Danh ngôn

Trong mọi cộng đồng, chúng ta cần một nhóm thiên thần gây rối.

We need, in every community, a group of angelic troublemakers.

(Bayard Rustin – trích bài phát biểu tại New York City 1963)

Trong mọi trường hợp, chắc chắn rằng sự thiếu hiểu biết, đi kèm với quyền lực, là kẻ thù tàn bạo nhất có thể có của công lý.

It is certain, in any case, that ignorance, allied with power, is the most ferocious enemy justice can have.

(James Baldwin - No Name in the Street 1972)

Các cuộc cách mạng và các cá nhân có thể bị giết hại, nhưng bạn không thể giết chết các ý tưởng.

While revolutionaries and individuals can be murdered, you cannot kill ideas.

(Thomas Sankara, một tuần trước khi bị ám sát, 1987)

Không có cảm giác nào cô đơn hơn việc bị chính đất nước mình trục xuất.

There's not a more lonely feeling than to be banished by my own country.

(Kiyo Sato – Kiyo’s Story 2009)

Ban Biên tập

Địa chỉ liên lạc:

1. Thơ

tho.vanviet.vd@gmail.com

2. Văn

vanviet.van14@gmail.com

3. Nghiên cứu Phê Bình

vanviet.ncpb@gmail.com

4. Vấn đề hôm nay

vanviet.vdhn1@gmail.com

5. Thư bạn đọc

vanviet.tbd14@gmail.com

6. Tư liệu

vanviet.tulieu@gmail.com

7. Văn học Miền Nam 54-75

vanhocmiennam5475@gmail.com

Tra cứu theo tên tác giả

Thứ Tư, 27 tháng 5, 2015


THƠ TADEUSZ RÓSEWICZ

         
Szymborska ra đi năm 2012. Cũng như Solzhenitsyn, Pilinszky, Popa, Holan, Holub, Seifert, Wat, C. Milosz, Brodsky, Z.Herbert…, các chứng nhân lớn của Auschwitz và Gulag đã lần lượt ra đi. Rồi mùa xuân 2014 đến lượt Tadeusz Rósewicz (sinh năm 1921 tại Radomsko, Nam Ba Lan), gương mặt còn sót của một nền văn học ra đời từ bạo lực và tội ác do Stalin với Hitler tiến hành khắp Âu châu. Như một phép mầu, kẻ từng viết mấy câu thơ:

Năm hăm bốn tuổi
bị đưa đến lò sát sinh
tôi sống sót

trong LO ÂU (1947) - thi tập khai mạc thơ Ba Lan hậu chiến -  vẫn làm chứng nhân và sáng tác liên tục cho đến lúc ra đi. Là tiếng nói khắt khe nhất trong các nhà thơ cùng thời, Rósewicz không ưa bọn làm dáng văn chương (littérateur) vì ông không bao giờ tách đạo lý khỏi ngòi bút và trang giấy. Từng tai nghe mắt thấy những năm tháng máu lửa kinh hoàng có một không hai trong lịch sử, ông đặt ra yêu cầu mới cho nhà thơ - chứng nhân. Là người sáng lập dòng phản-thi (anti-poetry) sau 1945 ở Trung Âu, ông yêu cầu nhà thơ dùng ngôn ngữ trong sáng để ghi chép các kinh nghiệm của con người chống các thói cầu kỳ lập dị avant-garde. Nhắc lại lời Norwid - nhà thơ Ba Lan tiền bối: “Dùng đúng chữ để gọi tên sự vật”, Rósewicz đã phục hồi sự chính danh cho thơ và đã ảnh hưởng sâu rộng trên các thế hệ thi sĩ , không riêng gì ở Ba Lan, trong hậu bán thế kỷ 20. Ngoài thơ ông còn viết kịch; thi sĩ Mỹ Edward Hirsch đã ca ngợi ông là “Samuel Beckett của  thơ hiện đại Ba Lan”.
                                                       CHÂN PHƯƠNG giới thiệu và tuyển dịch

KẺ SỐNG SÓT

Năm hăm bốn tuổi
bị đưa đến lò sát sinh
tôi sống sót

Mớ nhản hiệu này rỗng tuếch và đồng nghĩa
người và thú
bạn và thù
yêu với ghét
âm với dương

Con người bị giết như thú vật
tôi từng thấy:
các cỗ xe kéo đầy thi thể bị chặt bằm
không bao giờ còn cứu được

ý niệm chẳng qua là chữ
đạo đức và tội ác
can đảm và hèn nhát
xấu đẹp
giả chân

Tính tốt với tật xấu cân nặng bằng nhau
tôi từng thấy:
một kẻ vừa đạo đức
vừa gian trá

Tôi đi tìm bậc thày và sư phụ
xin người khôi phục cho tôi khả năng nhìn nghe nói
xin người một lần nữa đặt tên cho sự vật và ý niệm
xin người phân biệt ánh sáng cùng bóng tối

Năm hăm bốn tuổi
bị đưa đến lò sát sinh
tôi sống sót


            CÁI CHẾT CỦA MỘT CÔNG DÂN TỐT

              Không phải cái chết đột ngột

              Không phải cái chết của người lính
              bị  một cú đấm đại bác
              té bật ngửa nhìn trời

              Cũng không phải cái chết của lão nông dân
              yên lặng trở vào ruột đất
              như trở lại mái nhà

              Một ngày kia
              một ngày như bao nhiêu ngày
              y hệt giống nhau
              tương tự hai giọt nước
              dưới ánh mặt trời
              hay giữa đêm khuya
              bắt đầu cơn hấp hối

       Không phải một cái chết đột ngột

       Ngày lại ngày
       khi mi không còn
       biết yêu biết ghét
       khi mi khám phá được cách sống chừng mực quí giá
       cơn hấp hối bắt đầu
                                                                                   

GỐC CÂY

Hạnh phúc làm sao
các thi sĩ thuở nào
Trần gian giống một gốc cây
và họ cũng như đám trẻ

Các người muốn tôi treo thứ gì
trên cành nhánh
khi thép rơi như mưa quanh gốc cây

Hạnh phúc làm sao
các thi sĩ thuở nào
quanh gốc cây
họ múa nhảy như con trẻ

Các người muốn tôi treo thứ gì
trên cành nhánh
khi cây cháy tận rễ
và không bật lên tiếng hát

Hạnh phúc làm sao
các thi sĩ thuở nào
dưới tán lá sồi
họ ca hát tựa trẻ con

Nhưng cây của bọn tôi
trong đêm kêu răng rắc
cái xác bị làm nhục
còn treo trên đó


KỂ TỪ MỘT DẠO

Đã nhiều năm rồi
tiến trình tử vong của thơ
càng lúc càng tăng tốc

chú ý tôi thấy
sự phân hủy của những vần thơ mới
in trên các tuần báo
diễn ra trong vòng hai ba tiếng đồng hồ

các nhà thơ quá cố
ra đi chóng vánh hơn
bọn còn sống
gấp gáp tung ra
những tập sách mới
như thể điều họ mong ước
là trám lấp lỗ hổng
bằng giấy


MẤY TẤM MÀN TRONG CÁC VỞ KỊCH TÔI

Mấy tấm màn
trong các vở kịch của tôi
không kéo lên
chẳng rơi xuống
không che giấu
chẳng phơi bày

chúng han gỉ
hư hoại kêu rên
rách toang hoang

tấm màn đầu làm bằng thép
tấm thứ hai bằng giẻ
tấm thứ ba bằng giấy

chúng rơi ra
từng mảnh

trên đầu
diễn viên và khán giả

mấy tấm màn
trong các vở kịch của tôi
treo phủ
trên sàn gỗ
quanh thính đường
nơi phòng gửi nón áo

sau khi vãn tuồng rồi
chúng còn quấn vướng cẳng chân
chúng thầm thì
hoặc rít lên như chuột


                LỐI VÀO

Lasciate ogni speranza
Voi ch’entrate

hãy vứt hết mọi hi vọng
kẻ nào bước vào đây

đấy hàng chữ ghi trước lối vào địa ngục
trong Commedia Divina của Dante

can đảm lên!

qua cổng vào
chẳng có địa ngục đâu

các nhà thần học
với chuyên gia tâm phân
đã tháo hủy địa ngục

biến nó thành dụ tượng
vì các lý do giáo dục
và nhân đạo

can đảm lên!
qua khỏi lối vào
cái đã từng biết sẽ lặp lại thêm

hai gã đào huyệt say mèm
ngồi bên mép lỗ
nhậu bia với khúc dồi
họ nháy mắt với chúng ta
vừa đá bóng
với sọ đầu Adam
dưới thập giá

miệng huyệt chờ sẵn
người sắp chết hôm sau
thây ma đang trên đường

can đảm lên!

tại đây chúng ta đợi
sự phán xét sau cùng

hố đất bị ngập úng
vài mẩu tàn thuốc lá lênh đênh

can đảm lên!

bên kia cổng
sẽ không có lịch sử
thiện ác hoặc thơ ca

vậy thì có gì
hỡi kẻ lạ kia?

sẽ có đá

đá
chồng lên đá
trên tảng này
là tảng khác
đá đè
đá
             


CON TÀU MA

ngày ngắn dần
thái dương biểu bất động
dưới mưa

từ những đám mây
viện điều dưỡng trồi lên
như một con tàu chở khách xuyên đại dương

từng hàng cột cây đen đúa
ướt sũng nước với ánh trăng

trong sương mù tháng mười một
viện điều dưỡng lắc lư trôi xa

các cửa sổ lần lượt tắt đèn
chìm vào bóng tối
vào giấc ngủ

trong khi
dưới lòng đất sâu
ác quỉ đã nhúm lửa lò
trong quán “Tiểu Âm Phủ”

đừng hoảng sợ
đó chỉ là một tiệm cà phê
mở cửa khuya

gò má ửng hồng
bọn được cứu rỗi và đám mắc đọa
cùng liếm láp những gì còn lại
của cuộc đời

nhiệt độ tăng lên
mọi thứ quay cuồng
trong vũ điệu tử thần
um die dunklen Stellen der Frau*

con tàu ma
tông vào ghềnh
mắc cạn

* đến chốn tăm tối của đàn bà ( C.P.)


CHỮ

thiên hạ đã tận dụng chữ
nhai chữ như kẹo cao su
trong các miệng trẻ đẹp
thổi phồng chữ
thành bong bóng trắng

bị bọn chính khách làm giảm giá
dùng chữ để súc miệng
và làm trắng răng

khi tôi còn trẻ con
chữ dùng để băng bó vết thương
hoặc làm quà
tặng người yêu

chữ ngày nay
mất giá
gói trong giấy báo
vẫn lây nhiễm bốc mùi
vẫn tạo khổ đau

giấu trong đầu
giấu trong tim
giấu dưới váy phụ nữ
giấu trong kinh sách
chúng nổ tung
chúng giết người

                      


NGÓN TAY TRÊN MÔI

miệng của chân lý
khép kín

ngón tay trên môi
bảo chúng ta rằng
đã đến lúc

im lặng

sẽ không còn ai
trả lời câu hỏi
chân lý là gì

người biết câu trả lời
người trước kia từng là chân lý

đã biệt tăm

Các bài thơ dịch trên đây được trích tuyển từ:
-THE  SURVIVOR, Princeton U.P. 1976, bản Anh ngữ của Magnus J. Krinski và Robert A. Maguire.
-SOBBING SUPERPOWER, Norton, NY. 2011, bản Anh ngữ của Joanna Trzeciak.