Danh ngôn
Trong mọi cộng đồng, chúng ta cần một nhóm thiên thần gây rối.
We need, in every community, a group of angelic troublemakers.
(Bayard Rustin – trích bài phát biểu tại New York City 1963)
Trong mọi trường hợp, chắc chắn rằng sự thiếu hiểu biết, đi kèm với quyền lực, là kẻ thù tàn bạo nhất có thể có của công lý.
It is certain, in any case, that ignorance, allied with power, is the most ferocious enemy justice can have.
(James Baldwin - No Name in the Street 1972)
Các cuộc cách mạng và các cá nhân có thể bị giết hại, nhưng bạn không thể giết chết các ý tưởng.
While revolutionaries and individuals can be murdered, you cannot kill ideas.
(Thomas Sankara, một tuần trước khi bị ám sát, 1987)
Không có cảm giác nào cô đơn hơn việc bị chính đất nước mình trục xuất.
There's not a more lonely feeling than to be banished by my own country.
(Kiyo Sato – Kiyo’s Story 2009)
Ban Biên tập
Địa chỉ liên lạc:
1. Thơ
tho.vanviet.vd@gmail.com
2. Văn
vanviet.van14@gmail.com
3. Nghiên cứu Phê Bình
vanviet.ncpb@gmail.com
4. Vấn đề hôm nay
vanviet.vdhn1@gmail.com
5. Thư bạn đọc
vanviet.tbd14@gmail.com
6. Tư liệu
vanviet.tulieu@gmail.com
7. Văn học Miền Nam 54-75
vanhocmiennam5475@gmail.com
Tra cứu theo tên tác giả
- A. A. Fadeev
- A. Puskin
- A. T.
- Abdulrazak Gurnah
- Abraham F. Lowenthal
- Ace Le
- Ace Lê
- Adam Gopnik
- Adonis
- Adrian Horton
- Agi Mishol
- Ajar
- Akiko Miki
- Alain Guillemin
- Alan Phan
- Alăng Văn Gáo
- Alăng Văn Giáo
- Albert Camus
- Aldous Huxley
- Aleksandr Griboedov
- Alesandr Blok
- Alex Marshall
- Alex Smith
- Alex Thai
- Alex-Thái Đình Võ
- Alexander Fadeev
- Alexander Solzhenitsyn
- Alexandra Alter
- Alexandre FERON
- Alice Munro
- Alina Lesik
- Alison Flood
- Allen Ginsberg
- Amanda Gorman
- Amartya Sen
- Amelia Glaser
- Amos Oz
- An Nam
- Anatole France
- Anatoly Gavrilov
- Anders Olsson
- André Breton
- André Menras
- André Menras – Hồ Cương Quyết
- André Menras Hồ Cương Quyết
- Andrea Hoa Pham
- Andrea Kendall-Taylor
- Andreas Fulda
- Andreas Wimmer
- Andrew Postman
- Andy Cao
- Anh Anh
- Anh Hồng
- Anh Hồng (nhà thơ)
- Ánh Liên
- Anh Nhi
- Anh Văn
- Anika Zeller
- Anna Akhmatova
- Anna Maria Bracale Ceruti
- Anna Mitchell
- Anne Carson
- Anne Cazaubon
- Anne Hébert
- Anne Henochowicz
- Annie Ernaux
- António Jacinto
- Antôn Nguyễn Trường Thăng
- Archimedes L.A. Patti
- Arlette Quỳnh Anh Trần
- Arnold Schwarzenegger
- Arthur Koestler
- Arty Abel
- Arvind Subramanian
- Augustina
- Aurélie Coulon
- Aurelien Breeden
- Ba Sàm
- Bá Thụ Đàm
- Bạch Cúc
- Bạch Hoàn
- Bách Mỵ
- Bách Thân
- Bạch X. Phẻ
- Bạch Xuân Phẻ
- Bakhtin
- Ban Mai
- Bàn Văn Thòn
- Ban Vận động Văn đoàn Độc lập Việt Nam
- Bảo Huân
- Bảo La
- Bảo Nhi Lê
- Bảo Ninh
- Bảo Phác
- Bão Vũ
- Barbara Demick
- Bashô
- Batrioldman
- Bauxite Việt Nam
- Bắc Đảo
- Bắc Phong
- Bằng Việt
- BB Ngô
- Bei Dao
- Benjamin Péret
- Benjamin Ramm
- Bertolt Brecht
- Bertrand Russell
- Bettina Rheims
- Bích Ngân
- Biếm họa
- Biên Cương
- Biệt Hiệu
- Bilahari Kausikan
- Bill Hayton
- Billy Collins
- Bình Nguyên Lộc
- Brahma Chellaney
- Branko Milanovic
- Brett Reilly
- Brian Pascus
- Brian Wu
- Brice Pedroletti
- Brodsky
- Bryan
- Bùi An
- Bùi Bảo Trúc
- Bùi Bích Hà
- Bùi Chát
- Bùi Chí Trung
- Bùi Chí Vinh
- Bùi Công Thuấn
- Bùi Công Trực
- Bùi Đức Lại
- Bùi Giáng
- Bùi Hải Quảng
- Bùi Hoàng Tám
- Bùi Hoằng Vị
- Bùi Huệ Chi
- Bui Huy Hoi Bui
- Bùi Mai Hạnh
- Bùi Mạnh Hùng
- Bùi Mẫn Hân
- Bùi Minh Quốc
- Bùi Ngọc Tấn
- Bùi Quang Thắng
- Bùi Suối Hoa
- Bùi Thanh Hiếu
- Bùi Thanh Phương
- Bùi Thanh Tuấn
- Bùi Thụy Băng
- Bùi Tiến An
- Bùi Trân Phượng
- Bùi Trọng Hiền
- Bùi Văn Kha
- Bùi Văn Nam Sơn
- Bùi Việt Sỹ
- Bùi Vĩnh Phúc
- Bùi Xuân Bách
- Bùi Xuân Đính
- Bùi-Viết Văn Đức
- Bulgakov
- Bửu Chỉ
- C.D.
- Cái Lư Hương
- Cái Trọng Ty
- Cam Ly
- Cảnh Chánh
- Cao Bảo Vân
- Cao Bình Minh
- Cao Chi
- Cao Gia An
- Cao Hành Kiện
- Cao Huy Thuần
- Cao Kim Ánh
- Cao La
- Cao Quang Nghiệp
- Cao Tần
- Cao Thị Hồng
- Cao Thu Cúc
- Cao Việt Dũng
- Cao Xuân Hạo
- Cao Xuân Huy
- Carl Bildt
- Carl O. Schuster
- Carlos Assunção
- Carolyn Mary Kleefeld
- Cát Linh
- Cẩm Tú
- Cấn Thị Thêu
- Chan Phuong
- Chanh Tam
- Charles Bo
- Charles Bukowski
- Charles Simic
- Chau Doan
- Chân Minh
- Chân Pháp Xa
- Chân Phương
- Chân Xuân Tản Viên
- Châu Diên
- Châu Hải Đường
- Châu Hồng Thủy
- Châu Hữu Quang
- Chenn
- Chế Diễm Trâm
- Chế Lan Viên
- Chi Mai
- Chi Phương
- Chiêu Dương
- Chiêu Khiêm
- Chiharu Shiota
- Chim Hải
- Chim Trắng
- Chinh Ba
- Chính Tâm
- Chính Vĩ
- Chinua Achebe
- Chơn Không Cao Ngọc Phượng
- Christian Gampert
- Christian Welzel
- Christina Mary Hjortlund
- Christoph Giesen
- Christoph Sator
- Christopher Balding
- Christopher Goscha
- Christy Wampole
- Chu Dương
- Chu Hảo
- Chu Hoạch
- Chu Kim
- Chu Mộng Long
- Chu Quang Tiềm
- Chu Tử
- Chu Văn Lễ
- Chu Văn Sơn
- Chu Vĩnh Hải
- Chu Vương Miện
- Chu Xuân Diên
- Chung Le
- Claire Simon
- Clay Phạm
- Concepcion de Leon
- Connie Hoàng
- Cora Engelbrecht
- Costica Bradatan
- Cổ Ngư
- Cù An Hưng
- Cù Huy Hà Vũ
- Cù Mai Công
- Cù Tuấn
- Cung Minh Huân
- Cung Tích Biền
- Cung Trầm Tưởng
- D. S. Likhachev
- Da Màu
- Dạ Ngân
- Dạ Thảo Phương
- Dã Tượng
- DAD
- Dadolin Murak
- Damien Keown
- Dan Bilefsky
- Dan Slater
- Dana Gioia
- Danh ngôn
- Dani Rodrik
- Daniel Halpern
- Daniel Hautzinger
- Daron Accemoglu
- David Brown
- David Gascoyne
- David Marchese
- David Weinberger
- Ðặng Thơ Thơ
- Demetrio Paparoni
- DEUTSCHE WELLE
- Di
- Di Li
- Diêm Liên Khoa
- Diễm Thi
- Diễm Tường
- Diễn đàn Thế kỷ
- Diệp Duy Liêm
- Diệp Huy
- Ðinh Cường
- Dino Buzatti
- Dipanjan Roy Chaudhury
- Dmitri Prokofyev
- Dmitry Burago
- Dmitry Muratov
- Doãn Cẩm Liên
- Doãn Mạnh Dũng
- Doãn Mẫn
- Doãn Quốc Sỹ
- Dominique Lemieux
- Donald Inglehart
- Donna Ashworth
- Ðỗ Quang Nghĩa
- Ðỗ Quyên
- Du Tử Lê
- Dung Nguyễn
- Dũng Phan
- Dũng Trung Kqd
- Dũng Vũ
- Duy Lam
- Duy Tân
- Duy Thanh
- Duy Thông
- Duyên Anh
- Duyên Khánh
- Dư Hoa
- Dư Kiệt
- Dư Thị Hoàn
- Dư Thu Vũ
- Dương Đại Triều Lâm
- Dương Đình Giao
- Dương Khánh Phương
- Dương Kiền
- Dương Ngạn
- Dương Nghiễm Mậu
- Dương Ngọc Thái
- Dương Như Nguyện
- Dương Phương Vinh
- Dương Thắng
- Dương Thiệu Tước
- Dương Thu Hương
- Dương Thuấn
- Dương Tú
- Dương Tường
- Dương Văn Ba
- Dylan Suher
- Đà Văn
- Đàm Hà Phú
- Đàm Hách Thành
- Đào An Khánh
- Đào Anh Kha
- Đào Công Tiến
- Đào Duy Anh
- Đào Hiếu
- Đào Lê Na
- Đào Ngọc Chương
- Đào Nguyên
- Đào Nguyễn
- Đào Nguyên Phương Thảo
- Đào Như
- Đào Phương Liên
- Đào Quang Toản
- Đào Tấn Phần
- Đào Thái Tôn
- Đào Thị Hương
- Đào Tiến Thi
- Đào Trung Đạo
- Đào Trường Phúc
- Đào Tuấn
- Đào Tuấn Ảnh
- Đào Văn Thuỵ
- Đào Văn Tiến
- Đào Vũ Anh Hùng
- Đặng Anh Đào
- Đặng Bích Phượng
- Đặng Chương Ngạn
- Đặng Đình Cung
- Đặng Đình Mạnh
- Đặng Hà
- Đặng Hải Sơn
- Đặng Hoàng Giang
- Đặng Hồng Nam
- Đặng Hùng Võ
- Đặng Hương Giang
- Đặng Hữu
- Đặng Mai Lan
- Đặng Mậu Tựu
- Đăng Nguyên
- Đặng Phùng Quân
- Đặng Quốc Thông
- Đặng Sơn Duân
- Đặng Thái
- Đăng Thành
- Đặng Thân
- Đặng Thị Hảo
- Đặng Thơ Thơ
- Đặng Tiến
- Đặng Tiến (Thái Nguyên)
- Đặng Trung Nghĩa
- Đặng Túy
- Đặng Văn Dũng
- Đặng Văn Hùng
- Đặng Văn Ngữ
- Đặng Văn Sinh
- Đặng Vũ Vương
- Đặng Xuân Thảo
- Đặng Xuân Xuyến
- Đằng-Giao
- Điểm Thọ
- Đinh Bá Anh
- Đinh Cường
- Đinh Hoàng Thắng
- Đinh Hùng
- Đình Kính
- Đinh Linh
- Đinh Ngọc Thu
- Đinh Phương
- Đinh Phương Thảo
- Đinh Quang Anh Thái
- Đinh Thanh Huyền
- Đinh Thị Như Thúy
- Đinh Trường Chinh
- Đinh Từ Bích Thuý
- Đinh Từ Bích Thúy
- Đinh Văn Đức
- Đinh Vũ Hoàng Nguyên
- Đinh Ý Nhi
- Đinh Yên Thảo
- Đoàn Ánh Thuận
- Đoàn Bảo Châu
- Đoàn Cầm Thi
- Đoàn Công Lê Huy
- Đoàn Hồng Lê
- Đoàn Huy Giao
- Đoàn Huyền
- Đoàn Khắc Xuyên
- Đoàn Lê Giang
- Đoàn Nhã Văn
- Đoàn Thanh Liêm
- Đoan Trang
- Đoàn Tùng Nguyễn
- Đoàn Tử Huyến
- Đoàn Việt Hùng
- Đoàn Xuân Kiên
- Đỗ Anh Hoa
- Đỗ Anh Tuấn
- Đỗ Cao Bảo
- Đỗ Duy Ngọc
- Đỗ Đức
- Đỗ Đức Đông Ngàn
- Đỗ Đức Hiểu
- Đỗ Hòa
- Đỗ Hoàng Diệu
- Đỗ Hồng Ngọc
- Đỗ Hồng Nhung
- Đỗ Hữu Chí
- Đỗ Kh
- Đỗ Kh.
- Đỗ Khiêm
- Đỗ Kim Thêm
- Đỗ Lai Thuý
- Đỗ Lai Thúy
- Đỗ Lê Anh Đào
- Đỗ Mạnh Hoàng
- Đỗ Minh Tuấn
- Đỗ Nghê
- Đỗ Ngọc
- Đỗ Ngọc Thống
- Đỗ Quang Nghĩa
- Đỗ Quang Vinh
- Đỗ Quý Toàn
- Đỗ Quyên
- Đỗ Quỳnh Dao
- Đỗ Thắng Cảnh
- Đỗ Thị Thu Trà
- Đỗ Thiên Anh Tuấn
- Đỗ Trí Vương
- Đỗ Trọng Khơi
- Đỗ Trung Quân
- Đỗ Trường
- Đỗ Tuyết Khanh
- Đồng Chuông Tử
- Đông Hoài
- Đông Hồ
- Đông Kha
- Đông Ngàn Đỗ Đức
- Đông Nghi
- Đức Ban
- Đức Đàm
- Đức Flying Bay
- Đức Hoàng
- Đức Lê
- Đức Phổ
- Đức Tâm
- Đức Tiến
- E.E. Cummings
- E.M. Chernoivanenko
- Eamonn Butler
- Eckart Kleßmann
- Eduardo Galeano
- Edward Hirsch
- Elena Pucillo Truong
- Elias Canetti
- Ellen Bass
- Eloisa Amezcua
- Emiel Roothooft
- Emmanuelle Jardonnet
- Eric Weiner
- Erica Frantz
- Erik Harms
- Erik Korling
- Euan Ward
- Evgheni Dobrenko
- F.N.
- Federico García Lorca
- Feliks Kuznesov
- Filip Lech
- Flanny O’Connor
- Florence Noiville
- Florian Altenhöner
- Francis Fukuyama
- Francis Fukuyma
- Frank Dikötter
- Frank O'Hara
- Frankfurt
- Fred Hiatt
- Friedrich Dürrenmatt
- Friedrich Nietzsche
- Fritz J. Raddatz
- Gabriel García Márquez
- Gaither Stewart
- Gaiutra Bahadur
- Gary Leupp
- Gặp gỡ và trò chuyện
- Georg Bönisch
- Georg Trakl
- George Burchett
- George Orwell
- George Perreault
- George Siemens
- Georges Condominas
- Gerhard Will
- Germain Droogenbroodt
- Giang Dang
- Giang Lại Đức
- Giang Nam
- Giáng Vân
- Giáp Văn Dương
- Gideon Rachman
- Giuse Lê Công Đức
- Goethe
- Gonçalo Fernandes
- Gottfried Benn
- Graham Allison
- Grigory Yudin
- Günter Kunert
- Gyảng Anh Iên
- Hà Duy Phương
- Hà Dương Tuấn
- Hà Dương Tường
- Hà Đình Nguyên
- Hạ Đình Nguyên
- Hà Huy Sơn
- Hà Hương
- Hà Lệ Minh
- Hà Ngọc Hòa
- Hạ Nguyên
- Hà Nguyên Du
- Hà Nhân
- Hà Nhật
- Hà Phạm Phú
- Hà Quang Vinh
- Hà Sĩ Phu
- Hà Thanh Vân
- Hà Thế
- Hà Thị Minh Đạo
- Hà Thúc Sinh
- Hà Thủy Nguyên
- Hà Tùng Long
- Hà Tùng Sơn
- Hà Văn Thịnh
- Hà Văn Thùy
- Hà Vũ Trọng
- Hagi Kenaan
- Hai An Vu
- Hải Hạc
- Hải Ngọc
- Hai Thanh
- Han Dang
- Hàn Giang
- Han Kang
- Hàn Vĩnh Diệp
- Hạnh Nguyên
- Hạnh Phước
- Hạnh Viên
- Hannah Beech
- Hào Thiện Nhân
- Haruki Murakami
- Hân Hương
- Heiko Buschke
- Heinrich Heine
- Henri Michaux
- Henry David Thoreau
- Henry Wadsworth Longfellow
- Heriberto Araújo
- Hermann Hesse
- Hiền Trang
- Hiệp Ikaria
- Hiệu Minh
- Hiếu Tân
- Ho Lai-Ming
- Hòa Bình Lê
- Hoa Níp
- Hoài Hương
- Hoài Nam
- Hoài Phương
- Hoài Thanh
- Hoài Việt
- Hoài Ziang Duy
- Hoan Doan
- Hoàn Nguyễn
- Hoàng Ánh
- Hoàng Anh Tuấn
- Hoàng Cát
- Hoàng Cầm
- Hoàng Chí Hiếu
- Hoàng Chính
- Hoàng Cường Long
- Hoàng Dũng
- Hoàng Dương Tuấn
- Hoàng Đăng Khoa
- Hoàng Đỗ
- Hoàng Đông
- Hoàng Đức Truật
- Hoàng Hà
- Hoàng Hải Thủy
- Hoàng Hải Vân
- Hoảng Hãn
- Hoàng Hưng
- Hoàng Khởi Phong
- Hoàng Kim Oanh
- Hoàng Lại Giang
- Hoàng Lan
- Hoàng Lan Anh
- Hoàng Lan Chi
- Hoàng Lê
- Hoàng Lệ
- Hoàng Linh
- Hoàng Long
- Hoàng Mai Ðạt
- Hoàng Mạnh Hải
- Hoàng Minh Trí
- Hoàng Minh Tường
- Hoàng Nam
Những năm tám mươi (1)
Nguyễn Đức Tùng
Lịch sử được
viết như thế này thì học sinh, sinh viên sẽ mê môn sử ngay, anh ạ. Cám ơn anh.
Nhà thơ Ý Nhi
Những năm tám mươi tôi đến Canada, sau hai tuần lễ hưởng
tiền trợ cấp của chính phủ, tôi lao vào cuộc sống mới, làm việc như điên để
quên đi và để không ngã xuống trên một đất nước xa lạ, thế rồi một ngày sau hơn
một tháng làm việc trong trạm đổ xăng, trong tuyết, tôi quyết định yêu nó.
Nữ
thẩm phán Savelyeva: Anh làm nghề gì?
Brodsky:
Tôi làm thơ. Tôi dịch. Tôi nghĩ thế…
Thẩm
phán: Không nghĩ với suy gì cả. Đứng thẳng người lên! Đừng
dựa vào tường như thế, hãy nhìn
tòa.
Trả lời cho đúng!
(Hướng
về phóng viên) Dừng
ngay việc ghi ghi chép chép, nếu không ta sẽ ném cô ra khỏi cửa! (Hướng
về Brodsky) Anh
có công việc thường xuyên không?
Brodsky: Tôi
nghĩ là đây là công việc thường xuyên của tôi.
Thẩm phán: Trả lời
đàng hoàng coi!
Brodsky:
Tôi làm thơ, tôi nghĩ là chúng sẽ được in ra, tôi nghĩ thế.
Thẩm phán: Tòa không muốn nghe anh nghĩ cái gì. Hãy trả lời
xem tại sao anh không chịu làm việc.
Brodsky: Tôi
làm việc chứ. Tôi làm thơ mà.
Thẩm phán: Tòa
không muốn nghe chuyện ấy. Tòa muốn biết anh làm việc ở cơ quan nào.
Brodsky: Tôi
có một vài hợp đồng với nhà xuất bản sách.
Thẩm phán: Anh có đủ hợp đồng để nuôi sống bản
thân không? Hãy liệt kê chúng ra, những thứ gì, ngày tháng, bao tiền?
Brodsky: Tôi
không nhớ chính xác, tất cả hợp đồng đều ở trong tay của luật sư của tôi.
Thẩm phán: Tôi đang hỏi anh.
Brodsky: Hai
cuốn sách gồm có những bản dịch của tôi được xuất bản ở Mạc Tư Khoa... (Anh kể
tên chúng).
Thẩm phán: Anh
làm việc trong bao lâu?
Brodsky: Khoảng
chừng...
Thẩm phán: Tòa
không muống nghe chữ “khoảng chừng”!
Brodsky: Năm
năm.
Thẩm phán: Anh
làm việc ở đâu?
Brodsky: Trong
một nhà máy. Với những nhóm địa chất…
Thẩm phán: Anh
làm việc ở nhà máy trong bao lâu?
Brodsky: Một
năm.
Thẩm phán: Anh
làm gì ở đó?
Brodsky: Tôi là thợ điểu khiển máy phay.
Thẩm phán: Nhưng nói chung, nghề
nghiệp chính
của anh là cái
gì?
Brodsky: Nghề nghiệp của
tôi là nhà thơ, người dịch thơ.
Thẩm phán: Ai gọi
anh là nhà thơ? Ai đưa anh vào đẳng
cấp các nhà thơ?
Brodsky: Không có ai cả. (Nói
thêm) Thế ai bầu tôi
làm con người?
Thẩm phán: Anh có học cái này chưa?
Brodsky: Học cái gì ạ?
Thẩm phán: Học làm thơ? Anh còn chưa chịu học hết trung học
là nơi người ta chuẩn bị cho... dạy cho các anh cách làm thơ...
Brodsky: Tôi không nghĩ rằng người ta có thể học nó từ
nhà trường.
Thẩm phán: Sao không?
Brodsky: Tôi nghĩ là... (bối rối)... chúng đến từ Đức Chúa Trời.
Đó là trích đoạn một tường trình về hai phiên tòa tháng Hai và
tháng Ba 1964 bởi Frieda Vigdorova hội viên Hội Nhà văn Leningrad, trên tờ Coll yer Bowen for The New Leader, 31
tháng 8 năm 1964, và sau đó trên The New York Times (1), hai
mươi ba năm sau, năm 1987, chàng trai đứng trước tòa bị kết án năm năm tù vì tội “parasitism”, được trao giải Nobel,
đánh dấu chặng đường dài mà nhân loại đi xuyên qua bức
màn tre, cùng thi sĩ, đó là một năm vui vẻ: làn sóng
người vượt biển tăng cao trở lại, các nước Canada, Mỹ, Úc, châu Âu nhận thêm
nhiều người mới, cộng đồng người Việt hải ngoại phát triển nhanh; trước cửa các
tiệm gởi quà cứu giúp về cho đồng bào khốn khổ, người xếp hàng nườm nượp.
Nhưng parasitism là gì? Là trạng thái ký sinh, được
các nhà lý luận xô viết chuyển một cách tài tình thành tội ăn bám xã hội.
Đừng đi ra khỏi phòng. Cứ để mặc thế
Hít khói thuốc rẻ
tiền, sao cần chi mặt trời
Bên ngoài cũng chẳng có gì, hạnh phúc cũng không
Bài thơ của Brodsky nói về dịch cúm Hồng Kông, giết hàng triệu người trên
thế giới những năm 1968, 1969, bài thơ ấy năm mươi
năm sau ứng nghiệm vào đại dịch Vũ Hán, tiên đoán ghê
gớm.
Năm 1987, “Intifada” lần thứ nhất, người dân Palestine
ở Gaza và Bờ Tây nổi loạn, chiếm đường phố, quân đội Israel dập tắt bằng hơi
cay và súng cao su, Ahmed Yassin thành lập tổ chức Hamas, xuất thân từ tổ chức Anh
em Hồi giáo Ai Cập, vốn chủ trương hòa bình, trước đó, Anh em Hồi giáo Ai cập được
sự ủng hộ của Israel. Chính Hamas biến thành một tổ chức khủng bố, tấn công vào
quân đội và cả dân thường Do Thái, ba mươi sáu năm sau, tháng 10, 2023, Hamas sẽ
tập kích vào Israel, giết khoảng 1.400 người và bắt cóc 200 con tin, châm ngòi
lửa cho khủng hoảng Trung Đông mới, thực ra cả dân tộc Palestine và dân tộc Do
Thái đều có quyền sinh sống trên mảnh đất mà tổ tiên họ để lại, mảnh đất này vốn
chồng lên nhau, nhưng họ đã không tìm được cách để thu xếp hòa bình như Arafat
và Rabin năm nào.
Những năm tám mươi, tôi gặp một người bị bệnh SIDA.
Bên ngoài Intifida và SIDA, thế giới vui vẻ, họ sẽ
nghe Madonna nữ hoàng nhạc Pop làm mưa làm gió với Like A Virgin, Như
Gái Còn Trinh.
Like
a virgin
Touched
for a very first time
Like
a virgin
When
your heart beats next to mine
Như
gái còn trinh
Được
chạm lần đầu
Như
em gái còn trinh
Bên
nhau tim đập thình thình
Giọng Madonna ngọt như mật ong, nỗi sợ SIDA/ AIDS
không làm cho nhân loại bớt điên cuồng vì yêu nhau, tình yêu nam nữ khác với
tình cha mẹ hay anh em, mãnh liệt hơn, ích kỷ hơn, phản bội hơn, bất trắc hơn. Nhân
loại cần bất trắc, nhưng đó không chỉ là sở hữu, nó không chia sẻ với người thứ
ba vì trong tình yêu ấy hai trở thành một, một người trở thành lớn hơn chính
mình, vì vậy nó không còn dung chứa điều gì khác, vậy, kỳ lạ thay, sở hữu ấy lại
chứa trong mình tình yêu nhân loại, những năm tám mươi là những năm thần kỳ:
chính nó xô ngã bức tường Bá Linh, những năm tám mươi của Maradona và Madonna, của
Michael Jackson và Tina Turner:
What’s love got to do with it?
Nếu yêu em anh phải làm gì?
Và của Gorbachev và Reagan, của phi thuyền con thoi và
sao chổi Halley, của công đoàn Đoàn Kết và cách mạng nhung và Havel, và Đổi mới
ở Việt Nam, và những tác phẩm văn học xuất sắc, rồi tắt đèn, hé ra chút ân huệ nhỏ
cho dân tộc cho Tướng về hưu và Nỗi buồn chiến tranh, và khép lại
ngay lập tức, để một người, Nguyễn Huy Thiệp, lọt ra ngoài các xung đột dân tộc,
và một người khác, Bảo Ninh, rơi trở lại cái bẫy chiến tranh, và cũng hệt như một
nhà văn ở phía khác, Phan Nhật Nam, Bảo Ninh sẽ không bao giờ ra khỏi tâm thức
đối đầu ta và địch, và của Trăm hoa vẫn nở trên quê hương ở Cali, Nhật
Tiến chủ trương biên soạn, 1989, gồm bài viết của 27 nhà văn hải ngoại nghĩ về
văn học trong nước 1986- 1989, đó là những lời tận đáy lòng của các nhà văn hải
ngoại nghĩ về các nhà văn miền Bắc và trong nước, vậy mà những kẻ cực đoan đã tấn
công Nhật Tiến, một nhà văn trong sáng như pha lê, một thuyền nhân, bạn tôi
nhìn thấy cuốn sách của Nhật Tiến bị đốt trên đường phố Bolsa, bạn có muốn biết
thêm gì nữa về thói a dua, sợ hãi uy quyền của người Việt? Thì đọc Nguyên Ngọc: “Nếu tự anh không biết được trước cuộc đời hôm nay anh cần ca ngợi
cái gì, đấu tranh chống cái gì, anh yêu ai ghét ai, anh phải yêu như thế nào và
ghét như thế nào, thì anh còn là nhà văn cái nỗi gì!”, nhưng
những năm tám mươi cũng phát hiện ra năng lượng tối và phát hiện ra AIDS cùng
lúc, và năm 1981 phi thuyền con thoi Columbia được phóng lên không gian, đánh dấu
mốc mới trong chinh phục vũ trụ, và năm năm sau, 1986, phi thuyền con thoi
Challenger phát nổ chỉ vài phút sau khi rời giàn phóng, mang theo bảy phi hành
gia, trên TV, tôi thấy Reagan khóc.
Bao giờ tôi cũng dừng lại, dù làm việc gì, khi nhìn thấy
một người đàn ông khóc, năm 1990, NASA phóng viễn vọng kính khổng lồ Hubble lên
quỹ đạo; nó nhìn sâu vào không gian, gởi về các bức ảnh quý giá của vũ trụ bí ẩn,
của các hố đen, năm 1986, sao chổi Halley trở lại, nó mở đường cho bộ phim Star
Wars, trong khi ngồi coi Star Wars, Cuộc chiến tranh giữa các vì
sao, và Back to the Future, Trở lại tương lai, vừa nấu nước
sôi pha mì gói Đại Hàn, tôi vừa xem các phim bộ võ hiệp Hongkong, xem Trần Ngọc
Liên thủ vai nàng Tiểu Long Nữ diễm ảo bị nạn trong bụi rậm, và những Vương Ngọc
Yến của Trần Ngọc Liên 1982, Miêu Nhược Lan của Tăng Hoa Thiên, 1985, Triệu
Minh của Lê Mỹ Nhàn, 1986, trong khi cô bạn gái người Việt gốc Hoa cùng nhà của
tôi, suốt ngày coi phim Quỳnh Dao, những năm tám mươi nở rộ lý thuyết phê bình, có bốn
lý thuyết căn bản: Phê bình mới, Giải
cấu trúc hoặc hậu cấu trúc, Phê bình phân tâm học và lý thuyết
Marxist. Chủ nghĩa hậu cấu trúc hoặc giải cấu trúc tấn công vào các định kiến hậu- Platon, nhấn mạnh sự hiện hữu và lời nói,
dường như họ tin tưởng vào lời nói
hơn là các văn bản viết. Đối với Barthes, Derrida, and Foucault, người đọc vắng
mặt khi tác giả viết, và tác giả vắng mặt khi người đọc đọc.
- Xin mời quý khách dùng trà?
July
cúi gập người xuống ở ngưỡng cửa, bắt đầu một ngày như thể mỗi ngày đều là ngày
của vị chủ nhân. Tiếng gõ cửa. Bảy giờ sáng. Trong lâu đài của thống đốc, trong
những căn phòng khách sạn, trong những căn nhà dành riêng cho các ông chủ, các
phòng ngủ quý phái – khay trà trong bàn tay đen đúa của anh thơm mùi xà phòng
Lifebuoy. Tiếng gõ cửa một lần nữa.
Nadine Gordimer giải Nobel 1991, nhà văn Nam Phi, mẹ người
Anh, cha người Lithuania, mở đầu cuốn tiểu thuyết Những người của chàng July
với đoạn văn mô tả một ngày bình thường của đời sống một người da đen ở Nam
Phi, cao điểm của cuộc xung đột trắng đen, cuộc khủng hoảng sẽ được kết thúc
hơn mười năm sau, khi Nelson Mandela trở thành Tổng thống da đen đầu tiên, những
năm tám mươi được đánh dấu bởi phương cách mà thế giới giải quyết nạn kỳ thị và
họ đã giải quyết một cách tốt đẹp.
Những năm tám mươi, ngắm bức hình Mandela do giáo sư Khoa
trưởng cho treo trên tường, tôi nghĩ: hòa giải dân tộc không làm thay đổi được
quá khứ chiến tranh, nhưng làm thay đổi được tương lai của chúng ta, tôi ủng hộ
những người kêu gọi hòa giải, với một điều kiện: bình đẳng từ hai phía, không
có một điều gì bất bình đẳng, không công bằng, mà có thể tồn tại lâu: giữa người
và người, nam và nữ, kẻ chiến thắng và người thua cuộc, dân cai trị và dân bị
trị, dân tộc Kinh và các dân tộc miền núi, Do Thái và Ả Rập, bình đẳng không phải
là giống nhau, đồng phục, không phải cứ kéo điện về các bản làng miền núi là
bình đẳng, trái lại, chúng ta ra sức tàn phá các văn hóa bản địa bằng điện khí
hóa và bằng du lịch và bằng di dân cơ học: văn hóa Hà Nội, văn hóa Sài Gòn, văn
hóa Tây Nguyên, văn hóa Sapa, Nam Phi là tấm gương, không sáng lắm nhưng không
quá mờ, cho các dân tộc khác noi theo, nhưng các dân tộc khác không noi theo, mấy
năm sau: cuộc tàn sát ở Kosovo, hàng ngàn người dân bị giết, bị hãm hiếp, bị
xua đuổi khỏi làng mạc của họ, và từ ngày 17 tháng 4 đến ngày 15 tháng 7 năm
1994, cuộc tàn sát ở Rwanda trong một trăm ngày, nửa triệu người Tutsi đã bị giết
hại, hãm hiếp, chặt đứt tay chân, những năm tám mươi không phải là kẻ sáng tạo
ra tội ác, nhân loại biết đến chúng trong các cuộc chiến tranh, trên thế giới
và trên bán đảo Đông dương, nhưng những năm tám mươi không phải chỉ có tin buồn,
nếu thế, bạn ta làm sao sống?
Những năm 1980, Pop bùng nổ, trong khi disco trở nên lạc
hậu thì postdisco, eurodisco, dance sport trở nên thịnh hành, nhạc rock khai
sinh từ những năm bảy mươi tiếp tục lan rộng, đôi khi chỉ với một cây đàn ghi
ta, nhưng nhiều hơn là sự phối hợp âm nhạc kỳ lạ, những nhạc cụ điện tử tân tiến
ngày càng được sử dụng, suốt những năm tám mươi, hip-hop làm mưa làm gió, trong
một thế kỷ, những năm tám mươi là đỉnh cao của âm nhạc với Michael Jackson,
Madonna, Whitney Houston, The Police, trong trại tỵ nạn, tôi được xem cuốn phim
nhựa Tìm kiếm Susan một cách tuyệt vọng do Madonna thủ vai, I can’t
believe it, nàng Susan nói, đó là ân huệ duy nhất từ những người giám sát trại
tạm giam Bangkok, detention centre, cuốn phim làm tôi mê mẩn, thế còn Diana
Ross? Và John Lennon, thế còn Susan Vega? Nhân loại chưa đủ vui thú sao? Thế kiều
nữ Cindy Crawford, cao 1m75, nặng 59 ký, đến từ Illinois? Gần như ngay lập tức,
Claudia Schiffer từ Đức, sánh vai, vượt lên với chiều cao 1m80, cân nặng 61 ký?
Xưa nay cái đẹp, và cái đẹp cơ thể phụ nữ,
vẫn là quà tặng của thượng đế dành cho con người, sau những khổ đau kéo dài bất
tận của họ, mang cho họ ảo tưởng lớn lao rằng chỉ có cái đẹp là cứu chuộc được
thế giới.
Nhưng cái đẹp làm sao cứu chuộc thế giới?
Chỉ có lương tâm và trí tuệ mới làm được điều ấy.
Cái đẹp không có một nhiệm vụ nào cả, mục đích của cái
đẹp chính là nó, Dương Thu Hương: “Năm ấy, mẹ còn xuân sắc, con mắt không liếc ai, miệng
không cười với ai, tình yêu làm họ thức dậy,
như đám
cháy sau hồi âm ỉ được dội thêm dầu”,
nhiều
năm sau, từ Pháp, chị sẽ viết trong một cuốn tiểu
thuyết khác, Chốn vắng: “Họ đứng tựa vào nhau nhìn những làn hơi trong suốt
rung rinh như sóng, nhìn lũ rắn bóng nhảy trườn qua lối mòn, lắng nghe tiếng
chim tức tưởi xa vời vang tới. Sự im lặng mê mệt trùm lên họ”, truyện của Dương Thu Hương thường ám ảnh về thân phận của
những người phụ nữ, tình yêu của họ, sự đau khổ, sự hy sinh của họ,
văn của bà đẹp,
đẹp mà giản dị, trực tiếp, sáng sủa,
chi tiết nào ra chi tiết đó, như một người đã sống quá nhiều
đã nghe quá nhiều chuyện, đã biết tất cả, khổ nhục và sự
cao thượng làm người, và giờ đây kể lại cho chúng ta, khi thong thả khi gấp gáp, không phải bao giờ cũng bình tĩnh,
toàn bộ những điều ấy làm tôi xúc
động ngay khi vừa đọc lần đầu, vừa đứng vừa đọc, Những thiên đường mù,
trước một hiệu sách của hội Việt kiều yêu nước, được viết 1987, được dịch ra tiếng Pháp 1988, Chốn vắng in tại
Pháp 2002. Năm
1985, sau mười năm tù cải tạo, Tô Thùy Yên được thả về:
Những năm tám mươi, chúng ta nói về điều
gì khi chúng ta nói về tình yêu?
Raymond Carver, mở đầu một thời đại của
truyện ngắn vốn bị khuất lấp giữa các bộ trường thiên tiểu thuyết, tạo ra một lối
văn mới lạ và lãnh đạm, sự chú ý đối với đời sống bình thường của những kẻ tầm
thường, sự buồn rầu của một cuộc đời không sự kiện, và vì vậy mà đáng yêu vô
cùng, truyện của ông đầy giai thoại, những bí ẩn về cuộc đời hiện tại, những dịch
chuyển văn hóa, chính Carver đã thay đổi cái nhìn của tôi đối với văn học và đời sống, nhưng phải đến Alice Walker, với Màu
hồng, Color purple, giải Pulitzer, mới mở mắt tôi về chân dung người
phụ nữ, da đen, những đồi bại và sự đau khổ của họ, và khởi đầu thách thức các
giá trị về quan hệ đồng phái, những năm tám mươi trong một cuộc thi tôi đã gặp
một đề tài nói vềngười phụ nữ đồng tính và theo quan điểm của tâm lý học th ời ấy
đó là một trường hợp bệnh hoạn, Walker là một trong những nhà văn da đen mà tôi
theo đuổi suốt nhiều năm, những năm tám mươi, chúng ta có thể nào quên Don
Delillo? Tiểu thuyết Tiếng động trắng, The White Noise, một cú
đánh sửng sốt vào nền văn hóa đương đại, cảnh giác nhân loại về văn minh kỹ thuật,
chủ nghĩa tiêu thụ, đã được cảnh báo ở Hoa Kỳ những năm tám mươi và bốn mươi
năm sau lặp lại một cách chính xác ở các nước đang phát triển, châu Phi, châu
Á, Việt Nam, Trung Hoa, tàn sát đến cùng các giá trị nhân văn, bạn không thể quên
Tony Morrison, Nobel văn học với Kẻ yêu dấu, Beloved, gây chấn động,
với lời văn khắc họa như lấy mũi dao khắc vào đá, trên các chuyến xe buýt, tàu
điện ngầm, lúc trời mờ sáng, những chuyến đầu tiên, những chuyến cuối cùng, ở
New York, tôi ngồi đọc Lịch sử vắn tắt của thời gian, A brief history of time,
chính mấy chữ lịch sử của thời gian, cái nhan đề, hấp dẫn tôi, lúc ấy tôi chưa
biết Stephen Hawking, đọc xong cuốn sách này tôi nhận ra rằng con người có thể
du hành ngược về quá khứ, nhưng không thể đi tới tương lai, toàn bộ cuốn sách
không có một câu nào như vậy, nhưng tôi suy ra, tất nhiên một cách không có gì
khoa học, điều an ủi duy nhất là nếu con người có thể du hành vào quá khứ, dù
chỉ trong một giây thì cũng có thể trong một giờ, dù trong một giờ thì cũng có
thể trong nhiều năm, tôi muốn sửa chữa quá khứ của mình: trong chúng ta có ai
không muốn điều ấy? Thực ra sửa chữa quá khứ chính là công việc lớn nhất của
văn học.
Từ đầu thế kỷ hai mươi, hai hệ thống vật
lý, thuyết tương đối mở rộng của Einstein, một lý thuyết giải thích lực hấp dẫn
và cấu trúc của không thời gian ở mức độ vũ trụ, và cơ học lượng tử, sử dụng
các nguyên lý về xác suất để mô tả các hiện tượng vật lý dưới nguyên tử, cho đến
cuối những năm bảy mươi, chúng giải thích được tất cả hiện tượng, thế rồi, người
ta nhận ra rằng có những chuyện chúng không làm được với vật lý học cổ điển và các
lực cơ bản, một lý thuyết mới về lượng tử triển khai vào những năm tám mươi soi
sáng rất nhiều thứ về cấu trúc hạt nhân nguyên tử và lỗ đen, gắn với tên tuổi của
Stephen Hawking, những năm tôi theo học chương trình cử nhân toán, những ông thầy
bắt đầu thì thào nói về một lý thuyết mới, hãy còn bí ẩn nhưng hấp dẫn hơn cả lực
hấp dẫn, lý thuyết Dây hoặc Siêu dây, String theory, ở đó các hạt nhỏ bé của vật
chất được xem là các sợi dây, và vũ trụ được dệt nên bởi chúng, các sợi rung động
ấy, lý thuyết dây là một thuyết hấp dẫn lượng tử, thời tôi đi học, không có một
trường đại học nào ờ Bắc Mỹ mà không chạy đôn chạy đáo kiếm cho ra một nhà lý
thuyết siêu dây khiêng về làm giáo sư, không có một ông như thế thì trường tụt
hạng ngay, những năm tám mươi, người ta phát hiện ra sự giãn nở của vũ trụ, té
ra vũ trụ không đứng yên một chỗ, và sau vụ nổ lớn, trong một phần li ti nhỏ của
một dây, vũ trụ bắt đầu giãn nở, và sự giãn nở ấy ngày một tăng lên do năng lượng
tối.
Và thế là năng lượng tối tràn ngập những
năm tám mươi của chúng ta. Năng lượng tối có thể còn cần phải chứng minh nhưng
năng lượng xấu thì đầy rẫy thế gian, Liên Xô đưa quân vào Afghanistan, lặp lại
sự sai lầm của người Mỹ tại Việt Nam và sẽ sa lầy ở đó, cuối những năm tám mươi,
khi tôi bắt đầu đi thực tập ở bệnh viện, AIDS bùng nổ ở Hoa Kỳ, được xem là có
nguồn gốc từ Phi châu. Năm 1982, năm trăm người Mỹ chết vì căn bệnh này, sau đó
lan rộng trên toàn thế giới, con siêu vi trùng đã mang đi 35 triệu người, nhiều
người tin rằng đó là lời cảnh giác của thượng đế đối với phong trào tự do tình
dục.
Của những năm tám mươi, khi tôi về Việt
Nam đến thăm một làng ở miền đông Nam Bộ, đó là làng quê hẻo lánh, nghèo khó, khi
một con đường xa lộ lớn được mở ra, chính quyền thực hiện lệnh mua lại đất và
di dời, đẩy giá nhà đất lên cao, trong một thời gian ngắn, những người nông dân
bỗng trở nên giàu có đáng kinh ngạc, khi một người trở nên giàu có bất ngờ, anh
ta không biết phải làm gì, một dân tộc như dân tộc Việt Nam cũng thế, một giai
cấp cũng thế, khi người ta bỗng nhiên giàu lên một cách bất ngờ, khi người ta
thắng cuộc một cách bất ngờ, khi người ta nắm được quyền lực một cách bất ngờ,
khi người ta sở hữu một người đàn bà đẹp một cách bất ngờ, người ta trở nên luống
cuống, hoặc anh ta trở nên tê liệt hoàn toàn, hoặc anh ta trở nên một kẻ cuồng
dâm tàn bạo, thích uống tinh dịch của chính mình, những người xưa kia vốn nghèo
khổ bỗng thấy mình có quá nhiều tiền đâm ra rượu chè cờ bạc, gái gú, trong vòng
ba năm, tất cả những trai trẻ ở ngôi làng mà tôi đến thăm ấy đều bị nhiễm SIDA,
chết hết.
Năm 1981, Tổng thống Reagan bị bắn bởi
John Hinckley ngày 30 tháng 3, Hinckley bắn Tổng thống để lấy le với nữ diễn
viên nổi tiếng Jody Foster, với Gorbachev và sự giải phóng của nhân dân Liên Xô
và Đông Âu, sự sụp đổ của bức tường Bá Linh, cuộc chiến tranh lạnh kéo dài nửa
thế kỷ kết thúc, thế giới không còn chia hai, nhân loại hòa hợp, nhiều người
nghĩ tới Thiên đàng, đó là giấc mơ quái lạ, hễ khi nào nhân loại im tiếng súng,
chợp mắt ngủ một lát, là họ mơ ngay tới cõi ấy.
Cho tôi một vé đi Thiên đàng.
Thưa bà, bà mua vé khứ hồi hay một chiều?
Con người ngây thơ hơn chúng ta tưởng, con người hồn hậu hơn các cuộc
chiến tranh mà họ gây ra, các tội lỗi mà họ làm nên, chỉ cần mọi sự qua đi, chỉ
cần binh đao kết thúc, chỉ cần được tha thứ, là họ quên đi, có đúng thế không,
anh? Liên Hương hỏi tôi lúc chúng tôi đứng chờ xe lam ở bến xe miền Tây một
ngày tháng chạp, một người con gái khác, hỏi tôi câu ấy trong một quán ăn mở
khuya ở phố Tàu, New York, bốc mùi hành mỡ, rác và xác chuột thối rữa, ở đó, giữa
những cảnh ấy, bàn tay của nàng thơm mùi xà phòng hiệu Dial có hương lavender,
những năm tám mươi, ngồi trên chiếc sà lan trên biển đậu gần giàn khoan dầu của
Anh, Canada, Mỹ, Đan Mạch, nhìn ngọn lửa rực rỡ trong đêm tối, như vũ nữ nhảy
múa trong ngày hội, tôi nghĩ: Thượng đế trước đây là một người đàn bà.
Thế giới sai lầm, con người không hoàn toàn tự do ra khỏi tội lỗi của
mình, tội lỗi của mỗi người, của một cộng đồng, của một dân tộc vây hãm chúng
ta, không phải mọi thứ chúng ta đều nhớ lại, nhưng những giây phút đẹp nhất và
những giây phút đau buồn nhất mãi ở lại trong ký ức của bạn, trong ký ức của
nhân loại, và đến một lúc, chúng lên tiếng, đến một lúc, chúng muốn lặp lại
chính mình, tội ác muốn sinh ra tội ác, sự hối hận muốn sinh ra sự hối hận, lòng
thương tiếc sinh ra thương tiếc, ai đã nói thế? Có ai nói thế không? Milosz là nhà thơ Ba Lan và theo
Brodsky có lẽ là nhà thơ lớn nhất thế kỷ 20, quan tâm đến lịch sử, luân lý, những niềm tin, làm thơ trong tiếng Ba Lan, tự dịch sang tiếng Anh và viết thẳng trong tiếng Anh, Milosz cũng là một nhà phê bình, giải thưởng Nobel 1980, những năm tám mươi, lần đầu tiên tôi chứng
kiến một hiện tượng kỳ lạ, một người bạn lái xe chở tôi về nhà, từ xa tôi thấy cánh
cửa nhà để xe bật mở, mới đầu tôi nghĩ rằng có một người nào ở bên trong mở cửa
cho chúng tôi, tuyệt không, là người say mê các hiện tượng vật lý, tôi bị ám ảnh,
đó là sự khởi đầu của cái remote control, điều khiển từ xa, thời ấy có thể dùng
siêu âm, sau này dùng tia hồng ngoại, cái điều khiển từ xa này đã chi phối tất
cả thiên hạ đến nỗi chúng ta không thể nào tưởng tượng đời sống không có chúng,
không phải khi nào bạn cũng yêu thích nó, khi chúng bị hỏng hóc, bạn chỉ muốn mở
cửa xe bằng tay, ấn nút truyền hình bằng tay, con người chống lại công nghệ hóa
nhưng vẫn say mê chúng, ký ức là một nơi chốn khó khăn, bạn muốn tới đó nhưng bạn
không biết đường, đôi khi ký ức của con người phản bội họ, đôi khi lòng hoài niệm
làm cho chúng ta trở nên đáng ghét so với người khác, không ai thâm nhập được
vào cõi hoài niệm của chúng ta, ở đó chúng ta cất giữ những điều một mình mình
biết một mình mình hay, khi bạn thất vọng, kỹ thuật giúp cho bạn rất nhiều: điện
thoại, remote control, ti vi, khi bạn hạnh phúc, bạn cũng cần đến chúng, nhưng
ít hơn nhiều, trong một căn nhà trống rỗng, đời sống của bạn trở nên đầy đủ vì
các dụng cụ điện tử, bạn cảm thấy không cần một người nào khác nữa, cho đến khi
quá muộn, vì có điện thoại thông minh, bạn cảm thấy không cần phải đọc sách nữa:
chúng vừa nặng vừa tốn tiền, lách cách lỉnh kỉnh, không biết cất vào đâu, giờ
đây những năm tám mươi chúng ta chỉ có remote control và khi gọi điện thoại về
quê tôi phải làm hẹn với tổng đài điện thoại ở Sài Gòn và những người thân của
tôi phải chầu chực rất lâu ở bưu điện, năm bảy lần gọi mới có một lần bắt được,
lần đầu tiên tôi nghe được tiếng nói của mẹ trên điện thoại viễn liên, tiếng của
bà như từ một thế giới nào, nhưng hôm ấy tôi may mắn vì nghe được từng chữ của
người, tôi nghe lại được thứ tiếng Việt mà tôi nhớ, một ngôn ngữ lúc ấy ở đây vẫn
còn lạ.