty thousand feet at target like dropping golf balls from the roof of a house into a cup of coffee). Phải chi Mỹ chế được loại “bom thông minh” có thể đánh mùi được người Cộng sản và Quốc gia thì binh sĩ và thường dân vô tội miền Nam đỡ bị chết oan!

Truyện cuối cùng Fatherland nói về một người đàn ông có hai đời vợ, một đời vợ có ba đứa con đặt cùng tên. Người vợ thứ nhất ly dị và sống với con ở Mỹ, ông cùng bà vợ thứ hai và ba con sống ở Việt Nam. Truyện nói lên những ước vọng và mong chờ của người ở quê nhà. Chính vì đáp ứng những ước nguyện đó mà cô con gái lớn nhất, Vivien đã làm một cuộc quy cố hương dưới địa vị một bác sĩ nhi đồng. Cô làm người cha hả dạ, đẹp mặt gia phong và đem về niềm hãnh diện cùng giấc mơ Mỹ Quốc cho các em. Tiếc thay tất cả chỉ là phù du!

Đây là một tập truyện sống động, một đóng góp quý báu vào nền văn chương Mỹ Quốc. Ông Nguyễn Thanh Việt là tác giả Việt Nam đầu tiên đoạt được giải Pulitzer, chỉ có môt người Việt khác trước đây được vào danh sách chung kết cho giải thưởng này là bà Dương Văn Mai Elliot với tác phẩm The Sacred Willow: Four Generations in the Life of a Vietnamese Family năm 2000. Tuyển tập này là một đóng góp cần thiết tuyệt diệu ở vào thời điểm Trump áp dụng chính sách hạn chế đối với người tỵ nạn.

Với vỏn vẹn 207 trang sách (209 kể cả lời tạ ơn) tác giả đã thành công bao quát mọi vấn đề: xã hội, con người, chinh chiến, xung đột, bạo hành và trào lưu đời sống hiện thời, kể cà đồng tình luyến ái, kể cả căn bịnh thời đại Alzheimer và người được ghép gan trong một cộng đồng Việt Nam nhỏ bé trên đất Mỹ. Người đọc dễ bắt gặp bóng dáng mình xuất hiện đâu đó: có thể một buổi chiều trên con đường Tự Do một thời tiêu biểu cho hòn ngọc viễn đông, có thể khuôn mặt ai quen ngồi trong La Pagode hay cái vẫy tay thân tình bên khung cửa sổ Brodard, một thuở hẹn hò. Bạn có thể là người chiến binh về già với nét ngang tàng và hành động võ rừng vẫn còn quen thói trong Someone Else Besides You.

Những ai đã từng ngưỡng mộ tác giả qua quyển The Sympathizer chắc chắn sẽ hài lòng với The Refugees. Những ai chưa từng đọc sách hay những bài tiểu luận của ông thì đây là tập truyện nên tìm đọc. Không như lối hành văn và chơi chữ có tính cách học giả trong The Sympathizer, tuyển tập 8 truyện ngắn này hành văn giản dị, dễ đọc và dễ ngấm.

Nguồn: http://dathuong.blogspot.ca/2017/03/iem-sach-nhung-nguoi-ty-nanthe-refugees.html