Danh ngôn

Trong mọi cộng đồng, chúng ta cần một nhóm thiên thần gây rối.

We need, in every community, a group of angelic troublemakers.

(Bayard Rustin – trích bài phát biểu tại New York City 1963)

Trong mọi trường hợp, chắc chắn rằng sự thiếu hiểu biết, đi kèm với quyền lực, là kẻ thù tàn bạo nhất có thể có của công lý.

It is certain, in any case, that ignorance, allied with power, is the most ferocious enemy justice can have.

(James Baldwin - No Name in the Street 1972)

Các cuộc cách mạng và các cá nhân có thể bị giết hại, nhưng bạn không thể giết chết các ý tưởng.

While revolutionaries and individuals can be murdered, you cannot kill ideas.

(Thomas Sankara, một tuần trước khi bị ám sát, 1987)

Không có cảm giác nào cô đơn hơn việc bị chính đất nước mình trục xuất.

There's not a more lonely feeling than to be banished by my own country.

(Kiyo Sato – Kiyo’s Story 2009)

Ban Biên tập

Địa chỉ liên lạc:

1. Thơ

tho.vanviet.vd@gmail.com

2. Văn

vanviet.van14@gmail.com

3. Nghiên cứu Phê Bình

vanviet.ncpb@gmail.com

4. Vấn đề hôm nay

vanviet.vdhn1@gmail.com

5. Thư bạn đọc

vanviet.tbd14@gmail.com

6. Tư liệu

vanviet.tulieu@gmail.com

7. Văn học Miền Nam 54-75

vanhocmiennam5475@gmail.com

Tra cứu theo tên tác giả

Thứ Sáu, 24 tháng 11, 2023

Thơ Mỹ-một thời đáng nhớ (kỳ 9: Frederick Feirstein – tiếp theo)

Khế Iêm

IMG-3e6d8d64c1dc0921aade4cafc486c98b-V_thumb

PHOENIXES

                        for Matt, later

 

I thought that I was stronger than I am.

Death after death after death undid me.

My family seemed fresh sacrificial lambs.

Neither the present nor the future hid me,

And not like phoenixes they flew,

But like my old darlings, frightened, holding hands,

And like your high school girlfriend Amy who

Wore Death’s unholy, pale gray wedding band.

Dear nephew, who in my mind won’t grow old,

This is for you, for what you can’t express,

Running as you did when the huge cloud rolled

For endless blocks. For Amy, please stay blessed.

 

NHỮNG CON CHIM PHƯỢNG HOÀNG

                                                Tặng cháu Matt, đọc sau

 

Tôi nghĩ tôi đã mạnh mẽ hơn khả năng của tôi.

Thần chết rồi thần chết rồi thần chết không làm gì tôi.

Gia đình tôi hình như đã trở thành bầy cừu non tế thần.

Không có hiện tại hay tương lai che khuất tôi,

Và không giống như những con phượng hòang đã bay,

Nhưng giống người tình cũ của tôi, sợ hãi, đôi tay nắm chặt,

Và giống như người bạn gái thời trung học Amy của cháu

Đã đeo chiếc nhẫn cưới ảm đạm tái xanh chia lìa của thần chết.

Cháu thân yêu, ai trong tâm trí tôi không già đi,

Điều này dành cho cháu, cho những gì cháu không thể diễn tả,

Hãy cứ vận hành như đã từng khi đám mây bao la cuộn tròn

So với những khu phố dài vô tận. Vì Amy, hãy ở lại trong

ơn phước.

* Chim thần thoại trong những truyện hoang đường, sống khoảng 500 hay 600 năm o73 vùng hoang dã Ả Rập, tự đốt cháy mình và sống lại từ chính tro của mình, thường biểu tượng cho sự bất tử hoặc hy vọng.

 

OTHERS

 

There is a timeless world in which they live,

In which old wounds are healed, right paths are taken,

In which they get exactly what they give,

In which they’re loved and pampered, not forsaken.

 

Some waited too long to have a child,

Some to marry, crumple a dull career,

Some to leave a spouse whose voice was mild

But whittled down their soul from year to year

 

And some turned wooden in their smiles and tongues

And some paced fragile hour to room to hour

And some took fire and smoke inside their lungs

And turned to powder in their office tower.

 

Oh, time ticks even in the infant’s caul,

On mourners’ wristwatches despite the Dead.

Somewhere God weeps, sorry for them all,

For what He’s written, and for what She’s said.

 

I sometimes see The God in Auschwitz smoke.

For years I watched Him fight internal fires.

At times I heard Her as a dirty joke

Old cronies told, maddened by desire

 

For sex and celebration, holy zest

For golden faith they’d swipe from churches,

Spilling with red wine, Montalcino’s best,

For what intrigue can’t seize, mere cash can’t purchase:

 

The intimations in the dawning light

That waken in a poet freed from time

Only when passionate, when the mind is right,

Only when stressed, when the soul must scan and rhyme.

 

NHỮNG KẺ KHÁC

 

Có một thế giới phi thời gian trong đó họ sống,

Trong đó vết thương cũ chữa lành, con đường đúng để đi,

Trong đó họ lấy lại chính xác những gì họ cho,

Trong đó họ được yêu thương, nuông chiều, không bị bỏ rơi.

 

Có người đã chờ đợi quá lâu để có con,

Có người chờ đợi quá lâu để kết hôn, bỏ ngang công việc nhàm chán

Có người chờ đợi quá lâu để lại người bạn đời có giọng nói dịu dàng

Nhưng Linh hồn họ đã bình yên dần theo năm tháng

 

Và có người gượng gạo trong nụ cười và giọng nói

Và có người tới lui trong căn phòng qua giờ khắc mong manh

Và có người hít lửa và khói bên trong lồng ngực

Và hóa thành bột trong cơ quan ở tòa tháp.

 

Ôi, thời gian kêu tích tắc ngay cả trong màng thóp trẻ sơ sinh,

Nơi chiếc đồng hồ đeo tay của kẻ thương tiếc bất kể kẻ chết.

Ở đâu đó Chúa rơi lệ, cảm thương họ,

Vì điều mà Chúa đã viết, và vì điều Chúa đã phán.

* Tác giả là một nhà thơ, nhạy cảm và nhân bản, một trong vài khuôn mặt quan trọng của hai phong trào tiền phong Tân hình thức và Thơ mở rộng, lại sống nơi trung tâm xảy ra cuộc khủng bố ngày 11 tháng 9 – 2001, nên biến cố trên có lẽ đã để lại nơi ông một cảm nhận và ám ảnh sâu sắc. Một con người như vậy, nếu không có niềm tin tôn giáo, có lẽ khó vượt qua để có thể trở lại đời sống bình thường. Trong bài thơ, “He” (nam) và “She” (nữ) là hai diện mạo của Chúa. Chúa là người chuộc tội cho điều Chúa (He) đã viết trong Cuốn sách của Đời sống (The Book of Life) – kẻ sẽ sống và kẻ sẽ chết – và cho điều Chúa (She) đã phán về đời sống nhân loại.

 

Đôi khi tôi thấy Chúa trong khói ở Auschwitz.

Trong nhiều năm tôi đã quan sát Chúa chiến đấu với ngọn lửa nội                                                                                                  tâm,

Ở thời khắc tôi đã nghe Chúa như trò đùa bậy bạ

Những người bạn già chí cốt đã kể lại, bị dày vò bởi ham muốn

 

Vì dục tình và sự tán tụng, sự ham mê thánh thiện,

Vì đức tin vàng ngọc mà họ cuỗm được từ nhà thờ,

Chảy tràn ra với rượu đỏ, loại tốt nhất ở Montalcino

Vì điều gì âm mưu không thể cầm giữ, tiền mặt không thể mua bán:

\

Ẩn dụ của lời Chúa trong ánh sáng bình minh

Làm thức dậy trong nhà thơ, trạng thái phi thời gian

Như lúc đam mê, cần tâm trí sáng suốt,

Như lúc căng thẳng, cần tâm hồn hòa điệu.

* Chú thích

1/ Auschwitz, trại tập trung giết người hàng loạt bằng hơi ngạt, khủng khiếp của Đức Quốc Xã, trong thế chiến II.

2/ Montalcino là một thị xã ở Florence, Ý, sản xuất loại rượu đỏ nổi tiếng, Bru­nello di Montalcino.

Tác giả tin rằng đời sống tôn giáo có thể giúp chúng ta chiến đấu với ngọn lửa nội tâm. Nếu con người không đối xử với Chúa (She) như một trò đùa bậy bạ, biến đức tin thành chủ nghĩa vật chất qua mưu mô và tham ái, thì sẽ nhận được ám dụ lời Chúa, chẳng khác nào nhà thơ đạt đến trạng thái trầm lắng trong cõi thơ.

 

SLEEPWALKERS

 

We necked on a bench

In Central Park

Till the trees gave up their leaves

To the unholy dark.

We stumbled to Sheep Meadow

And lay sideways down

Till the office lights went out

In the towers of midtown

Where terrorists roamed the streets

Casually as flirts,

Fingering vials of plague

Under New York Yankee shirts.

The autumn sky turned innocent,

Baby pink and blue,

And lit us in a rectangle

Of still green grass, black shoes.

We hopped a local train

To where the terrified stood,

And watched the smoke spread

As long as we could.

 

* The sun lights the grass into a rectangle that suggests being trapped. The grass is still green, unpolluted by the ash of 9/ll. The black shoes are those the people are wearing but also is meant to suggest the shoes of the people who had to jump out of the buildings.

 

NHỮNG KẺ MỘNG DU

 

Chúng tôi ôm hôn thắm thiết trên băng ghế

Ngoài công viên Central Park

Cho đến khi cây cối trút lá

Vào bóng tối dầy đặc.

Chúng tôi ngã xuống công viên Sheep Meadow

Và nằm nghiêng một bên

Cho đến khi những ngọn đèn

Văn phòng trên tòa tháp

Ở trung tâm thành phố tắt

Nơi những kẻ khủng bố đi lang thang

Ngẫu nhiên như những kẻ tán gái,

Dấu chai vũ khí vi trùng bằng ngón tay

Dưới những chiếc áo sơ mi ghi chữ New York Yankee

Bầu trời mùa thu trở nên vô tội,

Như những em bé gái bé trai,

Chiếu sáng chúng ta trong khoang cỏ

Xanh hình chữ nhật, những chiếc giày đen.

Chúng tôi đã đi một chuyến xe lửa địa phương

Tới nơi những kẻ khủng bố đứng,

Và nhìn cột khói tỏa ra

Lâu chừng nào chúng tôi có thể.

 

* Mặt trời chiếu ánh sáng xuống mảng cỏ hình nhữ nhật, ý nói bị sập bẫy. Cỏ xanh tươi cho đến khi bị ô nhiễm bởi tro 9/11, và những chiếc giày đen là của những người nhảy ra từ những tòa nhà.

 

SHE HANDS THE FIRE CAPTAIN A PHOTO

 

His name is Sean, he grins a goofy grin.

If you can find him, call me please.

His eyes are keen – he’s seen the frown of Death!

He’ll say my name – it’s Beth – with his last breath.

He wears a silver cross, a V-shaped scar

Marks his left wrist – no, right! – from a bar fight,

Though he’s just gentle as our Burmese cat.

If you can find his hand – or head! – please tell me that.

He loved these towers and his posh address.

He loved his view, his desk, his colleagues, friends.

He loves the East Side of Manhattan and the West.

He wears a double-breasted blazer, linen pants.

His tie is navy blue and never straight.

He smokes despite me, and he’ll never dance.

His cell phone’s broken and his rent is late.

 

NÀNG TRAO TAY TẤM HÌNH

CỦA ĐẠI ÚY CỨU HỎA

 

Tên ông ấy là Sean, cười toe trông huệch hoạc.

Nếu anh tìm thấy ông ấy, làm ơn gọi cho tôi.

Đôi mắt ông ấy đầy nhiệt tình – đã gặp mặt Thần Chết!

Ông ấy sẽ nói tên tôi – đó là Beth – với hơi thở cuối.

Ông ấy đeo thánh giá bằng bạc, dấu sẹo hình chữ V

Ở cổ tay trái – không, tay phải! – lúc đánh nhau trong quán rượu,

Mặc dù ông ấy hòa nhã như con mèo Miến Điện của chúng tôi.

Nếu anh tìm thấy bàn tay ông ấy – hoặc cái đầu! – hãy cho tôi biết.

Ông ấy yêu thích tòa tháp này và địa chỉ sang trọng.

Ông ấy yêu thích quang cảnh, bàn làm việc, đồng sự, những bè bạn.

Ông ấy yêu thích phía Đông Mahattan và phía Tây.

Ông ấy mặc chiếc áo hai hàng cúc, quần vải sợi.

Cà vạt của ông ấy màu xanh dương và không bao giờ thẳng.

Ông ấy hút thuốc bất kể tôi, và sẽ chẳng bao giờ khiêu vũ.

Cell phone của ông ấy bị vỡ và tiền thuê nhà của ông ấy trả trễ.

 

FATHER AND SON

 

Finally I’ve learned forgiveness at this age,

For your mistakes that crippled me,

Which I’ve repeated. I have seen far worse.

You made them out of ignorance, not choice.

 

The rage I had, the wisdom that I lacked

Amaze me now, as if a page

That I was reading suddenly caught fire

And images of you tumbled from the smoke,

Words you mumbled when you were very tired,

 

Dying, your hand in mine, that long last night,

Both knowing you had lost all breath to fight.

“It’s late,” you said, “I don’t want you to go.

But you have to leave me.” So I sighed

 

And, like a child in winter, buttoned up my coat.

“I love you,” we said simultaneously.

“Kiss your son for me,” who then was four months old.

The next day you were found unsaveable and cold.

 

So if I try to save you on this page

And if you try to save me from your realm,

Eons away, distances so vast

It seems a microscopic stage our past

 

Of father and son struggling through myth

Which we enacted witlessly and sick,

Dumb, irreconcilable, compelled

To make this seeming paradise a hell

 

In which we sleptwalked like the shade you are,

The shadow of a man I hoped to be.

Why were we burdened, little you and me

Or, as you often said, “How can this be?”

 

So if I try to save you on this page

And if you try to save me from your realm,

Eons away, distances so vast

It seems a microscopic stage our past

 

Of father and son struggling through myth

Which we enacted witlessly and sick,

Dumb, irreconcilable, compelled

To make this seeming paradise a hell

 

In which we sleptwalked like the shade you are,

The shadow of a man I hoped to be.

Why were we burdened, little you and me

Or, as you often said, “How can this be?”

 

* This poem alludes to is the tragic reconciliation I had with my father the day he died and my feelings later in which I which I sought forgiveness and found forgiveness for the difficulties in our relationship. In childhood we were very close. In my ado­lescence it was a difficult time for both of us. Its placement in the book is meant to suggest a parallel between our sleepwalking through life and the sleepwalkers in the 9/ll poem, that is the relationship between private and public trauma I talk about in the Afterword.

As you can gather, my poetry books are not collections but are carefully structured books.

* This poem alludes to is the tragic reconciliation I had with my father the day he died and my feelings later in which I which I sought forgiveness and found forgiveness for the difficulties in our relationship. In childhood we were very close. In my ado­lescence it was a difficult time for both of us. Its placement in the book is meant to suggest a parallel between our sleepwalking through life and the sleepwalkers in the 9/ll poem, that is the relationship between private and public trauma I talk about in the Afterword.

As you can gather, my poetry books are not collections but are carefully structured books.

 

CHA VÀ CON

 

Cuối cùng, ở tuổi này, con đã học được sự tha thứ,

Vì những sai lầm của cha đã làm hỏng con,

Những sai lầm đó con đã lập lại. Con thấy còn tệ hại hơn.

Bởi cha đã phạm sai lầm vì không biết, chứ không phải chọn lựa.

 

Con đã có thừa sự giận dữ, và thiếu sự khôn ngoan

Điều đó làm con ngạc nhiên, như thể một trang sách

Con đang đọc bất thình lình bắt lửa

Và hình ảnh của cha ngã nhào từ cột khói,

Những tiếng cha lầm bầm khi cha đã mệt lả,

 

Lúc hấp hối, con đã nắm tay cha, đêm dài cuối cùng đó,

Cả hai chúng ta đều biết cha đã chiến đấu đến hết hơi.

“Trễ rồi,” cha nói, “Cha không muốn con đi.

Nhưng con phải bỏ cha ở lại.” Lúc đó con đã thở dài.

 

Và, như một đứa trẻ trong mùa Đông, con cài nút áo khóac.

“Con (cha) thương cha (con),” chúng ta cùng nói,

“Hôn đứa cháu cho cha,” đứa cháu mới bốn tháng tuổi.

Hôm sau, cha được tìm thấy đã chết và lạnh.

 

Như thế, nếu con cứu cha trên trang giấy này

Và nếu cha cứu con từ vương quốc của cha,

Khỏang thời gian vô tận vụt qua, khoảng cách quá lớn

Tưởng như một sân khấu vi mô quá khứ của chúng ta

 

Của cha và con vẫy vùng qua huyền thọai

Mà chúng ta đã diễn vai như mất hồn và chán ngán,

Đần độn, bất tương nhượng, thúc bách

Để làm ra vẻ thiên đường này là địa ngục

 

Trong đó chúng ta mộng du như thể cha là cái bóng,

Cái bóng của người đàn ông con mong được trở thành.

Tại sao chúng ta bị đè nặng, tuổi thơ của cha và con

Hoặc, như cha thường nói, “Làm sao lại thế này nhỉ?”

 

* Lời tác giả: Những ám dụ của bài thơ này, là sự hòa giải đầy bi kịch. Tôi đã ở bên người cha của mình khi ông chết, và những cảm xúc sau đó là tìm kiếm sự tha thứ và đã tìm thấy sự tha thứ cho những cảnh khó khăn trong mối liên hệ cha con. Trong thời thơ ấu, tôi rất gần gũi ông. Trong thời thanh niên là lúc khó khăn cho cả hai chúng tôi. Sự tìm kiếm đó trong cuốn sách hàm ý sự trùng hợp giữa sự mộng du của chúng tôi xuyên suốt cuộc đời và những kẻ mộng du trong bài thơ về biến cố 9/11, đó là sự liên hệ giữa cơn chấn thương riêng và chung mà tôi đã nói trong Lời cuối.

Như bạn biết, những tập thơ của tôi không phải chỉ là những tuyển tập mà còn là những tập thơ được kết cấu cẩn thận.

Frederick Feirstein