Danh ngôn
Trong mọi cộng đồng, chúng ta cần một nhóm thiên thần gây rối.
We need, in every community, a group of angelic troublemakers.
(Bayard Rustin – trích bài phát biểu tại New York City 1963)
Trong mọi trường hợp, chắc chắn rằng sự thiếu hiểu biết, đi kèm với quyền lực, là kẻ thù tàn bạo nhất có thể có của công lý.
It is certain, in any case, that ignorance, allied with power, is the most ferocious enemy justice can have.
(James Baldwin - No Name in the Street 1972)
Các cuộc cách mạng và các cá nhân có thể bị giết hại, nhưng bạn không thể giết chết các ý tưởng.
While revolutionaries and individuals can be murdered, you cannot kill ideas.
(Thomas Sankara, một tuần trước khi bị ám sát, 1987)
Không có cảm giác nào cô đơn hơn việc bị chính đất nước mình trục xuất.
There's not a more lonely feeling than to be banished by my own country.
(Kiyo Sato – Kiyo’s Story 2009)
Ban Biên tập
Địa chỉ liên lạc:
1. Thơ
tho.vanviet.vd@gmail.com
2. Văn
vanviet.van14@gmail.com
3. Nghiên cứu Phê Bình
vanviet.ncpb@gmail.com
4. Vấn đề hôm nay
vanviet.vdhn1@gmail.com
5. Thư bạn đọc
vanviet.tbd14@gmail.com
6. Tư liệu
vanviet.tulieu@gmail.com
7. Văn học Miền Nam 54-75
vanhocmiennam5475@gmail.com
Tra cứu theo tên tác giả
- A. A. Fadeev
- A. Puskin
- A. T.
- Abdulrazak Gurnah
- Abraham F. Lowenthal
- Ace Le
- Ace Lê
- Adam Gopnik
- Adonis
- Adrian Horton
- Agi Mishol
- Ajar
- Akiko Miki
- Alain Guillemin
- Alan Phan
- Alăng Văn Gáo
- Alăng Văn Giáo
- Albert Camus
- Aldous Huxley
- Aleksandr Griboedov
- Alesandr Blok
- Alex Marshall
- Alex Smith
- Alex Thai
- Alex-Thái Đình Võ
- Alexander Fadeev
- Alexander Solzhenitsyn
- Alexandra Alter
- Alexandre FERON
- Alice Munro
- Alina Lesik
- Alison Flood
- Allen Ginsberg
- Amanda Gorman
- Amartya Sen
- Amelia Glaser
- Amos Oz
- An Nam
- Anatole France
- Anatoly Gavrilov
- Anders Olsson
- André Breton
- André Menras
- André Menras – Hồ Cương Quyết
- André Menras Hồ Cương Quyết
- Andrea Hoa Pham
- Andrea Kendall-Taylor
- Andreas Fulda
- Andreas Wimmer
- Andrew Postman
- Andy Cao
- Anh Anh
- Anh Hồng
- Anh Hồng (nhà thơ)
- Ánh Liên
- Anh Nhi
- Anh Văn
- Anika Zeller
- Anna Akhmatova
- Anna Maria Bracale Ceruti
- Anna Mitchell
- Anne Carson
- Anne Cazaubon
- Anne Hébert
- Anne Henochowicz
- Annie Ernaux
- António Jacinto
- Antôn Nguyễn Trường Thăng
- Archimedes L.A. Patti
- Arlette Quỳnh Anh Trần
- Arnold Schwarzenegger
- Arthur Koestler
- Arty Abel
- Arvind Subramanian
- Augustina
- Aurélie Coulon
- Aurelien Breeden
- Ba Sàm
- Bá Thụ Đàm
- Bạch Cúc
- Bạch Hoàn
- Bách Mỵ
- Bách Thân
- Bạch X. Phẻ
- Bạch Xuân Phẻ
- Bakhtin
- Ban Mai
- Bàn Văn Thòn
- Ban Vận động Văn đoàn Độc lập Việt Nam
- Bảo Huân
- Bảo La
- Bảo Nhi Lê
- Bảo Ninh
- Bảo Phác
- Bão Vũ
- Barbara Demick
- Bashô
- Batrioldman
- Bauxite Việt Nam
- Bắc Đảo
- Bắc Phong
- Bằng Việt
- BB Ngô
- Bei Dao
- Benjamin Péret
- Benjamin Ramm
- Bertolt Brecht
- Bertrand Russell
- Bettina Rheims
- Bích Ngân
- Biếm họa
- Biên Cương
- Biệt Hiệu
- Bilahari Kausikan
- Bill Hayton
- Billy Collins
- Bình Nguyên Lộc
- Brahma Chellaney
- Branko Milanovic
- Brett Reilly
- Brian Pascus
- Brian Wu
- Brice Pedroletti
- Brodsky
- Bryan
- Bùi An
- Bùi Bảo Trúc
- Bùi Bích Hà
- Bùi Chát
- Bùi Chí Trung
- Bùi Chí Vinh
- Bùi Công Thuấn
- Bùi Công Trực
- Bùi Đức Lại
- Bùi Giáng
- Bùi Hải Quảng
- Bùi Hoàng Tám
- Bùi Hoằng Vị
- Bùi Huệ Chi
- Bui Huy Hoi Bui
- Bùi Mai Hạnh
- Bùi Mạnh Hùng
- Bùi Mẫn Hân
- Bùi Minh Quốc
- Bùi Ngọc Tấn
- Bùi Quang Thắng
- Bùi Suối Hoa
- Bùi Thanh Hiếu
- Bùi Thanh Phương
- Bùi Thanh Tuấn
- Bùi Thụy Băng
- Bùi Tiến An
- Bùi Trân Phượng
- Bùi Trọng Hiền
- Bùi Văn Kha
- Bùi Văn Nam Sơn
- Bùi Việt Sỹ
- Bùi Vĩnh Phúc
- Bùi Xuân Bách
- Bùi Xuân Đính
- Bùi-Viết Văn Đức
- Bulgakov
- Bửu Chỉ
- C.D.
- Cái Lư Hương
- Cái Trọng Ty
- Cam Ly
- Cảnh Chánh
- Cao Bảo Vân
- Cao Bình Minh
- Cao Chi
- Cao Gia An
- Cao Hành Kiện
- Cao Huy Thuần
- Cao Kim Ánh
- Cao La
- Cao Quang Nghiệp
- Cao Tần
- Cao Thị Hồng
- Cao Thu Cúc
- Cao Việt Dũng
- Cao Xuân Hạo
- Cao Xuân Huy
- Carl Bildt
- Carl O. Schuster
- Carlos Assunção
- Carolyn Mary Kleefeld
- Cát Linh
- Cẩm Tú
- Cấn Thị Thêu
- Chan Phuong
- Chanh Tam
- Charles Bo
- Charles Bukowski
- Charles Simic
- Chau Doan
- Chân Minh
- Chân Pháp Xa
- Chân Phương
- Chân Xuân Tản Viên
- Châu Diên
- Châu Hải Đường
- Châu Hồng Thủy
- Châu Hữu Quang
- Chenn
- Chế Diễm Trâm
- Chế Lan Viên
- Chi Mai
- Chi Phương
- Chiêu Dương
- Chiêu Khiêm
- Chiharu Shiota
- Chim Hải
- Chim Trắng
- Chinh Ba
- Chính Tâm
- Chính Vĩ
- Chinua Achebe
- Chơn Không Cao Ngọc Phượng
- Christian Gampert
- Christian Welzel
- Christina Mary Hjortlund
- Christoph Giesen
- Christoph Sator
- Christopher Balding
- Christopher Goscha
- Christy Wampole
- Chu Dương
- Chu Hảo
- Chu Hoạch
- Chu Kim
- Chu Mộng Long
- Chu Quang Tiềm
- Chu Tử
- Chu Văn Lễ
- Chu Văn Sơn
- Chu Vĩnh Hải
- Chu Vương Miện
- Chu Xuân Diên
- Chung Le
- Claire Simon
- Clay Phạm
- Concepcion de Leon
- Connie Hoàng
- Cora Engelbrecht
- Costica Bradatan
- Cổ Ngư
- Cù An Hưng
- Cù Huy Hà Vũ
- Cù Mai Công
- Cù Tuấn
- Cung Minh Huân
- Cung Tích Biền
- Cung Trầm Tưởng
- D. S. Likhachev
- Da Màu
- Dạ Ngân
- Dạ Thảo Phương
- Dã Tượng
- DAD
- Dadolin Murak
- Damien Keown
- Dan Bilefsky
- Dan Slater
- Dana Gioia
- Danh ngôn
- Dani Rodrik
- Daniel Halpern
- Daniel Hautzinger
- Daron Accemoglu
- David Brown
- David Gascoyne
- David Marchese
- David Weinberger
- Ðặng Thơ Thơ
- Demetrio Paparoni
- DEUTSCHE WELLE
- Di
- Di Li
- Diêm Liên Khoa
- Diễm Thi
- Diễm Tường
- Diễn đàn Thế kỷ
- Diệp Duy Liêm
- Diệp Huy
- Ðinh Cường
- Dino Buzatti
- Dipanjan Roy Chaudhury
- Dmitri Prokofyev
- Dmitry Burago
- Dmitry Muratov
- Doãn Cẩm Liên
- Doãn Mạnh Dũng
- Doãn Mẫn
- Doãn Quốc Sỹ
- Dominique Lemieux
- Donald Inglehart
- Donna Ashworth
- Ðỗ Quang Nghĩa
- Ðỗ Quyên
- Du Tử Lê
- Dung Nguyễn
- Dũng Phan
- Dũng Trung Kqd
- Dũng Vũ
- Duy Lam
- Duy Tân
- Duy Thanh
- Duy Thông
- Duyên Anh
- Duyên Khánh
- Dư Hoa
- Dư Kiệt
- Dư Thị Hoàn
- Dư Thu Vũ
- Dương Đại Triều Lâm
- Dương Đình Giao
- Dương Khánh Phương
- Dương Kiền
- Dương Ngạn
- Dương Nghiễm Mậu
- Dương Ngọc Thái
- Dương Như Nguyện
- Dương Phương Vinh
- Dương Thắng
- Dương Thiệu Tước
- Dương Thu Hương
- Dương Thuấn
- Dương Tú
- Dương Tường
- Dương Văn Ba
- Dylan Suher
- Đà Văn
- Đàm Hà Phú
- Đàm Hách Thành
- Đào An Khánh
- Đào Anh Kha
- Đào Công Tiến
- Đào Duy Anh
- Đào Hiếu
- Đào Lê Na
- Đào Ngọc Chương
- Đào Nguyên
- Đào Nguyễn
- Đào Nguyên Phương Thảo
- Đào Như
- Đào Phương Liên
- Đào Quang Toản
- Đào Tấn Phần
- Đào Thái Tôn
- Đào Thị Hương
- Đào Tiến Thi
- Đào Trung Đạo
- Đào Trường Phúc
- Đào Tuấn
- Đào Tuấn Ảnh
- Đào Văn Thuỵ
- Đào Văn Tiến
- Đào Vũ Anh Hùng
- Đặng Anh Đào
- Đặng Bích Phượng
- Đặng Chương Ngạn
- Đặng Đình Cung
- Đặng Đình Mạnh
- Đặng Hà
- Đặng Hải Sơn
- Đặng Hoàng Giang
- Đặng Hồng Nam
- Đặng Hùng Võ
- Đặng Hương Giang
- Đặng Hữu
- Đặng Mai Lan
- Đặng Mậu Tựu
- Đăng Nguyên
- Đặng Phùng Quân
- Đặng Quốc Thông
- Đặng Sơn Duân
- Đặng Thái
- Đăng Thành
- Đặng Thân
- Đặng Thị Hảo
- Đặng Thơ Thơ
- Đặng Tiến
- Đặng Tiến (Thái Nguyên)
- Đặng Trung Nghĩa
- Đặng Túy
- Đặng Văn Dũng
- Đặng Văn Hùng
- Đặng Văn Ngữ
- Đặng Văn Sinh
- Đặng Vũ Vương
- Đặng Xuân Thảo
- Đặng Xuân Xuyến
- Đằng-Giao
- Điểm Thọ
- Đinh Bá Anh
- Đinh Cường
- Đinh Hoàng Thắng
- Đinh Hùng
- Đình Kính
- Đinh Linh
- Đinh Ngọc Thu
- Đinh Phương
- Đinh Phương Thảo
- Đinh Quang Anh Thái
- Đinh Thanh Huyền
- Đinh Thị Như Thúy
- Đinh Trường Chinh
- Đinh Từ Bích Thuý
- Đinh Từ Bích Thúy
- Đinh Văn Đức
- Đinh Vũ Hoàng Nguyên
- Đinh Ý Nhi
- Đinh Yên Thảo
- Đoàn Ánh Thuận
- Đoàn Bảo Châu
- Đoàn Cầm Thi
- Đoàn Công Lê Huy
- Đoàn Hồng Lê
- Đoàn Huy Giao
- Đoàn Huyền
- Đoàn Khắc Xuyên
- Đoàn Lê Giang
- Đoàn Nhã Văn
- Đoàn Thanh Liêm
- Đoan Trang
- Đoàn Tùng Nguyễn
- Đoàn Tử Huyến
- Đoàn Việt Hùng
- Đoàn Xuân Kiên
- Đỗ Anh Hoa
- Đỗ Anh Tuấn
- Đỗ Cao Bảo
- Đỗ Duy Ngọc
- Đỗ Đức
- Đỗ Đức Đông Ngàn
- Đỗ Đức Hiểu
- Đỗ Hòa
- Đỗ Hoàng Diệu
- Đỗ Hồng Ngọc
- Đỗ Hồng Nhung
- Đỗ Hữu Chí
- Đỗ Kh
- Đỗ Kh.
- Đỗ Khiêm
- Đỗ Kim Thêm
- Đỗ Lai Thuý
- Đỗ Lai Thúy
- Đỗ Lê Anh Đào
- Đỗ Mạnh Hoàng
- Đỗ Minh Tuấn
- Đỗ Nghê
- Đỗ Ngọc
- Đỗ Ngọc Thống
- Đỗ Quang Nghĩa
- Đỗ Quang Vinh
- Đỗ Quý Toàn
- Đỗ Quyên
- Đỗ Quỳnh Dao
- Đỗ Thắng Cảnh
- Đỗ Thị Thu Trà
- Đỗ Thiên Anh Tuấn
- Đỗ Trí Vương
- Đỗ Trọng Khơi
- Đỗ Trung Quân
- Đỗ Trường
- Đỗ Tuyết Khanh
- Đồng Chuông Tử
- Đông Hoài
- Đông Hồ
- Đông Kha
- Đông Ngàn Đỗ Đức
- Đông Nghi
- Đức Ban
- Đức Đàm
- Đức Flying Bay
- Đức Hoàng
- Đức Lê
- Đức Phổ
- Đức Tâm
- Đức Tiến
- E.E. Cummings
- E.M. Chernoivanenko
- Eamonn Butler
- Eckart Kleßmann
- Eduardo Galeano
- Edward Hirsch
- Elena Pucillo Truong
- Elias Canetti
- Ellen Bass
- Eloisa Amezcua
- Emiel Roothooft
- Emmanuelle Jardonnet
- Eric Weiner
- Erica Frantz
- Erik Harms
- Erik Korling
- Euan Ward
- Evgheni Dobrenko
- F.N.
- Federico García Lorca
- Feliks Kuznesov
- Filip Lech
- Flanny O’Connor
- Florence Noiville
- Florian Altenhöner
- Francis Fukuyama
- Francis Fukuyma
- Frank Dikötter
- Frank O'Hara
- Frankfurt
- Fred Hiatt
- Friedrich Dürrenmatt
- Friedrich Nietzsche
- Fritz J. Raddatz
- Gabriel García Márquez
- Gaither Stewart
- Gaiutra Bahadur
- Gary Leupp
- Gặp gỡ và trò chuyện
- Georg Bönisch
- Georg Trakl
- George Burchett
- George Orwell
- George Perreault
- George Siemens
- Georges Condominas
- Gerhard Will
- Germain Droogenbroodt
- Giang Dang
- Giang Lại Đức
- Giang Nam
- Giáng Vân
- Giáp Văn Dương
- Gideon Rachman
- Giuse Lê Công Đức
- Goethe
- Gonçalo Fernandes
- Gottfried Benn
- Graham Allison
- Grigory Yudin
- Günter Kunert
- Gyảng Anh Iên
- Hà Duy Phương
- Hà Dương Tuấn
- Hà Dương Tường
- Hà Đình Nguyên
- Hạ Đình Nguyên
- Hà Huy Sơn
- Hà Hương
- Hà Lệ Minh
- Hà Ngọc Hòa
- Hạ Nguyên
- Hà Nguyên Du
- Hà Nhân
- Hà Nhật
- Hà Phạm Phú
- Hà Quang Vinh
- Hà Sĩ Phu
- Hà Thanh Vân
- Hà Thế
- Hà Thị Minh Đạo
- Hà Thúc Sinh
- Hà Thủy Nguyên
- Hà Tùng Long
- Hà Tùng Sơn
- Hà Văn Thịnh
- Hà Văn Thùy
- Hà Vũ Trọng
- Hagi Kenaan
- Hai An Vu
- Hải Hạc
- Hải Ngọc
- Hai Thanh
- Han Dang
- Hàn Giang
- Han Kang
- Hàn Vĩnh Diệp
- Hạnh Nguyên
- Hạnh Phước
- Hạnh Viên
- Hannah Beech
- Hào Thiện Nhân
- Haruki Murakami
- Hân Hương
- Heiko Buschke
- Heinrich Heine
- Henri Michaux
- Henry David Thoreau
- Henry Wadsworth Longfellow
- Heriberto Araújo
- Hermann Hesse
- Hiền Trang
- Hiệp Ikaria
- Hiệu Minh
- Hiếu Tân
- Ho Lai-Ming
- Hòa Bình Lê
- Hoa Níp
- Hoài Hương
- Hoài Nam
- Hoài Phương
- Hoài Thanh
- Hoài Việt
- Hoài Ziang Duy
- Hoan Doan
- Hoàn Nguyễn
- Hoàng Ánh
- Hoàng Anh Tuấn
- Hoàng Cát
- Hoàng Cầm
- Hoàng Chí Hiếu
- Hoàng Chính
- Hoàng Cường Long
- Hoàng Dũng
- Hoàng Dương Tuấn
- Hoàng Đăng Khoa
- Hoàng Đỗ
- Hoàng Đông
- Hoàng Đức Truật
- Hoàng Hà
- Hoàng Hải Thủy
- Hoàng Hải Vân
- Hoảng Hãn
- Hoàng Hưng
- Hoàng Khởi Phong
- Hoàng Kim Oanh
- Hoàng Lại Giang
- Hoàng Lan
- Hoàng Lan Anh
- Hoàng Lan Chi
- Hoàng Lê
- Hoàng Lệ
- Hoàng Linh
- Hoàng Long
- Hoàng Mai Ðạt
- Hoàng Mạnh Hải
- Hoàng Minh Trí
- Hoàng Minh Tường
- Hoàng Nam
Tiếng Việt muôn năm!
Nguyễn Hải Hoành
“Chưa chữ viết đã vẹn tròn tiếng nói / Vầng trăng cao đêm cá lặn sao mờ. / Ôi tiếng Việt như đất cày, như lụa / Óng tre ngà và mềm mại như tơ…” (Thơ “Tiếng Việt” của Lưu Quang Vũ).
“Tôi yêu tiếng nước tôi từ khi mới ra đời, người ơi. Mẹ hiền ru những câu xa vời. À à ơi, tiếng ru muôn đời …Tiếng nước tôi, bốn nghìn năm ròng rã buồn vui, khóc cười theo mệnh nước nổi trôi, ơi… (Bài hát “Tình ca” của Phạm Duy).
Chẳng rõ ngoài tiếng Việt ra, trên thế gian này còn có thứ tiếng dân tộc nào được cả thi sĩ lẫn nhạc sĩ ca ngợi bằng những lời lẽ nghĩa lý sâu xa, tình cảm thắm thiết đến thế? Ắt hẳn tiếng Việt phải có khả năng tạo nên một sức hút kỳ diệu khiến trái tim các nhà nghệ sĩ rung lên phát ra thành lời thơ mượt mà, điệu nhạc du dương như trên. Là những người có giác quan nhạy cảm hơn ai hết trước mọi cái đẹp, cái vượt trội, các nghệ sĩ bẩm sinh có khả năng trời cho nhận ra những cái người thường khó nhận thấy. Mấy câu ca lời thơ trích dẫn ở trên chứng tỏ điều đó.
Hệt như một nhà ngôn ngữ học bậc thầy, Lưu Quang Vũ mở đầu bài thơ ca ngợi tiếng Việt bằng nhận xét chính xác “Chưa chữ viết đã vẹn tròn tiếng nói”. Ở đây nhà thơ muốn nhắc lại một sự thật lịch sử quan trọng mà các sử gia ta ít để ý tới: Cho đến cách nay hơn 2000 năm, trước ngày chữ Hán theo chân đội quân của Triệu Đà chính thức vào Việt Nam, dân tộc ta chưa hề biết chữ viết là gì; trong khi người Hán[1] đã sử dụng chữ viết được hơn nghìn năm. Thế nhưng hồi ấy tổ tiên ta đã làm chủ một ngôn ngữ nói hoàn thiện, chín muồi tới mức “vẹn tròn”, có các ưu thế trời cho như ngữ âm cực kỳ phong phú, phát âm thống nhất trong cả nước, được toàn dân yêu quý nâng niu gìn giữ như một vật báu –– đó là tiếng Việt. Do cực giàu về ngữ âm nên tiếng Việt khác hẳn tiếng nói của các chủng tộc láng giềng phương Bắc và thủa ban đầu không có quan hệ gì với các ngôn ngữ của người Bách Việt[2]. Cho dù về sau nước ta từng bị người Hán tiến hành đồng hóa về ngôn ngữ suốt hơn nghìn năm Bắc thuộc, nhưng tiếng Việt nhờ có những ưu thế kể trên vẫn không hề suy suyển, ngược lại còn phong phú thêm do hấp thu được nguồn từ ngữ trong kho tàng mênh mông của Hán ngữ.
Học giả Phạm Quỳnh nhận xét: "Tổ tiên ta có công trạng lớn là làm cho toàn dân suốt từ Bắc đến Nam đều cùng một tiếng nói, một phong tục; vì thế “cái tính tình, tư tưởng cũng không khác gì nhau… Dân Việt Nam ta thật được hơn các dân khác là chỉ có một thứ tiếng suốt trong bờ cõi… người Việt đi đến đâu cũng có thể nghe hiểu”[3]. Lẽ tự nhiên, toàn dân nói cùng một ngôn ngữ là nhân tố quan trọng thúc đẩy sự thống nhất quốc dân, thống nhất đất nước. Chưa có chữ viết mà ngôn ngữ nói của người Việt đã hoàn thiện như thế, thật là một thành tựu đáng tự hào.
Tiếng Việt trở thành “Quốc hồn” của nước ta; suy ra hồn còn thì nước còn, tức “Tiếng ta còn (thì) nước ta còn”[4]. Người Malay cũng nói “Ngôn ngữ là linh hồn của dân tộc”[5]. Để so sánh, xin nhắc lại một sự thật lịch sử: cho tới nay có những nước vẫn chưa thực hiện toàn dân nói cùng một thứ tiếng, mặc dầu họ đã có chữ viết từ hàng nghìn năm trước[6].
Có ý kiến cho rằng sở dĩ toàn dân ta nói một ngôn ngữ cơ bản thống nhất là do tiếng ta đơn giản dễ học dễ dùng và ngữ âm cực kỳ phong phú. Xin bàn qua về vấn đề này.
Tiếng Việt thuộc loại ngôn ngữ đơn lập (đơn âm tiết, monosyllabic), đơn giản hơn ngôn ngữ đa lập (đa âm tiết, multisyllabic, như tiếng Nga, Anh). Khi đặt câu tiếng Việt chỉ cần chắp chữ (tiếng) theo thứ tự trước sau. Chủ ngữ thường đứng trước vị ngữ. Trạng ngữ thường đứng ở đầu câu. Động từ sau chủ ngữ. Tính từ hoặc cụm tính từ sau danh từ. Ngữ pháp tiếng Việt đơn giản, không có khái niệm “thì, số, giống, cách” cho nên tất cả các từ đều không biến đổi; thường dùng hư từ (ví dụ: đã, sẽ, rồi, cứ…) để lập mối quan hệ giữa các từ.
Đặc biệt, ngữ âm tiếng Việt rất phong phú: lượng âm tiết nhiều gấp chừng 10 lần tiếng Hán và 40 lần tiếng Nhật, tạo thuận tiện tăng vốn từ ngữ, nhất là ở ngôn ngữ bình dân, mọi người có thể tự đặt ra từ mới. Một số [7]từ có thể đảo ngược thứ tự mà không đổi ý nghĩa, ví dụ tha thiết – thiết tha, đày đọa – đọa đày. Một số từ có thể láy lại hoặc thêm đuôi để tăng hiệu quả lời nói, ví dụ ào ào, rầm rầm, láo nháo, nhảm nhí. Nguồn từ tả âm thanh hầu như không bị hạn chế, như tả tiếng gió có thể dùng ù ù, rì rào, vi vu. Ngữ âm phong phú làm cho tiếng Việt có tính quốc tế rất cao, có thể phiên âm được hầu hết các ngôn ngữ khác, tạo thuận lợi cho người Việt dễ tiếp xúc với ngôn ngữ, văn học và văn hoá nước ngoài, qua đó hấp thu được kho tàng từ vựng đầy ắp của tiếng Hán, tiếng Pháp, tiếng Anh, tiếp thu được cấu trúc ngữ pháp trong sáng của tiếng Pháp… làm cho tiếng Việt luôn được cải tiến, phát triển, đáp ứng yêu cầu của đời sống xã hội thời hiện đại.
Tiếng Việt “vẹn tròn” ở chỗ có thể diễn đạt chính xác, rõ ràng, gãy gọn mọi ý nghĩ, tư duy của người Việt. Khi đọc các tác phẩm văn học chữ Nôm ra đời từ mấy trăm năm trước, ta thấy hầu như không tác phẩm nào có sai sót đáng kể về dùng từ và ngữ pháp, chứng tỏ tiếng Việt trước khi có chữ Nôm đã rất hoàn thiện. Lời nói hàng ngày của người dân quê mù chữ cũng vậy, ví dụ ca dao “Hôm qua tát nước đầu đình, để quên chiếc áo trên cành hoa sen…”. Từ ngàn xưa, toàn bộ ca dao, tục ngữ, thành ngữ, ngạn ngữ tiếng Việt đều vừa dễ hiểu lại vừa đúng chuẩn ngữ pháp và từ vựng.
Tiếng Việt lại “óng mượt như tơ”, mềm mại như lụa, giàu âm điệu, giàu từ ngữ, dễ đặt câu, tạo điều kiện rất thuận tiện để sáng tác thơ ca, ca dao, tục ngữ, hát nói, tuồng chèo, dân ca… Các thể loại văn học này đều có vần điệu, rất dễ nhớ, dễ truyền miệng, nhờ thế tổ tiên ta khi chưa có chữ Nôm đã tạo lập được một kho tàng từ ngữ vô cùng phong phú.
Sau khi chữ Nôm ra đời, các tài năng Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, v.v. đã vận dụng vốn từ ngữ đó viết các tác phẩm văn thơ chữ Nôm nói lên được tư tưởng, tình cảm của đông đảo nhân dân, làm nên một thời kỳ văn học rực rỡ trong lịch sử nước nhà. Áng thơ Nôm “Truyện Kiều” là bộ sưu tập tuyệt vời về nghệ thuật sử dụng từ ngữ tiếng Việt bác học và dân gian, nhiều từ ngữ đạt trình độ tinh tế cao về ý nghĩa và âm điệu. Như câu: “Thoắt trông nhờn nhợt màu da, Ăn gì to lớn đẫy đà làm sao!”, “Chơi cho liễu chán hoa chê, cho lăn lóc đá cho mê mẩn đời”. Rõ ràng, văn học chữ Nôm tức văn học tiếng Việt thời xưa tuy tồn tại không lâu nhưng đã tỏ ra có sức sống mãnh liệt, xét về mọi mặt đều vượt xa văn học chữ Hán do người Việt sáng tác trong hai nghìn năm.
Chính vì chậm có chữ viết nên người Việt rất chuộng văn chương truyền khẩu, dùng ngôn ngữ bình dân truyền miệng khắp cả nước vô vàn ca dao, tục ngữ ý vị, chung đúc bao nhiêu luân lý đạo đức, học thức, nhân sinh quan của dân tộc. Nghệ thuật truyền miệng ấy đạt trình độ rất cao, nhờ thế kho tàng từ ngữ tiếng Việt vô cùng phong phú và nhiều tác phẩm văn học dân gian vẫn được lưu giữ lâu dài trong dân chúng, cho dù thời ấy nước ta chưa có chữ viết hoặc có rồi nhưng hầu hết dân mù chữ, cho dù quân đội nhà Minh trong mấy chục năm chiếm đóng nước ta đã tiêu hủy gần như toàn bộ thư tịch, văn bản do người Việt Nam viết.
Học giả Phạm Quỳnh nhận xét: “Tôi dám quyết rằng văn chương truyền khẩu là thứ rất phong phú, không nước nào có một cái văn chương truyền khẩu giàu như nước ta. Người nào hay chê tiếng Việt là nghèo hãy về nơi dân thôn hay ra chốn chợ búa, nghe bọn phụ nữ nói năng. Tôi tưởng các bậc tu mi [đàn ông] phải ghê cái tài hùng biện của các bạn quần trồi [đàn bà]… [điều đó] đủ chứng minh rằng tiếng Việt ta giàu biết bao nhiêu. Hãy thử nghe hai người đàn bà nhà quê nói chuyện hay cãi nhau, từ đầu chí cuối toàn là phương ngôn tục ngữ cả, cứ từng hồi, từng tràng, như một bài diễn thuyết trường thiên. Tiếng ta có nhiều tiếng rắp đôi hay lắm, hay vô cùng, tưởng không có tiếng nước nào bằng”.[8]
Tiếng Việt gắn kết kỳ diệu với vận mệnh dân tộc ta, như lời ca “Tiếng nước tôi, bốn nghìn năm ròng rã buồn vui, khóc cười theo mệnh nước nổi trôi.” Sự thực lịch sử này càng làm tăng giá trị của tiếng Việt, chứng tỏ tiếng Việt đích thực là hồn cốt của dân tộc. Suốt mấy nghìn năm thời xưa, tầng lớp thống trị và nhà Nho cổ hủ ở ta luôn khinh rẻ hắt hủi tiếng Việt bình dân mà họ chê là nôm na mách qué, khiến cho ngôn ngữ và văn học dân gian bị kìm hãm khó phát triển. Sai lầm đó bắt nguồn từ tâm lý mù quáng sùng bái văn hóa Hán và chữ Hán. Ví dụ sĩ tử đi thi phải thuộc lòng Tứ thư Ngũ kinh, trong đó có 300 bài thơ Kinh Thi – đều là tác phẩm văn, sử học của người Hán, mà chẳng học văn học và lịch sử dân tộc mình. Kinh Thi là cái quái gì mà phải học nhỉ?
“Kinh Thi chẳng qua là những lời ca dao trong dân gian Trung Quốc, được thánh nhân [cụ thể là Khổng Tử] biên tập, san định, truyền cho đời sau, tôn sùng làm một bộ kinh sách thánh thần có nghĩa huyền bí. Tôi thiết tưởng nhiều bài ca dao của ta lại còn hay hơn những bài trong Kinh Thi nhiều, chỉ vì không có lòng mê tín sùng thượng nên thường bị coi là nôm na”.[9] Phạm Quỳnh nói rất đúng. Kinh Thi lấy đâu ra những câu ca dao tuyệt vời cả về văn và về ý, toàn bộ dùng từ thuần Việt như “Hỡi cô tát nước bên đàng, sao cô múc ánh trăng vàng đổ đi?”
Thời Pháp thuộc, mới đầu thực dân Pháp chủ trương buộc dân ta học tiếng Pháp từ bậc tiểu học, nhằm tiến tới toàn dân chỉ nói tiếng Pháp, như chúng đã làm ở nhiều thuộc địa châu Phi. Thấy rõ chủ trương đồng hóa ngôn ngữ ấy sẽ giết chết tiếng Việt, giới trí thức tiến bộ nước ta đã lên tiếng phản đối. Năm 1922, học giả Phạm Quỳnh khi diễn thuyết trước Viện Hàn lâm Pháp ở Paris đã nói: Việc Chính phủ Pháp dự định dạy tiếng Pháp cho người An Nam (tức Việt Nam) từ nhỏ đến lớn, kết quả chỉ đủ làm cho dân nước chúng tôi mất tính cách An Nam, thành ra một giống lửng lơ thật nguy hiểm. Muốn tránh nguy hiểm ấy chỉ có một cách là dạy trẻ con An Nam học tiếng An Nam cho hết bậc tiểu học.[10] Trước sự phản đối của dân ta và sau khi thấy chữ Quốc ngữ đủ khả năng thực hiện công cuộc khai hóa Việt Nam, Chính phủ Pháp đã bỏ chủ trương nói trên. Nhờ vậy dân tộc ta lần thứ hai tránh được thảm họa đồng hóa ngôn ngữ. Nhưng tiếng Việt vẫn chưa chiếm địa vị độc tôn, từ bậc trung học trở lên vẫn giảng dạy bằng tiếng Pháp, các chứng chỉ như giấy khai sinh, giấy chứng hôn, v.v. vẫn in ba thứ chữ: chữ Quốc ngữ, chữ Pháp, chữ Nôm.
Sau ngày nước nhà độc lập, tiếng Việt trở thành ngôn ngữ chính thức duy nhất. Tất cả các bậc học đều giảng dạy bằng tiếng Việt. Điều 5 Hiến pháp 2013 xác định “Ngôn ngữ quốc gia là tiếng Việt”. Trong hơn 70 năm dưới chế độ dân chủ, tiếng Việt về cơ bản được gìn giữ vững chắc và được quan tâm, phát triển, hoàn toàn đáp ứng yêu cầu mới của thời đại: hiện đại hóa, tin học hóa, quốc tế hoá, toàn cầu hóa. Tuy vậy trên thực tế vẫn có tình trạng sử dụng tiếng Việt lệch chuẩn, nói và viết sai ngữ pháp, sai chính tả, dùng sai từ Hán-Việt, tùy tiện nhập từ ngữ nước ngoài… làm cho tiếng ta bị pha tạp, thiếu chính xác. Dường như tâm lý nô lệ và thói sùng ngoại từ chế độ cũ rớt lại (nhất là trong giới học giả) vẫn còn lẩn quất đâu đó, đe dọa địa vị độc tôn của tiếng Việt.
Tóm lại, dân tộc ta có một lịch sử ngôn ngữ vô cùng vẻ vang. Tiếng Việt cùng với chữ Quốc ngữ (là ký hiệu đường nét ghi lại tiếng Việt một cách tốt nhất, lý tưởng nhất), đã góp phần quan trọng đưa nền văn minh Việt Nam lên tới tầm cao như hiện nay. Tiếng Việt cùng với chữ Quốc ngữ thực sự là một tài sản phi vật thể vô giá của toàn dân ta, mãi mãi đáng tự hào, đáng tôn vinh, và phải được bảo vệ, phát triển đúng hướng.
[1] Ở đây từ “Hán” được dùng với ý nghĩa một khái niệm chính trị, không phải chủng tộc.
[2] Tiếng Việt thuộc ngữ hệ Nam Á (Austroasiatic), khác hẳn tiếng Hán và tiếng các tộc Bách Việt đều thuộc ngữ hệ Hán-Tạng (Sino-Tibetan) hoặc Tai-Kadai.
[3] Phạm Quỳnh : “Luận giải văn học và triết học”. Nxb Văn học, Hà Nội, 2016.
[4] Phạm Quỳnh : “Luận giải văn học và triết học”. Nxb Văn học, Hà Nội, 2016.
[5] Bahasa jiwa bangsa – Ngôn ngữ là linh hồn của dân tộc (https://www.arc.gov.au).
[6] Trung Quốc năm 2020 còn 20% dân không biết nói tiếng Phổ thông.
[7] Nguyễn Quang Hồng: “Âm tiết và loại hình ngôn ngữ”, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội 1994. Nguyễn Hải Hoành: “Một vài tìm tòi về ngôn ngữ”. Tạp chí Tia sáng số 11 (8/6/2020).
[8] Phạm Quỳnh : “Luận giải văn học và triết học”. Nxb Văn học, Hà Nội, 2016.
[9] Phạm Quỳnh : “Luận giải văn học và triết học”. Nxb Văn học, Hà Nội, 2016.
[10] Phạm Quỳnh: “Tuyển tập du ký”, Nxb Tri thức, Hà Nội, 2012.