Danh ngôn

Trong mọi cộng đồng, chúng ta cần một nhóm thiên thần gây rối.

We need, in every community, a group of angelic troublemakers.

(Bayard Rustin – trích bài phát biểu tại New York City 1963)

Trong mọi trường hợp, chắc chắn rằng sự thiếu hiểu biết, đi kèm với quyền lực, là kẻ thù tàn bạo nhất có thể có của công lý.

It is certain, in any case, that ignorance, allied with power, is the most ferocious enemy justice can have.

(James Baldwin - No Name in the Street 1972)

Các cuộc cách mạng và các cá nhân có thể bị giết hại, nhưng bạn không thể giết chết các ý tưởng.

While revolutionaries and individuals can be murdered, you cannot kill ideas.

(Thomas Sankara, một tuần trước khi bị ám sát, 1987)

Không có cảm giác nào cô đơn hơn việc bị chính đất nước mình trục xuất.

There's not a more lonely feeling than to be banished by my own country.

(Kiyo Sato – Kiyo’s Story 2009)

Ban Biên tập

Địa chỉ liên lạc:

1. Thơ

tho.vanviet.vd@gmail.com

2. Văn

vanviet.van14@gmail.com

3. Nghiên cứu Phê Bình

vanviet.ncpb@gmail.com

4. Vấn đề hôm nay

vanviet.vdhn1@gmail.com

5. Thư bạn đọc

vanviet.tbd14@gmail.com

6. Tư liệu

vanviet.tulieu@gmail.com

7. Văn học Miền Nam 54-75

vanhocmiennam5475@gmail.com

Tra cứu theo tên tác giả

Thứ Hai, 25 tháng 12, 2023

Những năm tám mươi (1)

Nguyễn Đức Tùng

Lịch sử được viết như thế này thì học sinh, sinh viên sẽ mê môn sử ngay, anh ạ. Cám ơn anh.

Nhà thơ Ý Nhi

image

Những năm tám mươi tôi đến Canada, sau hai tuần lễ hưởng tiền trợ cấp của chính phủ, tôi lao vào cuộc sống mới, làm việc như điên để quên đi và để không ngã xuống trên một đất nước xa lạ, thế rồi một ngày sau hơn một tháng làm việc trong trạm đổ xăng, trong tuyết, tôi quyết định yêu nó.

Nữ thẩm phán Savelyeva: Anh làm nghề gì?

Brodsky: Tôi làm thơ. Tôi dịch. Tôi nghĩ thế…

Thẩm phán: Không nghĩ với suy gì cả. Đứng thẳng người lên! Đừng dựa vào tường như thế, hãy nhìn tòa. Trả lời cho đúng! (Hướng về phóng viên) Dừng ngay việc ghi ghi chép chép, nếu không ta sẽ ném cô ra khỏi cửa! (Hướng về Brodsky) Anh có công việc thường xuyên không?

Brodsky: Tôi nghĩ là đây là công việc thường xuyên của tôi.

Thẩm phán: Trả lời đàng hoàng coi!

Brodsky: Tôi làm thơ, tôi nghĩ là chúng sẽ được in ra, tôi nghĩ thế.

Thẩm phán: Tòa không muốn nghe anh nghĩ cái gì. Hãy trả lời xem tại sao anh không chịu làm việc.

Brodsky: Tôi làm việc chứ. Tôi làm thơ mà.

Thẩm phán: Tòa không muốn nghe chuyện ấy. Tòa muốn biết anh làm việc ở cơ quan nào.

Brodsky: Tôi có một vài hợp đồng với nhà xuất bản sách.

Thẩm phán:  Anh có đủ hợp đồng để nuôi sống bản thân không? Hãy liệt kê chúng ra, những thứ gì, ngày tháng, bao tiền?

Brodsky: Tôi không nhớ chính xác, tất cả hợp đồng đều ở trong tay của luật sư của tôi.

Thẩm phán: Tôi đang hỏi anh.

Brodsky: Hai cuốn sách gồm có những bản dịch của tôi được xuất bản ở Mạc Tư Khoa... (Anh kể tên chúng).

Thẩm phán: Anh làm việc trong bao lâu?

Brodsky: Khoảng chừng...

Thẩm phán: Tòa không muống nghe chữ “khoảng chừng”!

Brodsky: Năm năm.

Thẩm phán: Anh làm việc ở đâu?

Brodsky: Trong một nhà máy. Với những nhóm địa chất

Thẩm phán: Anh làm việc ở nhà máy trong bao lâu?

Brodsky: Một năm.

Thẩm phán: Anh làm gì ở đó?

Brodsky: Tôi là thợ điểu khiển máy phay.

Thẩm phán: Nhưng nói chung, nghề nghiệp chính của anh là cái gì?

Brodsky: Nghề nghiệp của tôi là nhà thơ, người dịch thơ.

Thẩm phán: Ai gọi anh là nhà thơ? Ai đưa anh vào đẳng cấp các nhà thơ?

Brodsky: Không có ai cả. (Nói thêm) Thế ai bầu tôi làm con người?

Thẩm phán: Anh có học cái này chưa?

Brodsky: Học cái gì ạ?

Thẩm phán: Học làm thơ? Anh còn chưa chịu học hết trung học là nơi người ta chuẩn bị cho... dạy cho các anh cách làm thơ...

Brodsky: Tôi không nghĩ rằng người ta có thể học nó từ nhà trường.

Thẩm phán: Sao không?

Brodsky: Tôi nghĩ là... (bối rối)... chúng đến từ Đức Chúa Trời.

Đó là trích đoạn một tường trình về hai phiên tòa tháng Hai và tháng Ba 1964 bởi Frieda Vigdorova hội viên Hội Nhà văn Leningrad, trên tờ Coll yer Bowen for The New Leader, 31 tháng 8 năm 1964, và sau đó trên The New York Times (1), hai mươi ba năm sau, năm 1987,  chàng trai đứng trước tòa bị kết án năm năm tù vì tội “parasitism”, được trao giải Nobel, đánh dấu chặng đường dài mà nhân loại đi xuyên qua bức màn tre, cùng thi sĩ, đó là một năm vui vẻ: làn sóng người vượt biển tăng cao trở lại, các nước Canada, Mỹ, Úc, châu Âu nhận thêm nhiều người mới, cộng đồng người Việt hải ngoại phát triển nhanh; trước cửa các tiệm gởi quà cứu giúp về cho đồng bào khốn khổ, người xếp hàng nườm nượp.

Nhưng parasitism là gì? Là trạng thái ký sinh, được các nhà lý luận xô viết chuyển một cách tài tình thành tội ăn bám xã hội.

Đừng đi ra khỏi phòng. Cứ để mặc thế

Hít khói thuốc rẻ tiền, sao cần chi mặt trời

Bên ngoài cũng chẳng có gì, hạnh phúc cũng không

 

Don’t leave your room. This is better left undone.
You’ve got cheap smokes, so why should you need the sun?
Nothing makes sense outside, happiness least of all.

Bài thơ của Brodsky nói về dịch cúm Hồng Kông, giết hàng triệu người trên thế giới những năm 1968, 1969, bài thơ ấy năm mươi năm sau ứng nghiệm vào đại dịch Vũ Hán, tiên đoán ghê gớm.

Năm 1987, “Intifada” lần thứ nhất, người dân Palestine ở Gaza và Bờ Tây nổi loạn, chiếm đường phố, quân đội Israel dập tắt bằng hơi cay và súng cao su, Ahmed Yassin thành lập tổ chức Hamas, xuất thân từ tổ chức Anh em Hồi giáo Ai Cập, vốn chủ trương hòa bình, trước đó, Anh em Hồi giáo Ai cập được sự ủng hộ của Israel. Chính Hamas biến thành một tổ chức khủng bố, tấn công vào quân đội và cả dân thường Do Thái, ba mươi sáu năm sau, tháng 10, 2023, Hamas sẽ tập kích vào Israel, giết khoảng 1.400 người và bắt cóc 200 con tin, châm ngòi lửa cho khủng hoảng Trung Đông mới, thực ra cả dân tộc Palestine và dân tộc Do Thái đều có quyền sinh sống trên mảnh đất mà tổ tiên họ để lại, mảnh đất này vốn chồng lên nhau, nhưng họ đã không tìm được cách để thu xếp hòa bình như Arafat và Rabin năm nào.

Những năm tám mươi, tôi gặp một người bị bệnh SIDA.

Bên ngoài Intifida và SIDA, thế giới vui vẻ, họ sẽ nghe Madonna nữ hoàng nhạc Pop làm mưa làm gió với Like A Virgin, Như Gái Còn Trinh.

Like a virgin

Touched for a very first time

Like a virgin

When your heart beats next to mine

 

Như gái còn trinh

Được chạm lần đầu

Như em gái còn trinh

Bên nhau tim đập thình thình

Giọng Madonna ngọt như mật ong, nỗi sợ SIDA/ AIDS không làm cho nhân loại bớt điên cuồng vì yêu nhau, tình yêu nam nữ khác với tình cha mẹ hay anh em, mãnh liệt hơn, ích kỷ hơn, phản bội hơn, bất trắc hơn. Nhân loại cần bất trắc, nhưng đó không chỉ là sở hữu, nó không chia sẻ với người thứ ba vì trong tình yêu ấy hai trở thành một, một người trở thành lớn hơn chính mình, vì vậy nó không còn dung chứa điều gì khác, vậy, kỳ lạ thay, sở hữu ấy lại chứa trong mình tình yêu nhân loại, những năm tám mươi là những năm thần kỳ: chính nó xô ngã bức tường Bá Linh, những năm tám mươi của Maradona và Madonna, của Michael Jackson và Tina Turner:

What’s love got to do with it?

Nếu yêu em anh phải làm gì?

Và của Gorbachev và Reagan, của phi thuyền con thoi và sao chổi Halley, của công đoàn Đoàn Kết và cách mạng nhung và Havel, và Đổi mới ở Việt Nam, và những tác phẩm văn học xuất sắc, rồi tắt đèn, hé ra chút ân huệ nhỏ cho dân tộc cho Tướng về hưuNỗi buồn chiến tranh, và khép lại ngay lập tức, để một người, Nguyễn Huy Thiệp, lọt ra ngoài các xung đột dân tộc, và một người khác, Bảo Ninh, rơi trở lại cái bẫy chiến tranh, và cũng hệt như một nhà văn ở phía khác, Phan Nhật Nam, Bảo Ninh sẽ không bao giờ ra khỏi tâm thức đối đầu ta và địch, và của Trăm hoa vẫn nở trên quê hương ở Cali, Nhật Tiến chủ trương biên soạn, 1989, gồm bài viết của 27 nhà văn hải ngoại nghĩ về văn học trong nước 1986- 1989, đó là những lời tận đáy lòng của các nhà văn hải ngoại nghĩ về các nhà văn miền Bắc và trong nước, vậy mà những kẻ cực đoan đã tấn công Nhật Tiến, một nhà văn trong sáng như pha lê, một thuyền nhân, bạn tôi nhìn thấy cuốn sách của Nhật Tiến bị đốt trên đường phố Bolsa, bạn có muốn biết thêm gì nữa về thói a dua, sợ hãi uy quyền của người Việt? Thì đọc Nguyên Ngọc:Nếu tự anh không biết được trước cuộc đời hôm nay anh cần ca ngợi cái gì, đấu tranh chống cái gì, anh yêu ai ghét ai, anh phải yêu như thế nào và ghét như thế nào, thì anh còn là nhà văn cái nỗi gì!, nhưng những năm tám mươi cũng phát hiện ra năng lượng tối và phát hiện ra AIDS cùng lúc, và năm 1981 phi thuyền con thoi Columbia được phóng lên không gian, đánh dấu mốc mới trong chinh phục vũ trụ, và năm năm sau, 1986, phi thuyền con thoi Challenger phát nổ chỉ vài phút sau khi rời giàn phóng, mang theo bảy phi hành gia, trên TV, tôi thấy Reagan khóc.

Bao giờ tôi cũng dừng lại, dù làm việc gì, khi nhìn thấy một người đàn ông khóc, năm 1990, NASA phóng viễn vọng kính khổng lồ Hubble lên quỹ đạo; nó nhìn sâu vào không gian, gởi về các bức ảnh quý giá của vũ trụ bí ẩn, của các hố đen, năm 1986, sao chổi Halley trở lại, nó mở đường cho bộ phim Star Wars, trong khi ngồi coi Star Wars, Cuộc chiến tranh giữa các vì sao, và Back to the Future, Trở lại tương lai, vừa nấu nước sôi pha mì gói Đại Hàn, tôi vừa xem các phim bộ võ hiệp Hongkong, xem Trần Ngọc Liên thủ vai nàng Tiểu Long Nữ diễm ảo bị nạn trong bụi rậm, và những Vương Ngọc Yến của Trần Ngọc Liên 1982, Miêu Nhược Lan của Tăng Hoa Thiên, 1985, Triệu Minh của Lê Mỹ Nhàn, 1986, trong khi cô bạn gái người Việt gốc Hoa cùng nhà của tôi, suốt ngày coi phim Quỳnh Dao, những năm tám mươi nở rộ lý thuyết phê bình, có bốn lý thuyết căn bản: Phê bình mới, Giải cấu trúc hoặc hậu cấu trúc, Phê bình phân tâm học và lý thuyết Marxist. Chủ nghĩa hậu cấu trúc hoặc giải cấu trúc tấn công vào các định kiến hậu- Platon, nhấn mạnh sự hiện hữu và lời nói, dường như họ tin tưởng vào lời nói hơn là các văn bản viết. Đối với Barthes, Derrida, and Foucault, người đọc vắng mặt khi tác giả viết, và tác giả vắng mặt khi người đọc đọc.

-       Xin mời quý khách dùng trà?

July cúi gập người xuống ở ngưỡng cửa, bắt đầu một ngày như thể mỗi ngày đều là ngày của vị chủ nhân. Tiếng gõ cửa. Bảy giờ sáng. Trong lâu đài của thống đốc, trong những căn phòng khách sạn, trong những căn nhà dành riêng cho các ông chủ, các phòng ngủ quý phái – khay trà trong bàn tay đen đúa của anh thơm mùi xà phòng Lifebuoy. Tiếng gõ cửa một lần nữa.

Nadine Gordimer giải Nobel 1991, nhà văn Nam Phi, mẹ người Anh, cha người Lithuania, mở đầu cuốn tiểu thuyết Những người của chàng July với đoạn văn mô tả một ngày bình thường của đời sống một người da đen ở Nam Phi, cao điểm của cuộc xung đột trắng đen, cuộc khủng hoảng sẽ được kết thúc hơn mười năm sau, khi Nelson Mandela trở thành Tổng thống da đen đầu tiên, những năm tám mươi được đánh dấu bởi phương cách mà thế giới giải quyết nạn kỳ thị và họ đã giải quyết một cách tốt đẹp.

Những năm tám mươi, ngắm bức hình Mandela do giáo sư Khoa trưởng cho treo trên tường, tôi nghĩ: hòa giải dân tộc không làm thay đổi được quá khứ chiến tranh, nhưng làm thay đổi được tương lai của chúng ta, tôi ủng hộ những người kêu gọi hòa giải, với một điều kiện: bình đẳng từ hai phía, không có một điều gì bất bình đẳng, không công bằng, mà có thể tồn tại lâu: giữa người và người, nam và nữ, kẻ chiến thắng và người thua cuộc, dân cai trị và dân bị trị, dân tộc Kinh và các dân tộc miền núi, Do Thái và Ả Rập, bình đẳng không phải là giống nhau, đồng phục, không phải cứ kéo điện về các bản làng miền núi là bình đẳng, trái lại, chúng ta ra sức tàn phá các văn hóa bản địa bằng điện khí hóa và bằng du lịch và bằng di dân cơ học: văn hóa Hà Nội, văn hóa Sài Gòn, văn hóa Tây Nguyên, văn hóa Sapa, Nam Phi là tấm gương, không sáng lắm nhưng không quá mờ, cho các dân tộc khác noi theo, nhưng các dân tộc khác không noi theo, mấy năm sau: cuộc tàn sát ở Kosovo, hàng ngàn người dân bị giết, bị hãm hiếp, bị xua đuổi khỏi làng mạc của họ, và từ ngày 17 tháng 4 đến ngày 15 tháng 7 năm 1994, cuộc tàn sát ở Rwanda trong một trăm ngày, nửa triệu người Tutsi đã bị giết hại, hãm hiếp, chặt đứt tay chân, những năm tám mươi không phải là kẻ sáng tạo ra tội ác, nhân loại biết đến chúng trong các cuộc chiến tranh, trên thế giới và trên bán đảo Đông dương, nhưng những năm tám mươi không phải chỉ có tin buồn, nếu thế, bạn ta làm sao sống?

Những năm 1980, Pop bùng nổ, trong khi disco trở nên lạc hậu thì postdisco, eurodisco, dance sport trở nên thịnh hành, nhạc rock khai sinh từ những năm bảy mươi tiếp tục lan rộng, đôi khi chỉ với một cây đàn ghi ta, nhưng nhiều hơn là sự phối hợp âm nhạc kỳ lạ, những nhạc cụ điện tử tân tiến ngày càng được sử dụng, suốt những năm tám mươi, hip-hop làm mưa làm gió, trong một thế kỷ, những năm tám mươi là đỉnh cao của âm nhạc với Michael Jackson, Madonna, Whitney Houston, The Police, trong trại tỵ nạn, tôi được xem cuốn phim nhựa Tìm kiếm Susan một cách tuyệt vọng do Madonna thủ vai, I can’t believe it, nàng Susan nói, đó là ân huệ duy nhất từ những người giám sát trại tạm giam Bangkok, detention centre, cuốn phim làm tôi mê mẩn, thế còn Diana Ross? Và John Lennon, thế còn Susan Vega? Nhân loại chưa đủ vui thú sao? Thế kiều nữ Cindy Crawford, cao 1m75, nặng 59 ký, đến từ Illinois? Gần như ngay lập tức, Claudia Schiffer từ Đức, sánh vai, vượt lên với chiều cao 1m80, cân nặng 61 ký?  Xưa nay cái đẹp, và cái đẹp cơ thể phụ nữ, vẫn là quà tặng của thượng đế dành cho con người, sau những khổ đau kéo dài bất tận của họ, mang cho họ ảo tưởng lớn lao rằng chỉ có cái đẹp là cứu chuộc được thế giới.

Nhưng cái đẹp làm sao cứu chuộc thế giới?

Chỉ có lương tâm và trí tuệ mới làm được điều ấy.  

Cái đẹp không có một nhiệm vụ nào cả, mục đích của cái đẹp chính là nó, Dương Thu Hương: “Năm ấy, mẹ còn xuân sắc, con mắt không liếc ai, miệng không cười với ai, tình yêu làm họ thức dậy, như đám cháy sau hồi âm ỉ được dội thêm dầu”, nhiều năm sau, từ Pháp, chị sẽ viết trong một cuốn tiểu thuyết khác, Chốn vắng:  “Họ đứng tựa vào nhau nhìn những làn hơi trong suốt rung rinh như sóng, nhìn lũ rắn bóng nhảy trườn qua lối mòn, lắng nghe tiếng chim tức tưởi xa vời vang tới. Sự im lặng mê mệt trùm lên họ, truyện của Dương Thu Hương thường ám ảnh về thân phận của những người phụ nữ, tình yêu của họ, sự đau khổ, sự hy sinh của họ, văn của bà đẹp, đẹp mà giản dị, trực tiếp, sáng sủa, chi tiết nào ra chi tiết đó, như một người đã sống quá nhiều đã nghe quá nhiều chuyện, đã biết tất cả, khổ nhục và sự cao thượng làm người, và giờ đây kể lại cho chúng ta, khi thong thả khi gấp gáp, không phải bao giờ cũng bình tĩnh, toàn bộ những điều ấy làm tôi xúc động ngay khi vừa đọc lần đầu, vừa đứng vừa đọc, Những thiên đường mù, trước một hiệu sách của hội Việt kiều yêu nước, được viết 1987, được dịch ra tiếng Pháp 1988, Chốn vắng in tại Pháp 2002.  Năm 1985, sau mười năm tù cải tạo, Tô Thùy Yên được thả về:

Ngồi đây, nền cũ nhà hương hỏa
Đọc lại bài thơ buổi thiếu thời
Ai đó trong hồn ta thổn thức?
Vầng trăng còn tiếc cuộc rong chơi

Những năm tám mươi, chúng ta nói về điều gì khi chúng ta nói về tình yêu?

Raymond Carver, mở đầu một thời đại của truyện ngắn vốn bị khuất lấp giữa các bộ trường thiên tiểu thuyết, tạo ra một lối văn mới lạ và lãnh đạm, sự chú ý đối với đời sống bình thường của những kẻ tầm thường, sự buồn rầu của một cuộc đời không sự kiện, và vì vậy mà đáng yêu vô cùng, truyện của ông đầy giai thoại, những bí ẩn về cuộc đời hiện tại, những dịch chuyển văn hóa, chính Carver đã thay đổi cái nhìn của tôi đối với văn học và  đời sống, nhưng phải đến Alice Walker, với Màu hồng, Color purple, giải Pulitzer, mới mở mắt tôi về chân dung người phụ nữ, da đen, những đồi bại và sự đau khổ của họ, và khởi đầu thách thức các giá trị về quan hệ đồng phái, những năm tám mươi trong một cuộc thi tôi đã gặp một đề tài nói vềngười phụ nữ đồng tính và theo quan điểm của tâm lý học th ời ấy đó là một trường hợp bệnh hoạn, Walker là một trong những nhà văn da đen mà tôi theo đuổi suốt nhiều năm, những năm tám mươi, chúng ta có thể nào quên Don Delillo? Tiểu thuyết Tiếng động trắng, The White Noise, một cú đánh sửng sốt vào nền văn hóa đương đại, cảnh giác nhân loại về văn minh kỹ thuật, chủ nghĩa tiêu thụ, đã được cảnh báo ở Hoa Kỳ những năm tám mươi và bốn mươi năm sau lặp lại một cách chính xác ở các nước đang phát triển, châu Phi, châu Á, Việt Nam, Trung Hoa, tàn sát đến cùng các giá trị nhân văn, bạn không thể quên Tony Morrison, Nobel văn học với Kẻ yêu dấu, Beloved, gây chấn động, với lời văn khắc họa như lấy mũi dao khắc vào đá, trên các chuyến xe buýt, tàu điện ngầm, lúc trời mờ sáng, những chuyến đầu tiên, những chuyến cuối cùng, ở New York, tôi ngồi đọc Lịch sử vắn tắt của thời gian, A brief history of time, chính mấy chữ lịch sử của thời gian, cái nhan đề, hấp dẫn tôi, lúc ấy tôi chưa biết Stephen Hawking, đọc xong cuốn sách này tôi nhận ra rằng con người có thể du hành ngược về quá khứ, nhưng không thể đi tới tương lai, toàn bộ cuốn sách không có một câu nào như vậy, nhưng tôi suy ra, tất nhiên một cách không có gì khoa học, điều an ủi duy nhất là nếu con người có thể du hành vào quá khứ, dù chỉ trong một giây thì cũng có thể trong một giờ, dù trong một giờ thì cũng có thể trong nhiều năm, tôi muốn sửa chữa quá khứ của mình: trong chúng ta có ai không muốn điều ấy? Thực ra sửa chữa quá khứ chính là công việc lớn nhất của văn học.

Từ đầu thế kỷ hai mươi, hai hệ thống vật lý, thuyết tương đối mở rộng của Einstein, một lý thuyết giải thích lực hấp dẫn và cấu trúc của không thời gian ở mức độ vũ trụ, và cơ học lượng tử, sử dụng các nguyên lý về xác suất để mô tả các hiện tượng vật lý dưới nguyên tử, cho đến cuối những năm bảy mươi, chúng giải thích được tất cả hiện tượng, thế rồi, người ta nhận ra rằng có những chuyện chúng không làm được với vật lý học cổ điển và các lực cơ bản, một lý thuyết mới về lượng tử triển khai vào những năm tám mươi soi sáng rất nhiều thứ về cấu trúc hạt nhân nguyên tử và lỗ đen, gắn với tên tuổi của Stephen Hawking, những năm tôi theo học chương trình cử nhân toán, những ông thầy bắt đầu thì thào nói về một lý thuyết mới, hãy còn bí ẩn nhưng hấp dẫn hơn cả lực hấp dẫn, lý thuyết Dây hoặc Siêu dây, String theory, ở đó các hạt nhỏ bé của vật chất được xem là các sợi dây, và vũ trụ được dệt nên bởi chúng, các sợi rung động ấy, lý thuyết dây là một thuyết hấp dẫn lượng tử, thời tôi đi học, không có một trường đại học nào ờ Bắc Mỹ mà không chạy đôn chạy đáo kiếm cho ra một nhà lý thuyết siêu dây khiêng về làm giáo sư, không có một ông như thế thì trường tụt hạng ngay, những năm tám mươi, người ta phát hiện ra sự giãn nở của vũ trụ, té ra vũ trụ không đứng yên một chỗ, và sau vụ nổ lớn, trong một phần li ti nhỏ của một dây, vũ trụ bắt đầu giãn nở, và sự giãn nở ấy ngày một tăng lên do năng lượng tối.

Và thế là năng lượng tối tràn ngập những năm tám mươi của chúng ta. Năng lượng tối có thể còn cần phải chứng minh nhưng năng lượng xấu thì đầy rẫy thế gian, Liên Xô đưa quân vào Afghanistan, lặp lại sự sai lầm của người Mỹ tại Việt Nam và sẽ sa lầy ở đó, cuối những năm tám mươi, khi tôi bắt đầu đi thực tập ở bệnh viện, AIDS bùng nổ ở Hoa Kỳ, được xem là có nguồn gốc từ Phi châu. Năm 1982, năm trăm người Mỹ chết vì căn bệnh này, sau đó lan rộng trên toàn thế giới, con siêu vi trùng đã mang đi 35 triệu người, nhiều người tin rằng đó là lời cảnh giác của thượng đế đối với phong trào tự do tình dục.

Của những năm tám mươi, khi tôi về Việt Nam đến thăm một làng ở miền đông Nam Bộ, đó là làng quê hẻo lánh, nghèo khó, khi một con đường xa lộ lớn được mở ra, chính quyền thực hiện lệnh mua lại đất và di dời, đẩy giá nhà đất lên cao, trong một thời gian ngắn, những người nông dân bỗng trở nên giàu có đáng kinh ngạc, khi một người trở nên giàu có bất ngờ, anh ta không biết phải làm gì, một dân tộc như dân tộc Việt Nam cũng thế, một giai cấp cũng thế, khi người ta bỗng nhiên giàu lên một cách bất ngờ, khi người ta thắng cuộc một cách bất ngờ, khi người ta nắm được quyền lực một cách bất ngờ, khi người ta sở hữu một người đàn bà đẹp một cách bất ngờ, người ta trở nên luống cuống, hoặc anh ta trở nên tê liệt hoàn toàn, hoặc anh ta trở nên một kẻ cuồng dâm tàn bạo, thích uống tinh dịch của chính mình, những người xưa kia vốn nghèo khổ bỗng thấy mình có quá nhiều tiền đâm ra rượu chè cờ bạc, gái gú, trong vòng ba năm, tất cả những trai trẻ ở ngôi làng mà tôi đến thăm ấy đều bị nhiễm SIDA, chết hết.

Năm 1981, Tổng thống Reagan bị bắn bởi John Hinckley ngày 30 tháng 3, Hinckley bắn Tổng thống để lấy le với nữ diễn viên nổi tiếng Jody Foster, với Gorbachev và sự giải phóng của nhân dân Liên Xô và Đông Âu, sự sụp đổ của bức tường Bá Linh, cuộc chiến tranh lạnh kéo dài nửa thế kỷ kết thúc, thế giới không còn chia hai, nhân loại hòa hợp, nhiều người nghĩ tới Thiên đàng, đó là giấc mơ quái lạ, hễ khi nào nhân loại im tiếng súng, chợp mắt ngủ một lát, là họ mơ ngay tới cõi ấy.

Cho tôi một vé đi Thiên đàng.

Thưa bà, bà mua vé khứ hồi hay một chiều?

Con người ngây thơ hơn chúng ta tưởng, con người hồn hậu hơn các cuộc chiến tranh mà họ gây ra, các tội lỗi mà họ làm nên, chỉ cần mọi sự qua đi, chỉ cần binh đao kết thúc, chỉ cần được tha thứ, là họ quên đi, có đúng thế không, anh? Liên Hương hỏi tôi lúc chúng tôi đứng chờ xe lam ở bến xe miền Tây một ngày tháng chạp, một người con gái khác, hỏi tôi câu ấy trong một quán ăn mở khuya ở phố Tàu, New York, bốc mùi hành mỡ, rác và xác chuột thối rữa, ở đó, giữa những cảnh ấy, bàn tay của nàng thơm mùi xà phòng hiệu Dial có hương lavender, những năm tám mươi, ngồi trên chiếc sà lan trên biển đậu gần giàn khoan dầu của Anh, Canada, Mỹ, Đan Mạch, nhìn ngọn lửa rực rỡ trong đêm tối, như vũ nữ nhảy múa trong ngày hội, tôi nghĩ: Thượng đế trước đây là một người đàn bà.

Thế giới sai lầm, con người không hoàn toàn tự do ra khỏi tội lỗi của mình, tội lỗi của mỗi người, của một cộng đồng, của một dân tộc vây hãm chúng ta, không phải mọi thứ chúng ta đều nhớ lại, nhưng những giây phút đẹp nhất và những giây phút đau buồn nhất mãi ở lại trong ký ức của bạn, trong ký ức của nhân loại, và đến một lúc, chúng lên tiếng, đến một lúc, chúng muốn lặp lại chính mình, tội ác muốn sinh ra tội ác, sự hối hận muốn sinh ra sự hối hận, lòng thương tiếc sinh ra thương tiếc, ai đã nói thế? Có ai nói thế không? Milosz là nhà thơ Ba Lan và theo Brodsky có lẽ là nhà thơ lớn nhất thế kỷ 20, quan tâm đến lịch sử, luân lý, những niềm tin, làm thơ trong tiếng Ba Lan, t dịch sang tiếng Anh và viết thẳng trong tiếng Anh, Milosz cũng là một nhà phê bình, giải thưởng Nobel 1980, những năm tám mươi, lần đầu tiên tôi chứng kiến một hiện tượng kỳ lạ, một người bạn lái xe chở tôi về nhà, từ xa tôi thấy cánh cửa nhà để xe bật mở, mới đầu tôi nghĩ rằng có một người nào ở bên trong mở cửa cho chúng tôi, tuyệt không, là người say mê các hiện tượng vật lý, tôi bị ám ảnh, đó là sự khởi đầu của cái remote control, điều khiển từ xa, thời ấy có thể dùng siêu âm, sau này dùng tia hồng ngoại, cái điều khiển từ xa này đã chi phối tất cả thiên hạ đến nỗi chúng ta không thể nào tưởng tượng đời sống không có chúng, không phải khi nào bạn cũng yêu thích nó, khi chúng bị hỏng hóc, bạn chỉ muốn mở cửa xe bằng tay, ấn nút truyền hình bằng tay, con người chống lại công nghệ hóa nhưng vẫn say mê chúng, ký ức là một nơi chốn khó khăn, bạn muốn tới đó nhưng bạn không biết đường, đôi khi ký ức của con người phản bội họ, đôi khi lòng hoài niệm làm cho chúng ta trở nên đáng ghét so với người khác, không ai thâm nhập được vào cõi hoài niệm của chúng ta, ở đó chúng ta cất giữ những điều một mình mình biết một mình mình hay, khi bạn thất vọng, kỹ thuật giúp cho bạn rất nhiều: điện thoại, remote control, ti vi, khi bạn hạnh phúc, bạn cũng cần đến chúng, nhưng ít hơn nhiều, trong một căn nhà trống rỗng, đời sống của bạn trở nên đầy đủ vì các dụng cụ điện tử, bạn cảm thấy không cần một người nào khác nữa, cho đến khi quá muộn, vì có điện thoại thông minh, bạn cảm thấy không cần phải đọc sách nữa: chúng vừa nặng vừa tốn tiền, lách cách lỉnh kỉnh, không biết cất vào đâu, giờ đây những năm tám mươi chúng ta chỉ có remote control và khi gọi điện thoại về quê tôi phải làm hẹn với tổng đài điện thoại ở Sài Gòn và những người thân của tôi phải chầu chực rất lâu ở bưu điện, năm bảy lần gọi mới có một lần bắt được, lần đầu tiên tôi nghe được tiếng nói của mẹ trên điện thoại viễn liên, tiếng của bà như từ một thế giới nào, nhưng hôm ấy tôi may mắn vì nghe được từng chữ của người, tôi nghe lại được thứ tiếng Việt mà tôi nhớ, một ngôn ngữ lúc ấy ở đây vẫn còn lạ.