Danh ngôn

Trong mọi cộng đồng, chúng ta cần một nhóm thiên thần gây rối.

We need, in every community, a group of angelic troublemakers.

(Bayard Rustin – trích bài phát biểu tại New York City 1963)

Trong mọi trường hợp, chắc chắn rằng sự thiếu hiểu biết, đi kèm với quyền lực, là kẻ thù tàn bạo nhất có thể có của công lý.

It is certain, in any case, that ignorance, allied with power, is the most ferocious enemy justice can have.

(James Baldwin - No Name in the Street 1972)

Các cuộc cách mạng và các cá nhân có thể bị giết hại, nhưng bạn không thể giết chết các ý tưởng.

While revolutionaries and individuals can be murdered, you cannot kill ideas.

(Thomas Sankara, một tuần trước khi bị ám sát, 1987)

Không có cảm giác nào cô đơn hơn việc bị chính đất nước mình trục xuất.

There's not a more lonely feeling than to be banished by my own country.

(Kiyo Sato – Kiyo’s Story 2009)

Ban Biên tập

Địa chỉ liên lạc:

1. Thơ

tho.vanviet.vd@gmail.com

2. Văn

vanviet.van14@gmail.com

3. Nghiên cứu Phê Bình

vanviet.ncpb@gmail.com

4. Vấn đề hôm nay

vanviet.vdhn1@gmail.com

5. Thư bạn đọc

vanviet.tbd14@gmail.com

6. Tư liệu

vanviet.tulieu@gmail.com

7. Văn học Miền Nam 54-75

vanhocmiennam5475@gmail.com

Tra cứu theo tên tác giả

Thứ Sáu, 22 tháng 3, 2024

Quyền lực và Tiến bộ (kỳ 5)

Daron Accemoglu Simon Johnson Nguyễn Quang A dịch   Quyenf lực và  

4. Nuôi dưỡng sự Khốn khổ

 

Và Babylon, rất thường bị phá hủy. Ai đã xây lại nó nhiều lần đến vậy? Các công nhân xây dựng đã sống trong căn nào trong số các nhà của Lima vàng-lóng lánh?

—Bertolt Brecht, “Questions of a Worker Who Reads,” 1935

Những người nghèo trong các giáo xứ này có thể nói, và với sự thật, Quốc hội có thể là người giữ tài sản: tất cả cái tôi biết là, tôi đã có một con bò, và một đạo luật của Quốc hội đã lấy nó khỏi tôi.

—Arthur Young, An Inquiry into the Propriety of Applying Wastes to the Better Maintenance and Support of the Poor, 1801 (chữ nghiêng trong nguyên bản).

Học giả italia Francesco Petrarca (được biết nhiều hơn như Petrarch) đã lập luận một cách nổi tiếng rằng thời đại tiếp theo sự sụp đổ của Đế chế Tây Roman trong năm 476 đã là một thời “bị bóng tối và sự u ám dày đặc bao quanh.” Petrarch đã nhắc tới sự thiếu các tiến bộ về thi ca và nghệ thuật, nhưng những tuyên bố chính thức của ông xác định các thế hệ của các sử gia và các nhà bình luận xã hội đã nghĩ thế nào về tám thế kỷ tiếp sau sự vinh quang của Đế chế Roman. Sự hiểu biết thông thường từ lâu cho rằng về cơ bản đã không có bất kể loại tiến bộ nào, kể cả các đột phá công nghệ, cho đến khi Phục hưng bắt đầu xoay chuyển tình hình bắt đầu trong các năm 1300.

Bây giờ chúng ta biết rằng quan điểm này là sai. Đã có sự thay đổi quan trọng về công nghệ và sự cải thiện về năng suất kinh tế ở châu Âu trong Thời Trung Cổ. Các đổi mới thiết thực đã gồm:

• sự luân canh tốt hơn ngang các cánh đồng khác nhau

• sự dùng nhiều rau đậu hơn để cho gia súc ăn và thêm đạm (nitrogen) vào đất

• cày nặng có bánh xe, được sáu hay tám bò đực kéo

• sự tăng dùng ngựa cho cày bừa và giao thông vận tải

• bộ yên cương, bàn đạp, yên, và móng ngựa tốt hơn

• dùng nhiều phân súc vật hơn như phân bón

• sự chấp nhận phổ biến của xe cút kít

• lò sưởi và ống khói ban đầu, cải thiện nhiều chất lượng không khí trong nhà

• đồng hồ cơ học

• bộ ép thùng nho làm rượu vang (the basket wine press)

• các gương (soi) tốt

• guồng quay sợi

• khung cửi (dệt) được cải thiện

• sự dùng tốt hơn sắt và thép

• sự tiếp cận rộng đến than đá

• sự khai mỏ tăng quy mô đủ loại

• các xà lan và thuyền buồm tốt hơn

• những tiến bộ về cửa sổ kính-nhuộm

• những chiếc kính mắt đầu tiên

Thế nhưng cũng đã có cái gì đó khá đen tối về thời đại này. Cuộc sống của những người làm ruộng vẫn khó khăn, và tiêu chuẩn sống của các nông dân có thể thậm chí đã giảm trong nhiều phần của châu Âu. Công nghệ và nền kinh tế đã tiến bộ theo cách tỏ ra có hại cho hầu hết dân cư.

Có lẽ công nghệ quyết định nhất của Thời Trung Cổ là cối xay, mà tầm quan trọng tăng lên của nó được minh họa tốt bởi kinh nghiệm Anh sau sự Xâm chiếm Norman năm 1066. Vào cuối thế kỷ thứ mười bảy, đã có khoảng 6.000 cối xay chạy bằng sức nước ở nước Anh, tính ra khoảng một cối xay trên 350 người. Trong 200 năm tiếp theo, số bánh xe nước đã tăng gấp đôi, và năng suất của chúng đã tăng đáng kể.

Các cối xay nước sớm nhất đã gồm một bánh xe nhỏ quay trong mặt phẳng ngang dưới thớt đá, nối với bánh xe bằng một trục dọc (thẳng đứng). Muộn hơn, các thiết kế hiệu quả hơn đã đưa vào một bánh xe dọc lớn hơn, được đặt bên ngoài cối xay và được nối bằng các bánh răng với cơ cấu nghiền. Sự cải thiện thật đáng chú ý. Ngay cả một bánh xe nước dọc nhỏ, được năm đến mười người vận hành, có thể tạo ra hai hay ba mã lực, tương đương với ba mươi đến sáu mươi công nhân làm công việc bằng tay—sự tăng năng suất hơn ba lần. Các cối xay dọc lớn hơn của thời kỳ trung cổ muộn đã tăng sản lượng trên người lao động nhiều đến hai mươi lần mức cối xay tay có thể đạt được.

Các bánh xe nước đã không thể được chấp nhận ở mọi nơi: chúng cần một dòng nước đủ chảy xuống một độ dốc đủ dốc. Bắt đầu trong các năm 1100, các cối xay gió đã mở rộng tầm với của sức mạnh cơ học, mở rộng hết sức sự xay ngũ cốc cho bánh mì và rượu bia và sự hồ vải cho gia công len. Các cối xay gió đã làm tăng hoạt động kinh tế trong các phần bằng phẳng của đất nước với đất màu mỡ, như miền Đông nước Anh.

Từ 1000 đến 1300, các cối xay nước và các cối xay gió và những tiến bộ khác trong công nghệ nông nghiệp đã tăng khoảng gấp đôi sản lượng trên hectare. Các đổi mới này cũng đã giúp khởi động hàng dệt vải len Anh, mà muộn hơn đã đóng một vai trò mấu chốt trong công nghiệp hóa. Mặc dù là khó để xác định các con số chính xác, năng suất nông nghiệp trên người được ước lượng đã tăng 15 phần trăm giữa 1100 và 1300.

Bạn có thể nghĩ rằng những tiến bộ kỹ thuật và năng suất này sẽ dẫn đến thu nhập thực tế cao hơn. Than ôi, đoàn tàu năng suất—năng suất tăng lên mà nâng tiền lương và các tiêu chuẩn sống của những người lao động—đã không thành sự thật trong nền kinh tế trung cổ. Trừ cho những người thuộc về một elite nhỏ, đã không có sự cải thiện bền vững nào về các tiêu chuẩn sống và một số giai đoạn đã tồi đi. Đối với hầu hết mọi người, công nghệ nông nghiệp tốt hơn trong Thời Trung Cổ đã đào sâu thêm sự nghèo đói của họ.

Dân cư nông thôn của nước Anh đã không có một cuộc sống dễ chịu trong đầu thế kỷ thứ mười một. Các nông dân đã làm việc vất vả và đạt mức tiêu dùng nhiều hơn mức tối thiểu cần thiết cho sự sống sót một chút. Bằng chứng sẵn có gợi ý rằng những người này đã bị vắt thậm chí thêm nữa trong hai thế kỷ tiếp theo. Những người Norman đã tổ chức lại nông nghiệp, củng cố hệ thống phong kiến, và tăng cường sự đánh thuế ngầm và tường minh. Các nông dân đã phải giao nhiều sản lượng nông nghiệp của họ hơn cho các thượng cấp xã hội của họ. Theo thời gian, các chúa phong kiến cũng đã áp đặt những đòi hỏi lao động nặng nề-hơn. Trong một số phần của đất nước, các nông dân đã làm việc gấp đôi thời gian mỗi năm trên đồng ruộng của chúa đất so với tiêu chuẩn trước chinh phục.

Mặc dù sản xuất thực phẩm đã tăng và các nông dân làm việc vất vả hơn, sự suy dinh dưỡng đã tồi đi, và các mức tiêu thụ sụt tới ngưỡng mà dưới đó sự sinh sống trở nên là không thể. Tuổi thọ kỳ vọng khi sinh vẫn thấp và đã có thể sụt xuống chỉ hai mươi-năm.

Rồi tình hình trở nên tồi hơn nhiều trong đầu các năm 1300, với một chuỗi nạn đói, lên đỉnh điểm trong Dịch Hạch vào giữa thế kỷ, mà đã làm chết giữa một phần ba và một nửa dân cư Anh. Bệnh dịch hạch độc hại này giết nhiều người, nhưng chính sự kết hợp của sự nhiễm khuẩn và sự suy dinh dưỡng kinh niên chịu trách nhiệm về số người chết gây sửng sốt.

Nếu không tới giai cấp nông dân, thì tất cả sản lượng thêm đến từ các cối xay nước và các cối xay gió, móng ngựa, khung cửi (dệt), xe cút kít, và những sự tiến bộ về luyện kim đi đâu? Một số được dùng để nuôi nhiều miệng ăn hơn. Dân số của nước Anh đã tăng từ khoảng 2,2 triệu trong 1100 lên khoảng 5 triệu trong năm 1300. Nhưng khi dân số tăng, thì độ lớn của lực lượng lao động nông nghiệp và mức sản xuất nông nghiệp cũng tăng.

Tổng thể, năng suất cao hơn và các mức tiêu thụ thấp hơn cho hầu hết dân cư đã mang lại một sự tăng khổng lồ về “thặng dư” của nền kinh tế Anh, có nghĩa là lượng đầu ra, chủ yếu là thực phẩm, gỗ, và vải được tạo ra trên mức tối thiểu cần thiết cho sự sống sót và sự tái sản xuất dân cư. Thặng dư này được một elite nhỏ bòn rút và hưởng thụ. Ngay cả dưới định nghĩa rộng nhất, elite này, kể cả bầu đoàn của vua, các quý tộc, và giáo sĩ cấp cao, chiếm không nhiều hơn 5 phần trăm dân cư. Nhưng nó đã vẫn chiếm đoạt hầu hết thặng dư nông nghiệp ở nước Anh trung cổ.

Một số của thặng dư thực phẩm này được dùng để hỗ trợ các trung tâm đô thị mới nảy nở, mà dân số của chúng đã tăng từ hai trăm ngàn trong năm 1100 lên khoảng một triệu trong năm 1300. Các tiêu chuẩn sống đô thị có vẻ đã được cải thiện, tương phản mạnh với những gì đã xảy ra trong các vùng thôn quê hơn. Một sự đa dạng rộng hơn của các hàng hóa, kể cả hàng hóa xa xỉ, đã trở nên sẵn có cho dân cư thành phố. Sự bành trướng của London đã phản ánh sự phong phú tăng lên này; dân số của nó đã tăng hơn ba lần, lên khoảng tám mươi ngàn.

Hầu hết thặng dư này bị ăn hết không phải bởi các trung tâm đô thị mà bởi bộ máy thứ bậc tôn giáo lớn xây dựng các nhà thờ lớn, các tu viện, và các nhà thờ. Các ước lượng gợi ý rằng vào năm 1300, các giám mục, các trưởng tu viện, và các giáo sĩ khác cùng nhau đã sở hữu một phần ba tổng đất nông nghiệp.

Đợt bột phát xây dựng của giáo hội đã thực sự ngoạn mục. Sau năm 1100, các nhà thờ lớn được thiết lập trong hai mươi sáu thành phố, và tám ngàn nhà thờ mới được xây dựng. Một số đã là các dự án khổng lồ. Các nhà thờ lớn đã là các các công trình xây dựng bằng đá vào lúc khi hầu hết người dân sống trong những căn nhà xiêu vẹo. Hầu hết được các kiến trúc sư siêu sao thiết kế và một số cần hàng thế kỷ để hoàn tất, với hàng trăm công nhân, kể cả các nghệ nhân khéo tay và rất nhiều lao động chân tay không có kỹ năng để khai thác đá và chuyên chở vật liệu.

Việc xây dựng đã đắt tiền, tốn giữa 500 £ và 1.000 £ một năm, khoảng 500 lần thu nhập hàng năm của một người lao động không có kỹ năng lúc đó. Mốt số trong số tiền này được quyên qua sự hiến tặng tự nguyện, nhưng một phần đáng kể đã được tài trợ bởi các khoản thu và thuế định kỳ trên dân cư nông thôn.

Trong các năm 1200 đã có sự cạnh tranh để xem cộng đồng nào có thể xây dựng cấu trúc cao nhất. Trưởng tu viện Suger xứ Saint-Denis ở Pháp, mà đã ở trong sự kìm kẹp của một cơn bột phát nhà thờ lớn tương tự, trình bày quan điểm thịnh hành, cho rằng các tòa nhà lộng lẫy này nên được trang bị mọi đồ trang trí có thể tưởng tượng được, tốt nhất là bằng vàng:

Những người phê phán chúng tôi cho rằng sự ca tụng [bí tích Thánh Thể] này cần chỉ một linh hồn thánh thiện, một tâm hồn trong trắng và một ý định trung thực. Chắc chắn chúng tôi đồng ý hoàn toàn rằng các thứ này là quan trọng hơn tất cả các thứ khác. Nhưng chúng tôi tin rằng các đồ trang trí bên ngoài và các chén thánh nên dùng chẳng ở đâu nhiều như trong sự thờ phượng của chúng ta, và việc này với tất cả tính thanh khiết nội tâm và tất cả tính quý phái bên ngoài.

Các ước lượng từ Pháp gợi ý rằng nhiều đến 20 phần trăm của tổng sản lượng có thể đã được tiêu cho việc xây dựng công trình tôn giáo giữa 1100 và 1250. Con số này là cao đến mức, nếu đúng, nó ngụ ý rằng gần như tất cả sự sản xuất vượt số cần để nuôi người dân đã chảy vào việc xây dựng nhà thờ.

Số các tu viện cũng đã tăng lên. Trong 1535 đã có giữa 810 và 820 tu viện, “lớn và nhỏ,” ở nước Anh và Wales. Hầu như tất cả các tu viện này được thành lập sau 940, và hầu hết đầu tiên được lập hồ sơ giữa 1100 và 1272. Một tu viện đã nắm giữ hơn bảy ngàn mẫu đất có thể trồng trọt được, còn một tu viện khác sở hữu hơn mười ba ngàn con cừu. Ngoài ra, ba mươi thị trấn, được biết đến như các thị xã tu viện, đã dưới sự kiểm soát của các dòng tu, mà có nghĩa rằng hệ thống thứ bậc giáo hội cũng đã sống nhờ thu nhập (thuế) của các thị trấn này.

Các tu viện đã tham ăn. Chúng đã tốn tiền để xây dựng và vận hành. Thu nhập hàng năm của Tu viện Westminster trong cuối các năm 1200 là 1.200 £, hầu hết được lấy từ nông nghiệp. Một số trong các đế chế nông nghiệp này đã thực sự ngổn ngang. Tu viện Bury Saint Edmunds, một trong những tu viện giàu nhất, đã sở hữu các quyền đối với thu nhập của hơn sáu mươi lăm nhà thờ.

Làm cho vấn đề tồi tệ hơn, các tu viện đã được miễn thuế. Khi sự chiếm hữu đất và sự kiểm soát các nguồn lực kinh tế của chúng tăng lên, ít được để lại cho vua và giới quý tộc. So với một phần ba đất nông nghiệp giáo hội kiểm soát, vua nắm giữ một phần sáu của tất cả đất đai (theo giá trị) trong 1086. Nhưng vào 1300, ngài đã nhận chỉ 2 phần trăm tổng thu nhập đất đai ở nước Anh.

Một số vua đã thử điều chỉnh sự mất cân bằng này. Edward I đã ban hành Quy chế Mortmain trong 1279, thử bịt lại một kẽ hở thuế bằng việc cấm hiến tặng thêm đất cho các tổ chức tôn giáo mà không có phép hoàng gia. Tuy vậy, các biện pháp này đã không hiệu quả, bởi vì các tòa án giáo hội, dưới kiểm soát cuối cùng của các giám mục và các trưởng tu viện, đã giúp nghĩ ra các giải-pháp pháp-lý thay thế. Các vua đã không đủ mạnh để cố giành lấy thu nhập từ giáo hội trung cổ.

Một Xã hội Thứ bậc

Vì sao các nông dân đã chịu đựng số phận của họ, chấp nhận sự tiêu thụ thấp hơn, giờ làm việc dài hơn, và sức khỏe xấu đi ngay cả khi nền kinh tế trở nên hiệu quả hơn? Tất nhiên, một phần là giới quý tộc đã chuyên môn hóa sự kiểm soát các phương tiện bạo lực trong xã hội trung cổ và đã không ngại dùng chúng khi cần.

Nhưng sự cưỡng bức đã chỉ có thể đi xa đến vậy. Như cuộc Nổi dậy của các nông dân 1381 chứng tỏ, khi những người bình thường trở nên tức giận, là không dễ để trấn áp họ. Được kích bởi những cố gắng để thu các thuế thân chưa nộp ở miền Đông Nam nước Anh, cuộc nổi loạn đã phát triển nhanh chóng, và những người nổi loạn bắt đầu đòi giảm thuế, xóa chế độ nông nô, và cải cách các tòa án rất nhất quán có thành kiến chống lại họ. Theo Thomas Walsingham, một nhà chép biên niên sử đương thời, “Các đám đông của họ đã tụ tập và bắt đầu hò hét đòi tự do, trù tính để trở thành ngang hàng với các chúa đất của họ và không còn bị ràng buộc bởi sự quy phục bất cứ ông chủ nào.” Henry Knighton, một nhà quan sát khác lúc đó, đã tóm tắt các sự kiện: “Không còn tự hạn chế ở lời than phiền ban đầu của họ nữa [về một loại thuế thân và nó được thu thế nào] và không thỏa mãn với các tội nhỏ, bây giờ họ trù tính các tội lỗi cực đoan và tàn nhẫn hơn nhiều: họ đã quyết tâm không nhường đường cho đến khi tất cả các quý tộc và các ông trùm của vương quốc bị tiêu diệt hoàn toàn.”

Những người nổi loạn đã tấn công London và đột nhập vào Tháp London, nơi vua, Richard II, ẩn náu. Cuộc nổi dậy đã chấm dứt bởi vì vua đã đồng ý với các đòi hỏi của các phiến quân, kể cả sự xóa bỏ chế độ nông nô. Chỉ sau khi nhà vua tập hợp một lực lượng lớn hơn nhiều và không giữ các lời hứa của ông thì những người nổi loạn bị đánh bại và có tới một ngàn rưởi người bị truy lùng, bắt, và hành quyết, thường một cách dã man—ví dụ, bị phanh thây.

Hầu hết thời gian, sự bất mãn đã chẳng bao giờ sôi lên các mức như vậy, bởi vì giai cấp nông dân được thuyết phục để ưng thuận. Xã hội trung cổ thường được mô tả như một “xã hội của các thứ bậc,” gồm những người chiến đấu, những người cầu nguyện, và những người làm mọi công việc. Những người cầu nguyện đã cốt yếu trong việc thuyết phục những người làm việc để chấp nhận hệ thứ bậc này.

Có sự luyên tiếc nào đó cho các tu viện trong trí tưởng tượng hiện đại. Các tu sĩ được danh tiếng với việc truyền cho chúng ta nhiều tác phẩm kinh điển từ thời Hy lạp-La mã, kể cả các công trình của Aristotle, hay thậm chí với việc cứu nền văn minh Tây phương. Họ liên kết với các hoạt động hữu ích khác nhau, và ngày nay các tu viện bán các sản phẩm trải từ tương ớt đến bánh quy cho chó, kẹo mềm, mật ong, và thậm chí mực máy in (cho đến gần đây). Các tu viện Bỉ nổi tiếng thế giới vì rượu bia của chúng (kể cả bia được một số người coi là bia ngon nhất thế giới, Westvleteren 12, từ Tu viện Trappist (dòng Luyện tâm) Saint-Sixtus). Một dòng tu trong Thời Trung Cổ, những người theo dòng Cistercian (xi tô), nổi tiếng về khai hoang để trồng trọt, về xuất khẩu len, và, chí ít ban đầu, vì không muốn được lợi từ công việc của những người khác. Các dòng tu khác khăng khăng về sự nghèo như một sự lựa chọn phong cách sống cho các thành viên của chúng.

Tuy vậy, hầu hết các tu viện trung cổ đã không muốn sản xuất hay chống nghèo, mà làm công việc cầu nguyện. Trong những thời hỗn loạn này, khi dân cư mộ đạo sâu sắc, sự cầu nguyện đã liên kết chặt chẽ với sự thuyết phục. Các thầy tu và các các dòng tu đã cho mọi người lời khuyên và đã bênh vực hệ thống thứ bậc hiện có, và quan trọng hơn chúng tuyên truyền một tầm nhìn về xã hội và sự sản xuất nên được tổ chức thế nào.

Năng lực thuyết phục của giới tăng lữ được khuếch đại bởi thẩm quyền của họ như các sứ thần của Chúa. Giáo huấn của giáo hội không thể bị nghi ngờ. Bất cứ sự nghi ngờ được bày tỏ công khai nào sẽ nhanh chóng dẫn đến sự rút phép thông công. Luật pháp cũng thiên vị giáo hội, cũng như elite thế tục, và các tòa án địa phương được trao quyền, được vận hành bởi elite phong kiến, hay các tòa án giáo hội dưới sự kiểm soát hệ thứ bậc giáo hội.

Câu hỏi liệu thẩm quyền tăng lữ có cao hơn thẩm quyền thế tục đã vẫn gây tranh cãi suốt Thời Trung Cổ. Tổng giám mục Canterbury Thomas Becket đã xung đột một cách nổi tiếng với Henry II về vấn đề này. Khi nhà vua khăng khăng rằng các tội nghiêm trọng vi phạm bởi các tăng lữ phải được xử trong các tòa án hoàng gia, Becket đã đáp lại: “Việc này chắc chắn sẽ không được làm, vì thường dân không thể là các thẩm phán của các tăng lữ và bất thứ gì thành viên này hay khác của giới tăng lữ vi phạm nên được xử trong một tòa án giáo hội.” Becket đã là cựu quan chưởng ấn và người thân hoàng gia của nhà vua, và ông xem mình như ủng hộ tự do—hay một dạng của tự do—chống lại sự chuyên chế. Vua đã xem lập trường này như một sự phản bội, và sự thịnh nộ của ngài cuối cùng đã dẫn đến việc giết Becket.

Nhưng sự dùng bạo lực hoàng gia này đã phản tác dụng, theo nghĩa rằng nó đã chỉ làm tăng sức mạnh thuyết phục của giáo hội và năng lực của nó để đứng lên chống lại vua. Becket được xem như một người tử vì đạo, và Henry II đã phải công khai sám hối tại lăng mộ của ông. Lăng mộ đã vẫn là một điện thờ quan trọng cho đến 1536, khi, bị Cải cách Tin lành ảnh hưởng và muốn lấy vợ, Henry VIII đã quay sang chống lại Giáo hội công giáo.

Một Đoàn tàu bị Vỡ

Sự phân bố bất bình đẳng này của quyền lực xã hội ở châu Âu trung cổ giải thích vì sao elite đã có thể sống thoải mái trong khi giai cấp nông dân đã nghèo khốn khổ. Nhưng làm sao và vì sao các công nghệ đã bần cùng hóa thêm phần lớn dân cư?

Câu trả lời cho câu hỏi này liên kết mật thiết với bản chất thiên vị xã hội của công nghệ. Công nghệ được dùng thế nào luôn luôn đan xen với tầm nhìn và các lợi ích của những người nắm giữ quyền lực.

Phần quan trọng nhất của phong cảnh sản xuất của nước Anh trung cổ đã được tổ chức lại tiếp sau Sự chinh phục Norman. Những người Norman đã tăng cường địa vị thống trị của các chúa tể đối với các nông dân, và bối cảnh này đã xác định tiền lương, bản chất của công việc nông nghiệp, và cách công nghệ mới được chấp nhận. Các cối xay là kết quả của một sự đầu tư đáng kể, và trong một nền kinh tế nơi các địa chủ (chủ sở hữu đất) trở nên lớn hơn và mạnh hơn về chính trị, là tự nhiên rằng họ là những người tiến hành các khoản đầu tư này, và theo một cách tăng cường thêm quyền hành của họ chống lại các nông dân.

Các chúa phong kiến tự vận hành các mảnh đất lớn, với sự kiểm soát đáng kể đối với những người thuê đất (tá điền) của họ và tất cả những người khác sống trong các thái ấp của họ. Sự kiểm soát là quan trọng bởi vì cư dân nông thôn được yêu cầu thực hiện lao động không được trả công, về thực chất là lao động cưỡng bức trên tài sản của chúa tể. Các điều khoản chính xác của công việc này—nó kéo dài bao lâu và nó sẽ trùng lặp bao nhiêu với mùa thu hoạch—đã thường được thương lượng, các tòa án địa phương, do các chúa tể kiểm soát, đưa ra các quyết định khi có những sự bất đồng.

Cối xay, ngựa, và phân bón nâng cao năng suất, vì bây giờ nhiều sản lượng nông nghiệp hơn có thể được sản xuất dùng cùng lượng lao động và đất. Nhưng không thấy đoàn tàu năng suất ở đâu cả. Để hiểu vì sao không, chúng ta hãy xem xét lại kinh tế học của đoàn tàu năng suất từ Chương 1.

Mặc dù các cối xay tiết kiệm lao động trong các nhiệm vụ khác nhau như nghiền ngũ cốc, chúng cũng tăng năng suất biên của những người lao động. Theo quan điểm đoàn tàu năng suất, các chủ sử dụng lao động sẽ thuê nhiều người hơn để làm việc tại các cối xay, và sự cạnh tranh vì những người lao động sẽ đẩy tiền lương lên. Nhưng như chúng ta đã thấy, bối cảnh thể chế vô cùng quan trọng. Cầu lớn hơn cho những người lao động dẫn đến tiền lương cao hơn chỉ khi các chủ sử dụng lao động cạnh tranh để thu hút lao động trong một thị trường lao động không bị cưỡng bức, hoạt động tốt.

Đã không có thị trường lao động nào như thế ở châu Âu trung cổ và ít cạnh tranh giữa các cối xay. Như một kết quả, tiền lương và các nghĩa vụ thường bị xác định bởi cái mà các chúa tể có thể tránh được. Các chúa tể cũng quyết định giai cấp nông dân phải trả bao nhiêu để có sự tiếp cận đến các cối xay và đặt một số thuế và phí khác mà mà họ mắc nợ. Nhờ quyền lực xã hội lớn hơn của họ dưới chủ nghĩa phong kiến Norman, các chủ thái ấp đã có thể siết chặt ốc vít khá nhiều.

Nhưng vì sao sự đưa các máy mới vào và năng suất cao hơn nảy sinh lại dẫn đến sự vắt các nông dân nhiều hơn và đến các tiêu chuẩn sống tồi hơn? Hãy tưởng tượng một bối cảnh trong đó các công nghệ mới nâng cao năng suất nhưng các chúa tể không thể (hay không muốn) thuê thêm người lao động. Họ vẫn muốn nhiều giờ làm việc hơn đi cùng với công nghệ năng suất hơn của họ. Làm thế nào để đạt điều này? Một cách, thường bị bỏ qua trong các tường thuật chuẩn, là để tăng sự cưỡng bức và vắt nhiều lao động hơn từ những người lao động hiện có. Khi đó các sự tăng thêm năng suất làm lợi cho các địa chủ nhưng trực tiếp làm hại những người lao động, mà bây giờ chịu cả sự cưỡng bức lớn hơn và thời gian làm việc dài hơn (và có lẽ thậm chí tiền lương thấp hơn).

Đấy là cái đã xảy ra sau khi các cối xay được đưa vào ở nước Anh trung cổ. Khi các máy mới được triển khai và năng suất tăng lên, các chúa phong kiến đã bóc lột giai cấp nông dân mạnh hơn. Thời gian làm việc của người lao động đã tăng, với ít thời gian hơn để lại để chăm sóc cây trồng của riêng họ, và thu nhập thực tế và sự tiêu thụ hộ gia định của họ đã sụt.

Sự phân bố quyền lực xã hội và tầm nhìn của thời đó cũng xác định các công nghệ mới được phát triển và chấp nhận thế nào. Các quyết định quan trọng gồm các cối xay mới được xây dựng ở đâu và ai sẽ kiểm soát chúng. Trong xã hội thứ bậc của nước Anh, được xem như công bằng và tự nhiên rằng cả các chúa tể và các tu viện vận hành các cối xay. Cùng những người cũng đã có thẩm quyền và quyền lực để bảo đảm rằng không sự cạnh tranh nào sẽ xuất hiện. Việc này đã cho phép xưởng của chúa tể chế biến tất cả ngũ cốc và vải trong nền kinh tế địa phương với giá cả do chúa tể định. Trong một số trường hợp, các chúa phong kiến thậm chí đã tìm được cách để cấm việc xay xát ở nhà. Con đường này của sự chấp nhận công nghệ đã làm trầm trọng thêm bất bình đẳng kinh tế và quyền lực.

Sự Hiệp lực Giữa sự Cưỡng bức và sự Thuyết phục

Chúng ta có thể thấy vai trò của một tầm nhìn chi phối của xã hội trung cổ, được hậu thuẫn bởi quyền lực cưỡng bức của các elite tôn giáo và thế tục, trong việc thiên vị con đường chấp nhận công nghệ trong câu chuyện về cố gắng xây dựng một cối xay gió của Dean Herbert trong năm 1191. Trưởng tu viện Bury Saint Edmunds, một trong các tu viện giàu và hùng mạnh nhất, đã không hài lòng bởi tinh thần khởi nghiệp này và đã đòi rằng cối xay gió bị phá hủy ngay lập tức bởi vì nó sẽ cạnh tranh với các cối xay của tu viện ông. Theo Jocelin de Brakelond, mà đã làm việc cho trưởng tu viện, “Nghe điều này, Dean (Niên trưởng) đến và nói rằng ông đã có quyền để làm việc này trên đất phong tự do của ông, và rằng lợi ích miễn phí của gió không nên bị từ chối cho bất cứ ai; ông nói ông cũng muốn xay ngũ cốc riêng của ông và không phải ngũ cốc của những người khác, để có lẽ ông khỏi có thể bị nghĩ làm việc này gây hại cho các cối xay lân cận.”

Trưởng tu viện đã tức giận: “tôi cảm ơn anh như tôi nên cảm ơn anh dù anh đã cắt cả hai chân tôi. Trước mặt Chúa, tôi sẽ chẳng bao giờ ăn bánh mì cho đến khi tòa nhà đó bị phá đổ.” Trong sự diễn giải của trưởng tu viện về luật tục, nếu một cối xay đã tồn tại, ông đã không thể cản trở các hàng xóm của niên trưởng (dean-cha quản hạt) khỏi dùng nó, và việc này sẽ tạo thành sự cạnh tranh cho các cối xay riêng của tu viện. Tuy vậy, dưới cùng sự diễn giải niên trưởng đã không có quyền để xây dựng một cối xay gió mà không có sự cho phép của trưởng tu viện.

Mặc dù về nguyên tắc các lý lẽ như vậy có thể bị tranh cãi, trong thực tiễn không có cách nào cho niên trưởng để thách thức chúng bởi vì tất cả các vấn đề liên quan đến các quyền của tu viện được quyết định trong tòa án giáo hội, phán xét ủng hộ trưởng tu viện hùng mạnh. Niên trưởng vội vã kéo đổ cối xay của mình ngay trước khi các chấp hành viên của tòa đến.

Theo thời gian, sự kiểm soát của giáo hội đối với các công nghệ mới đã tăng cường. Vào thế kỷ thứ mười ba, tu viện Saint Albans ở Hertfordshire đã chi 100 £ nâng cấp các xưởng của nó và rồi khăng khăng rằng các tá điền mang tất cả ngũ cốc và vải của họ đến các xưởng này. Mặc dù các tá điền đã thiếu sự tiếp cận đến các xưởng khác, họ đã từ chối tuân theo. Xử lý vải của họ bằng tay ở nhà được ưa thích hơn việc trả phí cao cho tu viện.

Nhưng ngay cả chút độc lập nhỏ này đã vấp phải khó khăn đột ngột, đó là ý định của tu viện để là kẻ hưởng lợi duy nhất của các công nghệ mới. Trong 1274 trưởng tu viện đã thử tịch thu vải từ nhà của các tá điền, mà đã dẫn đến những các cuộc đối đầu thân thể giữa các tá điền và các tu sĩ. Không ngạc nhiên, khi các tá điền phản kháng trong Tòa án của nhà vua, phán quyết đã chống lại họ. Vải của họ phải được xử lý bởi các xưởng của trưởng tu viện, và họ phải trả các phí do tu viện định.

Trong năm 1326 đã có thậm chí một sự đối đầu dữ dội hơn với tu viện Saint Albans về liệu các tá điền có được phép nghiền ngũ cốc của họ ở nhà dùng các cối xay tay hay không. Tu viện đã bị bao vây hai lần, và khi trưởng tu viện cuối cùng đã thắng thế, ông tịch thu tất cả các thớt cối xay bằng đá và dùng chúng để lát sân trong ở tu viện. Năm mươi năm sau, như phần của cuộc Nổi dậy nông dân, các nông dân đã xông vào tu viện và đạp nát sân trong, “biểu tượng về sự làm nhục của họ.”

Tổng thể, nền kinh tế trung cổ đã không bị tước mất sự tiến bộ công nghệ và sự tái tổ chức lớn. Nhưng là một thời đại đen tối cho các nông dân Anh bởi vì hệ thống phong kiến Norman bảo đảm rằng năng suất cao hơn sẽ dồn cho gới quý tộc và elite tôn giáo. Tồi tệ hơn, sự tổ chức lại nông nghiệp đã lót đường cho sự bòn rút thặng dư lớn hơn và các nghĩa vụ nặng nề hơn từ giai cấp nông dân, mà tiêu chuẩn sống của họ đã giảm thêm nữa. Công nghệ mới đã phục vụ để đẩy mạnh sự ủng hộ elite và làm tăng sự khốn khổ của các nông dân.

Những thời khó khăn này cho những người bình thường là kết quả của elite tôn giáo và quý tộc cấu trúc công nghệ và nền kinh tế gây khó cho hầu hết dân cư để thịnh vượng. Sự thống trị hàng ngày đối với dân cư qua sức mạnh thuyết phục dựa vào một nền tảng mạnh của niềm tin tôn giáo được tăng cường bởi hành động tòa án và sự cưỡng bức.

Một Bẫy Malthusian

Một sự diễn giải thay thế về các tiêu chuẩn sống trì trệ trong Thời Trung Cổ có gốc rễ trong các ý tưởng của Đức cha Thomas Malthus. Viết vào cuối thế kỉ thứ mười tám, Malthus cho rằng những người nghèo vô trách nhiệm. Nếu bạn cho họ đủ đất cho một con bò cái, họ sẽ chỉ có nhiều con hơn. Như một kết quả, “Dân số, khi không được kiểm soát, tăng theo cấp số nhân. Sinh kế tăng chỉ theo cấp số học. Một sự hiểu biết sơ sài về các con số sẽ cho thấy sự to lớn của số thứ nhất so với số thứ hai.” Bởi vì có một giới hạn về đất sẵn có, một sự tăng về dân số sẽ làm tăng ít hơn sản lượng nông nghiệp; do đó, bất kể sự cải thiện hiệu nghiệm nào về các tiêu chuẩn sống cho người nghèo sẽ không kéo dài và sẽ mau chóng bị số miệng ăn nhiều hơn ngốn sạch.

Quan điểm nghiệt ngã này, đổ lỗi cho người nghèo vì sự khốn khổ của họ, không khớp với sự thực. Nếu có bất kể “bẫy” Malthusian nào, đó là cái bẫy về tư duy rằng có một luật không thể tránh khỏi của các động lực Malthusian.

Sự nghèo đói của giai cấp nông dân không thể được hiểu mà không có sự nhận ra họ bị cưỡng bức thế nào—và quyền lực chính trị và xã hội đã định hình như thế nào việc ai được lợi từ hướng của sự tiến bộ. Trong hàng ngàn năm trước cách mạng công nghiệp, công nghệ và năng suất đã không trì trệ, cho dù chúng đã không cải thiện đều đặn và nhanh như sau giữa-thế kỉ thứ mười tám.

Ai được lợi từ các công nghệ mới và sự tăng năng suất phụ thuộc vào bối cảnh thể chế và kiểu công nghệ. Trong nhiều thời kỳ quan trọng, như các thời kỳ được thảo luận trong chương này, công nghệ đã đi theo tầm nhìn của một elite hùng mạnh, và sự tăng năng suất đã không chuyển thành bất kể sự cải thiện có ý nghĩa nào trong đời sống của đa số dân cư.

Nhưng ảnh hưởng của elite đối với nền kinh tế đã thăng trầm, và không phải tất cả sự tăng năng suất đã dưới sự kiểm soát trực tiếp theo cách các cối xay mới đã bị. Khi hoa lợi trên đất được các nông dân canh tác tăng lên và các chúa tể đã không đủ chi phối để chộp lấy thặng dư thêm này, các điều kiện sống cho những người nghèo được cải thiện.

Sau Dịch Hạch, chẳng hạn, nhiều chúa tể Anh, đối diện với đồng ruộng không được cày và một sự thiếu lao động, đã thử bóc lột nhiều hơn những người lao động như nô lệ của họ mà không trả nhiều hơn. Vua Edward III và các cố vấn của ngài đã bị làm cho hoảng sợ về đòi hỏi đền bù cao hơn từ những người lao động và đã đẩy qua pháp luật có ý định kiềm chế những đòi hỏi lương này. Đạo luật về những người Lao động năm 1351 được thông qua như một phần của cố gắng này và đã bắt đầu, “Bởi vì một phần lớn nhân dân và nhất là những người lao động và các đầy tớ bây giờ đã chết trong bệnh dịch hạch đó, một số, thấy sự thẳng thắn của các ông Chủ và sự hiếm người hầu, không sẵn lòng phục vụ trừ phi họ nhận được tiền lương quá đáng.” Nó đã quy định những sự trừng phạt hà khắc, kể cả sự bỏ tù, đối với bất kể người lao động nào bỏ việc của họ. Đã đặc biệt quan trọng rằng tiền lương cao hơn sẽ không được dùng để thu hút những người lao động khỏi đồng ruộng của họ, nên quy định ra lệnh, “hơn nữa, không ai được trả hay cho phép để được trả bất kể ai nhiều tiền lương, quần áo, rượu mật ong hay tiền công hơn mức thông lệ như đã nói…”

Các lệnh và luật hoàng gia này đã vô ích, tuy vậy. Sự thiếu lao động đã vung con lắc có lợi cho các nông dân có thể từ chối các đòi hỏi của các chúa tể của họ, yêu cầu tiền lương cao hơn, từ chối trả tiền phạt, và, nếu cần, đi sang các thái ấp khác hay vào các thành phố. Theo lời của Knighton, những người lao động đã “hỗn xược và bướng bỉnh đến mức họ không chú ý đến trát của vua, nhưng nếu bất cứ ai muốn có được họ, phải trả cho họ cái họ yêu cầu.”

Kết cục đã là tiền lương cao hơn, như John Gower, một nhà thơ và nhà bình luận đương thời, mô tả: “Và mặt khác có thể thấy rằng đối với bất kể công việc nào thì người lao động có thể đắt đỏ đến mức bất cứ ai muốn bất cứ thứ gì được làm phải trả năm hay sáu shilling cho cái trước đó tốn chỉ hai shilling.”

Một kiến nghị Hạ Viện năm 1376 đổ lỗi thẳng thừng cho sự thiếu lao động đã trao quyền thế nào cho những người hầu và những người lao động, mà “ngay khi các ông chủ của họ tố cáo họ về dịch vụ tồi, hay muốn trả họ cho lao động của họ theo hình thức của các quy định … họ trốn và đột nhiên bỏ việc làm của họ trong quận.” Vấn đề là “họ nhận được công việc ngay lập tức ở chỗ mới, với tiền lương đắt đến mức là tấm gương và sự cổ vũ cho tất cả những người hầu để đi đến những chỗ mới…”

Sự thiếu lao động đã không chỉ làm tăng lương. Cân bằng quyền lực giữa các chúa tể và các nông dân đã thay đổi ngang thôn quê nước Anh, và các chúa tể bắt đầu nói về sự thiếu tôn trọng từ những người cấp dưới của họ. Knighton đã mô tả “niềm vui của những người cấp dưới về ăn mặc và trang bị trong những ngày này, đến mức một người không thể được phân biệt với người khác, về sự huy hoàng hay quần áo hay đồ dùng.” Hay, như Gower diễn đạt, “Những người hầu bây giờ là các ông chủ và các ông chủ là những người hầu.”

Trong các phần khác của châu Âu nơi địa vị thống trị của các elite nông thôn vẫn còn, đã không có sự xói mòn tương tự nào về các nghĩa vụ phong kiến và không bằng chứng tương tự nào rằng tiền lương đã tăng. Ở đông và trung Âu, chẳng hạn, giai cấp nông dân bị đối xử thậm chí hà khắc hơn và như thế ít có khả năng hơn để nêu rõ các đòi hỏi, ngay cả gữa sự thiếu lao động, và đã có ít thành phố hơn nơi mọi người có thể dễ dàng trốn đến. Các triển vọng cho sự trao quyền cho nông dân đã vẫn yếu hơn.

Tại nước Anh, tuy vậy, quyền lực của các elite địa phương đã bị xói mòn trong thế kỷ rưỡi tiếp. Do đó, như một tường thuật nổi tiếng của thời kỳ giải thích, “Chủ thái ấp đã buộc phải đưa ra các điều kiện tốt hay thấy tất cả các nông nô [các nông dân] của mình biến mất.” Trong các hoàn cảnh xã hội này, lương thực tế đã trôi dạt lên một lúc.

Sự tan rã của các tu viện dưới Henry VIII và sự tổ chức lại nông nghiệp sau đó đã là một bước khác làm thay đổi sự cân bằng quyền lực ở nước Anh thôn quê. Sự tăng trưởng chậm về thu nhập thực tế của nông dân Anh trước sự bắt đầu của thời đại công nghiệp đã là một hậu quả của kiểu trôi dạt này.

Trong tiến trình của Thời Trung Cổ như một toàn thể, đã có những thời kỳ khi sản lượng cao hơn làm tăng khả năng sinh sản và dân số đã phát triển nhanh hơn năng lực của đất để nuôi mọi người, đôi khi dẫn đến nạn đói và sự sụp đổ nhân khẩu học. Nhưng Malthus đã sai trong suy nghĩ rằng đấy đã là kết quả khả dĩ duy nhất. Vào lúc ông trình bày các lý thuyết của ông vào cuối thế kỉ thứ mười tám, thu nhập thực tế Anh, không chỉ dân số, đã trên một quỹ đạo tăng trong hàng thế kỷ, với không dấu hiệu nào về các nạn đói hay các bệnh dịch không thể tránh khỏi. Có thể thấy các xu hướng tương tự trong các nước Âu châu khác trong thời kỳ này, kể cả các thành bang Italia, Pháp, và các vùng ngày nay tạo thành Bỉ và Hà Lan.

Thậm chí còn đáng trách hơn với những sự giải thích Malthusian, chúng ta đã thấy rằng thặng dư được các công nghệ mới tạo ra trong thời trung cổ đã bị ngốn hết không phải bởi những người nghèo sinh sản quá nhiều mà bởi tầng lớp quý tộc và giáo hội dưới dạng các đồ xa xỉ và các nhà thờ lớn phô trương. Vài trong số đó cũng đã đóng góp cho các tiêu chuẩn sống cao hơn trong các thành phố lớn nhất, như London.

Không chỉ bằng chứng từ châu Âu trung cổ phủ nhận mạnh mẽ ý tưởng về một bẫy Malthusian. Hy Lạp cổ xưa, dẫn đầu bởi thành-bang Athens, đã trải nghiệm sự tăng trưởng khá nhanh về sản lượng trên đầu người và các tiêu chuẩn sống giữa các thế kỷ thứ chín và thứ tư bce (trước công nguyên). Trong thời kỳ gần năm-trăm-năm này, kích thước nhà đã tăng, cách bố trí sàn nhà được cải thiện, hàng hóa hộ gia đình đã tăng lên nhiều lần, sự tiêu thụ trên đầu người đã tăng, và các chỉ số khác nhau khác về chất lượng cuộc sống đã trở nên tốt hơn. Mặc dù dân số đã tăng, có ít bằng chứng về động học Malthusian bắt đầu. Thời đại này của sự tăng trưởng kinh tế và sự thịnh vượng Hy Lạp đã chấm dứt chỉ bởi sự bất ổn định chính trị và sự xâm chiếm.

Đã cũng có sự tăng trưởng sản lượng trên đầu người và sự thịnh vượng trong Cộng hòa Roman, bắt đầu lúc nào đó khoảng thế kỷ thứ năm bce. Thời kỳ thịnh vượng này đã tiếp tục mãi đến thế kỷ đầu tiên của Đế chế Roman và rất có thể đã kết thúc bởi vì sự bất ổn định chính trị và sự thiệt hại do các nhà cai trị độc đoán gây ra trong pha đế quốc của Rome.

Các thời kỳ tiền-công nghiệp đã mở rộng sự tăng trưởng kinh tế, với không dấu hiệu nào về các động lực Malthusian, đã không giới hạn ở châu Âu. Có bằng chứng khảo cổ học và đôi khi thậm chí tư liệu gợi ý các thời kỳ dài tương tự về sự tăng trưởng ở Trung Quốc, trong các nền văn minh Andean và Trung Mỹ trước sự thực dân hóa Âu châu, trong Thung lũng Indus, và ở các phần của châu Phi.

Bằng chứng lịch sử gợi ý mạnh mẽ rằng bẫy Malthusian đã không phải là một quy luật tự nhiên, và sự tồn tại của nó có vẻ hết sức tùy thuộc vào các hệ thống chính trị và kinh tế cá biệt. Trong trường hợp của châu Âu trung cổ, chính xã hội thứ bậc, với những sự bất bình đẳng, sự cưỡng bức, và con đường méo mó tới công nghệ của nó, là cái đã tạo ra sự nghèo đói và sự thiếu tiến bộ cho hầu hết mọi người.

Tội Tổ tông Nông nghiệp

Các sự lựa chọn công nghệ bị định kiến về mặt xã hội đã không hạn chế ở châu Âu trung cổ và đã là một trụ cột của lịch sử tiền-công nghiệp. Chúng đã bắt đầu ngay từ, nếu không sớm hơn, bản thân nông nghiệp.

Con người đã bắt đầu thử nghiệm với sự thuần hóa thực vật và động vật từ lâu rồi. Chó đã cùng sống với Homo sapiens rồi hơn mười lăm ngàn ngàn năm trước. Ngay cả khi họ tiếp tục tìm kiếm thức ăn—săn bắn, bắt cá, và hái lượm—con người đã khuyến khích có chọn lọc sự tăng trưởng của một số thực vật và động vật và bắt đầu ảnh hưởng đến hệ thống sinh thái của chúng.

Rồi khoảng mười hai ngàn ngàn năm trước, một quá trình quá độ đến nông nghiệp định cư, thường xuyên dựa vào các thực vật và các loài được thuần hóa hoàn toàn đã bắt đầu. Bây giờ chúng ta biết rằng quá trình này đã xảy ra, hầu như chắc chắn một cách độc lập, trong ít nhất bảy nơi khắp thế giới. Cây trồng, mà đã ở trung tâm sân khấu của sự quá độ này, đã thay đổi từ chỗ này sang chỗ khác: hai loại lúa mì (einkorn và emmer) và lúa mạch ở vùng Lưỡi Liềm Màu mỡ, phần của cái gọi là Trung Đông bây giờ; hai loại kê (đuôi cáo và cao lương) ở miền bắc Trung Quốc; lúa gạo ở miền nam Trung Quốc; bí, đậu, và ngô ở Trung Mỹ; các củ (khoai tây và khoai lang) ở Nam Mỹ; và nhiều loại hạt quinoa (diêm mạch) ở nơi bây giờ là miền Đông Hoa Kỳ. Vài loại cây trồng được thuần hóa ở châu Phi, nam Sahara; Ethiopia đã thuần hóa cà phê, mà đáng ca ngợi đặc biệt và có lẽ nên tính gấp đôi.

Không có hồ sơ viết, không ai biết chính xác những gì đã xảy ra và khi nào. Các lý thuyết về thời gian và quan hệ nhân quả vẫn bị tranh cãi nóng bỏng. Một số học giả cho rằng sự nóng lên của hành tinh đã tạo ra sự giàu có, mà đến lượt sinh ra các khu định cư và nông nghiệp. Các chuyên gia khác bênh vực điều ngược lại, rằng sự cần thiết là bà mẹ của sự đổi mới và sự khan hiếm từng hồi đã là lực chính đẩy những con người để tăng sản lượng qua sự thuần hóa. Một số người cho rằng các làng vĩnh cửu đã xuất hiện đầu tiên, tiếp theo là sự nổi lên của hệ thứ bậc xã hội. Những người khác chỉ ra các dấu hiệu của hệ thứ bậc trong những hàng hóa được tìm thấy trong các mộ có trước các khu định cư hàng ngàn năm. Một số người gia nhập nhà khảo cổ học nổi tiếng Gordon Childe, mà đã tạo ra thuật ngữ Neolithic Cách mạng (Cách mạng thời kỳ đồ đá Mới) để mô tả sự chuyển tiếp này, xem nó như nền tảng cho sự tiến bộ của công nghệ và loài người. Thế còn những người khác thì theo Jean-Jacques Rousseau và cho rằng sự định cư để làm ruộng toàn thời gian đã là “tội tổ tông” của xã hội con người, lát đường cho sự nghèo đói và bất bình đẳng xã hội.

Thực tế chắc có khả năng là đã có rất nhiều sự đa dạng. Con người đã thử nghiệm với các cây trồng khác nhau và những cách khác nhau để thuần hóa các động vật. Các loại thực vật ban đầu đã gồm những cây họ đậu (đậu Hà Lan, đậu tằm, đậu gà, và họ hàng của chúng), khoai lang, khoai tây, và các rau và quả khác nhau. Sung có thể đã là trong số thực vật đầu tiên được trồng.

Chúng ta cũng biết rằng việc trồng trọt đã không lan ra nhanh và rằng nhiều cộng đồng đã tiếp tục tìm kiếm thức ăn thậm chí khi nông nghiệp được thiết lập tốt ở những nơi gần. Ví dụ, bằng chứng DNA gần đây cho thấy rằng những người săn bắt hái lượm Âu châu bản địa đã không chấp nhận trồng trọt trong hàng ngàn năm và rằng việc trồng trọt cuối cùng đã đến châu Âu bởi vì các nông dân Trung Đông đã chuyển đến đó.

Trong quá trình của những thay đổi xã hội và kinh tế này, nhiều kiểu xã hội khác nhau đã nổi lên. Ví dụ, ở Göbekli Tepe, bây giờ ở miền trung Thổ Nhĩ Kỳ, chúng ta có những hồ sơ khảo cổ về các khu định cư quay lại 11.500 năm trước hiện thời, đã tham gia vào cả nông nghiệp và việc tìm kiếm thức ăn trong hơn một ngàn năm. Các di tích về các đồ tùy táng và đồ nghệ thuật phong phú gợi ý một mức đáng kể của hệ thứ bậc và bất bình đẳng kinh tế trong nền văn minh sớm này.

Tại một địa điểm nổi tiếng khác, Çatalhöyük, ít hơn 450 dặm về phía Tây Göbekli Tepe, chúng ta có một nền văn minh muộn hơn một chút với các đặc điểm rất khác. Çatalhöyük, mà cũng đã kéo dài hơn một ngàn năm, dường như đã có một cấu trúc xã hội khá quân bình, với ít bất bình đẳng trong các đồ tùy táng, không bằng chứng nào về hệ thứ bậc rõ ràng, và những nhà rất giống nhau cho tất cả dân cư (nhất là trên gò phía Đông, nơi các khu định cư đã tồn tại trong một thời gian dài). Nhân dân Çatalhöyük có vẻ đã đạt được một chế độ ăn khỏe mạnh kết hợp các thực vật được trồng, các thực vật dại, và các động vật săn được.

Khoảng 7.000 năm trước hiện tại, một bức tranh rất khác bắt đầu lấy hình thù khắp vùng Lưỡi Liềm Màu mỡ: nông nghiệp vĩnh cửu, thường dựa vào một cây trồng duy nhất, đã trở nên quan trọng nhất. Bất bình đẳng kinh tế tăng lên, và một hệ thứ bậc xã hội rất rõ nổi lên với các elite trên đỉnh tiêu thụ rất nhiều và chẳng sản xuất gì cả. Vào khoảng thời gian này, hồ sơ lịch sử cũng trở nên rõ hơn, vì chữ viết đã xuất hiện. Mặc dù hồ sơ này được giới elite viết và các ghi chép của họ, sự giàu có họ đạt được và quyền lực to lớn mà họ đã chế ngự trên phần còn lại của các xã hội của họ là rõ ràng.

Giới elite Ai Cập, mà quanh họ các kim tự tháp và các ngôi mộ được xây, có vẻ đã có sức khỏe tương đối tốt. Họ chắc chắn đã có các dịch vụ y tế, như có thể nói, và ít nhất một số trong các xác ướp của họ gợi ý cuộc sống dài và khỏe mạnh. Ngược lại, các nông dân đã mắc, giữa các điều kiện khác, bệnh sán máng, một bệnh ký sinh trùng lan qua nước; bệnh lao; và bệnh thoát vị. Elite cai trị đi du lịch thoải mái và không có vẻ phải làm việc mệt nhọc. Bất kể ai không sẵn lòng đóng các loại thuế được yêu cầu để hỗ trợ các phong cách sống như vậy có thể bị đánh bằng gậy gỗ.

Nỗi Đau của Ngũ cốc

Bất chấp tính đa dạng ban đầu, các hạt ngũ cốc cuối cùng ở trên đỉnh ở hầu hết các chỗ nơi nông nghiệp định cư đã bén rễ. Lúa mì, lúa mạch, lúa gạo, và ngô đều là thành viên của họ cỏ—các hạt nhỏ, cứng, khô được biết đối với các nhà thực vật học như các hạt thóc. Các hạt ngũ cốc này, như chúng bình thường được biết, chia sẻ một số đặc trưng hấp dẫn. Chúng có độ ẩm thấp và bền chắc một khi được thu hoạch và như thế dễ để tích trữ. Quan trọng nhất, chúng có mật độ năng lượng cao (calory trên kilogram), khiến chúng hấp dẫn để vận chuyển, mà là cốt yếu nếu chúng được dùng để nuôi dân cư ở xa địa điểm trồng. Các hạt ngũ cốc này cũng có thể được xử lý theo quy mô nếu bạn có sức lao động để gieo, chăm sóc, và thu hoạch chúng. Ngược lại, các củ và những cây họ đậu lại khó hơn để tích trữ, có thể bén rễ dễ dàng, và có lượng calory thấp hơn nhiều trên khối lượng (khoảng một phần năm của lượng các hạt ngũ cốc cung cấp).

Nhìn từ quan điểm đạt sự sản xuất quy mô lớn và thu được năng lượng đáng kể từ nông nghiệp, sự đưa các hạt ngũ cốc vào là một tấm gương về tiến bộ công nghệ. Chính bộ cây trồng này và các phương pháp sản xuất là cái đã cho phép sự nổi lên của các khu định cư đông đúc, các thành phố, và rồi cuối cùng các nhà nước lớn. Nhưng, lại lần nữa, cách công nghệ này được áp dụng đã có các hậu quả rất bất bình đẳng.

Trong vùng Lưỡi Liềm Màu mỡ trước 5.000 năm trước, không có dấu hiệu nào về bất kể thị trấn nào có hơn 8.000 cư dân. Vào lúc đó, Uruk (ở nam Iraq), tuy vậy, đột ngột phá vỡ kỷ lục, với 45.000 cư dân. Trong hai ngàn năm tiếp, độ lớn của các thành phố lớn nhất bò lên: 4.000 năm trước, đã có 60.000 người sống ở cả Ur (Iraq lần nữa) và Memphis (thủ đô của một Ai Cập thống nhất); 3.200 năm trước, chúng ta thấy Thebes (Ai Cập) với khoảng 80.000 cư dân; và 2.500 năm trước, Babylon đạt một dân số 150.000.

Trong tất cả các chỗ này, bằng chứng là rõ, rằng một elite tập trung đã được lợi hết sức từ các công nghệ mới. Hầu hết các thành viên khác của các xã hội này đã không.

Chúng ta không biết các điều kiện sống của các nhà nông sớm với bất kể sự chắc chắn nào. Nhưng dưới sự che chở của các nhà nước được tập trung sớm, hầu hết những người tham gia trồng ngũ cốc toàn thời gian có vẻ đã dứt khoát tồi hơn các tổ tiên tìm kiếm thức ăn của họ. Các ước lượng hiện có cho biết rằng những người tìm kiếm thức ăn đã làm việc khoảng năm giờ trên ngày, đã ăn các thực vật đa dạng và nhiều thịt, và đã có cuộc sống khỏe mạnh, đạt các mức tuổi thọ kỳ vọng khi sinh trải từ hai mươi mốt đến ba mươi bảy tuổi. Các tỷ lệ tử vong trẻ sơ sinh đã cao, nhưng những người đạt tuổi bốn mươi đã có thể kỳ vọng sống thêm mười bốn đến hai mươi sáu năm.

Những người định cư trồng ngũ cốc đã làm việc có lẽ nhiều hơn hai lần, hơn mười giờ một ngày. Công việc cũng trở nên nặng nhọc hơn, nhất là sau khi các hạt ngũ cốc xuất hiện như mùa vụ thu hoạch chính. Có nhiều bằng chứng gợi ý rằng các chế độ ăn của họ đã tồi đi, so với phong cách sống ít định cư hơn. Như một kết quả, các nông dân trung bình đã thấp hơn những người tìm kiếm thức ăn bốn hay năm inch (10 đến 12,7 cm) và đã có sự thiệt hại đáng kể hơn nhiều về bộ xương và nhiều vấn đề răng hơn. Các nông dân cũng đã chịu nhiều bệnh truyền nhiễm hơn và đã chết trẻ lơn các anh chị tìm kiếm thức ăn của họ. Tuổi thọ kỳ vọng khi sinh của họ được ước lượng vào khoảng mười chín năm.

Việc trồng trọt toàn thời gian đã đặc biệt khó khăn với các phụ nữ; các bộ xương của họ cho thấy các dấu hiệu viêm khớp từ tất cả công việc liên quan đến nghiền hạt ngũ cốc. Các tỷ lệ tử vong trong sinh con cũng đã cao hơn đáng kể giữa các nông dân, và các xã hội này rõ ràng bị nam giới thống trị.

Vì sao mọi người đã chấp nhận, hay chí ít ưng thuận với, một công nghệ dính líu đến nhiều công việc gây đau lưng, các cuộc sống không khỏe mạnh, ít sự tiêu thụ đến thế cho bản thân họ, và một hệ thứ bậc quá quắt như vậy? Tất nhiên, không ai sống mười hai ngàn năm trước có thể đoán trước kiểu xã hội sẽ nổi lên từ nông nghiệp định cư. Tuy nhiên, đúng như trong thời kỳ trung cổ, các sự lựa chọn công nghệ và tổ chức trong các nền văn minh ban đầu đã ủng hộ elite và đã bần cùng hóa hầu hết mọi người. Trong trường hợp thời đồ đá mới, các công nghệ mới đã tiến hóa trong một khoảng thời gian dài hơn nhiều—hàng ngàn năm, hơn là hàng trăm năm trong kinh nghiệm trung cổ—và giới elite thống trị thường đã nổi lên chậm chạp. Tuy nhiên, trong cả hai trường hợp một hệ thống chính trị đặt quyền lực không cân đối vào tay giới elite đã rất quan trọng. Sự cưỡng bức đóng một vai trò, tất nhiên, nhưng sức mạnh thuyết phục của tôn giáo và các nhà lãnh đạo chính trị đã thường là nhân tố quyết định.

Tình trạng nô lệ trở nên phổ biến hơn nó đã là trong những ngày sớm nhất của nông nghiệp, và đã có con số đáng kể của các nô lệ trong các nền văn minh trải từ Ai Cập đến Hy Lạp cổ xưa. Đã cũng có nhiều sự cưỡng bức đối với tất cả những người khác, khi cần. Nhưng, như trong Thời Trung Cổ, đấy đã không phải là cách mọi người bị kiểm soát hàng ngày. Sự cưỡng bức thường ở phía sau, trong khi sự thuyết phục đã là sân khấu trung tâm.

Sơ đồ Kim tự tháp

Hãy xét các kim tự tháp, một biểu tượng về sự giàu có của các pharaoh. Việc xây dựng các kim tự tháp không thể được xem như việc đầu tư vào hạ tầng cơ sở công cộng làm tăng phúc lợi vật chất của những người Ai Cập bình thường theo thời gian, mặc dù nó đã tạo ra nhiều việc làm. Để xây dựng Kim tự tháp Lớn Khufu ở Giza khoảng 4.500 năm trước, một lực lượng lao động luân phiên lên đến 25.000 người trên ca mở rộng đã làm việc quần quật trong khoảng 20 năm. Đấy là dự án xây dựng lớn hơn rất nhiều so với bất kể dự án nhà thờ lớn trung cổ nào. Trong hơn 2.000 năm, mỗi nhà cai trị Ai Cập đã khao khát xây kim tự tháp riêng của mình.

Một thời thường được giả thiết rằng các công nhân hẳn đã phải bị các đốc công tàn nhẫn ép buộc. Bây giờ chúng ta biết rằng việc này không phải là cái đã xảy ra. Những người xây dựng các kim tự tháp được trả tiền lương tử tế, nhiều người trong số họ là các thợ thủ công khéo léo, và họ được cho ăn uống tốt—ví dụ, với thịt bò, thịt đắt nhất sẵn có. Họ rất có thể đã được thuyết phục để làm việc siêng năng nhờ một sự kết hợp các phần thưởng hữu hình và sự thuyết phục.

Có các hồ sơ lý thú cho vài công việc, kể cả chi tiết về một toán làm việc Giza, đội hộ tống “Uraeus (Rắn hổ mang ngẩng đầu) của vua Khufu Là Mũi thuyền của Nó,” đã dùng thời gian của họ như thế nào. Trong các tường thuật hàng ngày đã không có sự nhắc đến nào này về sự trừng phạt hay sự cưỡng ép. Đúng hơn, các mảnh còn sót lại trình bày loại lao động khéo léo và sự làm việc chăm chỉ liên kết với việc xây dựng các nhà thờ lớn trung cổ: đá cần được vận chuyển từ một mỏ đá đến sông Nile, rồi bằng thuyền dọc sông, và sau đó kéo đến địa điểm xây dựng. Không có sự nhắc nào đến tình trạng nô lệ, mặc dù một số chuyên gia hiện đại có quan điểm rằng chắc đã có thể có các nghĩa vụ lao động cưỡng bức cho những người lao động bình thường, tương tự như những người lao động đã tồn tại trong thời phong kiến và các công nhân Lesseps đã dùng để xây dựng Kênh Suez trong các năm 1860.

Trong thời kỳ pharaonic, các thợ thủ công Ai Cập lành nghề được cho ăn và trả tiền bởi vì thặng dư thực phẩm đã được vắt ép từ lực lượng lao động nông nghiệp. Công nghệ sản xuất ngũ cốc đã cho phép một khối lượng lớn cây trồng trong Thung lũng sông Nile màu mỡ, mà sau đó có thể được vận chuyển đến các thành phố. Nhưng nó cũng nhờ sự sẵn lòng của các nông dân bình thường để cung cấp một lượng lao động khổng lồ vì phần thưởng ít đến vậy. Và lần này bởi vì họ được thuyết phục bởi uy quyền và danh tiếng của pharaoh cũng như, tất nhiên, bởi năng lực của ngài để nghiền nát đối lập nếu cần.

Không ai biết chính xác cái gì đã thúc đẩy những người cổ xưa; chúng ta không thể nhìn vào bên trong đầu của các nông dân đã sống hai ngàn hay bảy ngàn năm trước, và họ đã không để lại các hồ sơ thành văn về những khát vọng hay cảnh tuyệt vọng của họ. Có vẻ chắc có khả năng rằng tôn giáo được tổ chức đã giúp thuyết phục họ rằng cuộc sống này là thích hợn hay quả thực là số phận không thể tránh khỏi của họ. Các vũ trụ học trồng trọt tập trung là khá rõ, rằng có một hệ thứ bậc, với các thần ở trên đỉnh, các vua và các thầy tu ở giữa, và các nông dân vững chắc ở dưới đáy. Phần thưởng cho việc không than phiền thay đổi ngang các các hệ thống niềm tin, nhưng nói chung nó là hình thức nào đó của sự bồi thường bị hoãn. Các thần đã phân vai này cho bạn, nên hãy im miệng và quay lại làm việc trên đồng ruộng.

Trong hệ thống niềm tin Ai Cập, việc giúp các nhà cai trị được trang bị tốt trong kiếp sau đã là một ý tưởng thúc đẩy chính. Những người bình thường đã có thể không kỳ vọng bất kể sự cải thiện nào; những người hầu sẽ vẫn là những người hầu, và vân vân. Nhưng các thần đã phê duyệt những người cung cấp dịch vụ, xây các kim tự tháp, và giao thực phẩm giúp các nhà cai trị có vinh quang lớn hơn và một lăng mộ to hơn. Những người thực sự không may đi với các ông chủ của họ trực tiếp sang kiếp sau; có bằng chứng trong một số kim tự tháp rằng các cận thần và nhân viên khác có thể đã bị giết theo nghi lễ vào lúc nhà cai trị của họ được mai táng.

Giới elite cai trị Ai Cập đã sống trong các thành phố và bao gồm sự kết hợp nào đó của hệ thứ bậc thầy tu và “các vua thần thánh,” đòi tính chính đáng hay thậm chí dòng dõi trực tiếp từ các vị thần. Hình mẫu này là không độc nhất của Ai Cập. Các đền và các đài kỷ niệm khác xuất hiện trong hầu hết các nền văn minh sớm khác và một cách điển hình vì cùng các lý do như giáo hội trung cổ đã xây dựng các nhà thờ lớn—để chính đáng hóa sự cai trị của giới elite bằng việc tôn vinh vị thần của họ và để duy trì niềm tin của nhân dân.

Một Loại Hiện đại hóa

Bản chất của cây trồng không định trước hay áp đặt sự độc canh ngũ cốc hay sự tổ chức xã hội hết sức thứ bậc bòn rút hầu hết thặng dư từ các nông dân. Đấy đã là các lựa chọn. Các xã hội khác, thường trong các điều kiện sinh thái tương tự, đã chuyên môn hóa theo những kiểu nông nghiệp khác, kể cả những cây thân củ và những cây họ đậu. Tại Çatalhöyük ban đầu, các hạt ngũ cốc dường như đã được kết hợp với một loạt thực vật dại phong phú, và sự tiêu thụ thịt đã đến từ cừu và dê được thuần hóa, cũng như các động vật không được thuần hóa, như bò rừng, cáo, lửng, và thỏ. Tại Ai Cập, trước khi sự độc canh ngũ cốc được thiết lập, lúa mì emmer và lúa mạch được trồng đồng thời với săn bắt chim nước, linh dương, lợn rừng, cá sấu, và voi.

Thậm chí sự trồng ngũ cốc đã không luôn luôn tạo ra bất bình đẳng và hệ thứ bậc, như các nền văn minh Thung lũng Indus và Trung Mỹ bình quân hơn minh họa. Việc trồng lúa gạo ở Đông Nam Á đã xảy ra trong khung cảnh của các xã hội ít thứ bậc hơn trong hàng ngàn năm, và sự bắt đầu của sự bất bình đẳng xã hội và kinh tế lớn hơn dường như trùng với việc đưa các công nghệ nông nghiệp và quân sự mới vào trong Thời đại đồ Đồng. Tổ hợp của sự trồng ngũ cốc quy mô lớn, mức cao của sự bòn rút thặng dư, và sự kiểm soát từ trên xuống đã là kết quả điển hình của các quyết định chính trị và công nghệ do các elite đưa ra, khi họ đủ hùng mạnh và có thể thuyết phục phần còn lại đồng ý với họ.

Trong thời đồ Đá mới và thời của các pharaoh Ai Cập, chúng ta có thể hình thành chỉ những sự phóng đoán thô về các công nghệ mới được chọn và sử dụng thế nào, và loại lý lẽ nào được đưa ra để thuyết phục mọi người chấp nhận chúng và gạt các sự sắp xếp hiện có sang một bên. Trong thế kỉ thứ mười tám, tuy vậy, chúng ta có thể thấy rõ hơn một tầm nhìn mới về hiện đại hóa nông nghiệp đã nổi lên thế nào ở nước Anh. Điều trở nên rõ ràng là làm thế nào những người được lợi đạt được những gì họ muốn bằng việc liên kết các lý lẽ ủng hộ sự lựa chọn công nghệ ưa thích của họ với cái họ cho là lợi ích chung.

Vào giữa-các năm 1700, nông nghiệp Anh đã thay đổi rất nhiều. Chế độ nông nô và hầu hết tàn dư của chủ nghĩa phong kiến đã mất dần. Đã không có chúa tể nào có thể trực tiếp chỉ huy nền kinh tế địa phương và ép buộc những người khác để làm việc trên đồng ruộng của họ hay xử lý ngũ cốc trong các cối xay của họ. Henry VIII đã giải tán các tu viện và đã bán hết đất của chúng trong giữa-các năm 1500. Các elite nông thôn bây giờ đã là tầng lớp quý tộc nhỏ sở hữu đất, với vài trăm mẫu hay hơn và một con mắt ngày càng sắc sảo về làm thế nào để hiện đại hóa nông nghiệp và tăng thặng dư mà họ chiếm được.

Quá trình biến đổi nông nghiệp đã diễn ra trong hàng thế kỷ, và sự dùng nhiều phân bón hơn và các công nghệ thu hoạch được cải thiện đã làm tăng năng suất, đẩy sản lượng trên hectare lên giữa 5 và 45 phần trăm, tùy thuộc vào cây trồng, trong năm trăm năm trước. Sự thay đổi kinh tế và xã hội chắc có khả năng tăng tốc từ giữa thế kỉ thứ mười sáu trở đi. Khi ảnh hưởng của các địa chủ và các tu viện yếu đi, những sự tăng thêm năng suất cũng đã bắt đầu lan sang các nông dân. Từ khoảng 1600, chúng ta thấy lương thực tế bò lên đều đặn hơn, mang lại dinh dưỡng được cải thiện và sức khỏe tốt hơn một chút cho giai cấp nông dân.

Khi dân số tăng lên, cầu cho các sản phẩm nông nghiệp cũng thế. Sản lượng nông nghiệp cao hơn trở thành một đề tài của các tranh luận chính sách quốc gia. Chắc chắn, đã có các phần của nền kinh tế nông thôn Anh cần được hiện đại hóa. Phần lớn đất đai bây giờ đã là tài sản tư nhân, được vận hành bởi giới quý tộc nhỏ, các tá điền của họ, hay các tiểu chủ. Nhưng trong một số phần của đất nước một lượng đất đáng kể đã là “đất chung,” mà trên đó các thành viên của cộng đồng địa phương có các quyền không chính thức theo phong tục để chăn thả gia súc, lượm củi, và săn bắn. Cũng đã có đồng ruộng không bị rào, mở, được canh tác. Khi đất trở nên quý giá, một số gia tăng của các địa chủ đã muốn “rào” các mảnh đất này, mà có nghĩa là loại bỏ các quyền theo phong tục của các nông dân để dùng chúng. Các hàng rào liên quan đến biến đất chung được chia sẻ một cách không chính thức thành tài sản tư nhân chính thức, được luật bảo vệ, thông thường như một sự mở rộng của các điền trang hiện có.

Các hàng rào thuộc các loại khác nhau đã diễn ra kể từ thế kỷ thứ mười lăm theo cách ad hoc (ngẫu hứng). Trong nhiều phần của đất nước, các địa chủ đã có thể đạt điều này bằng việc thuyết phục cư dân địa phương để bằng lòng với các hàng rào, đổi lại một sự đền bù tiền tệ hay khác. Tuy nhiên trong con mắt của elite Anh cuối thế kỷ thứ mười tám, đã có nhiều nhu cầu cho sự hiện đại hóa thêm, nhất là bằng việc mở rộng sự chiếm hữu đất của họ. Khoảng một phần ba toàn bộ đất nông nghiệp đã vẫn là đất chung và có thể có khả năng bị biến thành tài sản tư của họ.

Mặc dù thuật hùng biện được diễn đạt về mặt tăng năng suất và là tốt cho đất nước, sự hiện đại hóa được đề xuất còn xa mới trung lập. Nó đã có ý định lấy đất từ các nông dân và mở rộng nông nghiệp thương mại. Tầm nhìn của thời đại xem các quyền theo phong tục của các nông dân không có đất như một tàn dư của quá khứ cần được hiện đại hóa. Nếu các nông dân không muốn từ bỏ các quyền theo phong tục này, thì phải ép họ làm vậy.

Trong năm 1773 Quốc hội thông qua Đạo luật hàng Rào (Enclosure Act), làm dễ hơn cho các địa chủ lớn để làm đến cùng sự tổ chức lại đất đai họ muốn. Các nghị sĩ ban hành luật mới này bởi vì họ đã tin, hay đã muốn tin, rằng các hàng rào sẽ vì lợi ích quốc gia.

Arthur Young, một nông dân và nhà văn có ảnh hưởng, đã có một tiếng nói phân biệt trong các lý lẽ này. Trong tác phẩm ban đầu của ông, Young đã nhấn mạnh tầm quan trọng của những kỹ thuật nông nghiệp mới, kể cả phân bón, luân canh khoa học hơn, và những chiếc cày tốt hơn cho mùa vụ. Sự chiếm hữu đất được củng cố sẽ làm cho các công nghệ này hiệu quả hơn và dễ thực hiện hơn.

Nhưng sự phản kháng của giai cấp nông dân với các hàng rào thì sao? Để hiểu quan điểm của Arthur Young về điều này, đầu tiên chúng ta phải nhận ra bối cảnh trong đó ông đã ở và tầm nhìn rộng hơn hướng dẫn công nghệ và sự tái tổ chức nông nghiệp. Nước Anh đã vẫn là một xã hội có thứ bậc. Nền dân chủ của nó đã là của giới elite và vì giới elite, với ít hơn 10 phần trăm đàn ông trưởng thành có quyền bỏ phiếu. Tồi hơn, elite này đã không nghĩ nhiều về các đồng bào có ít đặc quyền hơn của họ.

Các tác phẩm của Malthus mang tính biểu thị về tâm trạng thời đó và thế giới quan của những người khấm khá. Malthus nghĩ rằng là nhân văn hơn để trước tiên không cho các tiêu chuẩn sống của những người nghèo tăng quá nhiều, để rốt cuộc họ không quay lại cảnh bần cùng khi họ có nhiều con hơn. Ông cũng cho rằng “một người ra đời đã sở hữu rồi, nếu anh ta không có được sinh kế từ bố mẹ mình mà anh ta có một đòi hỏi chính đáng, và nếu xã hội không muốn lao động của anh ta, không có quyền đòi phần thực phẩm nhỏ nhất nào, và, thực ra, chẳng có việc gì ở đó nơi anh ta ở. Tại đám cỗ to lớn của tự nhiên không có bộ đồ ăn bỏ trống cho anh ta” (chữ nghiêng trong bản gốc).

Young, giống nhiều người đương thời của ông giữa các tầng lớp thượng lưu và trung lưu, đã bắt đầu với các quan niệm tương tự. Trong 1771, gần ba thập niên trước khi lý lẽ của Malthus được xuất bản, Young viết: “Nếu bạn nói về các lợi ích của sự buôn bán và các hàng hóa chế tác, tất cả mọi người trừ một thằng ngu biết rằng các giai cấp thấp hơn phải được giữ để nghèo, hay họ sẽ chẳng bao giờ siêng năng cả.”

Việc kết hợp quan điểm hoài nghi này về các giai cấp thấp hơn và niềm tin của ông vào sự cấp bách để áp dụng các công nghệ tốt hơn trong nông nghiệp, Young đã trở thành một tiếng nói thẳng thắn cho các hàng rào thêm nữa. Ông được bổ nhiệm như một cố vấn then chốt cho Hội đồng Nông nghiệp, trong vị trí đó ông đã soạn các báo cáo có thẩm quyền về tình trạng nông nghiệp Anh và các cơ hội cho sự cải thiện.

Young như thế đã trở thành người phát ngôn cho giới quyền thế nông nghiệp, được các bộ trưởng lắng nghe một cách nhất quán và được trích dẫn trong các tranh luận nghị viện. Với tư cách một chuyên gia, ông viết mạnh mẽ để ủng hộ các hàng rào trong 1767: “Lợi ích phổ quát phát sinh từ các hàng rào, tôi coi như được chứng minh đầy đủ; quả thực rất rõ ràng, để thừa nhận không còn bất kể nghi ngờ gì nữa, giữa những người khôn ngoan và không thiên vị: những người bây giờ lập luận chống lại nó chỉ là những kẻ lý sự cùn đê tiện.” Được xem qua lăng kính này, đã là có thể chấp nhận được để tước những người nghèo và những người không có giáo dục khỏi các quyền theo phong tục và đất chung của họ bởi vì những sự dàn xếp mới sẽ cho phép sự triển khai công nghệ hiện đại, vì thế cải thiện tính hiệu quả và sản xuất nhiều thực phẩm hơn.

Một số gia tăng của các địa chủ lớn rất muốn có sự ủng hộ công chúng và sự chấp thuận quốc hội cho những gì họ muốn làm, và Young đã trở thành một đồng minh hữu ích. Ở đây có một đánh giá cẩn trọng về cái gì cần được làm vì lợi ích quốc gia, và nếu quan điểm này nói rằng việc gạt các quyền truyền thống và việc ép buộc những người chống đối đã là cần thiết cho sự tiến bộ, đấy đã là một cái giá xã hội Anh phải trả.

Vào đầu các năm 1800, tuy vậy, sự thiệt hại phụ thêm của các hàng rào trở nên rõ ràng, ít nhất đối với những người muốn thấy nó. Việc hàng ngàn người bị đẩy mạnh vào sự nghèo đói sâu hơn đã là ổn với Malthus. Có lẽ đáng ngạc nhiên, phản ứng của Young với những diễn tiến này đã hoàn toàn khác.

Mặc dù bị ngấm vào các định kiến của thời ông, Young đã là một nhà thực nghiệm thực tâm. Khi ông tiếp tục du hành và quan sát trực tiếp những gì đang xảy ra khi các hàng rào có hiệu lực, các phát hiện thực nghiệm của ông ngày càng mâu thuẫn với quan điểm của ông.

Còn đáng chú ý hơn, tại điểm này Young đã thay đổi lập trường của ông về các hàng rào. Ông tiếp tục tin rằng sự hợp nhất ruộng mở và đất chung sẽ dẫn đến những sự tăng thêm hiệu quả. Nhưng ông nhận ra rằng nhiều thứ hơn bị đe dọa. Cách, mà theo đó tài sản chung bị xóa bỏ, đã có một tác động lớn đến ai thắng và ai thua từ sự thay đổi công nghệ nông nghiệp. Vào 1800, Young đã đảo ngược hoàn toàn các khuyến nghị của ông: “Có nghĩa gì đối với những người nghèo được bảo rằng các viện Quốc hội giữ tài sản cực kỳ cẩn thận, trong khi người cha của gia đình bị buộc phải bán bò và đất của ông?”

Ông cho rằng đã có những con đường khác nhau để tổ chức lại nông nghiệp; đất đã có thể được hợp nhất mà không chà đạp lên các quyền của những người bình thường và việc lấy đi các phương tiện sinh nhai khỏi họ. Đã không cần tước đoạt cư dân nông thôn. Từ đây, ông đi tiếp và trình bày rõ tình thế cung cấp các phương tiện sinh nhai cho những người nghèo nông thôn, như một con bò hay những con dê, đã không phải là một trở ngại đối với sự tiến bộ. Chúng có thể hỗ trợ tốt hơn cho gia đình họ và có lẽ có sự cam kết lớn hơn đối với cộng đồng và thậm chí sự đồng cảm nhiều hơn cho nguyên trạng.

Young có thể thậm chí đã hiểu một sự thật kinh tế tinh tế hơn: một khi bị tước đoạt, các nông dân nghèo sẽ trở thành một nguồn đáng tin cậy hơn của lao động rẻ cho các địa chủ—có lẽ một trong những lý do vì sao nhiều địa chủ đến vậy đã hăng hái tước đoạt họ. Ngược lại, việc bảo vệ các tài sản cơ bản của họ có thể là một cách để bảo đảm tiền lương cao hơn trong nền kinh tế nông thôn.

Khi bênh vực cho các hàng rào, Young đã là một chuyên gia rất được coi trọng, được giới quyền thế Anh ca ngợi. Một khi ông thay đổi ý kiến của mình, tất cả đã thay đổi, và ông đã không còn được hoan nghênh để công bố bất cứ thứ gì ông muốn nhân danh Hội đồng Nông nghiệp nữa. Ông chủ quý tộc của ông ở hội đồng đã làm rõ rằng bất cứ quan điểm chống-hàng rào nào không được hoan nghênh trong các giới chính thức.

Lịch sử của phong trào hàng rào là một sự minh họa chi tiết về cách sự thuyết phục và tư lợi kinh tế định hình ai được lợi từ sự thay đổi công nghệ và ai không được. Tầm nhìn của các giai cấp thượng lưu Anh về cái gì tạo thành sự tiến bộ và làm thế nào để đạt nó đã là quan trọng cho sự tổ chức lại nông nghiệp. Tầm nhìn này, như thường thế, đã chồng gối khá nhiều với tư-lợi của họ—việc lấy đất từ những người nghèo với không hay ít sự đền bù đã rõ ràng có lợi cho những người lấy đất.

Một tầm nhìn trình bày rõ lợi ích chung là mạnh mẽ ngay cả khi—nhất là khi—có những kẻ thua cũng như những người thắng từ các công nghệ mới bởi vì nó cho phép những người tổ chức lại và đi theo công nghệ để thuyết phục phần còn lại.

Thường có nhiều cử tri để được thuyết phục. Đã là khó để thuyết phục các nông dân nghèo mà các quyền theo phong tục của họ bị tước đi. Khả thi hơn và thiết yếu hơn đã là sự thuyết phục công chúng đô thị và những người có quyền lực chính trị, như các nghị sĩ. Đánh giá khoa học của Young về sự cần thiết để triển khai nhanh các hàng rào đã đóng một vai trò quan trọng trong quá trình này. Có thể dự đoán được, các địa chủ đã biết những kết luận nào họ muốn nghe, và họ đã ủng hộ Young khi ông nêu các ý kiến này và đã bịt miệng ông khi ông thay đổi ý kiến của mình.

Sự lựa chọn công nghệ cũng đã cốt yếu. Ngay cả khi được trình bày bằng ngôn ngữ của sự tiến bộ và lợi ích quốc gia, đã có nhiều lựa chọn phức tạp về sự thực hiện các công nghệ mới, và các quyết định này xác định giới elite quan tâm bao nhiêu và các nông dân chịu đau khổ bao nhiêu. Việc tước đoạt hoàn toàn các quyền theo phong tục của các nông dân nghèo đã là một sự lựa chọn. Bây giờ chúng ta biết rằng nó đã không phải là lựa chọn được áp đặt bởi con đường tiến bộ không thể tránh khỏi. Đất chung và đồng ruộng mở lẽ ra đã có thể tồn tại dài hơn trong khi nông nghiệp Anh được hiện đại hóa. Thực ra, bằng chứng sẵn có gợi ý rằng các hình thức này của quyền chiếm dụng đất đã không mâu thuẫn với các công nghệ mới và sự tăng hoa lợi.

Trong thế kỷ thứ mười bảy, các nông dân đồng ruộng mở đã ở hàng đầu của những người chấp nhận đậu Hà Lan và các loại đậu, và trong thế kỉ thứ mười tám họ đã theo kịp cỏ ba lá và cây củ cải. Đã có nhiều mương máng hơn được lắp đặt trên đất được rào, nhưng ngay cả trong các vùng nơi việc đó tạo ra sự khác biệt, sản lượng trên hectare đã chỉ cao hơn khoảng 5 phần trăm trong 1800. Trên đất có thể trồng trọt với đất nhẹ hơn, mà thoát nước tốt một cách tự nhiên, và trên đất cho đồng cỏ, sản lượng cho các nông dân đồng ruộng mở đã bên trong 10 phần trăm của sản lượng mà các nông dân có hàng rào đạt được. Sản lượng trên người lao động cũng đã chỉ cao hơn một chút cho các nông dân làm việc trong đất được rào.

Sự tổ chức lại nông nghiệp đã định giọng cho vài thập niên tiếp của sự phát triển kinh tế Anh và đã xác định ai được lợi từ nó. Những người với tài sản đã làm ăn khấm khá, kể cả qua hành động quốc hội ở nơi cần thiết. Những người không có tài sản đã không.

Hiện đại hóa công nghệ trong nông nghiệp đã trở thành một lý do bào chữa cho việc tước đoạt những người nghèo nông thôn. Sự tước đoạt này có giúp những sự cải thiện năng suất mà đã rất cần ở nước Anh cuối thế kỉ thứ mười tám? Không có sự đồng thuận nào về câu hỏi này, với các ước lượng trải từ không sự tăng năng suất nào cho đến những sự tăng đáng kể về sản lượng. Nhưng không có nghi ngờ gì rằng sự bất bình đẳng đã tăng lên và rằng những người, mà đất của họ bị rào, đã chịu mất mát.

Chẳng cái nào trong số này đã là không thể tránh khỏi cả. Sự xâm phạm các quyền theo phong tục và sự tăng cường của sự nghèo đói nông thôn đã là các sự lựa chọn được đưa ra và bị áp đặt lên mọi người nhân danh tiến bộ công nghệ và lợi ích quốc gia. Và đánh giá của Young đứng vững: những sự tăng thêm năng suất đã có thể đạt được mà không đẩy các nông dân không có đất vào sự khốn khổ thêm.

Máy Tỉa Hột bông Man rợ

Cái lịch sử về các hàng rào làm cho rất rõ là sự tổ chức lại công nghệ sản xuất, ngay cả khi được tuyên bố vì lợi ích của sự tiến bộ và lợi ích chung, có một cách để đẩy những người bị tước quyền rồi xuống thêm nữa. Một cặp tình tiết lịch sử, từ hai hệ thống kinh tế và lục địa rất khác nhau, là biểu tượng về các hệ lụy man rợ của nó. Tại Mỹ thế kỉ thứ mười chín, chúng ta có thể thấy các hệ lụy của công nghệ biến đổi của máy tỉa hột bông.

Trong lịch sử kinh tế Mỹ, Eli Whitney xuất hiện sát cạnh Thomas Edison như một trong các doanh nhân công nghệ sáng tạo nhất cho phép sự tiến bộ biến đổi. Whitney đã sáng chế ra một máy tỉa hột bông cải tiến trong 1793 mà đã nhanh chóng loại bỏ hạt khỏi bông vùng cao (upland cotton). Theo đánh giá riêng của Whitney, “Một người và một con ngựa làm nhiều hơn năm mươi người với các máy cũ.”

Công nghiệp bông Mỹ ban đầu đã dựa vào một loài bông sợi dài mà đã không mọc tốt khi được trồng trong các vùng xa Duyên hải miền Đông. Một loại thay thế, bông vùng cao, phát triển tốt trong các môi trường khác. Nhưng các hạt màu xanh dính của nó gắn chặt hơn với sợi và đã không dễ để loại bỏ bằng các máy tỉa hột bông hiện có. Máy tỉa hột bông của Whitney đã là một sự đột phá trong việc tách hột, và nó đã mở rộng hết sức vùng nơi bông vùng cao có thể được trồng. Trồng nhiều bông hơn đã có nghĩa là cầu tăng lên cho lao động nô lệ ở “miền Nam thấp hơn,” đầu tiên ngang nội địa của các bang South Carolina và Georgia, và cuối cùng vào Alabama, Louisiana, Mississippi, Arkansas, và Texas. Bông đã trở thành vua trong các vùng định cư thưa thớt này, nơi những người Âu châu và người Mỹ Bản địa trước đó đã trồng cây trồng tự tiêu (thụ).

Sự sản xuất bông ở miền Nam đã làm tăng từ 1,5 triệu pound ( 1 pound = 0,454 kg) trong 1790 lên 36,5 triệu pound trong 1800 và 167,5 triệu pound trong 1820. Vào giữa-thế kỷ, miền Nam đã cung cấp ba-phần-năm xuất khẩu của nước Mỹ, hầu như tất cả là bông. Khoảng ba-phần-tư bông của thế giới được trồng ở miền Nam nước Mỹ lúc đó.

Với một sự thay đổi biến đổi làm tăng năng suất rất ngoạn mục như vậy, người ta có lẽ được biện minh để nói về lợi ích quốc gia và lợi ích chung? Có lẽ lần này các công nhân trang trại cũng được lợi? Có lẽ đoàn tàu năng suất có kết quả? Lại lần nữa, chẳng chút nào.

Mặc dù các địa chủ ở miền Nam và nhiều người miền nam khác tham gia trong chuỗi cung chế biến, sản xuất, và buôn bán bông đã được lợi hậu hĩ, các công nhân thực sự sản xuất đã bị đẩy sâu hơn vào sự bóc lột. Thậm chí tồi tệ hơn thời trung cổ, cầu lớn hơn cho lao động, dưới các điều kiện cưỡng bức, đã chuyển không thành tiền lương cao hơn mà thành sự đối xử thô bạo hơn để vắt kiệt chút nỗ lực cuối cùng từ các nô lệ.

Các chủ đồn điền miền Nam đã theo đuổi các đổi mới khác nhau để tăng sản lượng, kể cả việc dùng các loại bông mới. Nhưng khi các quyền con người là yếu hay không tồn tại như ở châu Âu trung cổ hay trên các đồn điền miền nam, việc cải thiện công nghệ có thể dễ dàng dẫn đến sự bóc lột lao động mạnh hơn.

Trong 1780, ngay sau khi độc lập, đã có khoảng 558.000 nô lệ ở Hoa Kỳ. Buôn bán nô lệ đã trở thành bất hợp pháp bắt đầu vào 1 tháng Giêng 1808, khi có khoảng 908.000 người bị nô lệ hóa trong nước. Việc nhập khẩu các nô lệ từ bên ngoài Hoa Kỳ đã co lại gần zero, nhưng số những người bị nô lệ hóa đã tăng lên 1,5 triệu trong 1820 và 3,2 triệu trong 1850. Trong năm 1850, 1,8 triệu nô lệ đã làm việc trong sản xuất bông.

Giữa 1790 và 1820, 250.000 nô lệ đã bị buộc chuyển đến vùng Cực Nam (Deep South). Toàn thể, khoảng một triệu nô lệ được chuyển đến các đồn điền được công nghệ tỉa hột bông làm cho hữu ích. Cư dân bị bắt làm nô lệ của Georgia đã tăng gấp đôi trong các năm 1790. Trong bốn hạt “xa biển” của South Carolina, như một tỷ lệ phần trăm dân số các nô lệ đã tăng từ 18,4 phần trăm trong 1790 lên 39,5 phần trăm trong 1820 và 61,1 phần trăm trong 1860.

Thẩm phán Johnson của thành phố Savannah, Georgia, đã ca ngợi đóng góp của Whitney theo cách này: “Các cá nhân bị thất vọng với sự nghèo đói và chìm trong tình trạng không công ngồi rồi, đã đột nhiên trở nên giàu có và đáng kính. Các khoản nợ của chúng ta được trả hết, vốn của chúng ta đã tăng lên, và đất đai của chúng ta đã tăng gấp ba về giá trị.” Với “chúng ta,” tất nhiên thẩm phán nhắc đến chỉ những người da Trắng.

Cuộc sống của những người bị bắt làm nô lệ trong việc trồng thuốc lá, cây chi phối do nô lệ trồng của thế kỉ thứ mười tám ở Virginia, rõ ràng đã không tốt. Tuy nhiên, cuộc du hành tới vùng Cực Nam đã thường tàn bạo, và hoàn cảnh của họ đã trở nên tồi tệ hơn nhiều trên những cánh đồng bông. So với thuốc lá, các đồn điền bông đã lớn hơn, với công việc “khắc nghiệt và tàn nhẫn.” Một nô lệ đã nhớ lại bị thúc mạnh hơn khi giá bông tăng lên: “Khi giá tăng trên thị trường Anh, dù là chỉ một phần tám xu một pound, các nô lệ nghèo ngay lập tức cảm thấy các tác động, vì họ bị thúc mạnh hơn, và roi được quất liên hồi hơn.”

Như ở nước Anh trung cổ, bối cảnh thể chế là then chốt về tiến bộ đã xảy ra thế nào và ai được lợi từ nó. Tại miền Nam Hoa Kỳ nó đã luôn luôn bị sự cưỡng bức định hình. Bạo lực và sự ngược đãi những người Mỹ da Đen đã tăng cường sau khi máy tỉa hột bông mở ra một vùng rộng khắp miền Nam cho sự trồng trọt. Một hệ thống nô lệ vốn hà khắc rồi sắp trở nên tồi tệ hơn nhiều.

Năng suất được cải thiện dứt khoát nhất đã không có nghĩa là tiền lương cao hơn hay sự đối xử tốt hơn với các công nhân da Đen. Các sổ sách kế toán được phát triển để ghi chính xác bao nhiêu đã được bòn rút từ các nô lệ và để giúp lập kế hoạch vắt nhiều sản lượng hơn từ họ. Các sự trừng phạt hà khắc, các hình thức tra trấn trong nhiều trường hợp, đã là thường lệ, cùng với bạo lực trong tất cả các hình thức của nó, kể cả tấn công tình dục và hãm hiếp.

Như chúng ta đã lập luận trong Chương 3, tình trạng nô lệ ở miền Nam đã được phép phần lớn bởi vì những người da Trắng ở miền Bắc được thuyết phục để tiếp tục. Đấy là nơi tầm nhìn về sự tiến bộ ở nước Mỹ cuối thế kỉ thứ mười tám đã là mấu chốt. Từ lâu đã có các ý tưởng kỳ thị chủng tộc, dựa vào quan niệm rằng có một hệ thứ bậc tự nhiên với những người da Trắng ở trên đỉnh. Nhưng bây giờ những ý tưởng mới được thêm vào hỗn hợp để làm cho hệ thống đồn điền có thể chấp nhận được cho cả nước.

Học thuyết về “lợi ích tích cực (positive good)” được làm cho nổi tiếng bởi James Henry Hammond, một nghị sĩ mà trở thành thống đốc bang South Carolina, và được phát triển thêm bởi John C. Calhoun, thượng nghị sĩ và phó tổng thống Hoa Kỳ từ 1825 đến 1832. Lập trường của họ đã là một sự đáp lại trực tiếp với những người cho rằng tình trạng nô lệ là vô đạo đức. Ngược lại, theo Hammond trong bài phát biểu 1836 của ông trong phòng họp của Hạ Viện,

Nhưng [tình trạng nô lệ] không có gì xấu cả. Ngược lại, tôi tin nó là phước lành lớn nhất trong số tất cả các phước lành lớn mà một loại mệnh Trời đã ban cho vùng vinh quang của chúng ta. Vì không có nó, thì đất màu mỡ của chúng ta và khí hậu đơm hoa kết trái của chúng ta được trao cho chúng ta là vô ích. Trong hoàn cảnh hiện có, lịch sử về thời kỳ ngắn trong đó chúng ta đã hưởng thụ nó, đã làm cho miền Nam của chúng ta nổi tiếng vì sự giàu có của nó, thiên tài của nó, cách cư xử của nó.

Ông tiếp tục, làm cho mối đe dọa bạo lực trở nên rõ rệt nếu Hoa Kỳ tiến đến giải phóng nô lệ:

Thời khắc Viện này đảm nhận lập pháp về chủ đề này, nó giải tán Liên bang. Có phải tôi có may mắn có một ghế trong phòng họp này, tôi sẽ từ bỏ nó ngay khi bước quyết định đầu tiên được đưa ra, xem xét luật pháp về chủ đề này. Tôi sẽ về quê để rao giảng, và nếu tôi có thể, tiến hành rút khỏi liên bang, và nội chiến, nếu cần. Một cuộc cách mạng phải xảy ra sau đó, và nền Cộng hòa này chìm trong máu.

Và sau đó đến lời xác nhận rằng các nô lệ đã hạnh phúc:

Như một giai cấp, tôi mạnh dạn nói, không có một chủng tộc nào hạnh phúc hơn, hài lòng hơn trên bề mặt trái Đất. Tôi đã sinh ra và lớn lên giữa họ, và theo như sự hiểu biết và kinh nghiệm của tôi, tôi phải nói rằng họ có mọi lý do để hạnh phúc. Được giao nhiệm vụ nhẹ nhàng, được mặc tốt, ăn no—tốt hơn những người lao động tự do của bất kỳ nước nào trên thế giới rất nhiều, [các nô lệ] của riêng chúng tôi và có lẽ [các nô lệ] của các Bang khác của một mình hợp bang này đã kỳ vọng—cuộc sống và cá nhân của họ được luật bảo vệ, tất cả sự đau khổ của họ được giảm nhẹ bởi sự chăm sóc tử tế nhất và được quan tâm nhất, và tình cảm gia đình của họ được yêu mến và duy trì—ít nhất theo như tôi biết, với sự nhã nhặn chu đáo.

Bài phát biểu của Hammond đã trở thành một điệp khúc chuẩn, với các yếu tố được lặp lại nhiều lần trong các thập niên: tình trạng nô lệ đã là một vấn đề miền nam, trong đó những người khác không nên can thiệp vào; nó đã là thiết yếu cho sự thịnh vượng của những người da Trắng, đặc biệt trong ngành bông; và những người bị bắt làm nô lệ đã hạnh phúc. Và nếu miền Bắc khăng khăng thúc ép, miền Nam sẽ chiến đấu để bảo vệ hệ thống.

Một vụ Thu hoạch Công nghệ Đau Buồn

Thoạt nhìn, nước Mỹ thế kỉ thứ mười chín có thể dường như có ít cái chung với nước Nga Bolshevik. Nhìn sâu hơn, thì có những sự giống nhau kỳ lạ.

Khu vực bông ở Hoa Kỳ phồn thịnh nhờ hiểu biết mới, như các máy tỉa hột bông được cải tiến và các đổi mới khác, với sự thiệt hại của các nô lệ da Đen làm việc trên các đồn điền lớn. Nền kinh tế Soviet đã tăng trưởng nhanh bắt đầu trong các năm 1920, với sự dùng nhiều hơn của máy móc, kể cả các máy kéo và các máy gặt liên hợp, được áp dụng trên những cánh đồng ngũ cốc. Tuy vậy, sự tăng trưởng đã đến với cái giá của hàng triệu nông dân quy mô nhỏ.

Trong trường hợp soviet, sự ép buộc được biện minh như một phương tiện để đạt cái ban lãnh đạo coi như một kiểu xã hội lý tưởng. Lenin đã trình bày rõ quan niệm này trong 1920 khi ông nói, “Chủ nghĩa cộng sản là chính quyền Soviet cộng điện khí hóa toàn quốc.”

Các nhà lãnh đạo cộng sản đã sớm thấy rõ rằng có rất nhiều thứ để học từ các hoạt động nhà máy quy mô lớn, kể cả “sự quản lý khoa học” của Frederick Taylor, các phương pháp và sự sản xuất dây chuyền của các nhà máy ô tô của Henry Ford. Trong đầu các năm 1930, khoảng mười ngàn người Mỹ với các kỹ năng cụ thể, kể cả các kỹ sư, các giáo viên, các công nhân kim khí, các thợ mộc, và các thợ mỏ, đã sang Liên Xô để giúp lặp đặt và áp dụng công nghệ công nghiệp.

Mặc dù việc xây dựng công nghiệp đã là mục tiêu đầu tiên, kinh nghiệm trong thời gian Chính sách Kinh tế Mới của các năm 1920 cho biết rằng việc đưa nhiều người hơn để làm việc trong các nhà máy cần được sự cung cấp ngũ cốc đủ cao và ổn định hỗ trợ. Ngũ cốc này là cần thiết không chỉ để nuôi cư dân đô thị tăng lên mà cũng như một nguồn thu nhập xuất khẩu then chốt, cần để tài trợ nhập khẩu máy móc công nghiệp và nông nghiệp nước ngoài.

Trong đầu các năm 1920, Leon Trotsky cho rằng sự tập thể hóa ép buộc của nông nghiệp là con đường tiến lên cho Liên Xô. Nikolai Bukharin và Joseph Stalin đã phản đối Trotsky, cho rằng công nghiệp hóa sẽ là có thể trong khi duy trì các nông dân quy mô nhỏ. Tiếp sau cái chết của Lenin, ngôi sao của Trotsky đã tàn; đầu tiên ông bị lưu đày trong nước và sau đó bị trục xuất khỏi Liên Xô trong 1929.

Tại điểm này, Stalin đã thay đổi ý kiến hoàn toàn, đẩy Bukharin sang một bên và cam kết hoàn toàn cho tập thể hóa. Các nông dân quy mô nhỏ, các kulak (địa chủ), trở nên phát đạt và nên được xem như một lực lượng chống cộng lớn. Stalin cũng đã hết sức nghi ngờ những người Ukrainia, một số người trong số họ đã đứng về phía những người chống cộng nổi loạn trong Nội Chiến.

Stalin tin rằng tập thể hóa phải được kết hợp với cơ giới hóa, và ông đã xem Hoa Kỳ như một tấm gương sáng. Nông nghiệp trong miền Trung Tây Hoa Kỳ, mà có đất và các điều kiện khí hậu giống với các phần của Liên Xô, đã ở giữa sự cơ giới hóa nhanh, với những sự tăng thêm ngoạn mục về năng suất. Stalin đã cần xuất khẩu ngũ cốc để mua các máy kéo, các máy gặt, và thiết bị khác từ phương Tây, nên kinh nghiệm Hoa Kỳ về cơ giới hóa đã là một tấm gương truyền cảm hứng.

Vào đầu các năm 1930, tập thể hóa và sự hợp nhất các sự chiếm hữu đất nhỏ thành các cánh động rộng hơn được tiến hành hết tốc độ, và nông nghiệp Soviet đã được cơ giới hóa hơn rất nhiều. Trong các năm 1920, ngũ cốc đã cần 20,8 ngày lao động trên hectare. Con số này đã sụt xuống 10,6 ngày trong 1937, chủ yếu bởi vì việc dùng các máy kéo và các máy gặt đập liên hợp.

Nhưng quá trình tập thể hóa đã gây ra sự gián đoạn to lớn, dẫn đến nạn đói và sự hủy diệt đàn gia súc. Sản lượng sẵn có cho sự tiêu thụ (tổng sản phẩm trừ những gì cần cho hạt giống và nuôi các động vật) đã sụt 21 phần trăm giữa 1928 và 1932. Đã có sự hồi phục nào đó, nhưng tổng sản lượng nông nghiệp đã tăng chỉ 10 phần trăm giữa 1928 và 1940—và phần lớn của sự tăng đó là kết quả của sự tưới tiêu trong các phần do Soviet-kiểm soát của Trung Á mà đã tăng sản xuất bông.

Theo một ước lượng cẩn trọng gần đây, tổng sản lượng trang trại vào cuối các năm 1930 lẽ ra đã cao hơn 29‒46 phần trăm nếu không có tập thể hóa, phần lớn bởi vì sự sản xuất gia súc lẽ ra đã cao hơn. Nhưng “doanh thu” ngũ cốc, được gọi một cách hoa mĩ như các khoản chuyển giao bị ép buộc cho nhà nước, đã cao hơn 89 phần trăm trong 1939 so với 1928. Các nông dân đã bị vắt và bị vắt kiệt hơn.

Tổn thất nhân mạng thật sửng sốt. Với một dân số bắt đầu khoảng 150 triệu, đã có giữa 4 triệu và 9 triệu “cái chết dôi ra” do tập thể hóa và việc bắt buộc giao thực phẩm gây ra. Năm tồi tệ nhất đã là năm 1933, nhưng các năm trước cũng cho thấy tỷ lệ tử vong tăng cao. Tiêu chuẩn sống có thể được cải thiện trong các vùng đô thị, và các công nhân xây dựng và nhà máy ngày càng được nuôi dưỡng tốt. Hệt như ở nước Anh trung cổ và miền Nam Hoa Kỳ, đã không có dấu hiệu nào về những sự tăng thêm năng suất nâng thu nhập thực tế hay cải thiện đời sống của những người lao động nông nghiệp cả.

Tất nhiên, tầm nhìn của Stalin đã không phải là tầm nhìn của một trưởng tu viện trung cổ hay chủ đồn điền miền nam nước Mỹ. Thay vì tôn giáo hay các lợi ích của elite giàu có, sự tiến bộ công nghệ ở Liên Xô đã vì lợi ích cuối cùng của giai cấp vô sản, và Đảng cộng sản biết kỹ nhất lợi ích cuối cùng đó là gì.

Quả thực, tiến bộ công nghệ bây giờ tuân lệnh của ban lãnh đạo soviet, mà sự bám chặt vào quyền lực của nó là khó để duy trì mà không có sự tăng lên nào đó về sản lượng kinh tế. Tuy nhiên, dù giới elite là các chúa phong kiến ở châu Âu trung cổ, các chủ đồn điền ở Hoa Kỳ, hay các lãnh đạo Đảng cộng sản ở nước Nga, công nghệ đã thiên vị về mặt xã hội, và sự áp dụng nó nhân danh sự tiến bộ đã để lại sự tàn phá trên đường đi của nó.

Chẳng việc nào trong số này đã có thể đạt được mà không có sự tăng cường ép buộc. Hàng triệu nông dân chịu sự bóc lột tàn nhẫn bởi vì lựa chọn thay thế đã là bị bắn hay bị tống đến các điều kiện còn man rợ hơn ở Siberia. Trong và sau tập thể hóa nông nghiệp, một triều đại khủng bố đã lan ra khắp Liên Xô. Khoảng một triệu người đã bị hành quyết hay đã chết trong nhà tù riêng trong 1937‒1938. Khoảng 17‒18 triệu người bị tống vào các trại cải tạo lao động gulag giữa 1930 và 1956, một con số mà không gồm tất cả những sự cưỡng bức di chuyển hay sự thiệt hại không thể khắc phục được cho các thành viên gia đình.

Nhưng lần nữa, sự kiểm soát đã không chỉ là về sự ép buộc. Ngay khi Stalin quyết định tập thể hóa nông nghiệp, bộ máy tuyên truyền cộng sản đã nhảy vào hành động và đã bắt đầu tiếp thị chiến lược này như sự tiến bộ. Khối cử tri quan trọng nhất đã là các đảng viên, mà phải được thuyết phục để cho sự bám quyền lực của ban lãnh đạo sẽ tiếp tục và các kế hoạch của họ có thể được thực hiện. Stalin đã dùng tất cả phương tiện tuyên truyền sẵn có cho ông và, cho sự tiêu thụ cả trong nước và nước ngoài, đã trình bày tập thể hóa như một thắng lợi: “Những thành công của chính sách nông trang-tập thể của chúng ta là do, giữa các thứ khác, sự thực rằng nó dựa vào đặc tính tự nguyện của phong trào nông trang-tập thể và vào việc tính đến sự đa dạng của hoàn cảnh trong các vùng khác nhau của Liên Bang Xã hội Chủ nghĩa Soviet. Các nông trang tập thể phải không được thành lập bằng sự bắt buộc. Điều đó là ngu đần và phản động” (chữ nghiêng trong nguyên bản).

Tình tiết tập thể hóa Soviet làm rõ, một lần nữa, rằng cách cụ thể mà theo đó công nghệ được áp dụng cho nông nghiệp đã không chỉ thiên vị mà cũng là một sự lựa chọn. Đã có nhiều cách để tổ chức nông nghiệp, và bản thân những người soviet đã thử nghiệm, với thành công nào đó, với mô hình tiểu chủ trong Chính sách Kinh tế Mới dưới thời Lenin.

Như trong các tình tiết sớm hơn được thảo luận trong chương này, giới elite chọn con đường cho công nghệ nông nghiệp dựa vào tầm nhìn riêng của họ. Hàng triệu người bình thường đã trả giá.

Thành kiến Xã hội về Hiện đại hóa

Chúng ta sống trong một thời đại bị ám ảnh với công nghệ và sự tiến bộ nó sẽ cung cấp. Như chúng ta đã thấy, một số người nhìn xa trông rộng xuất chúng tưởng tượng hôm nay là thời tốt nhất, trong khi những người khác cho rằng các tiến bộ ngoạn mục hơn sắp xảy ra, với sự phong phú vô biên, tuổi thọ kéo dài, hay thậm chí chiếm các hành tinh mới làm thuộc địa.

Những sự thay đổi công nghệ đã luôn luôn với chúng ta, cùng với những người có ảnh hưởng đưa ra các quyết định về cái gì cần được làm và ai làm. Trong mười hai ngàn năm qua, công nghệ nông nghiệp đã tiến triển nhiều lần và đôi khi theo những cách đầy kịch tính. Đã có những thời khi, do năng suất tăng lên, những người bình thường cũng được lợi. Nhưng đã chẳng có gì tự động cả về những sự cải thiện này rỏ xuống để làm lợi cho số người lớn hơn. Các lợi ích được chia sẻ xuất hiện chỉ khi các elite sở hữu đất và tôn giáo đã không đủ chi phối để áp đặt tầm nhìn của họ và bòn rút tất cả thặng dư từ các công nghệ mới.

Trong nhiều trong số các tình tiết quyết định của các sự chuyển đổi nông nghiệp, các lợi ích được chia sẻ hạn hẹp hơn nhiều. Đấy là những thời trong đó các elite khởi xướng một quá trình biến đổi nhanh, thường nhân danh sự tiến bộ. Tuy nhiên sự thay đổi nhanh thường không trùng hợp với bất kể quan niệm rõ ràng nào về lợi ích chung mà với các lợi lộc cho những người dẫn đầu các công nghệ mới. Những sự chuyển đổi này thường mang lại ít lợi ích cho phần còn lại.

Chính xác lợi ích chung được xây dựng như thế nào đã khác nhau qua các thời đại. Trong thời trung cổ, mục tiêu đã là một xã hội ngăn nắp. Ở nước Anh cuối thế kỉ thứ mười tám, một cư dân gia tăng cần được nuôi trong khi giữ giá thực phẩm hạ xuống. Ở Liên Xô trong các năm 1920, các lãnh tụ Bolshevik lập luận về cách tốt nhất để xây dựng biến thể xã hội chủ nghĩa của họ.

Trong tất cả các thời kỳ này, sự tăng trưởng năng suất nông nghiệp chủ yếu đã làm lợi cho giới elite. Những người chịu trách nhiệm, dù là các địa chủ hay các quan chức chính phủ, đã quyết định dùng các máy nào và tổ chức việc trồng, thu hoạch, và các nhiệm vụ khác ra sao. Hơn nữa, bất chấp sự tăng thêm năng suất có thể chứng minh được, hầu hết người dân đã luôn luôn bị bỏ lại phía sau. Những người lao động trên đồng ruộng đã không được lợi từ hiện đại hóa nông nghiệp; họ đã tiếp tục làm việc vất vả nhiều giờ hơn, sống dưới các điều kiện khắc nghiệt hơn, và giỏi nhất đã không trải nghiệm bất kể sự cải thiện nào về phúc lợi vật chất của họ.

Đối với bất kỳ ai tin rằng các lợi ích năng suất nhất thiết rỏ xuống qua xã hội và cải thiện tiền lương và các điều kiện làm việc, các tình tiết biến đổi này là khó để giải thích. Nhưng một khi bạn nhận ra rằng những sự tiến bộ công nghệ chăm sóc các lợi ích của những người hùng mạnh và tầm nhìn của họ hướng dẫn quỹ đạo của nó, thì mọi thứ trở nên có lý.

Nông nghiệp ngũ cốc quy mô lớn, các cối xay được độc quyền bởi các chúa tể và các trưởng tu viện, máy tỉa hột bông tăng cường tình trạng nô lệ, và tập thể hóa Soviet đã là các sự lựa chọn công nghệ cụ thể, trong mỗi trường hợp rõ ràng vì các lợi ích của một giới elite thống trị. Có thể dự đoán được, cái gì tiếp theo trông không giống đoàn tàu năng suất chút nào: khi năng suất tăng lên, những người hùng mạnh đã bòn rút nhiều cố gắng hơn từ lao động nông nghiệp bằng việc ép họ làm việc dài thời gian hơn và giao nhiều sản phẩm của họ hơn. Đây là hình mẫu chung ngang nước Anh trung cổ, miền Nam Hoa Kỳ, và nước Nga Soviet. Tình hình trong thời các hàng rào tại nước Anh cuối thế kỉ thứ mười tám đã hơi khác, nhưng những người nghèo nông thôn lại bị mất, lần này bởi vì họ bị tước mất các quyền theo phong tục của họ, kể cả năng lực của họ để lượm củi, săn bắt, và chăn thả động vật trên đất chung.

Chúng ta biết ít hơn về cái gì đã xảy ra trong hàng ngàn năm tiếp sau Cách mạng đồ Đá Mới. Nhưng vào thời gian nông nghiệp định cư đầy đủ xuất hiện, khoảng bảy ngàn năm trước, hình mẫu dường như đã khá giống với cái chúng ta đã thấy trong lịch sử gần đây hơn. Ngang tất cả các nền văn minh cổ xưa lấy ngũ cốc làm trung tâm nổi tiếng, hầu hết cư dân có vẻ đã tệ hơn tổ tiên của họ đã sống trong việc tìm kiếm thức ăn. Ngược lại, những người chịu trách nhiệm dưới nông nghiệp định cư đã khấm khá hơn.

Chẳng cái nào trong số này có thể được xem như các hậu quả không thể tránh khỏi của sự tiến bộ. Các nhà nước tập trung, chuyên chế đã không nổi lên ở mọi nơi, và nông nghiệp đã không đòi hỏi rằng một elite được chuyên môn hóa về sự ép buộc và sự thuyết phục tôn giáo nên bòn rút hầu hết thặng dư. Các công nghệ mới như các cối xay đã không cần ở dưới sự độc quyền chặt chẽ của các elite địa phương. Hiện đại hóa nông nghiệp cũng chẳng cần đòi hỏi sự chiếm đoạt đất từ các nông dân đã nghèo rồi. Trong hầu hết các trường hợp, đã có những con đường thay thế sẵn có, và một số xã hội đã đưa ra các lựa chọn khác nhau.

Bất chấp các con đường thay thế đó, lịch sử dài về công nghệ nông nghiệp bày tỏ một sự thiên vị dứt khoát có lợi cho các elite, nhất là khi họ có thể kết hợp sự ép buộc và sự thuyết phục tôn giáo. Lịch sử này gợi ý rằng chúng ta nên luôn xem xét cẩn trọng các ý tưởng về cái gì là tiến bộ hay không tiến bộ, đặc biệt khi những người hùng mạnh thiết tha muốn rao bán cho chúng ta một tầm nhìn cụ thể.

Một cách tự nhiên, nông nghiệp là rất khác với việc chế tạo, và sự sản xuất các hàng hóa vật chất là khác với các công nghệ số hay tương lai tiềm tàng của trí tuệ nhân tạo. Có lẽ chúng ta có thể hy vọng hơn ngày nay? Có lẽ các công nghệ của thời đại chúng ta vốn đã bao hàm hơn? Chắc chắn những người chịu trách nhiệm ngày nay được khai sáng hơn bất kể pharaoh, chủ đồn điền, hay người Bolshevik nào?

Trong hai chương tiếp chúng ta sẽ thấy rằng kinh nghiệm trong công nghiệp hóa quả thực đã khác, nhưng không phải bởi vì các động cơ hơi nước hay những người chịu trách nhiệm đã có một xu hướng tự nhiên hơn để là bao hàm. Đúng hơn, công nghiệp hóa đã đưa số đông người lại với nhau trong các nhà máy và các trung tâm đô thị, tạo ra những khát vọng mới giữa các công nhân, và bắt đầu cho phép sự phát triển của các lực đối trọng thuộc một loại mà xã hội nông nghiệp đã không trải nghiệm.

Pha đầu tiên của công nghiệp hóa được cho là thậm chí còn thiên vị xã hội hơn và đã tạo ra những sự bất bình đẳng thậm chí còn kịch tính hơn hiện đại hóa nông nghiệp. Chỉ muộn hơn thì sự nổi lên của các sức mạnh đối trọng đã gây ra một sự điều chỉnh tiến trình đầy kịch tính mà, sau nhiều sự dừng và sự khởi động, đã chuyển hướng phần lớn thế giới phương Tây lên một con đường mới cho những sự thay đổi công nghệ và sự phát triển thể chế làm tăng sự thịnh vượng chung.

Đáng tiếc, như chúng ta sẽ thấy từ Chương 8 trở đi, bốn thập niên triển khai công nghệ-số đã làm xói mòn các cơ chế chia sẻ này mà đã phát triển sớm hơn trong thế kỉ thứ hai mươi. Và với sự đến của trí tuệ nhân tạo, tương lai của chúng ta bắt đầu trông giống quá khứ nông nghiệp của chúng ta một cách gây bối rối.