Người phụ trách Văn Việt:

Trịnh Y Thư

Web:

vanviet.info

Blog:

vandoanviet.blogspot.com

Danh ngôn

Trong mọi cộng đồng, chúng ta cần một nhóm thiên thần gây rối.

We need, in every community, a group of angelic troublemakers.

(Bayard Rustin – trích bài phát biểu tại New York City 1963)

Trong mọi trường hợp, chắc chắn rằng sự thiếu hiểu biết, đi kèm với quyền lực, là kẻ thù tàn bạo nhất có thể có của công lý.

It is certain, in any case, that ignorance, allied with power, is the most ferocious enemy justice can have.

(James Baldwin - No Name in the Street 1972)

Các cuộc cách mạng và các cá nhân có thể bị giết hại, nhưng bạn không thể giết chết các ý tưởng.

While revolutionaries and individuals can be murdered, you cannot kill ideas.

(Thomas Sankara, một tuần trước khi bị ám sát, 1987)

Không có cảm giác nào cô đơn hơn việc bị chính đất nước mình trục xuất.

There's not a more lonely feeling than to be banished by my own country.

(Kiyo Sato – Kiyo’s Story 2009)

Ban Biên tập

Địa chỉ liên lạc:

1. Thơ

tho.vanviet.vd@gmail.com

2. Văn

vanviet.van14@gmail.com

3. Nghiên cứu Phê Bình

vanviet.ncpb@gmail.com

4. Vấn đề hôm nay

vanviet.vdhn1@gmail.com

5. Thư bạn đọc

vanviet.tbd14@gmail.com

6. Tư liệu

vanviet.tulieu@gmail.com

7. Văn học Miền Nam 54-75

vanhocmiennam5475@gmail.com

Tra cứu theo tên tác giả

Chủ Nhật, 10 tháng 8, 2025

Sóng đồng bằng – những phận người dạt trôi trên dòng lịch sử (bài 1)

 Đinh Thanh Huyền

Cuối tháng 7/2025, trên các trang thương mại điện tử, người ta đồng loạt giới thiệu về tiểu thuyết Sóng đồng bằng của Vũ Thành Sơn như thế này: “Một tiểu thuyết lịch sử giàu chất phong tục, một áng văn với ngôn ngữ đặc sắc về đồng bằng sông Cửu Long và số phận Phật giáo Hoà Hảo, ở vào thời điểm lịch sử đặc biệt – bình minh của nước Việt Nam hiện đại”. Không hiểu ai đã viết dòng giới thiệu ấy, nhà xuất bản, nhà sách, độc giả hay người bán sách? Nhưng chắc chắn, đó là một nhận định dễ dãi về một cuốn sách không dễ đọc. Tôi nghi ngờ mức độ hấp dẫn và tiềm năng bán hàng của dòng quảng bá đó bao nhiêu thì ái ngại cho đường đi của cuốn sách bấy nhiêu. Nếu đọc Sóng đồng bằng với tâm thế được tạo ra từ thông tin quảng bá, độc giả sẽ phiền lòng bởi nó không phải là một tiểu thuyết lịch sử với nghĩa nghiêm ngặt  của thể loại.

Tôi đoán dòng giới thiệu đó xuất phát từ việc bối cảnh của tiểu thuyết là một lát cắt lịch sử - xã hội trải dài từ cuối thế kỷ 19 đến giữa thế kỷ 20, chủ yếu tại miền Tây Nam Bộ, nơi giao thoa giữa vùng đồng bằng sông Cửu Long (gồm những vùng đất khai khẩn, miệt vườn, cù lao, xóm ven sông, trường làng, chợ huyện, bến đò, …) và các trung tâm đô thị mới; giữa văn hóa bản địa, tín ngưỡng dân gian và văn hóa phương Tây mới du nhập. Nhiều nhân vật, sự kiện có thật gắn chặt với tiến trình lịch sử; dấu ấn sử liệu - khảo cứu - phản ánh văn hóa vùng và kí ức thế hệ được dựng lên như một mảng tư liệu dân tộc học chân thực… Đó là những yếu tố khiến Sóng đồng bằng “bị” xem là tiểu thuyết lịch sử.

Nhưng, nếu thận trọng hơn một chút, ta có thể nhận ra lịch sử không phải là “nhân vật chính” của câu chuyện mà là bối cảnh đặc biệt để đời sống cá nhân và cộng đồng miền Tây nổi lên. Cố nhiên, dưới đời sống ấy là cả một phức hợp những tác động khó lường của lịch sử. Nhưng Vũ Thành Sơn đã xử lí rất khéo mối tương quan giữa “chất liệu nền” và chủ đề trung tâm dựa trên sự nhạy bén đặc biệt của một nhà văn đồng thời là nhà ngoại giao. Bởi vậy, có người đọc bằng lòng với bức tranh lịch sử được tái hiện phong phú trong truyện, có người lại băn khoăn trước khoảng cách khó hiểu giữa sự kiện và con người. Nếu bạn cũng như tôi, thuộc kiểu người đọc sau, thì chúng ta sẽ nhận ra một giọng thì thầm nhưng kiên định của Sóng đồng bằng: tiếng nói giải cấu trúc sử thi.

“Tiểu thuyết lịch sử” là một khái niệm đầy bất trắc. Nó định danh một thể loại bị ràng buộc bởi hai yếu tố chính: sự kiện và con người có thật. Từ khái niệm trên, có thể tạm nhắc đến hai tình huống viết. Tình huống thứ nhất, khi nhà văn muốn nhìn lịch sử từ phía con người mà không làm sai khác thông tin chính thống, họ phải chọn các yếu nhân, những người đã được biết mặt biết tên. Nghịch lí sẽ xảy ra ở điểm này. Bất kể trí tưởng tượng của nhà văn đi xa đến đâu, họ vẫn bị giới hạn bởi cái đã biết (khung sự kiện). Không thể thay đổi cái đã xảy ra, nhà văn chỉ có thể đặt nhân vật khớp vào với chân dung, vị thế sẵn có của họ trong lịch sử. “Tiểu thuyết lịch sử” theo nghĩa này thực chất là sự nối dài lịch sử chính thống theo cách tinh vi hơn nhưng cũng tuyệt vọng hơn trong nỗ lực nhìn vào quá khứ. Một khi nhà văn chấp nhận lịch sử là sự thật thì việc lí giải lịch sử là vô nghĩa. Các nhà sử học đã đảm nhiệm việc đó. Tình huống thứ hai, nhà văn “bẻ gãy” toàn bộ mặc định về nhân vật, mô tả họ như những con người đời thường với những góc khuất chưa từng được nghĩ tới. Lúc này, lịch sử không còn là đối tượng trung tâm, các yếu nhân lịch sử không còn được nhìn nhận ở tư cách nhân tố làm nên sự kiện. Họ được diễn giải ở khía cạnh con người cá nhân với đầy đủ hỉ nộ ái ố. Đây là địa hạt của hư cấu. Tác phẩm không còn là tiểu thuyết lịch sử nữa.

Với Sóng đồng bằng, tác giả Vũ Thành Sơn đã có lựa chọn khác, một cú “xoay trục” nhẹ nhàng, đơn giản nhưng dứt khoát, đặt lịch sử vào vị thế được nhìn qua đời sống dân thường. Các yếu nhân lịch sử, các sự kiện có thật (Huỳnh Giáo Chủ, Nguyễn An Ninh, Tạ Thu Thâu, … sự kiện nạn đói, Nhật đảo chánh Pháp, Nam Kỳ Lục Tỉnh bị chia cắt thành các khu tự trị, sự lớn mạnh của Việt Minh, các mốc thời gian từ 17/8 đến 2/9/1945,…) không được khai thác ở chiều sâu, không được diễn giải, tái hiện hoặc suy ngẫm, cốt truyện không được tổ chức theo kiểu “sự kiện - nguyên nhân - kết quả” (mang tính sử học). Thế giới nhân vật trong Sóng đồng bằng gồm những người khai khẩn đất đai ở miền Tây, “chữ nghĩa không bao nhiêu nhưng giỏi giang cần kiệm, làm nên từ hai bàn tay trắng khi nó chỉ toàn lau sậy, bùn sình, rắn rít với thú dữ”; những người dân bản địa đã nhiều đời bám trụ nơi mảnh đất “biên viễn hoang vu”; những lưu dân, giang hồ tứ chiếng, ông đồ, ông lang nghèo, rồi đến thế hệ con cháu của họ, lứa tiếp tục làm nông dân, lứa được học hành, trở thành các trí thức Tây học đầu tiên. Những phận người ấy bấp bênh, trôi giạt, vùi lên dập xuống với đủ thứ biến động từ thiên tai, dịch bệnh đến chiến tranh. Không ai trong số họ “làm nên lịch sử”. Vậy họ đóng vai trò gì trong mạch tự sự của Sóng đồng bằng? Câu trả lời thật rõ ràng: họ là những người dân thuộc mọi tầng lớp bị cuốn vào dòng xoáy lịch sử mà không hiểu rõ điều gì đang diễn ra, không được lựa chọn cách thức hành động.

Tiểu thuyết mở đầu với cảnh tượng: “Nguyên một đoạn đường rải đá dài gần ba mươi thước chạy qua trước nhà ông Út bất thình lình đổ ập xuống con nước dữ một ngày mưa lớn tháng Bảy, tiếng đất lở kinh hoàng trong đêm chấn động cả một vùng, cuốn theo nhà cửa, vườn tược. Cái cổng với hai cái cột lát gạch đỏ cao lớn và một phần sân trước biến mất, bỗng chốc trơ ra căn nhà đứng chênh vênh bên miệng vực chực chờ sụp đổ xuống bất cứ lúc nào”. Cảnh tượng đó là ẩn dụ cho một thế giới có thể bị cuốn trôi bởi các lực không kiểm soát nổi: trước hết là thiên nhiên, sau nữa là xã hội. Chi tiết mở đầu truyện báo hiệu về những gì sẽ được kể trong tiểu thuyết: số phận của những con người nhỏ bé trong bão tố lịch sử – “Sóng đồng bằng” theo cách gọi của nhà văn.

Ở phương diện dựng bối cảnh, Sóng đồng bằng có độ mở rất lớn về không gian và thời gian lịch sử. Quá trình Nam tiến, khai hoang lập ấp của người dân, tình trạng bộ máy thực dân cấu kết với địa chủ bản xứ bóc lột nhân dân; sự suy tàn của thiết chế phong kiến; sự vỡ vụn của trật tự cũ; xung đột giữa các lực lượng xã hội, các thế lực xâm lược, các sự kiện mở đường cho một cơn biến động lịch sử tất yếu, … cho thấy tầm nhìn rộng, bề dày hiểu biết, cảm thức dân tộc sâu sắc, khả năng khái quát và kết tinh lịch sử vào văn chương của tác giả. Có những đoạn văn ngắn nhưng có thể xem như một mẫu hình xuất sắc của nghệ thuật chuyển hóa lịch sử vào văn chương: “Chúng chỉ ức hiếp đám dân lành thấp cổ bé họng khai phá đất hoang đã thành đất thuộc, điền thửa phì nhiêu được mấy năm, liền cho tay sai thuộc hạng lưu manh, côn đồ hoặc lính tráng súng ống đến đuổi đi; ai muốn ở lại canh tác thì bắt phải tự nhận là tá điền đóng địa tô cho chúng; ai dám chống lại, chúng đánh đập và ngang nhiên cướp đất. Dân sợ bỏ đi kiếm miếng đất khác, chúng lại rình thời cơ giành giựt. Có nhà nghèo quá, hai vợ chồng chỉ còn cái quần bằng vải bố, khi chồng lội ra rạch cắt bông súng, củ năng, vợ phải trốn nhủi trong cái chòi lá. Người ta kéo nhau ra huyện, lên tỉnh biểu tình, tố giác nhưng bọn điền chủ cậy vào chánh quyền thực dân dung túng làm ngơ; lại thói ranh ma, sẵn nhiều tiền của đã mua hết đám hương chức, hội tề để có tay trong ở Hội đồng Quản hạt này nọ chạy chọt, báo cáo láo, nên cuối cùng đâu cũng lại hoàn đó. Lâu lâu mới có một, hai vụ được báo chí ở tỉnh, thành tận đâu đâu đến phanh phui thì còn được nhà nước biết đến cứu xét cho chút đỉnh. Nghe theo lời chiêu dụ của vua quan triều đình, dân đinh thất cơ lỡ vận tứ xứ đàn đúm về miệt biên thùy này khai hoang mở cõi, bây giờ tình cảnh của họ phiêu tán, ngơ ngác chẳng khác nào đám con thơ bị đem bỏ chợ. Thánh thần nhiều như sao khuya trên trời nhưng thánh thần quá xa cách trần gian khổ lụy. Pháp sư, phù thủy xuất hiện khắp nơi như được mùa; lại còn có kẻ vỗ ngực tự xưng có phép mình đồng da sắt bất chấp mũi tên hòn đạn lôi kéo theo được cả một đám đông ngu muội dấy loạn rốt cuộc cũng bị thực dân bắn chết, quăng thây ra ngoài chợ giữa thanh thiên bạch nhật; thời buổi vàng thau lẫn lộn, vua quan bạc nhược, kẻ sĩ lơ láo, kẻ liều mạng cũng tự xưng là minh chủ được, dân đen chẳng còn biết dựa vào ai. Lòng người oán hận bừng bừng giống như một cánh đồng khô trơ gốc rạ mùa nắng hạn chỉ đợi một mồi lửa nhỏ sẽ bốc thành đám cháy lớn dữ dội thiêu rụi cả cơ đồ”. Với chừng vài trăm chữ, nhà văn dựng nên một mô tả lịch sử cô đọng, chặt chẽ. Không gian Nam Bộ hoang sơ thời khai khẩn với những hình ảnh hết sức cụ thể và giàu chất điện ảnh tái hiện một thiên nhiên dữ dội và một xã hội hỗn loạn, luật lệ rối ren, đời sống con người chìm trong cay đắng, khốn đốn. Đoạn văn nén chặt trong nó một thời kì lịch sử khốc liệt và u ám. Mỗi dòng, mỗi chữ tưởng giản đơn mà chính là một “tệp” dữ liệu có thể triển khai thành hẳn một vấn đề lớn. (Trong truyện, rất nhiều thông tin có thật được “chèn” trực tiếp vào truyện, không qua lăng kính nhân vật, không hòa tan vào dòng tự sự. Những đoạn này có thể gây khó chịu cho người đọc. Tôi đoán rằng một cây bút già dặn như Vũ Thành Sơn có dụng ý riêng. Có thể, tác giả chỉ cần một lớp tư liệu đậm đặc để dựng nền. Nếu vậy, (nhược) điểm này vẫn tương thích với chiến lược tự sự của nhà văn). Nhìn bao quát, lịch sử trong Sóng đồng bằng được dựng lên bằng ngòi bút kể chuyện kết hợp tự sự và trữ tình chính luận, lồng ghép trong giọng điệu cảm thương, phẫn nộ và châm biếm nhẹ. Đó là lối viết có sức mạnh của một nhà sử học, nhà tiểu thuyết và thi sĩ. Đằng sau trang văn là một tác giả từng trải, thấm đẫm tinh thần văn hóa vùng miền, có khả năng thâu tóm lịch sử không chỉ bằng kiến thức mà còn bằng cảm xúc và trực giác văn hóa.

Nhưng, dù cứ liệu lịch sử có đậm đặc đến mấy thì cốt lõi của Sóng đồng bằng lại là tư duy lịch sử từ điểm nhìn bên dưới (bottom-up). Lịch sử đi từ thân phận người dân nghèo, người bị cướp đất, bị bóc lột, người bị cuốn đi trên những lớp sóng lớn của thời cuộc, những phận người trong bi kịch mất mát cá nhân, tan rã văn hóa, đứt gãy lịch sử. Tính bất định của đời sống hiện diện trong từng chi tiết, từng diễn tiến cuộc đời các nhân vật. Từ chuyện nhỏ xíu như là cuộc trốn nhà đi câu ếch (dự định) của cậu bé Út bảy tuổi bất thành vì “Hôm sau, mọi thứ bỗng bất ngờ thay đổi như thể có một bàn tay vô hình sắp đặt. Lính tráng đâu trên huyện ùn ùn kéo về từ sáng sớm, súng ống cặp bên hông… Có tin mật báo sẽ có một cuộc biểu tình ở khu vực này do một nhóm hoạt động bí mật cầm đầu” đến chuyện tày trời như Tài phải từ bỏ cuộc chiến đấu chống thực dân vì Phật giáo Hòa Hảo biến động và cái chết thảm khốc của Huệ Mẫn (vợ anh). Tiếng thở dài “thời cuộc thay đổi lẹ quá” của người cha cậu Út làm cho không khí trang văn trĩu nặng nỗi bất an. Các nhân vật trong truyện, trước mỗi ngã rẽ cuộc đời luôn có cảm giác mơ hồ, không thể đoán biết điều gì phía trước: “Ngày hôm đó không giống như mọi ngày, một ngày thực sự khác thường với những cuộc gặp gỡ ngoài mong đợi mà Tài có linh cảm như là một sự sắp đặt của số phận, đã bất ngờ mở ra trong lòng cậu những khoảng trời đầy sương mù”. Bức tranh thế cục luôn được diễn tả bằng những câu chữ như: “cả nước lúc đó sống trong không khí bất an, xáo trộn”, “dân chúng càng thêm phần hoang mang”, “những người trí thức ấy cũng đầy hoang mang chẳng thể khác”, “Chẳng ai có đầy đủ thông tin, hiểu biết để có thể nhận định chính xác về tình hình hiện thời”,…

Sự lựa chọn hành động của các nhân vật trong truyện lại càng bất định. Nhân vật Tài trở thành một phật tử Hòa Hảo sau khi vợ anh (Huệ Mẫn) được Huỳnh Giáo Chủ chữa khỏi bệnh. Rồi từ lúc nào không biết, anh dấn thân vào cuộc đấu tranh của Phật giáo Hòa Hảo chống thực dân Pháp. Bề ngoài là lựa chọn cá nhân nhưng bề sâu là lực hấp dẫn lí tưởng cứu nước mà vị Giáo Chủ Hòa Hảo lan tỏa đến tín đồ của mình. Các nhân vật khác như Tâm, Út, Quang đều bị cuốn theo dòng chảy lịch sử trong khi chính họ rất mù mờ về mọi sự. Dù là hăng hái diễn thuyết, tuyên truyền cho Việt Minh như Tâm, miễn cưỡng tham gia hoạt động của Việt Minh như Út, bỏ sang Pháp sống như Quang, không ai có cơ hội để nhìn ra diện mạo của sự thật. Trừ vị Giáo Chủ Phật giáo Hòa hảo (người dường như biết rõ mục đích hành động nhưng chết khi sự nghiệp còn dang dở), các nhân vật khác trong truyện đều bị động. Nhân vật Út, vào lúc nhiệt huyết sôi nổi nhất cũng phải tự nhủ: “Lựa chọn chánh trị, với Út, là lựa chọn một định mệnh và anh cứ mải loay hoay giữa những lựa chọn với đầy phân vân sai đúng. Người ta có thể lựa chọn được gì hay chính hành động lựa chọn, có phải ngay tự bản thân nó, trước hết đã là một hành động thừa thãi, vô ích, bởi vì bất kể lựa chọn ra sao thì cũng dẫn đến một kết quả tất định không thể tránh khỏi?”.

Lịch sử cuốn vào bánh xe của nó cả những người từng là chủ thể thời cuộc như ông Tây Bernard, bác sĩ Pierre Delanoue (người bỏ trốn, người suýt mất mạng). “Một số viên chức Pháp đem theo tiền bạc, súng ống, vợ con trốn vô đồng sâu, nhịn đói nhịn khát”. Cái hôn ám của lịch sử chính là chỗ đó. Sóng đồng bằng cho thấy rõ con người không có tự do ý chí. Sâu dưới những suy nghĩ và hành động của mỗi người là một sức mạnh nào đó, không thể nhận diện, không thể gọi tên chi phối hầu hết. Cũng từ đây, ta hiểu được sự bất an, ngơ ngác, ngờ vực, đôi khi dửng dưng của người dân. Ta cũng hiểu được vì sao thời điểm “Việt Minh về làng”, người dân không bày tỏ thái độ rõ ràng ủng hộ hay phản đối. Họ thấy Việt Minh là một lực lượng xa lạ nhưng quyết liệt, khác hẳn các lực lượng khác, khiến dân chúng vừa e dè, vừa kì vọng. Các nhân vật không lí giải được lịch sử, chỉ chịu đựng và quan sát nó đến rồi đi. Có thể thấy, Sóng đồng bằng đã giải cấu trúc cái nhìn chính thống về lịch sử bằng cách đặt con người cá nhân nhỏ bé làm trung tâm, thay vì vĩ nhân lịch sử. Truyện đã làm lộ ra cảm xúc thật của con người trong thời đoạn đó: sự sợ hãi, cảm giác mù mờ, không rõ ràng – điều mà văn chương tuyên truyền thường né tránh. Từ đây, chúng ta có quyền đặt lại câu hỏi: liệu người dân thường có thật sự “làm nên lịch sử”, hay chỉ là nạn nhân của nó?

Ở một góc độ khác, nhà văn viết: “bởi vì lịch sử bao giờ cũng là lịch sử của đám đông. Các đảng phái chánh trị biết rõ điều đó, họ không bỏ lỡ cơ hội hiếm có”. Đám đông được tạo ra bằng “cơn lên đồng” tập thể, bằng sự dẫn dụ của những thủ lĩnh mưu lược, tỉnh táo. Nhưng mỗi trang lịch sử lật qua, đám đông trở thành vô nghĩa: “Đám đông hỗn độn chẳng bao giờ được lịch sử ghi nhận sự hiện diện”. Xét đến cùng, đám đông luôn là tập hợp những cá thể không có tự do ý chí. Và lịch sử, dù nhìn từ góc nào cũng là thứ “đổ lên đầu” người dân, phi lí và bất khả giải. Bởi lịch sử không phụ thuộc vào ý chí con người nên mỗi nhân vật trong Sóng đồng bằng luôn bị “chơi  xỏ”. Tài xông pha hoạt động trong phong trào chống Pháp bất bạo động của Phật giáo Hòa Hảo nhưng cuối cùng Hòa Hảo bắt tay với thực dân Pháp: “một tháng sau khi Huỳnh Giáo Chủ vắng mặt, tướng Trần Văn Soái đã lập tức ký kết với đại tá Cluset, Tư lịnh miền Tây thuộc Bộ Tư lịnh Pháp một Hiệp định Liên quân, theo đó Pháp sẽ trang bị võ khí cho hai ngàn binh sĩ Hòa Hảo để đổi lại Hòa Hảo cho Pháp được tự do hoạt động trên một số tuyến đường thủy, bao gồm các kinh Xà No, Ô Môn, Thốt Nốt”. Nhân vật Út ban đầu hào hứng với phong trào kháng chiến thì sau này viết thư cho Quang bày tỏ: “Khi mày nhận được thơ này, tao đã rời khỏi hàng ngũ lâu rồi. Quyết định đứng ra ngoài một tổ chức mà mình đã từng gắn bó và theo đuổi lý tưởng thiệt không dễ dàng… Nhưng tao có lý do để đi đến quyết định đó khi tổ chức đã không còn giữ được mục đích trong sáng của nó ngày đầu, mà đã nhuốm màu sắc chánh trị đảng phái từ khi tham gia vô Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất”. Bức tranh chính trị xoay vần chóng mặt ở Nam bộ lúc bấy giờ khiến cho mọi toan tính của người dân thường như ông bà Cảnh Thiên, gia đình ông Mười Trí, gia đình Út đều phá sản. Quan điểm của nhà văn đã thể hiện rõ qua đoạn này: “Lịch sử đã rẽ vào một khúc quanh hoàn toàn bất ngờ; không một ai, kể cả những kẻ dự phần trong cuộc, có thể dự đoán. Có phải ở những thời điểm quan trọng nhứt, bất chấp mọi hành động và kỳ vọng của con người, lịch sử luôn có những lý lẽ của riêng nó?”.

Có thể thấy, Sóng đồng bằng là tiểu thuyết hiện đại mang tinh thần “hậu sử thi”: không phủ nhận lịch sử, nhưng phủ nhận độc quyền diễn giải lịch sử. Các nhân vật chính trong Sóng đồng bằng nhìn nhận thời cuộc bằng con mắt ngờ vực và trầm tư. Nhân vật Út khi đứng trước những cơn say lí tưởng của bạn bè, người thân thường bật ra những tra vấn ngầm: “Thời đại Bắc thuộc người Hán đem văn hóa, chữ viết dạy cho người Việt, bên cạnh mục đích đào tạo ra một tầng lớp thư lại tay sai – không ai chối bỏ điều này – nhưng người ta đâu thể phủ nhận sạch trơn một thực tế khác là nhờ có chữ viết và sách vở của phương Bắc mà nước Việt mới được thừa hưởng những thành tựu của một trong những nền văn minh rực rỡ nhất của nhân loại. Và ngược lại, chẳng phải chính tầng lớp sĩ phu chịu ảnh hưởng của văn hóa phương Bắc đó, tới lượt họ, lại là những người phát động công cuộc đánh đuổi giặc Hán để xây dựng nên những triều đại hiển hách trong lịch sử hay sao?”. Trong một đoạn khác: “Đất nước Việt Nam phải chịu sự chiếm đóng của ngoại bang gần suốt chiều dài lịch sử và đến lúc muốn giành lấy tự trị, người Việt Nam một lần nữa cứ lại phải đi vay mượn đủ thứ lý thuyết, chủ nghĩa từ chính nước đô hộ mình để làm vũ khí, hoặc sang tận nước họ để mưu cầu rồi cứ vậy áp dụng nguyên xi không thay đổi mô hình độc lập theo cách phương Tây mong muốn. Cái vòng lẩn quẩn ấy đâu có thể đổ cho số phận. Tại sao người Việt Nam không thể có lấy nổi một đường lối cứu nước dành riêng cho dân tộc mình, mà phải cần đến sự bảo hộ tinh thần của những nước cai trị?”. Nhân vật Tài, người dấn thân vì lí tưởng cứu nước, đến cuối truyện lại rơi vào trạng thái mất niềm tin: “Đức Huỳnh Giáo Chủ không còn nữa, lòng Tài lạnh lẽo, ngập tràn bóng tối huyệt mộ. Những ngày này anh không làm sao tránh khỏi cảm giác bị phản bội. Lý tưởng anh theo đuổi, phục vụ đang bị đánh tráo cho những mục đích thực dụng đáng ngờ. Sự tham gia vào cuộc chiến đấu đã không còn mang ý nghĩa cứu đời và giải thoát mình của một người đã chọn xuất thế làm lẽ sống. Chưa khi nào tâm tư anh lại trĩu nặng mặc cảm thất bại ê chề đến vậy. Tuy vậy, mất một người hướng đạo tinh thần chưa phải là mất mát lớn nhứt, bởi vì anh có thể tự đốt đuốc soi đường cho mình, nhưng mất niềm tin mới thiệt sự là tuyệt lộ, mới là mất tất cả. Cuộc sống của anh bỗng chốc bị tước đoạt hết ý nghĩa và mục đích, chỉ còn lại một cái vỏ trống rỗng vô hồn chứa đầy những bận rộn lo toan tầm thường hằng ngày”. Con người không làm nên lịch sử, mà bị lịch sử chảy qua mình, để lại dấu vết, tổn thương, thử thách khả năng chịu đựng, tồn tại và nhìn lại của nó.

Nhưng ta vẫn có thể thưởng thức cuốn tiểu thuyết này ở vẻ đẹp nghĩa hiệp, phóng khoáng, hào sảng của con người miền Tây. Dẫu không có khả năng kiến tạo hoặc định hình lịch sử, người miền Tây luôn sống với một tinh thần trượng nghĩa sáng ngời. Chú Ba của Tài tham gia một hội kín chống thực dân Pháp, Tòa ở Long Xuyên đã kêu án, xét xử chú cùng với số người của hội kín âm mưu lật đổ; một số đông đã bị đày ra Côn Đảo biệt xứ. Chú phải lẩn trốn bảy, tám năm trời, thay tên đổi họ, hết giả dạng thầy tu đến hóa trang để râu nuôi tóc sống lẫn lộn trong thôn, sóc người Thổ, lấy vợ Thổ;… Cho đến khi nghe ngóng việc truy nã tàn dư của các hội kín ở trong nước tạm thời im ắng, chú mới lần mò trở về; … Ngày trở về quê gặp cha, chú dập đầu phủ phục xuống đất tạ tội. Ông chỉ nói: “Đứng lên đi, ta mừng con biết giữ đạo làm người trong thời loạn”. Những thanh niên trưởng thành trong thời loạn như Út, Quang, Tài mỗi người một cách đã chứng tỏ khí chất mạnh mẽ của người miền Tây: “Út cùng với các bạn đều bị cuốn hút vào bầu không khí thời cuộc, chuyện đèn sách xếp lại, mọi thứ riêng tư vào lúc này không còn quan trọng nữa. Họ tham gia vào những cuộc tuần hành, mít tinh, rải truyền đơn, đến từng nhà vận động người dân đi biểu tình. Những cá nhân đơn lẻ thường biến mất ở những ngã rẽ quyết định của lịch sử khi họ được kết chặt với nhau bằng chất keo của lòng yêu nước. Từ nay họ không còn mang thân phận của những giọt nước đơn độc bé nhỏ, dễ vỡ mà đã biến thành một sức mạnh long trời lở đất của một đại dương sục sôi, cuộn trào”. Ông Cảnh Thiên, một người Tàu sinh sống lâu đời ở đất Việt, khi chứng kiến cảnh thực dân Pháp hách dịch ngay trong căn nhà của mình, “ông vẫn giữ vẻ điềm nhiên, từ tốn rành rọt đáp lời tất cả các câu hỏi, phong thái hết sức đĩnh đạc đường hoàng”. Phải chăng, từ khí chất của những người dân bình thường, bé mọn, Sóng đồng bằng khơi dậy niềm tin rằng ngay cả những con người nhỏ bé, nếu dám chọn lựa, vẫn có thể “cầm cương số phận” theo một nghĩa nhất định! Con người miền Tây trong thế giới đang cuốn trôi không chiến đấu ồn ào, không lên gân lí tưởng. Họ sống sót bằng sự bền bỉ âm thầm, bằng kí ức sâu nặng, bằng niềm tin không phô trương. Họ không làm anh hùng, nhưng cũng không chịu đánh mất mình. Dù tất cả đều phải đối mặt với sự mất kiểm soát trước các thế lực lớn hơn mình, họ vẫn kháng cự, một kiểu kháng cự lặng lẽ. Hầu hết nhân vật trong truyện đều cố gắng giữ lấy chút gì của truyền thống để chống tại sự tan rã: giữ bài thuốc, giữ mảnh đất, giữ phong tục thờ cúng tổ tiên, tấm áo dài mặc dịp lễ trọng, lời ăn tiếng nói ấm áp tình làng nghĩa xóm. Giữ lấy cái  gốc – đó là một kiểu kháng cự mềm nhưng sâu của người miền Tây.

Tôi đặc biệt chú ý đến nhân vật Út ở sự kháng cự trầm lặng, kiên định và tỉnh táo. Trước sức ép của Tâm (người bạn theo Việt Minh), Út khéo léo chối từ, trở về quê để tránh cái quá khích đang bùng lên trong buổi đầu kháng chiến. Út đã tham gia vào các cuộc mít tinh, vào lực lượng tự vệ nhưng anh “mơ hồ thấy một cái gì đó quý giá đang mất mát đi; ngày tháng bỗng nhiên chỉ còn là một chuỗi dài vô vị, trống rỗng bất tận được lắp đầy bằng việc chấp hành máy móc những mệnh lịnh”. Có thể, nhân vật này khó tìm được sự đồng cảm của những độc giả quen với hình tượng nhân vật yêu nước, xả thân vì lí tưởng. Nhưng Sóng đồng bằng đã phản ánh đúng tâm thế của người dân ở dưới đáy lịch sử. Họ có nhiệt huyết, có niềm say mê chính nghĩa, có cái hào khí của người quen đương đầu với khó khăn. Nhưng họ, trước hết là những phận người đang cố để không bị nghiền nát trong sóng thần lịch sử. Sóng đồng bằng không kể một cuộc kháng chiến, mà kể một cuộc kháng cự lặng thầm của con người trước những gì họ không kiểm soát được: thiên nhiên tàn phá, quyền lực xô đẩy, lịch sử biến động. Họ không hô hào nhưng không cúi đầu. Họ kháng cự lặng thầm nhưng không tắt. Họ sống hằng ngày với điều đang mất. Và đây là một cách nhìn lịch sử đầy tính nhân bản của Sóng đồng bằng.

Hà Nội, 6/8/2025