Danh ngôn

Trong mọi cộng đồng, chúng ta cần một nhóm thiên thần gây rối.

We need, in every community, a group of angelic troublemakers.

(Bayard Rustin – trích bài phát biểu tại New York City 1963)

Trong mọi trường hợp, chắc chắn rằng sự thiếu hiểu biết, đi kèm với quyền lực, là kẻ thù tàn bạo nhất có thể có của công lý.

It is certain, in any case, that ignorance, allied with power, is the most ferocious enemy justice can have.

(James Baldwin - No Name in the Street 1972)

Các cuộc cách mạng và các cá nhân có thể bị giết hại, nhưng bạn không thể giết chết các ý tưởng.

While revolutionaries and individuals can be murdered, you cannot kill ideas.

(Thomas Sankara, một tuần trước khi bị ám sát, 1987)

Không có cảm giác nào cô đơn hơn việc bị chính đất nước mình trục xuất.

There's not a more lonely feeling than to be banished by my own country.

(Kiyo Sato – Kiyo’s Story 2009)

Ban Biên tập

Địa chỉ liên lạc:

1. Thơ

tho.vanviet.vd@gmail.com

2. Văn

vanviet.van14@gmail.com

3. Nghiên cứu Phê Bình

vanviet.ncpb@gmail.com

4. Vấn đề hôm nay

vanviet.vdhn1@gmail.com

5. Thư bạn đọc

vanviet.tbd14@gmail.com

6. Tư liệu

vanviet.tulieu@gmail.com

7. Văn học Miền Nam 54-75

vanhocmiennam5475@gmail.com

Tra cứu theo tên tác giả

Chủ Nhật, 13 tháng 11, 2016

Minh triết phương Tây (kỳ 10)

Bertrand Russell

Nam Dao Nguyễn Mạnh Hùng chuyển ngữ

Sơ thời Ki-tô giáo (tiếp theo)

Thời cuối của Đế chế Rome phương Tây, có ba tu sĩ qua những phương cách khác nhau đã củng cố quyền hành của Giáo Hội, sau đều được phong Thánh. Ambrose, Jerome và Augustine sinh trong cùng một khoảng thời gian ở thế kỷ thứ 4. Cùng với Giáo Hoàng Gregory, thuộc thế kỷ thứ 6, họ được gọi là những Tiến sĩ của Giáo Hội. Trong ba người này, chỉ Augustine là triết gia.

Ambrose là người kiên trì bảo vệ và xây nền móng cho quan hệ giữa Nhà nước và Giáo hội. Jerome là người đầu tiên dịch Thánh Kinh qua tiếng Latinh. Augustine đưa ra một số tư biện về thần học và triết học. Khuôn hình thần học Công giáo cho đến thời Phục Hưng cũng như nhiều nguyên tắc cải cách giáo luật đến từ vị này. Bản thân Luther[1] là một tu sĩ dòng Augustine.

Ambrose sinh vào năm 340, ở Treves, học ở Rome rồi hành nghề luật. Vào tuổi 30, ông được chỉ định chức Tổng trấn Liguria và Aemilia vùng bắc nước Ý, và tại nhiệm 4 năm. Sau đó, không rõ lý do gì, ông rút lui nhưng không bỏ những hoạt động chính trị. Được bầu làm Giám mục Milan, thủ phủ vùng tây Ý, ông xử dụng vị thế này để gây ảnh hưởng qua rao giảng khá triệt để về sự thượng tôn tâm linh của Giáo hội.

Ban đầu, thời Gratian là Hoàng đế, vị trí của Giáo hội rõ rệt, và không có gì đe dọa cách nhìn chính thống. Gratian bỏ bê triều chính, bị sát hại. Quyền lực miền tây vào tay Maximus trong khi lẽ ra phải để Valentinian, em của Gratian, kế thừa. Tay này còn niên thiếu, quyền lực vương triều nằm trong tay mẹ, là Justina. Bà người Arian, chắc chắn sẽ có đổ vỡ ở Roma giữa những kẻ thờ đa thần và Giáo hội. Dưới thời Constantius, con của Đại đế Constantine, tượng thần Chiến thắng bị rời khỏi toà Thượng viện. Khi Julian cầm quyền, tượng được mang đặt trở lại, và đến Gratian, tượng lại bị rời đi mặc dầu có nhiều nghị sĩ phản đối. Nhưng phe nhóm theo Giáo hội trong Thượng viện, có sự ủng hộ của Ambrose và Giáo Hoàng Damasus, đã thắng. Sau khi Gratian mất, phe nhóm thờ đa thần gây ảnh hưởng, năm 384 gửi cho Valentianian II một kháng thư. Để tránh vị Hoàng đế này bị tác động, Ambrose nhắc nhở rằng bậc Đế vương phải phục vụ Chúa Giê-su, hệt như công dân phải đi lính để phục vụ Hoàng đế. Không chỉ nhắc nhớ lời Chúa rằng Thượng Đế có phần Thượng Đế, và Caesar có phần của Caesar, Ambrose ngụ ý rằng Giáo hội, phương tiện của Chúa cai quản trái đất, có phần còn cao hơn nhà nước dưới quyền Vương triều. Trong chừng mực nhà nước mất dần thế vững vàng, Giáo hội phải tiếp tục tồn tại như một cơ chế chính trị siêu quốc gia thời Đế chế đang bị phân rẽ rạn nứt. Và một vị Giám mục dám đưa ra lý lẽ nói trên hẳn là dấu hiệu báo ngày tàn của Đế quốc Rome. Tuy nhiên, câu chuyện tượng thần Chiến thắng vẫn tiếp diễn. Dưới thời Eugenius, một kẻ thoán đoạt, tượng được mang đặt trở lại, và khi tay này bị Theodosius đánh bại năm 394 thì tượng lại bị rời đi lần chót. Nhưng đây là lần cuối cùng, báo tin Giáo hội đã thắng tà đạo đa thần.

Với Justina, Ambrose có vấn đề với khuynh hướng Arianism của hoàng hậu này. Đặt yêu cầu giành một quảng trường ở Milan để vinh danh cho những người lính Gô-tích theo Arian, bà bị vị Giám mục này bác. Những người lính được điều động đến chiếm Thánh đường, nhưng đến nơi thì cuối cùng họ từ chối không dùng vũ lực. Trước sự đe dọa bạo lực, Ambrose đã can trường không chịu khuất phục và Vương triều đành chịu thua. Chiến thắng trên mặt đạo lý của Giáo hội như cơ chế độc lập với thế quyền được ghi nhận.

Nhưng chẳng phải hành động nào của vị Giám mục này lúc nào cũng tốt. Dưới thời Theodosius, ông chống lệnh Hoàng đế trả tiền xây lại một giáo đường Do Thái giáo bị cháy. Lý do là vì chính Giáo hội chủ trương đốt, và vương triều không chấp nhận phương cách hù dọa này. Ambrose biện bác bảo chẳng có người Ki-tô giáo nào có thể bị qui trách nhiệm, góp một phần khởi xướng cho phong trào khủng bố của Giáo hội vào thời Trung cổ sau này.

Nếu như Ambrose thành đạt trong việc định hướng chính trị và quản lý Giáo hội thì Jerome, mặt khác, là một học giả kiệt xuất. Ông sinh năm 345 ở Stridon, gần biên giới Dalmatian. Năm 18 tuổi, ông đi học ở Rome, và sau ít năm lưu lạc ở Gaul, ông đến cư ngụ Aquileia gần nơi sinh đẻ. Sau có tranh cãi gì đó, ông đi về phía đông, ở sa mạc Syrian liền 5 năm. Qua thời gian này, ông đến Constantinople rồi quay lại Rome sống từ 382 đến 385. Năm trước đó, Giáo Hoàng Damasus tạ thế, và người lên kế vị không ưa những kẻ trong Giáo hội hay đặt vấn đề. Thêm một lần, Jerome lại đi về miền đông, lần này có một đám phụ nữ tiết hạnh nguyện sống độc thân và tiết chế tình dục đi theo. Cả đoàn này sống trong một tu viện ở Bethlehem năm 386, và Jerome mất năm 420. Tác phẩm chính của ông là Vulgate, Thánh kinh Latinh sau trở thành kinh điển chính thống. Nhiều Phúc Âm được dịch từ tiếng Hy Lạp thời Jerome sống ở Rome. Ở giai đoạn cuối đời, ông dịch Cựu Ước từ tiếng Hebrew với sự hợp tác của những học giả Do Thái. Qua cung cách sống, Jerome có ảnh hưởng khá lớn với phong trào tu học. Những môn đồ theo ông đến Bethlehem lập ra bốn tu viện khác. Giống Ambrose, ông viết nhiều thư, phần lớn là cho những nữ tu ông khuyên nhủ đi theo con đường tiết trinh và đạo hạnh. Khi Rome bị quân Gô-tích xâm lăng, năm 410, Jerome lấy thái độ cam chịu, tiếp tục viết thư rao giảng sự cao cả của tiết dục và tiết trinh.

Augustine sinh năm 354 ở Numidia, đến Rome vào tuổi hai mươi với mẹ, nàng hầu và con còn bé. Sau đó ít lâu, Augustine đi Milan, kiếm sống với nghề dậy học. Thời gian này, ông theo tôn giáo Manichaen[2]. Nhưng với sự quản lý chặt chẽ của mẹ, ông đành chuyển sang tôn giáo chính thống. Năm 387, ông được Ambrose làm phép rửa tội. Sang châu Phi, ông thành Giám mục ở Hippo năm 396, sống và chết ở đấy năm 430.

Trong “Lời Tự Thú” của ông, chúng ta biết được một cuộc đấu tranh đầy mầu sắc chống lại tội lỗi. Khi còn là một đứa trẻ, Augustine trèo phá một cây đào vườn hàng xóm chỉ vì tinh nghịch. Nhưng chỉ có thế mà ông bị ám ảnh và ân hận suốt đời. Thì ra, ở thời ông, trèo lên một cây đào quả là chuyện đầy nguy cơ mạo hiểm.

Thời ban đầu trong Cựu Ước, tội lỗi là một sự yếu kém cộng đồng nhưng về sau dần dần biến thành nhược điểm của cá nhân. Trong thần học Ki-tô, sự chuyển đổi này rất quan trọng. Giáo hội như một định chế cộng đồng không thể lầm lẫn. Chỉ những cá nhân mới phạm tội, và nhấn mạnh quan điểm này, Augustine đã thành người tiên phong cho thần học Tin Lành. Với Ki-tô giáo, Giáo Hội là chính điểm, con người chỉ thứ yếu. Theo Augustine, cả hai đều quan trọng. Con người sinh ra vốn là tội phạm bị nguyền rủa, và chỉ được cứu chuộc qua trung gian của Giáo hội với đấng Thượng tôn. Tuy nhiên, một đời sống đạo hạnh không bảo đảm sẽ được cứu chuộc. Thượng đế là Tốt - sự Thiện- , con người là Xấu - sự Ác- , nên cứu chuộc là một đặc ân, và không cứu chuộc không có gì để trách cứ. Giáo điều này sau được nới lỏng trong thần học Cải Cách. Còn cái Xấu không chỉ là một nguyên lý trong thế giới thuần vật chất như theo tôn giáo Machinaen, mà còn đến từ tâm linh con người. Đây là một nét tích cực trong đạo Tin Lành qua sự qui kết trách nhiệm vào con người.

clip_image002 Augustine

Trước tác thần học của Augustine phần lớn nhằm phản biện quan điểm của Pelagius. Giáo sĩ này người vùng Wale này ôn hòa và nhân bản hơn những người cùng thời trong Giáo hội. Ông phủ định tội tổ tông nguyên thủy và cho rằng con người có thể tự cứu chuộc với đời sống đạo hạnh. Lý thuyết này, văn minh và dung hòa, được sự cổ vũ của nhiều người, nhất là giới chịu ảnh hưởng của triết học Hy Lạp. Augustine chống lại quan điểm này, và nhiệt tình đến mức qui kết nó thuộc dòng dị giáo. Ông đưa ra cơ sở một giáo lý tiền mệnh (predestination) cho là lấy từ giảng dạy của tông đồ Paul, kẻ có thể giật thót người về cái hệ luận đáng gờm kia lại có thể đến từ mình. Điều này được Calvin tiếp thu thời Cải Cách, nhưng sau Giáo hội đã khôn khéo lơ đi.

Quan tâm chính của Augustine là thần học. Tiếp cận với những vấn đề triết học, ông nhắm mục đích kết hợp Thánh Kinh với giảng dạy của trường phái Plato. Ở vị trí này, ông là người tiên phong trong truyền thống biện giải tôn giáo. Tuy thế, tư biện của ông chứng minh ông là một tư tưởng gia uyển chuyển, được trình bày trong Quyển 11 của trước tác Lời Tự Thú. Vì không tầm phào chuyện ngồi lê đôi mách nên quyển này không được in để quảng bá cho đại chúng bình dân.

Vấn đề Augustine đặt ra là chứng minh quyền lực vô biên của Thượng Đế có thể thoả nhượng với sự sáng tạo ra muôn loài đã được trình bày trong cuốn Chúa Sáng Thế trong kinh Cựu Ước. Chúng ta nên ghi nhận khác biệt giữa Do Thái và Ki-tô giáo trong quan niệm sáng thế đến từ triết học Hy Lạp. Đối với một người Hy, trong mọi thời điểm, thật phi lý khi nói rằng thế giới có thể sinh ra từ sự không-có-gì. Nếu Thượng Đế tạo ra thế giới, cũng như những kiến trúc sư, đấng tối cao này cần nguyên vật liệu. Chúng đến từ không-có-gì là điều khó chấp nhận với tư duy khoa học Hy. Nhưng lại không như thế với Thượng Đế trong Kinh Thánh, được hiểu như đấng vừa tạo ra nguyên vật liệu vừa quyết định cơ cấu xây dựng chúng. Cách nhìn Hy Lạp dẫn đến tâm linh đa thần, trong đó Thượng Đế là cả thế giới, một cách nhìn có hấp lực với tư duy bí nhiệm, được trình bày sau này bởi Spinoza. Augustine chấp nhận ngôi Chúa Sáng Thế trong Cựu Ước như Thượng Đế ở ngoài thế giới chúng ta, không chịu luật nhân quả, phi thời gian, phi lịch sử. Chỉ khi Thế giới được sáng tạo, thời gian mới được sáng tạo. Chúng ta không thể hỏi có cái gì trước đó, vì không có thời gian thì làm gì có trước, có sau.

Thời gian hiện hữu qua ba phương cách theo Augustine. Hiện tại, là sự vật tồn tại như chúng thực là. Quá khứ, khi trí nhớ tái hiện chúng trong hiện tại, và tương lai là sự dự đoán từ hiện tại những điều chưa xẩy ra. Điểm đáng nhấn mạnh là thời gian, như một thực chứng của trí năng, hoàn toàn có tính chủ quan. Vì thế, không có ý nghĩa gì khi ta đặt câu hỏi cái gì xảy ra trước lúc sáng thế. Thế cách coi thời gian là thuộc chủ quan được Kant soi sáng thêm như một cơ sở của tri thức. Luận cứ của Augustine dựa trên chủ quan có thời đã trùm lấp quan điểm duy lý Descartes, theo đó điều duy nhất con người không nghi ngờ được là anh ta tư duy. Dầu học thuyết chủ quan, cuối cùng, không phải là một luận cứ Lôgíc, ta vẫn ghi nhận rằng Augustine là kẻ đã lưu tâm và trình bày rõ rệt.

Thời đại Augustine là thời Đế chế phương Tây sụp đổ. Người Gô-tích cai trị Rome năm 410. Những người theo Ki-tô giáo coi như đây là sự trừng phạt những tội lỗi của họ. Kẻ theo đạo đa thần cho rằng những thần linh cũ đã bỏ rơi, và Jupiter không còn bảo vệ họ nữa. Augustine viết cuốn “Thành phố của Chúa”, một cuốn sách trở thành kinh điển trong sử học Công giáo, thuật lại quan điểm Ki-tô nói trên. Điều còn đáng quan tâm hiện nay là luận điểm theo đó Giáo hội phải độc lập với Chính quyền, một thế cách có ảnh hưởng rất lớn trong suốt thời Trung Cổ cho đến tận bây giờ. Nếu muốn được cứu chuộc, thế quyền phải vâng lời Giáo hội thật ra đặt trên cơ sở của thể chế chính quyền Do Thái trong Cựu Ước.

Dưới triều Theodoric, một tư tưởng gia mà đời sống và tác phẩm nổi bật trong thời lụn tàn của văn minh thời ấy là Boethius. Sinh ở Rome vào 480, ông thuộc một gia đình quyền quí, có liên hệ gần gũi với giai tầng Thượng nghị sĩ. Ông là bạn Theodoric, và khi vua Gô-tích trở thành người cầm quyền ở Rome năm 500, Boethius nhậm chức Tổng Trấn năm 510. Sau đó, gia sản của ông tan tác, và năm 524, ông bị bỏ tù và xử tử vì tội bội phản. Trong ngục chờ cái chết, ông viết cuốn sách khiến ông lừng danh, tên “Lời an ủi từ Triết học”.

Khi sống, Boethius đã có tiếng là thông tuệ. Ông là người đầu dịch sang tiếng Latinh những tác phẩm của Aristotle về Lôgíc, hiệu đính và biên khảo với những tư tưởng riêng tư của mình.

clip_image004

Mồ Boethius

Trước tác của Boethius về âm nhạc, số học và hình học được coi như tiêu chuẩn thời Trung Cổ. Dự định dịch toàn bộ thư tịch của Plato và Aristotle của ông, rủi thay, không được hoàn thành. Thật là lạ, thời Trung Cổ vinh danh ông như một người nghiên cứu triết học cổ điển và như một Ki-tô giáo hữu. Đúng là ông có viết đây đó dăm sơ thảo về thần học theo như người ta đồn, nhưng chưa chắc đã đúng. Còn trong “Lời an ủi của Triết học”, thế cách triết lý của ông là theo truyền thống Plato. Dẫu theo Ki-tô giáo như mọi người thời ấy, nhưng về mặt tư duy triết học, Boethius chịu ảnh hưởng của Plato hơn mọi tư biện giáo điều của Giáo Hội. Có lẽ may mà người ta tưởng ông thuộc dòng chính thống, bởi thế nên tư tưởng Plato còn tác động sau này lên giáo sĩ Ki-tô, chứ nếu không, hẳn ông cũng sẽ bị buộc tội dị giáo, và những điều ông trước tác sẽ đi vào quên lãng.

Trong mọi trường hợp, “Lời an ủi của Triết học” không dính dáng đến thần học Ki-tô. Cuốn sách viết về một cuộc đối thoại của Boethius dưới dạng văn xuôi, với một người đàn bà dưới dạng thơ. Về mặt giáo lý và những quan tâm tôn giáo khác, nó không có dấu vết nào của Giáo hội thời ấy. Nhập đề, là khẳng định về vị thế của ba vị triết gia Athenian. Thực hiện một đời sống tốt đẹp, Boethius theo truyền thống Pythagoras, là Khắc Kỷ về mặt đạo đức, với nền tảng siêu hình của Plato. Có những đoạn mang dáng dấp đa thần, trong đó ông khai triển lý thuyết về cái Xấu là không thực tồn (unreal), vì cái Tốt, được đồng hóa vào Thượng Đế, với quyền năng vô biên nên cái Xấu chỉ là ảo ảnh và không thể có được. Điều này khác xa với quan điểm Giáo hội, và rất bất ngờ, nó lại chẳng khiến những người phò chính thống nổi giận. Cuốn “Lời an ủi...” tránh tính bí nhiệm huyền bí của những tác gia trong trường phái Tân-Plato như Plotinus, và chẳng hề có dấu vết mê tín dị đoan chút nào. Quan niệm tội tổ tông từ nguyên sơ của Giáo hội hoàn toàn vắng bóng, mặc dầu cuốn sách được viết bởi một người đang chờ bị xử tử trong lao tù.

Ta lầm lẫn nếu coi Boethius như một triết gia tháp ngà xa rời những vấn đề thực tế trong thời đại ông. Ngược lại, đúng truyền thống những tư tưởng gia thời trước, ông tác động lên những chuyện thực tiễn, kiên định và bình tĩnh trong công việc quản lý lãnh đạo, và đã hoàn thành nhiều công vụ cho vua Gô-tích Theodiric. Sau này, ông được coi như kẻ tử vì đạo trong cuộc khủng bố của giáo phái Arian. Điều lầm lẫn này khiến trước tác của ông được biết đến. Tuy nhiên, như một tư tưởng gia vô vụ lợi và không cực đoan cuồng tín, ông không được phong thánh.

Công trình của Boethius đặt ra một vấn đề ở mức độ nào con người là sản phẩm của thời đại mình sống. Thời ông, như ta biết, rất dị ứng với những nghiên cứu có tính phản biện trong một xã hội đầy cuồng tín có thể đe dọa đến cả cái chết với tội dị giáo. Với Boethius, áp lực bên ngoài hầu như không có tác động, và quan tâm của ông cũng chẳng có dấu vết gì của xã hội trong đó ông là thành viên. Có thể ông thuộc vào lớp quí tộc ở Rome, ít phải chịu những ràng buộc đời thường đôi khi đầy u mê. Trong trường hợp này, những tiêu chuẩn đạo hạnh vẫn còn ngay cả khi Đế chế tan rã, và phần nào giải thích vì sao Boethius là người theo đạo đức Khắc Kỷ. Nhưng sự tồn tại của những người như ông mặc dầu có áp lực bên ngoài đến từ man ri xâm lăng, và áp lực từ bên trong đến từ sự cuồng tín vẫn là một câu hỏi. Có hai khía cạnh trong cách trả lời. Đúng là con người là thành phẩm của truyền thống. Họ được đúc theo những cái khuôn của đời sống chung quanh, lớn lên, sau tiếp tục sống theo truyền thống hoặc vì ngoan ngoãn tuân thủ, hoặc vì có khi chẳng ý thức gì. Mặt khác, truyền thống không sơ cứng với thời gian, có đời sống riêng và có thể lưu truyền rất lâu, chìm xuống dưới bề mặt song có thể lại nổi lên khi có được sự ủng hộ và tham gia của đám đông. Truyền thống cổ điển, trong chừng mực ấy, vẫn tồn tại bất chấp cuộc xâm lấn của man ri Gô-tích, và khiến những người như Boethius có khả năng tái xuất, mặc dầu ông này biết rất rõ vực bờ ngăn cách ông với những người cùng thời. Tùy sự dẻo dai của truyền thống mà cần đến sự ngoan cường của những kẻ bảo vệ nó, nhưng chắc chắn Boethius đã hết sức can đảm trong công việc ông hoàn thành.

Chúng ta nay quay sang một vấn đề liên hệ khác. Có cần học hỏi từ lịch sử triết học để có thể hiểu những vấn đề triết lý không? Có cần biết lịch sử tổng quan một thời đại để nắm bắt triết học của nó không? Từ những điều trình bày trên, tất nhiên có sự qua lại giữa truyền thống xã hội với truyền thống tư duy. Một xã hội mê tín không thể có những tư tưởng gia hoàn thoát thoát vòng dị đoan. Một truyền thống đánh giá cao sự tiết chế hơn là năng nổ không thể sáng tạo ra những thiết chế xã hội để đáp ứng với những thử thách của thời đại. Mặt khác, những vấn đề triết học đặt ra không thể quán triệt nếu ta không nắm bắt được bối cảnh lịch sử đàng sau. Quan tâm đến lịch sử triết học đến từ ý thức rằng nhiều tra vấn đã được đặt ra, và một số trả lời thông tuệ đã có thể có, trong quá khứ.

Bạo lực và xâm lăng tàn hủy Rome, đưa đến tan rã của Đế chế phương Tây với sự chiếm đóng của những bộ lạc người Đức hầu như trên toàn cõi. Phía bắc, người Angles, Saxons và Jutes chiến thắng Britains. Người Franks chiếm đất Gaul, và Vandals tiến về phía nam, tràn đến Tây Ban Nha và miền Bắc Phi. Tên những quốc gia còn tồn tại đến ngày nay minh chứng: Angles là gốc của England (Anh quốc), Franks là gốc France (Pháp quốc), và Vandals là gốc của Andalusia (Tây Ban Nha).

Miền nam nước Pháp thời đó bị chiếm đóng bởi người Visigoth, Ý bởi người Ostrogothic, xưa kia bị đánh bại trong cuộc xâm lăng Đế chế phương Đông. Cuối thế kỷ thứ 3, lính đánh thuê Gô-tích phục vụ Rome, và học được nghệ thuật quân sự. Đế chế thoi thóp vài năm sau khi Rome bị chiếm đóng, cuối cùng bị thiêu rụi vào năm 476 bởi quân Ostrogoth dưới quyền Odovaker. Vị này ở ngôi vua đến năm 493 thì bị hãm hại, Theodoric tiếm ngôi và trị vì Ý quốc đến năm 526. Về phía đông, người Mông Cổ dưới quyền Attila tạo áp lực đe dọa. Chiến tranh bùng ra khi Attila tràn vào vùng Gaul năm 451. Liên minh Gô-tích và Rome chặn được cuộc xâm lăng ở Chalons. Rome bị vây hãm thêm một lần, nhưng Giáo Hoàng Leo giữ được tinh thần đề kháng. Sau đó, Hoàng tử Mông Cổ chết, và quân đội Mông mất lãnh đạo, toàn bộ lực lượng kỵ binh như rắn không dầu bị tan rã.

Chúng ta có thể nghĩ rằng trong buổi nhiễu nhương nhứ thế thì Giáo hội hẳn phải có phản ứng. Nhưng không, Giáo hội chỉ quan tâm đến giáo điều đấng Thiên Chúa có bao nhiêu ngôi, là số ít hay số nhiều. Có kẻ cho rằng Chúa là một, với hai thể dạng, một cách nhìn sau cùng đã thắng. Người truyền bá điều này là Cyril, một danh gia ở Alexandria từ 412 đến 444. Đây là một nhân vật đầu óc hẹp hòi phò chính thống nhưng lại rất thực dụng trong việc khủng bố cộng đồng Do Thái ở Alexandria, và đóng góp khá nhiều trong việc giết đi Hypatia, một người đàn bà mang vẻ vang danh giá cho một biên niên Toán học. Thế nhưng Cyril được phong thánh, sau này!

Mặt khác, những người theo Nestorius, một tư tưởng gia ở Constantinople, lại lấy quan điểm có hai người trong một đấng Ki-tô. Có Ki-tô con người, và Ki-tô con Đức Chúa Trời, cách nhìn có khuynh hướng ngộ đạo. Cách nhìn này được ủng hộ ở Tiểu Á và Syria. Trước những quan điểm trái ngược về Chúa Ki-tô, năm 431, một hội đồng ở Ephesus được thành lập để xác quyết vấn đề. Những người theo Cyril đến nơi hội họp sớm và chóng vánh quyết định là họ có lý trước khi đám theo Nestorius ra đó. Đám này bị kết tội dị giáo, và sau cái chết của Cyril vào 229 ở Ephesus, những người theo ông còn đẩy thêm một mức trong một hội nghị ở Ephesus năm 431, cho rằng Chúa Ki-tô chẳng chỉ là một người mà còn chỉ có một bản thể. Giáo điều này mang tên dị giáo nhất thể, bị kết tội ở Công đồng Chalsedon năm 451. Nếu khi đó mà Cyril chưa chết, có lẽ ông ta chẳng phải là được phong thánh mà còn bị kết vào cái án này. Dẫu Giáo hội quyết định cơ sở của giáo lý chính thống, khuynh hướng dị giáo còn kéo dài, nhất là ở phương Đông. Chính vì tính cách áp đặt của đường lối chính thống trên những cơ sở tu tập mà sau này Hồi giáo Islam có được tiềm năng để bung ra phát triển.

Ở Ý, những kẻ xâm lăng Gô-tích không mù quáng phá bỏ nền nếp xã hội đã được kiến tạo. Theodoric, người trị vì đến 526, giữ lại hệ thống hệ thống quản lý cũ. Về mặt tôn giáo, ông khá ôn hòa. Theo hướng đa thần, Theodoric giữ được nhiều yếu tố phi Ki-tô tồn tại trong lớp quí tộc ở Rome. Boethius, một người theo Tân-Plato, từng là bộ trưởng thời Theodoric. Hoàng đế Justin cai quản Đế chế, là người rất hẹp hòi. Năm 523, ông này đặt đa thần ra ngoài vòng pháp luật. Theodoric khá bối rối vì chính sách này, bởi cư dân Ý dưới quyền ông đa phần theo Ki-tô. Sợ bị hãm hại bởi những người xung quanh, ông cho bắt Boethius và xử tử năm 524. Hai năm sau, Theodoric chết, và ngay sau đó, Justin cũng từ trần. Justinian lên kế vị. Dưới thời này, tóm lược Luật Rome, Giáo luật... được soạn thảo. Justinian là người cổ vũ đường lối chính thống. Ngay năm 529, ông bắt đóng cửa Academy ở Athens vẫn còn là truyền thống sót lại mặc dầu cách giảng dạy đã pha trộn khá nhiều với thế cách bí nhiệm của khuynh hướng Tân-Plato. Năm 552, giáo đường Sophia được xây ở Constantinople, và thành trung tâm của Giáo hội Byzantine[3] cho đến khi Constantinople rơi vào tay người Thổ năm 1453.

Quan tâm về tôn giáo của Justinian được chia sẻ với bà vợ nổi tiếng Theodora, một mệnh phụ đã khiến ông sa đà vào cuộc tranh cãi sau về Ba Chương. Ở Chalcedon, ba giáo sĩ theo phái Nestorius (phân biệt Chúa-con người với Chúa là bản thể tâm linh) được vinh danh chính thống, điều khiến những kẻ tin tưởng Chúa là một đơn thể (monophysite) phản kháng. Justinian liền kết ba giáo sĩ vào tội dị giáo để an dân, và đẩy Giáo hội vào một cuộc tranh biện lê thê. Sau cùng, chính ông bị cáo buộc là dị giáo, bởi cho rằng Chúa xác thân con người là luận đề bất khả xâm phạm.

Dưới thời Justinian, cuộc giằng co những bang tỉnh phía tây của Đế chế với ảnh hưởng man i vào giai đoạn cuối. Sau gần 18 năm chiến tranh, Ý bị xâm chiếm năm 535. Phi châu cũng vậy, và Giáo hội Byzantine chứng tỏ không có khả năng khôi phục lại Đế chế dẫu đứng về phía nhà vua. Justinian chết năm 565, ba năm sau, Ý lại bị tấn công. Những kẻ xâm lăng Lombard (người Đức phía bắc sông Danube) chiếm được vùng nay gọi là Lombardy. Trong 2 thế kỷ, họ đấu tranh với Đế quốc Rome phương Đông Byzantine. Bị áp lực của Saracens từ phía nam, Đế chế Byzantine buộc phải tháo lui. Ravena, nút chặn cuối cùng của Byzantine ở Ý, rơi vào tay người Lombard năm 751.

Trong thời gian chúng ta vừa thảo luận, một khuôn mặt như Boethius quả thật là ngoại lệ. Tuy thời thế đó không suy tôn triết học, nhưng cũng có hai triển khai có ảnh hưởng trên thời Trung Cổ. Đầu tiên là phong trào Tu viện (monastic) ở phương Tây, và thứ đến là sự nâng mức trách nhiệm của Giáo Hoàng. Hai triển khai này dính liền với Benedict và Gregory.

Tu viện bắt đầu vào khoảng thế kỷ thứ 4. Ban đầu, thiết chế này không thuộc quyền quản lý của Giáo hội. Athanasius là kẻ mang phong trào này sát nhập vào Giáo hội, và Jerome, như ta đã nói, là người tiên phong trong cách sống tu sĩ này. Vào thế kỷ thứ 6, nhiều tu viện được thành lập ở Gaul và Áí Nhĩ Lan. Nhưng khuôn mặt quyết định trong phong trào tu viện phương Tây là Benedict, và dòng tu Benedictine xuất xứ từ tên ông.

clip_image006

St. Benedict

Sinh năm 480, dòng giõi quí tộc, lớn lên trong giầu sang ở Rome, Benedict thời trai trẻ bị sốc nặng trước cuộc sống của mình, bỏ đi ba năm tu kín trong hang. Năm 520, ông thành lập tu viện ở núi Monte Cassino, nơi sau này thành trung tâm của dòng tu Benedictine. Dòng tu này phát thệ sống nghèo, vâng phục, và giữ trinh trắng. Sự khổ hạnh quá đáng của tu sĩ theo phương Đông không mấy hợp với quan niệm của Benedict. Những người này cho rằng, theo đấng Ki-tô, xác thân là tội lỗi, và để cứu chuộc, phải từ bỏ xác thân. Đối với điều này, giáo lệ của dòng Benedictine không chấp thủ. Quyền hành được trao vào tay trưởng giáo, vị có trách vụ này suốt đời. Sau này, những người tu dòng này có thay đổi ít nhiều so với thời ban đầu. Một thư viện khá lớn tập hợp những thảo luận của giới tu sĩ học giả được lưu lại ở Monte Cassino, cố gắng duy trì truyền thống tu tập và học hỏi thời cổ điển.

Benedict ở Monte Cassino cho đến khi tạ thế vào 534. Hơn 40 năm sau, người Lombard đến đốt phá tu viện. Tu sĩ phải chạy về Rome. Tu viện còn bị tàn hũy thêm hai lần, lần do người Sacarens thế kỷ thứ 9, và lần sau là vào Thế chiến II. May thay, thư viện ở đó không suy xuyển, và toàn bộ tu viện đã được xây dựng lại.

Một số đối thoại của Benedict được thuật lại trong cuốn sách thứ hai của Gregory, kể những chuyện huyền bí, phép lạ, kỳ công và phản ánh phần nào mặt trí tuệ của thời buổi đó. Khi đọc, nhớ cho rằng sách dành cho những người biết chữ, và họ là một thiểu số. Sách không như những chuyện khoa học giả tưởng ngày nay viết cho đại chúng. Tuy thế, sách cung cấp những thông tin về Benedict.

Gregory, một trong bốn vị được gọi là Tiến sĩ của Giáo hội, sinh năm 540, dòng giõi quí tộc, sống trong nhung lụa từ bé. Được dậy dỗ phù hợp với đẳng cấp, nhưng ông không học tiếng Hy Lạp, điều phủ bóng lên sự nghiệp mặc dầu ông có 6 năm liền thực tập trong triều đình Roma. Năm 573, ông trở thành Thị trường của thành phố, nhưng chẳng lâu sau, ông không hoàn tất được trách vụ. Từ chức, rồi bỏ hết tài sản, ông trở thành tu sĩ dòng Benedictine. Cuộc sống khổ hạnh sau đó khiến sức khoẻ ông lung lay, ông không thể theo con đường tu tập như đã dự định. Giáo Hoàng Pelagius II chọn ông là Đại sứ ở Vương triều Constantinople mà Giáo hội phương Tây còn ủng hộ. Từ 597 đến 585, Gregory làm công việc này nhưng không thành công

clip_image008

Giáo Hoàng Gregory I

lôi kéo được Hoàng đế vào cuộc chiến chống người Lombard. Thời gian chiến tranh qua đi, và cuối cùng, ông chẳng làm gì sau đó, nếu không kể một thành quả tạm bợ dưới thời Justinian. Quay về Rome, Gregory sống 5 năm trong tu viện ông xây dựng trong lâu đài riêng. Giáo Hoàng băng hà năm 590, và dù không muốn, Gregory được chọn kế thừa. Điều này đòi hỏi ông phải xử lý tình thế mong manh của quyền lực Rome phương Tây đang trên đà rạn vỡ. Nước Ý bị người Lombard khống chế. Phi châu thì Giáo hội Byzantine chống cự yếu ớt trước sự tiến công của những bộ lạc người Moor. Còn ở Gaul, người Visigoth và Frankish gây chiến. Bên Anh quốc, người Anglo-Saxon xâm lăng và bìến dân cư thành những kẻ mộ đạo đa thần. Dị giáo trở thành một vấn nạn trầm trọng, tiêu chuẩn và giáo luật xuống dốc trong Giáo hội tạo ảnh hưởng trực tiếp cách sống của hàng Giáo sĩ tu sĩ. Buôn thần bán thánh và đút lót để có những chức vụ giáo phẩm trở thành phổ biến, gần như không kiềm chế và kiểm soát được trong gần 5 trăm năm. Gregory buộc phải đối mặt với những khó khăn đó. Tình trạng cực kỳ hỗn loạn này cho phép ông khẳng định giáo lý và quyền hạn Giáo Hoàng trên một cơ sỡ vững chãi hơn trước, và cho đến lúc ấy, chưa có ai lại có thể xử dụng quyền hành với những thành tựu tương tự. Gregory viết thư thường xuyên cho các hàng giáo phẩm, nói ra những bất tựu, và chỉ rõ những điều ông coi là tiêu chuẩn, là giáo vụ và bổn phận tương ứng với vai trò của họ. Ông tuyên bố Sách Mục Vụ và Lề Luật, xây dựng cơ sở cho Giáo hội Rome nói chung. Sách này được kính trọng và tuân thủ trong suốt thời Trung Cổ, được tiếp thu của cả Giáo hội phương Đông qua bản viết bằng tiếng Hy Lạp. Về giáo lý, cách nhìn của Gregory tác động lên những điều nghiên Kinh Thánh trong chiều hướng nêu lên những diễn giải có giá trị tượng trưng, và khiến kiểu diễn giải theo lịch đại niên biểu thành thứ yếu.

Tuy ở vị thế là kẻ xây dựng vững chắc vị trí của Ki-tô giáo Rome, Gregory mang hình ảnh một người hẹp hòi bảo thủ. Trên bình diện chính trị, ông bỏ qua những sự quá quắt của Vương quyền nếu chúng giúp Giáo hội thủ lợi, hoặc chống lại thì gây tai họa. So với Ambrose, ông là một người cơ hội. Tuy nhiên, ông đã quảng bá rộng rãi ảnh hưởng của dòng tu Benedictine, sau trở thành khuôn mẫu của những tu viện Ki-tô. Nhưng trong thời gian đó, Giáo hội không đủ quan tâm đến sự học hỏi và nghiên cứu, và Gregory không là ngoại lệ dưới lăng kính này.


[1] Martin Luther (1483-1546) người Đức, là tu sĩ và giáo giảng thần học, một khuôn mặt nổi nhất trong cuộc Cải cách khai sinh ra đạo Tin Lành.

[2] Là một tôn giáo lan đến Vìễn Đông (miền Nam Trung Quốc ?) và Viễn Tây (Đế quốc Rome). Quân đội Rome coi Manichaen như tôn giáo của họ. Từng cạnh tranh trong một giai đoạn với Ki-tô giáo, Manichaen biến dần vào thế kỷ thứ 14 ở Trung Quốc. Tôn giáo này đề xuất một vũ trụ luận dựa trên sự tranh chấp giữa cái Thiện, thế giới tâm linh của ánh sáng, và cái Ác, thế giới vật chất u ám. Trong quá trình lịch sử nhân loại, ánh sáng rời thế giới vật chất để quay về thế giới tâm linh. Machinaen là một tôn giáo theo thuyết ngộ đạo ở Mesopotamia, có những yếu tố của Ki-tô giáo, Phật giáo và đạo thờ Lửa (Zoroastrianism).

[3] Đế quốc Rome phương Đông.