Danh ngôn

Trong mọi cộng đồng, chúng ta cần một nhóm thiên thần gây rối.

We need, in every community, a group of angelic troublemakers.

(Bayard Rustin – trích bài phát biểu tại New York City 1963)

Trong mọi trường hợp, chắc chắn rằng sự thiếu hiểu biết, đi kèm với quyền lực, là kẻ thù tàn bạo nhất có thể có của công lý.

It is certain, in any case, that ignorance, allied with power, is the most ferocious enemy justice can have.

(James Baldwin - No Name in the Street 1972)

Các cuộc cách mạng và các cá nhân có thể bị giết hại, nhưng bạn không thể giết chết các ý tưởng.

While revolutionaries and individuals can be murdered, you cannot kill ideas.

(Thomas Sankara, một tuần trước khi bị ám sát, 1987)

Không có cảm giác nào cô đơn hơn việc bị chính đất nước mình trục xuất.

There's not a more lonely feeling than to be banished by my own country.

(Kiyo Sato – Kiyo’s Story 2009)

Ban Biên tập

Địa chỉ liên lạc:

1. Thơ

tho.vanviet.vd@gmail.com

2. Văn

vanviet.van14@gmail.com

3. Nghiên cứu Phê Bình

vanviet.ncpb@gmail.com

4. Vấn đề hôm nay

vanviet.vdhn1@gmail.com

5. Thư bạn đọc

vanviet.tbd14@gmail.com

6. Tư liệu

vanviet.tulieu@gmail.com

7. Văn học Miền Nam 54-75

vanhocmiennam5475@gmail.com

Tra cứu theo tên tác giả

Thứ Bảy, 5 tháng 4, 2025

Không khói hoàng hôn (kỳ 1)

 Nguyễn Thị Kim Thoa

LỜI NÓI ĐẦU

Tôi bắt đầu viết KHÔNG KHÓI HOÀNG HÔN sau khi nghỉ hưu, viết như thi hành một mệnh lệnh từ những Bệnh Nhi tội nghiệp của tôi, từ Cha Mẹ, Thầy Cô tôi, từ Quê Làng, Phố Chợ, Đất Nước, Bằng Hữu và từ tất cả mọi người tôi yêu mến quý trọng.

Bài đầu tiên – Thôn Vỹ Xao Xuyến Nhớ, tôi gởi cho tạp chí Sông Hương, tạp chí Sông Hương đăng nhưng cắt bỏ một đoạn. Bài thứ hai – Nụ Sim Và Giấc Mơ cũng vậy. Tôi hỏi lý do, họ trả lời: “Ban biên tập rất giỏi và có trách nhiệm, chị yên tâm”.

Bài thứ ba: Những Đôi Mắt, tôi gởi cho báo Tuổi Trẻ Chủ Nhật, Tuổi Trẻ xuất bản và có thư khen ngợi.

Tôi tiếp tục gởi bài cho Sông Hương và Tuổi trẻ, cả hai đều im lặng. Tôi nghĩ: chắc là do văn chương của tôi không thích hợp với báo Đảng.

Tôi gởi Không Khói Hoàng Hôn cho Diễn Đàn Forum, trang báo điện tử do các anh chị trí thức người Việt bên Pháp chủ trì. Diễn Đàn Forum niềm nở đón tiếp Không Khói Hoàng Hôn, biên tập rất kỹ, hỏi han rất chu đáo mỗi khi có điều gì cần. Độc giả Diễn Đàn Forum chú ý đến Nguyễn Thị Kim Thoa hơn mức bình thường. Từ Mỹ, họa sĩ Đinh Cường điện thoại về nói: “Tôi đọc bài của chị không thở được”. Sau đó, anh nhận lời vẽ bìa Không Khói Hoàng Hôn. Cũng qua Diễn Đàn Forum, một số độc giả ở ngoài nước liên lạc với tôi bằng email, động viên khen ngợi. Các anh chủ trì Diễn Đàn Forum từ Nguyễn Ngọc Giao, Hàn Thủy – Hà Dương Tuấn, Đặng Tiến… động viên tích cực và tìm thăm chúng tôi tận nơi khỉ gáy cò ho.

Ở Mỹ tôi có thêm nhiều bạn bè. Thi sĩ Khế Yêm, chủ trì nhà xuất bản Tân Hình Thức nhận xuất bản hai tập Không Khói Hoàng Hôn I và II dạng ebook. Tôi in Không Khói Hoàng Hôn bản giấy tặng bạn bè và nộp lưu chiểu cho Thư viện Quốc Hội Mỹ.

Khi một số bài trong hai tập Không Khói Hoàng Hôn xuất hiện trên Facebook, tôi có thêm nhiều bạn bè khắp mọi nơi.

Thi sĩ, nhà văn Thi Vũ – Võ Văn Ái ở Paris biết Không Khói Hoàng Hôn qua một người bạn, đã đọc rất kỹ và viết cho tôi một cái thư dài với những nhận định tuyệt vời. Bác sĩ Nguyễn Tăng Miên ở Đà Nẵng uyên bác và thâm trầm đào bới Không Khói Hoàng Hôn. Các bác sĩ đồng môn ở Sài Gòn, nhà giáo Điệp Vân Nguyễn ở Bình Dương, nhà văn Ngô Hương Thủy ở Bảo Lộc…và nhiều bạn bè hoặc độc giả xa lạ trong và ngoài nước thư từ liên lạc ngày một thân thiết hơn.

Là tác giả, tôi muốn Không Khói Hoàng Hôn được xuất bản hợp pháp tại Quê Nhà. Tôi gởi Không Khói Hoàng Hôn cho nhà xuất bản Phụ Nữ, không một hồi âm. Thì ra Quê Nhà đang bị đảng trị, Không Khói Hoàng Hôn bị khước từ, nên tôi đành tự xuất bản để gởi đến những người bạn đặc biệt của tôi như một món quà với lời cám ơn và chúc phúc trân trọng. Đồng thời, tôi cũng muốn Không Khói Hoàng Hôn lưu lạc đâu đó trong dân gian làm món quà khiêm tốn gởi đến độc giả đời sau như một THÔNG ĐIỆP về TỰ DO.

                                                                                                                        Nguyễn Thị Kim Thoa

Thôn Vỹ – xao xuyến nhớ

Sao anh không về chơi Thôn Vỹ

Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên

                            (Hàn Mạc Tử)

Cái thời đi học ở trường tiểu học Thế Dạ rồi trung học Đồng Khánh, ngày hai buổi ôm cặp đi về, tôi thường ngắm nhìn những ngôi nhà ẩn mình sau những chòm cây xanh ngắt, dõi mắt theo bóng dáng các tiểu thư khuê các ẩn hiện sau hàng rào chè tàu được cắt tỉa thẳng tắp hoặc thơ thẩn dưới những giàn hoa màu tím, màu xanh thiên lý.

Thiếu nữ, cây lá, nắng hoa, tiếng đàn, lời ca đã đưa tôi vào cõi mộng.

Cái thuở chui hàng rào các khu vườn để hái hoa bắt bướm, bơi dọc theo dòng sông sau nhà, hái những trái mâm xôi chín mọng ở bến nước, tôi đã làm quen và lần hồi biết tên các cô gái trong những ngôi nhà kín cổng cao tường.

Qua khỏi thôn Hô Lâu, ngôi nhà vườn đầu tiên của thôn Vỹ Dạ có kiến trúc khá đặc biệt. Nhà quay mặt ra bờ sông. Đi ngoài đường nhìn vào chỉ thấy bức bình phong chè tàu cao, lối vào nhà hẹp, sâu với hai hàng rào chè tàu được cắt tỉa gọn gàng. Vài cây cau, cây chay mọc đây đó, không thẳng hàng. Bức tường sau nhà loang lổ rêu phong. Vườn sau hình như không được chăm chút. Chủ nhân ngôi nhà có lẽ muốn quay lưng lại với con đường, với người qua lại, với cuộc đời. Mỗi khi đi qua cổng nhà này tôi thường đi thật chậm mong nhìn thấy bóng dáng một người con gái thanh mảnh, tóc dài, áo trắng thấp thoáng giữa những bờ rào xanh. Mãi sau này tôi mới biết tên người con gái ấy là Lai Huyền Lục. Từ đó tôi gọi là khu vườn hoang liêu này là khu vườn Lai Huyền Lục.

Khi Mỹ đỗ quân vào cửa Thuận An, con đường làng Vỹ Dạ mở rộng, các hàng cây ven đường bị đào bới, mặt đường được trải nhựa dày, rộng hơn, ngày đêm bị cày nát bởi những chuyến xe GMC chở đầy hàng quân sự, lính Mỹ và đồng minh. Con đường không còn yên ắng, bóng trắng Lai Huyền Lục cũng vắng đi, đầu ngõ nhà có thêm tấm bảng “bác sĩ Đương”. Chỉ ba từ Bác sĩ Đương đơn giản. Một tấm bảng nhỏ, khiêm tốn không khoa trương như những tấm bảng của các bác sĩ khác ở đầu Đập Đá. Trong thời gian này, tại căn nhà tranh trước ngõ, phía sau của ngôi nhà là tụ điểm của một nhóm du đảng tự gọi là “Đại Cái Bang”. Tôi không rõ lắm về nhóm này, người quanh xóm xem đây là một băng nhóm xã hội đen. Thế nhưng có một lần đi học thêm về tối, khi đi đến gần ngõ nhà cô Lai Huyền Lục, ngôi nhà hoang liêu mà tôi yêu thích, thấy có một đám thanh niên độ chừng năm bảy người, kẻ cầm côn, kẻ múa kiếm đang múa máy tập dượt trông rất hung dữ nên tôi quay xe đạp lui, không dám băng qua để về nhà. Một tiếng gọi to vọng theo: “Về đi cô gái, các anh không làm gì đâu”. Tôi nửa tin, nửa sợ quay xe trở lại, cố lấy hết tinh thần đạp thật nhanh vượt qua đám thanh niên nọ. Quả thật họ không đáng sợ như lời đồn đãi.

Cô Lai Huyền Lục rời căn nhà đi xa lúc nào tôi không biết, còn lại trong tôi cái tên thật đẹp và lạ.

Cạnh vườn nhà cô Lai Huyền Lục là vườn nhà của cụ Ưng Úy. Đây là khu nhà vườn với vạt cỏ tranh rộng. Giữa vườn là một bức bình phong chè tàu cao quá đầu người, hai bên là hai gốc mai cổ thụ, mùa xuân hoa nở rộ, vàng rực cả một mảnh trời. Khu vườn vắng lặng, ít cây xanh hơn các nhà bên cạnh, chỉ vài gốc dừa, gốc cau đơn lẻ đó đây. Chiếc cổng sắt tây cũ kỹ thường mở hờ. Một đôi khi, ban trưa vắng người, tôi thường lẻn vào vợt những con bướm vàng, bướm nâu, bay lượn trên vạt tranh, lá xanh bông trắng. Vườn nhà cụ Ưng Úy không có hàng rào chè tàu, thay vào đó là hai hàng lề xây bằng xi măng ngăn cách vườn với lối đi.

Ngôi nhà có hai người con gái: Á Nam và Lục Hà. Chị Á Nam trang lứa với chị tôi. Tôi thường nhìn chị đạp xe đi học về, hình như lúc nào chị cũng muốn vội vào nhà. Tôi đứng bên kia đường ôm cặp nhìn chị với tà áo dài trắng, tóc không thả bồng bềnh mà lại được buột gọn gàng sau vành nón, chị đạp xe rất nhanh, tôi chưa lần nào thấy rõ nét mặt chị. Thấp thoáng và rất nhanh là hình ảnh chị Á Nam trong mắt tôi. Đôi lần vào buổi chiều bơi dọc theo dòng sông, qua khu bến nhà chị, tôi thấy chị ngồi cúi đầu mài gót chân trên đá. Lúc bấy giờ tóc chị thả bồng bềnh, gió và nắng chiều trên mái tóc, người và ráng chiều. Tôi thầm hát một mình: “Đàn chim tung cánh xa khuất mờ, chiều thu lưu luyến màu thương nhớ, nhớ mái đầu ai nhuộm nắng vàng...” Và cứ thế là tôi mơ mộng.

Lục Hà nhỏ tuổi hơn tôi, là bạn học của em tôi. Tôi chỉ nhớ đến cái tên gợi về một dòng sông màu lục và không nhớ gì về người con gái này, dưới mắt tôi Lục Hà lúc bây giờ chỉ là một cô bé.

Khi chiến tranh vào thành phố, cổng vườn nhà chị Á Nam cũng bị cày xới như những khu lân cận. Chiếc cổng không còn thẳng, mấy cây dừa, cây cau xơ xác, cỏ tranh không hiểu sao lúc này cũng úa màu, mấy con bướm làm tôi mê mẩn cũng ít lần đi. Trong sân nhà chị thỉnh thoảng tôi thấy có chiếc Jeep quân cảnh, khu vườn thêm hơi thở của chiến tranh.

Đối diện vườn nhà chị Á Nam, phía bên kia đường là khu nhà vườn của cụ Ưng Thông, một khu nhà vườn cũ kỹ nhất trong vùng. Một góc trái phía trước là khu mả Ông Trạng (khu gồm những ngôi mộ nhỏ của các bào thai sa sẩy), khu vực này có những cây sầu đông, cây bàng cùng chằng chịt các loại dây leo, tạo thành một vùng âm u huyễn hoặc, hương khói lúc nào cũng phảng phất. Mỗi khi đi học về tối qua khu vực này, tay tôi thường bắt ấn, miệng lẩm bẩm đọc câu thần chú mẹ dạy: “Án Ma Ni Bát Nhi Hồng Vô Lương Thọ Phật”. Câu chú này tôi không hiểu ý nghĩa là gì và không biết mình đọc như vậy có đúng hay không, nhưng tôi vẫn cứ đọc.

Khu mả Ông Trạng chiếm phần lớn mặt tiền của ngôi nhà, vì thế cổng vào trông hẹp hơn các ngôi nhà khác. Thế nhưng vào bên trong mới thấy hết vẻ bề thế của khu vườn. Chính giữa sân không có bức bình phong chè tàu, thay vào đó là một bồn hoa tròn với các cụm địa lan tím và yên chi vàng, đỏ. Bên cạnh đó là một gốc me cổ thụ với tàng lá xum xuê tỏa bóng mát một góc sân. Ngôi nhà xây theo hình chữ L. Dãy chính hướng mặt ra đường và dãy bên phải hướng về phía Đập Đá. Nhà có tầng cấp cao, đặc biệt phía bên hông trái có cầu thang bằng đá, là đường đi lên một vuông sân thượng nhỏ. Nơi đây các cô con gái thường ngồi ngắm trăng và ca hát. Những cô con gái với những cái tên của các loài hương hoa: Mộc Hương, Liên Hương, Dạ Hương. Cả ba chị có làn da trắng hồng điểm một vài nốt tàn nhang trên gò má. Chị Mộc Hương tuổi đã lớn, thường hay ngồi thêu thùa dưới bóng cây me già. Chị Liên Hương và Dạ Hương trang lứa với các chị tôi, họ thường họp nhau làm bánh và đàn ca hát xướng.

Ngõ vào nhà có một hàng cau khoảng năm sáu cây, dưới mỗi gốc cau loài cúc tím (thúy cúc) mọc vương vãi. Vườn trước còn có mãng cầu, ổi, sa bu chê (hồng xiêm), mấy bụi hạnh đào đến mùa sai trái, màu đỏ rất đẹp. Vườn sau là dương liễu, vả, chuối, khế và đặc biệt là hai gốc nhãn cổ thụ làm khu vườn thêm âm u. Các cây ăn trái được trồng xen kẽ, không hàng lối. Trong vườn còn để mọc hoang những bụi mắc cở (trinh nữ), ngũ sắc, cơm nguội, dạ lan và một vài loài rau như bồ công anh, tàu bay, rau rìu rau éo. Toàn cảnh khu vườn là bối cảnh của một không gian tự nhiên, mới trông có vẻ như là không được chăm chút, nhưng nhìn kỹ thấy chủ nhân sắp đặt các loài hoa, rau, cỏ đan nhau với màu sắc rất hài hòa và thân thiện.

Mỗi khi chiều xuống, các chị ngồi đan thêu hay chơi đàn. Tiếng đàn lúc mờ lúc tỏ, mùi trầm hương từ khu mả, mùi hương hoa cọng lại làm buổi chiều Thôn Vỹ càng thơ mộng và liêu trai.

Các chị Mộc Hương, Liên Hương, Dạ Hương rời bỏ thôn Vỹ ra đi khi nào tôi không hay biết. Mới đây trở lại thôn xưa, nhìn khu vườn nhà tiêu điều, nhà nước chiếm dụng ngôi nhà làm văn phòng phường xã, dân ngụ cư chiếm lấn đất vườn xây nhà, lòng tôi không khỏi xao xuyến.

Dọc theo bờ sông, tiếp giáp nhà cụ Ưng Úy là khu nhà vườn của cụ Ưng Thiều. Khu vườn này đã bán một phần phía mặt đường cho một số dân cư ở nơi khác đến, hình thành một xóm nhỏ, một nơi buôn bán tạp hóa, làm nón, và cả một động lên đồng nhỏ. Vì thế vườn nhà cụ Ưng Thiều lúc này nằm sâu ở phần đất phía sau, cạnh dòng sông, bên con đường xóm nhỏ hai bên là tre và hóp.

Ngôi nhà lẩn khuất sau hai gốc mộc lan sần sùi. Trước ngõ, một hàng cau làm ranh giới khu vườn và đường xóm. Nhà xây sát mép sông nên chỉ có vườn trước, không có vườn sau. Một gác nhỏ nhô ra khỏi bờ nước làm nơi hóng gió, được gọi là “nhà mát”. Tôi thường sang đây nghe các chị Phùng Khánh, Phùng Thăng kể chuyện. Tôi cũng thường đem biếu các chị những trái đào ngọt lịm của vườn nhà mình.

Vườn trồng xen kẽ mấy cây chanh, mấy cây vả, vài bụi bông trang, vài luống rau cải, rau khoai, mấy bụi môn bẹ tím trong một khoảng đất hẹp cạnh bờ sông.

Chiều chiều tôi thường sang chơi, ngồi trên bậc thềm ngắm nhìn các chị Phùng Khánh, Phùng Thăng gánh nước tưới rau. Không hiểu sao tôi rất yêu cái dáng khom lưng gánh nước của các chị. Tôi cũng rất thích nhìn bàn tay xòe tứ sắc mỗi khi các chị chơi bài.

Tôi biết chị Phùng Khánh và chị Phùng Thăng từ ngày các chị còn cắp sách đến trường với hai bím tóc hai bên. Hai chị có dáng người cao, mảnh, giọng nói trong và nhẹ, nụ cười hiền lành và ánh mắt thì xa vời. Đó là những nhận xét thơ ngây của cô bé 11, 12 tuổi là tôi ngày nào. Sau này tôi còn biết thêm cô Khánh Trợ, một cô giáo hay đến nói chuyện Phật Pháp với mẹ tôi và bác Phạm Đăng Siêu. Gia đình cụ Ưng Thiều còn có một cô con gái nữa là Bác sĩ Phùng Mai.

Những người con gái mà tên có chữ lót là Phùng này để lại trong tôi nhiều kỷ niệm lẫn lộn vui buồn. Nhất là chị Phùng Khánh.

Khi tôi bắt đầu đi học, chị Phùng Khánh sắp sửa vào đại học. Trong thôn chị Phùng Khánh nổi tiếng thông minh học giỏi và xinh gái. Cha mẹ tôi rất quí trọng chị, vì thế khi tôi chuẩn bị đến trường, ông bà đã mời chị làm người cầm tay khai bút, khai tâm cho tôi. Cha mẹ tôi mong rằng tôi cũng sẽ học hành giỏi giang và hiền thục như chị.

Hôm đó, ngày mùng hai Tết, trong không khí đầu xuân, cha mẹ tôi bày hương án trên chiếc bàn nhỏ, tôi được ăn mặc chỉnh tề, đợi cô giáo đầu tiên. Chị Phùng Khánh trong chiếc áo dài trắng đến ngồi cạnh tôi. Bàn tay mềm mại của chị cầm lấy tay tôi và tập cho tôi viết chữ MẸ. Tôi còn nhớ chị nói với ba mẹ tôi rằng:

 – “Thông thường ngày đầu các em đến trường, thầy cô sẽ dạy các em nhận biết mặt chữ, tập viết các mẫu tự a, b, c. Với cháu không thế. Khi đứa trẻ bắt đầu đi học, thầy cô nên cho các em nhận biết và tập viết chữ Mẹ, lý do sâu xa thế nào hai bác nói cho em Thoa và các em khác rõ, còn theo chỗ cháu biết thì hầu hết các ngôn ngữ trên thế giới chữ Mẹ đều bắt đầu bằng âm M”.

Từ đó cha mẹ tôi bắt tôi gọi chị Phùng Khánh, Phùng Thăng là Cô Phùng Khánh, cô Phùng Thăng chứ không gọi là chị như trước đây.

Nhà tôi và nhà cô Phùng Khánh, Phùng Thăng cách nhau con đường xóm nhỏ, đứng bên vườn này gọi sang vườn kia nghe rõ mồm một. Tôi là một đứa trẻ thắc mắc lắm điều, cô Phùng Khánh là người hay giải đáp tất cả những gì tôi hỏi. Cô Phùng Thăng ít nói hơn nhưng lại là người hay đọc thơ cho tôi nghe. Những buổi chiều ngồi chơi trên bến nước, cô Phùng Thăng hay đọc đi đọc lai hai câu thơ Đường mà mãi sau này khi lớn lên tôi mới hiểu hết ý:

“Lạc hà dữ cô vụ tề phi

Thu thủy cộng trường thiên nhất sắc”

Cô Phùng Khánh và cô Phùng Thăng rời thôn Vỹ khi tôi vào đại học.

Một hôm tôi nhận được cuốn sách Bắt Trẻ Đồng Xanh do cô Phùng Khánh gởi tặng với tên dịch giả: Thích Nữ Trí Hải.

Cô Phùng Khánh đã xuất gia, lòng tôi bâng khuâng nhiều điều. Mẹ tôi lại bảo: “Thật là phúc đức”. Từ đó tôi càng yêu thêm màu áo lam, màu sen hồng, màu sen trắng.

Vào một trưa mùa hè, me tôi hay tin ni sư Thích nữ Trí Hải về thuyết pháp tại chùa Phước Huệ cùng với cô Phùng Thăng.

Mẹ và tôi đến chùa Phước Huệ để nghe thuyết pháp và cũng để thăm lại người thân quen xưa cũ mà mẹ rất yêu quí. Chùa nhỏ, đệ tử cũng ít nên không khí buổi thuyết pháp ấm cúng và trang trọng. Sau buổi thuyết pháp, mọi người đảnh lễ Phật, tôi mon men lại gần cô Phùng Khánh để thăm hỏi người thầy năm xưa. Nhiều người khác cũng vây quanh người sư nữ với vẻ tôn kính của tín đồ.

Tiếng gọi “Thưa cô!” của tôi lạc lỏng giữa bao nhiêu tiếng Bạch ni sư. Bạch ni sư... Cuộc tìm về những kỷ niệm thân thương của tôi thất bại. Tôi buồn bã, lẻ loi và xa lạ.

Màu áo lam, màu sen hồng, sen trắng, màu xanh vườn rau sau chùa mờ đi trong mắt. Tôi đã khóc ư?

Sau chiến tranh, tôi nghe tin cô Phùng Thăng tử nạn tại một hòn đảo nhỏ nào đó ở phía Nam, tôi cúi đầu niệm Nam mô và đọc nhỏ câu thơ cô hát cùng tôi: 

– “Lạc hà cô vụ dữ tề phi

     Thu thủy cộng trường thiên nhất sắc”.

Một vài lần vào Sài Gòn, biết ni sư Trí Hải đang ở thiền viên Tuệ Uyển, tôi muốn đến thăm, nhưng không hiểu tại sao, hình ảnh ao sen trước chùa Phước Huệ năm nào lại ngăn cản bước chân trần tục của mình. Ngày cô tử nạn trên đường về từ Phan Thiết sau một chuyến hành thiện, tại Đà Nẵng tôi thắp một nén nhang trước vườn để tưởng nhớ người thầy đầu tiên vô cùng trân trọng và quí mến.

Đối diện vườn nhà tôi là khu dân cư từ các nơi về cư trú họp thành một xóm nhỏ với con hẻm dài chạy thẳng ra đồng Vỹ Dạ. Theo lời người quanh xóm kể lại đây là khu đất của phủ Vy Dã đã suy tàn từ lâu, con cháu chia đất phủ ra từng mảnh nhỏ và bán cho người tứ xứ. Dấu tích còn lại duy nhất của phủ Vy Dã là một nửa cái cổng của phủ với bờ tường rêu phong và ngôi nhà tranh nhỏ xíu cuối con hẻm sâu. Con cháu đời thứ tư hay thứ năm còn lại với những cái tên: Nguyễn phước Lý Hoàng, Nguyễn Phước Xuân Tân, Nguyễn Phước Lý Chiêu cùng những trạt bánh ướt bánh nậm nách đi bán mỗi chiều.

Bên cạnh khu dân cư chòm xóm này là khu vườn bề thế của cụ Tả. (dân quanh đây vẫn gọi như thế). Đây là khu dinh cơ của cụ thượng thư Tôn Thất Ngân. Khu vườn với những hàng cau, hàng ổi được trồng ngay hàng thẳng lối. Một vài gốc mai cổ thụ gần hiên nhà. Mấy gốc sứ trắng sần sùi bên cạnh bức bình phong xi măng khắc hình con hổ đang vờn ở chính giữa sân. Hai cây vú sữa cuối sân tỏa bóng mát cho một dãy hành lang dài.

Vườn cụ Tả phía trước cây thưa, sân rộng rải đá cuội, các chậu cây cảnh xếp thành hàng tạo những lối đi nhỏ trong sân. Vườn sau um tùm, nhiều loại cây cỏ chen nhau, tạo thành một khoảng rậm rạp. Vài loài chim làm tổ bay lên đáp xuống trông như một khu rừng nhỏ. Cửa ngõ ngôi nhà luôn  đóng  kín  với  hàng  chữ   “Chien méchant”.

Tôi rất mê vợt bướm nhưng không sao vào được khu vườn. Tôi có cô bạn học thời tiểu học là bạn Thu, con cô Tè quản gia của gia đình cụ Tả, nhưng tôi cũng ít khi thăm viếng dù rất thèm mấy trái ổi chín thơm phức trên cành.

Đầu thập niên 60 những người con gái trong dinh thự này đã đi xa, tôi chỉ thấy có một cô khá lớn tuổi dáng vẻ chững chạc ra vào. Người trong xóm gọi là cô Chắt.

Chiến tranh, hận thù … trong biến cố Mậu Thân, nhà cụ Tả có ba người con đã bị giết chết khi về tham dự lễ thượng thọ của cha. Sau biến cố đau buồn đó, cây cối cũng buồn theo, khu vườn trở nên điêu tàn.

Một cụ già còng lưng chống gậy đi lui đi tới trong sân dưới những gốc mai hay tàng vú sữa là hình ảnh tôi thường thấy những năm tháng này.

Chiến tranh chấm dứt, ông cụ qua đời, ngôi nhà vườn đã đổi chủ. Nơi đây trở thành một khu vui chơi, giải trí.

Bên cạnh vườn cụ Tôn Thất Ngân cũng có một khu mả Ông Trạng. Khu mả này rộng hơn khu mả trước nhà cụ Ưng Thông. Trong khu mả còn có một miếu thờ. Hàng năm vào ngày 23 tháng 5 âm lịch làng tổ chức cúng âm hồn (ngày thất thủ kinh đô, chỉ có ở Huế mới có ngày cúng âm hồn này).

Đối diện vườn cụ Tả, cạnh vườn nhà tôi là một khu đất bỏ hoang chỉ có cỏ tranh mọc. Một mái nhà tranh nhỏ giữa vườn là nhà của đôi vợ chồng già làm nghề thợ rèn. Hàng ngày bà thụt bệ phụ ông rèn các dụng cụ làm nông như cuốc, xẻng và đôi khi rèn cả dao rựa. Vì không có con nên hai vợ chồng người thợ rèn già này rất thích tôi sang chơi. Những buổi trưa trốn ngủ, tôi thường chui hàng rào qua ngồi thụt bệ giúp bác gái và nghe bác kể chuyện đời xưa giữa những tiếng đe tiếng búa.

Câu chuyện bác thợ rèn gái kể rất hấp dẫn đối với tuổi thơ của tôi. Từ ông Thánh Gióng đến Hùng Vương, Ngô Quyền, Trần Hưng Đạo, Quang Trung. Từ giặc Ân đến giặc Tàu giặc Pháp. Bác đã dẫn dắt câu chuyện thế nào mà tôi nghe say sưa không muốn dứt.

Bác gái hay để dành cho tôi những quả ổi chín, mấy trái hạnh đào thơm ngọt, mấy trái chay vàng bác hái từ cây trồng quanh túp lều. Bác thợ rèn trai biết bện lá dừa, bông tranh thành những con thú nhỏ. Bác đã chỉ dẫn cho tôi nhưng tôi chẳng tài nào học được.

Từ bệ than lò rèn tôi cảm nhận được cái ấm cúng thương yêu của đôi vợ chồng lao động già: vài củ khoai nướng, ấm chè xanh hãm nóng bên than hồng. Dù mới 12, 13 tuổi tôi đã ao ước được sống như vậy. Hồi đó tôi nói với cha mẹ tôi lớn lên tôi sẽ làm nghề thợ rèn, ngồi thụt bệ cho chồng bên bếp than hồng. Giấc mơ tuổi nhỏ đó của tôi làm cả nhà ai cũng cười và bảo: “để rồi xem”.  Bây giờ nhớ lại, tôi cũng thấy buồn cười, đồng thời cũng thấy xao xuyến nhớ nhung về một mối quan hệ thân thương đã trở thành dĩ vãng.

Những ngày cuối tháng giêng năm Mậu Thân (1968), khi quân Cộng Hòa và quân đồng minh Mỹ tái chiếm Vỹ Dạ và quân Mặt Trận rút đi. Cuộc chém giết đã diễn ra trên từng thước đất, từng khu vườn, từng khu nhà, từng dãy xóm. Môt số dân làng theo quân Cộng Hòa chạy ngược về phía Đập Đá. Một số khác chạy lui về phía chợ Vỹ Dạ theo cánh du kích và bộ đội. Gia đình tôi chạy về phía Đập Đá. Gia đình bác thợ rèn chạy về phía chợ Vỹ Dạ. Tôi xa vợ chồng bác thợ rèn từ đó.

Xin mở một ngoặc đơn ở đây: Một đôi vợ chồng già làm nghề thợ rèn song lại có nhiều kiến thức về văn học và sử học để có những câu chuyện kể làm hấp dẫn một đứa trẻ lên 10, rồi một cô gái 13, 15, 17 hay thắc mắc nhiều điều như tôi cũng là một điều lạ. Món quà quí báu từ đôi vợ chồng lấm lét tro than kia, tôi không tìm thấy trong bất cứ mối quan hệ nào của tôi tại thôn Vỹ Dạ.

Bên cạnh khu vườn yên ắng, tĩnh mịch của cụ Tả là một ngôi vườn cây trái xanh tươi nhưng nhỏ bé hơn. Đó là khu nhà vườn của nhạc sĩ Hồng Nhân.

Khu vườn có mặt tiền không rộng, khoảng cách từ đường cái với hành lan nhà ngắn, nên trông ngôi nhà gần đường hơn các ngôi nhà khác. Tôi gọi khu nhà vườn này là “vườn âm nhạc” vì hầu như tối nào tôi cũng nghe tiếng đàn, tiếng sáo, tiếng hát vang vọng từ sân thượng của khu nhà vườn này.

Cổng khu vườn ít khi đóng kín, chỉ khép hờ. Hàng rào trước của ngôi nhà là những bụi cây hoa dại: cây mắt mèo có gai, cây ngâu, cây dâu tằm, cây keo, chằn chịt những  dây leo như bìm bìm, ty-gôn, cát đằng... Nhiều loại hoa leo nên hàng rào có màu sắc rất sinh động. Hồi còn học ở trường Thế Dạ, mỗi lần đến trường, tôi lén hái những bông cát đằng màu tím vừa nở vào lớp lấy bút chì vẽ thêm mắt mũi để tặng các bạn cùng lớp.

“Vườn âm nhạc” này có hai cây vú sữa mọc chéo nhau hình chữ X, ngã vào hành lang như hai cây côt chống đỡ cho mái hiên hơi thấp. Trong sân mấy thân cau vươn cao, dưới gốc là các loài hoa như yên chi, trang, lài, ngũ sắc... mọc xen kẽ, không theo hàng lối. Một lối đi nhỏ ở giữa vườn trông như một đường mòn trong khu vườn cổ tích. Bên bậc cấp bước lên nhà là hai bụi hải đường xanh mướt, đến mùa đơm bông những nụ hồng nở rộ từ gốc lên tận ngọn. Hải đường đẹp, một vẻ đẹp khỏe khoắn mà kín đáo.

“Khu vườn âm nhạc” có hai người con gái có tên rất ấn tượng đối với tâm trí ngây thơ của tôi: Chi Điền và Ngọc Cầm. Không hiểu tại sao lúc đó tôi rất thích hai cái tên này. Tôi thường bảo mẹ tôi sao không đặt tên cho tôi là Chi Điền hay Ngọc Cầm. Mẹ tôi chỉ cười và bảo tên của con cũng hay đấy chứ!

Thuở đó tôi làm gì có casette, có đĩa để nghe, lâu lâu mới được nghe chương trình âm nhạc thiếu nhi của đài Sài Gòn từ chiếc ra đi ô Phillip của cha tôi. Vốn ưa thích âm nhạc nên mỗi lần có tiếng sáo tiếng đàn từ bên kia đường vọng lại, tôi vội ra ngồi ở gốc cây khế đầu vườn nghe cọp và miên man nghĩ về hai cái tên Chi Điền, Ngọc Cầm. Tôi phác họa khuôn mặt của hai chị trên hoa Cát Đằng giống như khuôn mặt của nàng công chúa trong tâm hồn non dại của tôi.

Thế rồi một ngày kia khu “vườn âm nhạc” của tôi lặng thinh, bởi vì chiến tranh đã đến. Tôi không còn nghe tiếng đàn tiếng hát. Các chị Chi Điền, Ngọc Cầm bỏ thôn Vỹ ra đi. Trong vườn, có lẽ cũng như tôi, hoa lá đang buồn và nhớ nhung những người con gái một đi không trở lại.

Thôn Vỹ Dạ còn có khu vườn của các chị Phương Chi, Phương Thảo. Hai người con gái sống trong một ngôi nhà, vườn vắng vẻ có ngôi mộ cổ phía trước và một người đàn ông trung niên đãng trí (người quanh xóm gọi là ông Giao) thường hay đi về trên con đường làng mỗi buổi chiều, miệng lẩm bẩm đọc thơ và nói tiếng Pháp.

Hai chị Phương Chi và Phương Thảo là bạn thân của chị hai tôi. Chị Phương Chi rất hiền và lặng lẽ, giọng nói nhỏ nhẹ, lúc nào đến tôi cũng thấy chị cầm một cuốn sách trên tay. Chị Phương Thảo thì ồn ào vui nhộn, lúc nào cũng ca hát. Cả hai chị đều rất yêu các con mèo của họ. Người và mèo đã trở thành một cộng đồng thân thiết. Bất cứ ai vào nhà cũng thấy bầy mèo quanh quẩn bên hai cô chủ trìu mến. Mèo đen tuyền, mèo trắng tuyền, mèo mướp, mèo khoang cổ và mèo tam thể. Mỗi con có một vẻ đẹp và một đức tính riêng, không thể lẫn lộn con này với con kia. Mỗi lần chúng tôi đến thăm, ngoài chuyện sách vở thi ca và tiểu thuyết, hai chị Phương Chi, Phương Thảo còn say sưa kể chuyện mèo.

Một hình ảnh mà cư dân hai bên đường Vỹ Dạ khó quên được là vào những tối thượng trung tuần, hai người thiếu nữ cùng có chữ lót phảng phất hương thơm ấy (phương) ôm hai con mèo đi dạo dưới ánh trăng. Trong tâm thức non dại của tôi ngày ấy: Phương Chi, Phương Thảo chính là hai nhân vật bước ra từ truyện Liêu trai, và Vỹ Dạ chính là miền cổ tích của tuổi thơ tôi.

Có một điều nghịch lí là hai nhân vật cổ tích, liêu trai Phương Chi, Phương Thảo lại có một mặt thứ hai của đời họ rất ư là hiện thực. Trong khu vườn rộng thênh thang của gia đình, ngoài những cây trồng như nhiều khu vườn Vỹ Dạ khác, còn có một phần đất trồng cây lá gai. Giống lá cây gai mà người Huế đã dùng để làm bánh ít đen. Bánh ít đen hay còn gọi là bánh ít lá gai là một đặc sản của Huế kinh kỳ, Huế du lịch xưa và nay.

Bánh ít lá gai là sản phẩm chính của nhà này. Mẹ và dì của hai chị làm các thứ bánh bán cho các hàng bánh bên chợ Đông Ba. Hai người con gái thường nói chuyện văn chương chữ nghĩa và chơi với mèo còn là hai lao động cần mẫn phụ giúp việc cho mẹ và dì. Ngoài bánh ít lá gai họ còn làm thêm các loại bánh măng, bánh mận, bánh su sê. Đến gần tết tôi còn thấy các chị ngồi cả ngày gói bánh phục linh xanh đỏ đủ màu và cần mẫn nặn bánh sen tán thành các loại hoa. Tôi cũng học được ít nhiều về cách làm bánh từ mẹ, bà dì và của cả hai chị. Năm 1968 người cậu đãng trí qua đời, cả nhà chuyển vào Nam sinh sống. Ngôi nhà đóng cửa im lìm, hoang lạnh cùng ngôi mộ cổ ngày một thấp dần.

Nhắc đến Vỹ Dạ mà không nhắc phủ Tuy Lý Vương là một điều thiếu sót. 

Dân ở đây không gọi là Phủ Tuy Lý mà gọi nôm na là phủ Ba Cửa vì giữa một vùng đất rộng, cỏ mọc um tùm quanh năm, chỉ còn cái cổng có ba cửa ra vào đứng hoang liêu với nắng sớm mưa chiều.

Trong vườn phủ cũng đầy cỏ mọc, một ngôi nhà cổ, vài ba cây sứ cổ thụ bông trắng chơ vơ. Khung cảnh tiêu điều vắng vẻ làm ái ngại người viếng thăm. Nhà phủ luôn đóng cửa, thỉnh thoảng mới thấy người đến thắp hương.

Thuở chị Phùng Thăng mang thai, chị về đây tịnh dưỡng. Mẹ thường sai tôi đem biếu chị vài thức ăn nên tôi có dịp ra vào phủ. Quang cảnh nơi đây quá cô liêu, bước chân vào không thể nào không nhớ hai câu thơ của Bà Huyện Thanh Quan:

Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo

Nền cũ lâu đài bóng tịch dương.

Phủ ngăn cách vùng đất dân cư chung quanh bởi những bờ rào cây dại và cây keo. Vùng đất phía sau phủ đã trở thành vùng dân cư chòm xóm, có nhà đã lên mái ngói, có nhà chỉ là túp lều tranh.

Năm qua khi tôi trở lại nơi đây, vùng cỏ xanh của phủ năm nào nay đã lấp đầy những ngôi nhà mới, có nơi đã là khu nhà hát ka-ra-ô-kê.

Tôi đi tìm cây sứ trắng, chỉ thấy có mây xám trên khoảng trời hẹp.

Hông trên của Phủ Ba Cửa có con hẻm dài dẫn vào một xóm nhỏ. Cái xóm nhỏ này hình thành nên bởi phần đất phía sau của phủ tách ra. Một số gia đình của cái xóm nhỏ này là con cháu đời sau của vương phủ (Tuy Lý), một số khác là dân ngụ cư từ nơi khác đến mua đất làm nhà. Đây là những căn nhà đơn sơ, sân hẹp, không có vườn, chỉ có bãi cỏ hoang rộng là phần đất phía sau của vương phủ ở phía trước. Chủ nhân của chúng thuộc thành phần xã hội trung bình thấp. Cái xóm nhỏ này dễ bị người đời lãng quên nếu không là nơi cư trú của một mỹ nhân và một lãng nhân thi sĩ.

Mỹ nhân tên là Tôn nữ Thu Thủy. Thi nhân tên là Võ Ngọc Trác.

Thu Thủy là bạn chí cốt của chị ba tôi: Kim Ngọc. Bạn học đồng thời là bạn nhan sắc, rong chơi, mua sắm. Cả hai là một cặp bài trùng. Cùng đi, cùng về: trường học, quán xá, phố chợ, chùa chiền. Cặp bài trùng Thu Thủy – Kim Ngọc càng lớn càng xinh đẹp nổi tiếng. Bạn bè của anh cả tôi ngày một đông. Có anh ngắm nghé có anh chiêm ngưỡng mỹ nhân như ngắm nhìn những bông hoa. Mỗi buổi sáng có tiếng gọi: Ngọc ơi ở trước ngõ là đã có anh chạy tìm một góc thuận tiện để nhìn trộm. Mỗi buổi chiều chủ nhật khi các mỹ nhân Thu Thủy, Kim Ngọc, Kim Vĩnh (chị Kim Vĩnh là con gái nhà thuốc Thiên Tường ở An Cựu) tập họp ở vườn đào nhà tôi là các chiếc périssoire của các chàng trai dập dìu bỏ quên sông nước. Chị Thu Thủy có cặp mắt tuyệt vời với khuôn mặt thanh tú, da trắng mịn hồng hào, thân hình mảnh dẻ cân đối. Anh Bửu Hàm con trai ông Ưng Luận, bạn học y khoa của anh trai tôi khi thì ví von đôi mắt của chị Thu Thủy trong xanh như hai mảng trời mùa thu, khi thì mô tả dáng đi của chị Thủy nhẹ nhàng uốn lượn như một nàng tiên (trong giấc mơ của anh). 

Những “người đẹp vườn đào” (các chàng trai chèo périssoire gọi như thế) Thu Thủy, Kim Ngọc đều lấy chồng sớm. Chồng chị Ngọc là một sĩ quan. Chồng của chị Thủy là cậu ấm con của một ông Tướng. Xuất giá tòng phu. Hai người đẹp của Vỹ Dạ đi lấy chồng, bỏ lại những người bạn của anh tôi ngẩn ngơ nhớ tiếc. Vườn đào nhà tôi vắng bóng các nàng tiên và những chàng trai trên những chiếc périssore uể oải quay lui mái chèo trả lại sự tĩnh lặng cho cái bến vào những chiều chủ nhật.

Qua chị Thủy tôi không biết gì nhiều hơn về một Võ Ngọc Trác thi sĩ. Tôi chỉ biết chị Thủy là cháu kêu ông Võ Ngọc Trác là cậu ruột, em hay anh trai gì đó của mẹ chị.

Trước năm 1975, chiều chiều dân hai bên đường Thuận An nhìn thấy một người đàn ông trung niên áo quần đơn giản nhưng sạch sẽ tươm tất, mắt đeo kính cận, chắp tay sau lưng đi một mình từ con hẻm bên phủ Ba Cửa lên Đập Đá. Không ai chú ý ông đi đâu và làm gì.

Sau 1975, anh Chu Sơn – người sau này trở thành chồng tôi – đến thăm chúng tôi, hỏi về ông Võ Ngọc Trác, thi sĩ, lúc bấy giờ tôi mới biết người cậu của chị Thủy xinh đẹp của chúng tôi không những là một người làm thơ bình thường như hầu hết những người đàn ông Huế khác, ông còn là một thi sĩ nổi tiếng.

Anh Chu Sơn quen biết ông Võ Ngọc Trác qua ông Ngô Kha từ những năm đầu của thập niên sáu mươi. Anh Chu Sơn không hề biết ông Võ Ngọc Trác là cậu ruột chị Thủy. Nhưng anh là bạn học của anh trai chị Thủy tên là Bửu Chuẩn.

Do vậy từ năm 1960 trở về sau mỗi lần về Huế là anh đến thăm ngôi nhà phía sau phủ Ba Cửa. Từ 1975 đến cuối 1977 trước khi chúng tôi cưới nhau và rời Huế, anh Chu Sơn có đưa tôi đến thăm ông Võ Ngọc Trác đôi lần. Chúng tôi không thấy chị Thủy, anh Bửu Chuẩn, chỉ thấy mẹ và bà ngoại của hai người. Thì ra ông Võ Ngọc Trác còn có bà mẹ già và người chị gái. Chúng tôi hỏi về chị Thu Thủy và anh Bửu Chuẩn, ông Võ Ngọc Trác trả lời cho qua chuyện: Người trẻ lần lượt đi hết, nhà này chỉ còn lại người già. Chiến tranh làm tan nát đổ vỡ nhiều thứ quá. Ông quay ra đọc thơ. Đọc hết bài này đến bài khác. Trước mặt tôi ông già ốm o lãng đãng Võ Ngọc Trác đích thực là một thi sĩ, Anh Chu Sơn ngồi nghe. Tôi lấy bút giấy ra ghi chép. Thơ ông khó đọc khó nhớ. Có một bài đích thực là chân dung ông với những cuộc đi bộ mỗi chiều in đậm trong ký ức người Vỹ Dạ một thời không trở lại.

Bài thơ Linh Dược

« Chiều chiều lại đi dạo

Quanh làng để kiến thức thêm cao

Đời tôi có di cảo

Bằng đôi chân nhỏ tập ước ao

Bằng một hòa âm loài dị thảo.

Qua khỏi phủ Ba Cửa, phía bên kia đường, ngôi nhà tôi hay đứng lặng để nhìn, để chờ trái thị rơi, chờ con khỉ già ngủ gật, là nhà của cụ Bửu Đáp. Đây cũng là một ngôi nhà vườn khá đặc biệt của thôn Vỹ Dạ. Nhà không quay mặt ra đường (hướng chính Đông) mà quay về phía Tây Nam.

Nhà xây hai tầng nằm trong một khuôn viên cây cối um tùm. Một nhà lục giác nằm ở góc vườn chung quanh trồng các bụi hồng lựu và bạch lựu. Trên tường có khảm hình một bầu rượu và hai câu đối chữ Hán mỗi câu bốn chữ. (tôi không đọc được những chữ này). Đây là chỗ ngâm thơ uống rượu của các cụ.

Chiếc cổng cũ kỹ không đóng, lúc nào cũng mở hờ vừa đủ để một người lách qua. Sau cổng, dưới gốc cây thị là một chuồng khỉ, con khỉ già kêu khẹt khẹt khi có người lạ. Đến mùa thị chín, hương thơm ma quái lan tỏa cả một vùng. Đi học về tôi và mấy đứa bạn hay chờ con khỉ ngủ gật là lẻn vào lượm mấy quả thị rụng. Ông bà chủ nhà tỏ ra rất rộng lượng với bọn trẻ mỗi khi bắt gặp chúng tôi vào vườn.

Vườn nhà cụ Bửu Đáp phía trước trồng cây lưu niên như nhãn, mít, thanh trà..., phía sau trồng cau và chay. Cau trong vườn cụ Bửu Đáp được trồng chung với những dây trầu leo quanh, khác với nhà tôi, mẹ tôi trồng trầu leo giàn.

Vào những năm 1960 – 1962 tôi thường theo cha đến nhà cụ Bửu Đáp (hai ông thường hay đàm đạo, uống trà). Thấy cách trồng trầu khác lạ, tôi hỏi, cụ bảo:

– “Đây là cách trồng theo miền Nam, ở Thừa Thiên Huế chỉ có làng Mỹ Lợi là trồng cau và trầu theo cách này. Làng Nam Phổ trồng cau thành vườn, khai mương hai bên và trồng trầu trên giàn như nhà cháu vậy. Ông học cách trồng này từ các người Mỹ Lợi khi họ chèo thuyền lên Huế giao thương”.

Vườn nhà cụ Bửu Đáp tủ gốc cây bằng rong. Nhà tôi và các nhà khác trong thôn lại tủ gốc cây bằng cây cỏ hôi.

Bến nhà cụ Bửu Đáp cũng rất lạ, đường xuống bến hẹp, dốc lở, kê vài viên đá tảng để làm lối đi. Dây leo chằng chịt, chiếc cổng luôn khép hờ. Một tảng đá khá lớn kê ngay dưới gốc cây cừa với nhiều rễ phụ buông xuống, là nơi ba tôi và cụ hay ngồi câu cá.

Nhà cụ rộng rãi nhưng vắng người, vật dụng trong nhà bày biện đơn giản nhưng rất ngăn nắp.

Vườn cụ không trồng hoa, chỉ duy nhất một gốc mai lớn ở giữa sân, cụ thường bảo trồng hoa phải chăm bón nhiều mà cả hai cụ đều lớn tuổi không đủ sức chăm bón kỹ được thì tội cho hoa. Tôi yêu lời nói này biết chừng nào...

Ba tôi mất sớm. Thỉnh thoảng tôi được mẹ sai mang gói trà, hộp mứt xuống biếu ông bà cụ.

Bà cụ mất, bạn bè cũng xa dần. Đôi lúc qua nhà tôi thấy ông cụ yên lặng nói chuyện cùng con khỉ già.  Thế rồi cụ cũng mất vào năm 1974.

Cách đây hai năm tôi có trở lại nơi này, ngôi vườn trở thành nơi buôn bán vật liệu xây dựng, cát sạn, xi măng, gạch ngói ngổn ngang trên một bãi đất lầy lội từ đường cái ra đến bến sông. Cái nhà lục giác được xây lại to hơn, bình rượu trên tường được đắp lại to hơn, hai câu đối mỗi câu bốn chữ nay còn lại ba chữ.  Tôi hỏi sao câu đối mỗi vế còn ba chữ thôi, chị gia chủ bảo khi xây lại thợ nề nó bỏ quên mỗi câu một chữ. Tôi chào chị ra về, lòng cảm thấy băn khoăn, nhớ về cụ ông và cụ bà đôn hậu ngày nào.

Càng đi lần về phía chợ, từ Phủ Ba Cửa đến đường xóm đi vào chùa Phước Huệ, các khu vườn hình như hẹp hơn. Phía bên kia đường cũng vậy, nhiều nơi đã trở thành khu dân cư chòm xóm.

Cấu trúc vườn, nhà và cả cây trồng không giống khu vực phía trên. Đa số các vườn không trồng cây lưu niên mà trồng các giống cây ngắn ngày mới du nhập về như: táo trái nhỏ cành có gai, trứng gà, trứng cá (hay gọi là cây cheri), thơm victoria, chuối Đồng nai... và các loài hoa cũng mới du nhập như: móng bò, tử vi, trúc đào, hoa giấy (đa phần cổng nhà nào khu vực này cũng trồng hoa giấy màu đỏ tím, màu trắng). Có nhà đã xây theo kiểu mới mái bằng, hoặc xây gian nhỏ kề nhau hình ống.

Con gái ở đây cũng có những cái tên mới lạ hơn: Xuân Lộc, Xuân Đài.  Mỹ Liên, Mỹ Linh, Việt Anh, Mỹ Anh...

Nhà cô Hoàng Thị Kim Cúc, cô giáo dạy gia chánh trường Đồng Khánh (nàng thơ của Hàn Mạc Tử) cũng ở trong khu vực này. Nhà cô ở phía bờ sông cạnh rạp hát tuồng Vỹ Dạ. Thời đi học tôi hay về nhà cô. Đây là khu vườn nhà vừa phải không bề thế cũng không rộng. Vì ở cạnh bức tường lớn của rạp hát nên nhà cô kém vẻ xanh mát (thế nhưng dưới mắt nhà thơ, nơi ở của người đẹp vẫn “mướt quá xanh như ngọc”).

Trong sân nhà cô, tôi nhớ nhất là một gốc dương liễu già xù xì, hai cây trứng gà mọc hai bên lối đi vào. Nhà cô Hoàng thị Kim Cúc không trồng cau nhưng trồng nhiều loại hoa nho nhỏ rất đáng yêu: Hoa tỷ muội, hoa tiểu cúc (cúc vàng loại nhỏ), hoa yên chi...

Hàn Mạc Tử trong bài thơ nổi tiếng “Ở Đây thôn Vỹ Giạ” mô tả nàng thơ trong bối cảnh đặc thù và không gian chung của thôn Vỹ chứ không mô tả cảnh vườn nhà cô Cúc. Vườn nhà cô Cúc không có nắng hàng cau, không có lá trúc che ngang, không có hoa bắp lay... Cô Cúc ngoài khuôn mặt chữ điền và những nét đẹp đã nhập thể trong từng câu, từng chữ của bài thơ như thi sĩ đã cảm nhận, còn nổi tiếng trong cư dân Vỹ Dạ là “người con gái tinh khôi” luôn mặt áo trắng, áo lam, từ dáng đi, giọng nói, cử chỉ luôn thể hiện vẻ khoang thai, từ tốn, dịu dàng, đoan hậu của một nữ cư sĩ Phật giáo. Cô Cúc còn nổi tiếng có kiến thức sâu rộng về ẩm thực Huế, về tài nấu nướng và sắp xếp việc nhà. (cô đã xuất bản hai tập “Những món ăn nấu lối Huế” tập I và tâp II, nhà in Tân Dân 41 đường Gia Hội năm 1945)

Từ cầu Hương Lưu qua cồn Hến, đến chợ Mới (nay là chợ Vỹ Dạ) khu vực này đã phố thị hóa, nhà mặt tiền thường là các cửa hàng hay tiệm buôn nhỏ. Ở đây thời bấy giờ có một tiệm sửa đông hồ, một tiệm sửa xe đạp, một nhà may, một tiệm thuốc bắc, đến khu chợ thì có thêm nhiều nhà bán hàng tạp hóa, một gian hàng guốc mộc, đôi ba quán rượu lẻ và thuốc cẩm lệ. Khu vực này không có vườn.

Những người con gái nơi đây đã có những cái tên bình dân, gọn gàng dễ gọi như Hồ thị Quảng, Nguyễn Thị Thới, Nguyễn thị Thân, Lê Thị Bưởi, Hầu thị Thiếu...

Từ ngã rẽ qua Cầu Ông Thượng, về đến chùa Ba La Mật, các khu nhà vườn lại có những nét riêng không giống với qui hoạch và cấu trúc vườn nhà của các mệ, các cụ tôi đã mô tả ở phần đầu. Đa phần nhà nơi đây xây theo kiến trúc Tây cổ, nhà có hiên trước rộng, tầng cấp cao, cửa gỗ hai lớp (lớp lá sách, lớp gương). Có sân và có vườn. Sân trước trồng các loại hoa thấp như hải đường, ngâu, lài, hòe, sói, có nơi trồng chậu, có nơi trồng trong bồn xi măng, sân thường rải đá cuội. Vườn chung quanh trồng các loại cây ăn trái như nhãn, vải, khế, thanh trà... và trước ngõ hầu như nhà nào cũng có vài cây cau.

Vỹ Dạ còn lưu dấu Mai Trang của cụ Nguyễn Khoa Toàn. Ông làm quan triều Nguyễn với chức vụ Tham tri bộ Học rồi Tham tri bộ Lại, ông còn là một họa sĩ có tiếng đất Thần Kinh, cha mẹ tôi mỗi lần nhắc đến Mai Trang đều không khỏi nhắc đến bức họa Mai Hương mà ông bà rất yêu thích.

Thời còn học tiểu học Thế Dạ tôi đã vào Mai Trang một đôi lần, nhà cô bạn Nguyễn Khoa Diệu Huyền. Lúc bấy giờ Mai Trang còn vài gốc mai già ở phía vườn trước, nhưng sang xuân, cô học trò tiểu học bé tí tẹo là tôi cũng lén vào Mai Trang xưa cũ để “thăm bạn” nhưng thực ra muốn thưởng thức hương mai nhẹ nhàng thanh thoát của khu vườn thơ mộng này.

Khu vực này tên người đẹp thường có chữ lót là Diệu: Diệu Chi, Diệu Thơ, Diệu Huyền... Tôi nhớ hồi còn học tiểu học,  mỗi chiều anh tôi thường hay dẫn tôi ra ngõ để nhìn các chị Diệu Chi, Diệu Thơ đạp xe đi học về với “vành nón che nghiêng nửa vầng trăng”. Một thời thật đẹp và thơ mộng.

Thôn Vỹ Dạ còn một ngôi nhà vườn nổi tiếng không những vì vườn đẹp mà chủ nhân ngôi nhà lại là một thi nhân, đứng đầu Hương Bình thi xã: Chu Hương Viên của cụ Ưng Bình Thúc Giạ. Vườn nhà cụ đối diện với chùa Ba La Mật. Đây là ngôi nhà rường có sửa sang đôi chút, nhà chính có ba gian hai chái với cột kèo bằng gỗ, chạm khắc, sơn son thếp vàng. Các đố vách chung quanh được thay bằng tường xây và trổ cửa sổ. Nền nhà được nâng cao và lát gạch hoa. Thập niên 1960 ngôi nhà được trông nom bởi bác Bửu Kỉnh, con trai của cụ Ưng Bình. Nhà quay mặt về hướng Tây Nam thay vì hướng chính Đông như hầu hết các ngôi nhà ở đây.

Cổng và hàng rào phía trước là một hàng tre la ngà, thân cây màu vàng tươi và lá thì xanh thẩm.

Trong vườn ngoài những cây cổ thụ như nhãn, vải, vú sữa, còn có những cây mảnh mai hơn như lựu, hồng, táo...

Vườn còn trồng nhiều loại hoa: Mai, Hải đường, Cúc vàng... Cảnh quan nơi đây đầy màu sắc tựa khu vườn trong  Bích Câu kỳ ngộ:

Đua chen thu cúc xuân đào

Lựu phun lửa hạ mai chào gió đông.

Ngày nay trở lại nơi này, không còn tìm ra dấu vết của khu vườn “Bích Câu” năm nào, lòng tôi xao xuyến lạ.

Nhắc đến vườn nhà của một nhà thơ đã từng là chủ soái một Tao đàn nổi tiếng không những khắp vùng sông Hương núi Ngự, tôi nhớ đến câu hò đã một thời làm xao xuyến lòng người:

“Chiều chiều trước bến Vân Lâu

Ai ngồi, ai câu, ai sầu, ai thảm

Ai thương, ai cảm, ai nhớ, ai trông

Thuyền ai thấp thoáng bên sông

Nghe câu mái đẩy chạnh lòng nước non. .

Nhớ được mấy câu hò mà chẳng ghi lại một bài thơ của một thi bá là “tội” không thể tha thứ. Tôi chắp tay cầu xin hương hồn cụ Ưng Bình lấy tấm lòng rộng lớn của một vị trưởng giả, một cư sĩ Phật giáo mà xá tội cho một nữ nhân hậu thế thô thiển, vô tình, chỉ cảm nhận được đôi phần của sự việc mắt thấy tai nghe. (Tôi sẽ trở lại Chu Hương Viên một lần khác).

Vỹ Dạ còn có một đình làng, nhiều ngôi chùa Như chùa Phước Huệ, chùa Pháp Hải, và chùa Ba La Mật (chùa của dòng họ Nguyễn Khoa)... có ngôi trường tiểu học Thế Dạ, có khu chợ Mới cạnh bờ sông, có bãi bồi Cồn Hến, có bến đò Bến Cạn, có cánh đồng hai mùa lúa chín, có hệ thống thủy lợi ven đồng.

Lời cáo lỗi của tôi xin gởi đến một Vỹ Dạ to lớn, đẹp đẽ, cao quí và phong phú gấp nhiều lần những gì còn đọng lại trong ký ức một kẻ không học văn, không làm nghề văn chương chữ nghĩa, một người cả một đời lao động đầu tắt mặt tối mới có được mấy ngày thư thả sau khi nghỉ hưu. Bởi Vỹ Dạ không chỉ có mộng mơ và mộng mơ của Vỹ Dạ không phải là tất cả trong những dòng ký ức này. Vỹ Dạ còn có tầng cao, tầng sâu và mặt trái của tồn tại. Cho dù Vỹ Dạ như thế nào, Vỹ Dạ mộng mơ, Vỹ Dạ thực dụng, Vỹ Dạ sáng, Vỹ Dạ tối, Vỹ Dạ mạnh, Vỹ Dạ yếu, Vỹ Dạ tốt, Vỹ Dạ xấu ... cũng đã sinh sản, nuôi dưỡng và un đúc nên tôi. Tôi có trong tất cả các mặt, các chiều, các cực của cái thôn nổi tiếng đa đoan và vang bóng một thời này.

Tôi cũng xin gởi đến các vị chủ nhân những cái tên, những ngôi nhà, những khu vườn tôi đã trân trọng và quí mến nhắc đến trong mấy trang ký ức này lời xin lỗi vì đã không xin phép trước.