Danh ngôn

Trong mọi cộng đồng, chúng ta cần một nhóm thiên thần gây rối.

We need, in every community, a group of angelic troublemakers.

(Bayard Rustin – trích bài phát biểu tại New York City 1963)

Trong mọi trường hợp, chắc chắn rằng sự thiếu hiểu biết, đi kèm với quyền lực, là kẻ thù tàn bạo nhất có thể có của công lý.

It is certain, in any case, that ignorance, allied with power, is the most ferocious enemy justice can have.

(James Baldwin - No Name in the Street 1972)

Các cuộc cách mạng và các cá nhân có thể bị giết hại, nhưng bạn không thể giết chết các ý tưởng.

While revolutionaries and individuals can be murdered, you cannot kill ideas.

(Thomas Sankara, một tuần trước khi bị ám sát, 1987)

Không có cảm giác nào cô đơn hơn việc bị chính đất nước mình trục xuất.

There's not a more lonely feeling than to be banished by my own country.

(Kiyo Sato – Kiyo’s Story 2009)

Ban Biên tập

Địa chỉ liên lạc:

1. Thơ

tho.vanviet.vd@gmail.com

2. Văn

vanviet.van14@gmail.com

3. Nghiên cứu Phê Bình

vanviet.ncpb@gmail.com

4. Vấn đề hôm nay

vanviet.vdhn1@gmail.com

5. Thư bạn đọc

vanviet.tbd14@gmail.com

6. Tư liệu

vanviet.tulieu@gmail.com

7. Văn học Miền Nam 54-75

vanhocmiennam5475@gmail.com

Tra cứu theo tên tác giả

Thứ Sáu, 23 tháng 9, 2022

Bỗng nhớ một người tên Đặng Phúc Lai

Vũ Thư Hiên

Người đàn ông gầy, tóc bạc rũ rượi, nụ cười ám khói, ôm chầm tôi, giọng khao khao:

- Lai đây, Đặng Phúc Lai đây. Cậu được anh em giới thiệu về mình rồi chứ? Mình đang đợi cậu, tin chắc thể nào cũng sẽ gặp cậu nhanh nhất khi mình tới Paris – anh nhét vào tay tôi một tập giấy – Đây, tài liệu anh em gửi mình mang sang cho cậu. Phải nhờ người đi cùng chuyến bay cầm hộ chứ chúng nó khám kỹ lắm. Là khám mình ấy. Chứ người khác thì không.

Thì ra Đặng Phúc Lai là đây, người mà các bạn trong nước nhắn tôi thể nào cũng phải gặp ngay lập tức.

Lai sang Pháp chữa bệnh. Bệnh gì, không thấy anh em nói. Việc nhà nước Việt Nam cho công dân ra nước ngoài chữa bệnh không dễ, là điều ai cũng biết. Các quan chức đi chữa bệnh cũng còn phải xét lên xét xuống, huống hồ dân thường. Phải vật nài, phải chạy chọt, lại không thể thiếu giấy chứng nhận của bệnh viện uy tín, của các bác sĩ can đảm, rằng bệnh này y tế trong nước bó tay, đi nước ngoài thì may ra chữa được.

Tôi đang ở Nuremberg, nơi có toà án xử bọn phát-xít Hitler, cách Paris một đêm nằm tàu. Đặng Phúc Lai sang hôm nào tôi không hay. Lại đúng vào lúc tôi phải đi Lyon dự cuộc gặp mặt với các bạn văn lưu vong từ nhiều nước tại thư viện thành phố. Tan cuộc là tôi bắt taxi chạy ra ga Part Dieu đáp tàu đi Paris cho kịp buổi tưởng niệm tướng Trần Độ.

- Cậu không khác trong ảnh bao nhiêu. Hơi già một chút. Cái ảnh là hay nịnh lắm – Lai nghiêng ngó ngắm tôi, thở hổn hển – Anh em hỏi thăm cậu. Nhớ lắm.

Anh nói một số tên. Tôi ôm anh, thấy trong vòng tay mình một thân xác nhẹ bỗng.

Lời nhắn qua điện thoại viễn liên, vừa ngắn gọn, vừa kín đáo, để không được lộ điều không nên nói, nhưng đủ để tôi hiểu: Đặng Phúc Lai là "người đàng mình".

Đặng Phúc Lai là cựu tù nhân có thâm niên hơn một giáp trong các trại tập trung. Một cây viết sắc sảo với những tiểu luận triết học không bao giờ được in. Tóm lại, một tiểu sử khá bình thường. Người ở tù hơn một giáp ở Việt Nam nhiều, tôi đã gặp họ trong chín năm tù của đời mình. Những cây viết không được in ở Việt Nam cũng nhiều, cũng là chuyện bình thường.

Gặp được một người bình thường như thế trong cái thời "Giấy rách mất lề/ Tượng Phật khóc, Đức Tin lưu lạc/ Thiện Ác nhập nhằng/ Công lý nổi lênh phênh…" (thơ Nguyễn Duy) là vui lắm lắm. Được trò chuyện với một người không vô cảm, lại còn có thể cùng nhau bàn chuyện nước non, chuyện độc tài dân chủ, là quý. Không phải quý vừa, mà quý lắm.

Đặng Phúc Lai giúi cho tôi một bài viết của anh về Phật học, Thiền và Vô Niệm. Tôi lướt qua rồi nhét vào cặp, đọc sau.

Đến lượt Lai phát biểu.

Cử toạ trong những cuộc họp kiểu này thường gồm những nhân vật rất khác nhau về mọi phương diện – lứa tuổi, thành phần, học vấn… Nhiều người ngồi dưới có chân trong các hội đoàn người Việt hải ngoại, nhiều người không có chân trong bất cứ tổ chức nào. Họ không phải những người rỗi hơi, mà là những người đến để nghe người mới ra kể chuyện trong nước.

Nhưng kìa, lạ chưa, diễn giả lại nói về một cái gì khác, không phải chuyện chính trị như người ta chờ đợi. Cái gì ấy trượt ra khỏi mọi lề, không phải cái thường có trong những cuộc họp.

Đặng Phúc Lai không nói, mà độc thoại.

Anh nói say sưa, như thể chưa từng được nói trước một cử toạ đông như thế. Anh hoàn toàn không chú ý tới nét mặt ngỡ ngàng của người nghe. Ai nghe thì nghe, ai không nghe thì thôi.

Diễn giả kỳ cục này dường như không biết, hoặc không cần biết, mình đang nói với ai. Anh nói bằng những hơi gió chạy qua những dây thanh đới đã hỏng, đã thế lại quá nhiều từ trừu tượng thuộc những khái niệm không phải ai cũng hiểu. Nhưng cả hội trường im phăng phắc nghe anh. Thế mà điều quan trọng nhất mà anh muốn nói đã đến được với người nghe. Mới lạ chứ.

Rời khỏi đề tài không ai chờ đợi, rồi sực nhớ, anh nói về quang cảnh đất nước – những ngôi nhà cao tầng làm thay đổi diện mạo thành phố, cho thấy nó chẳng kém cạnh những thành phố hiện đại của thế giới, về bụi mịn và không khí oi ả ở Hà Nội, triều cường ở Sài Gòn với những xe Honda chết máy trong những con phố biến thành sông và ở ngoại ô những đứa trẻ trần truồng bên những túp lều xiêu vẹo, rách rưới…

Rồi anh mới nói tới kỷ niệm của anh với tướng Trần Độ.

Bằng lời lẽ hấp tấp, trong hơi thở hổn hển, anh dựng nên chân dung một Trần Độ bình dị, gần gụi với bất cứ ai trước mặt anh. Qua lời anh, hiện ra, rất rõ nét, một con người rất thường, như mọi người, nhưng là người dám đạp lên trên mọi tô vẽ để đối diện với sự thật trần trụi về một xã hội Việt Nam hôm nay.

Trần Độ là thế, trong mắt anh. Trong con người mà anh yêu thương, mà anh kính trọng, chỉ có một nét vượt trội – ấy là sự tìm kiếm không mệt mỏi sự thật, chỉ có biết được sự thật con người mới nhìn ra mình là ai, mới thấy mình được thân phận thật sự của mình trong xã hội ấy, mới thấy cần phải chiến đấu vì tự do, chiến đấu cho niềm tự hào làm người. Có sự thật trong tay, người đảng viên cộng sản Trần Độ đã vứt bỏ mọi hư danh hư quyền để được đứng trong hàng ngũ những người đấu tranh cho một xã hội khác, nơi con người được làm người, thật sự là NGƯỜI, viết hoa.

Qua màn sương của những từ triết lý, người nghe hiểu điều anh muốn nói: con người muốn xứng đáng NGƯỜI trước hết cần phải có cái Tâm trong sáng. Có cái Tâm ấy rồi, con người sẽ được sống ung dung tự tại, không phải ngó trước ngó sau, không bị tiền tài, danh vọng cám dỗ, không cần một chủ nghĩa nào. Chỉ có Tình Yêu và Trách Nhiệm trước đồng loại mới có thể dắt ta đi đúng con đường cần đi.

Bài nói của anh không được ghi âm. Nó sẽ theo gió bay đi. Nhưng những người có mặt hôm đó sẽ nhớ nó, rồi tự nhủ thầm: tôi không thể nói được về Trần Độ như Đặng Phúc Lai nói – rất đủ và rất đẹp.

Sau đó, chúng tôi còn gặp nhau vài lần nữa trong căn phòng áp mái của tôi, người Pháp gọi nó là “chambre de bonnes”, dịch sát nghĩa là “phòng con sen”. Ở đó chúng tôi phải nhường nhau, phải né nhau, để đặt mình vào một chỗ ngồi khiêm tốn, rồi cứ thế yên vị mà trò chuyện cho tới khi chia tay.

Nhờ những cuộc gặp gỡ này và vài đêm thức trắng nữa tôi hiểu Lai nhiều hơn.

Càng hiểu Đặng Phúc Lai tôi càng quý anh. Để rồi sau này tiếc hùi hụi cái sự bạn bè gặp được nhau trong cõi nhân sinh hữu hạn sao mà quá ít.

Lai bị ung thư vòm họng. Y học Pháp không có phép lạ. Các bác sĩ chuyên ngành tiên đoán Lai không còn sống lâu. Biết là thế rồi, tôi vẫn ngỡ ngàng nhìn Lai. Tôi không tin người đang ngồi trước mặt tôi là người tôi sẽ không còn được gặp nhiều lần nữa. Trên gương mặt rạng rỡ với đôi mắt tinh anh của Lai không có bóng dáng của thần chết.

Lai và tôi là bạn đồng tuế. Năm nay anh và tôi đã thuộc lớp "thất thập cổ lai hy" nói theo cách thi hào Đỗ Phủ. Những năm xa xưa các bô lão ở quê tôi chưa đến tuổi này đã chuẩn bị cho mình một cỗ hậu sự.

Tôi chưa nghĩ tới cái chết. Lai cũng không. Những người khăng khăng không chịu làm “mầm non nghĩa địa” (chữ của nhà thơ Nguyễn Chí Thiện) trong những năm dài ở các trại tù đều thế – chúng tôi đều không nghĩ tới cái chết. Nói cách khác, chúng tôi từng ở trong cõi chết khi còn sống, chúng tôi biết mặt ngang mũi dọc nó thế nào, chúng tôi chẳng sợ chết.

Bài viết về Phật học anh giúi cho tôi khi gặp nhau, tôi đọc ngay khi cuộc họp tan. Nó quá ngắn, quá cô đọng, nhưng cho tôi thêm một chút hiểu biết. Về mặt nào đó nó còn là sự khai tâm vào một lĩnh vực với tôi còn là khoảng trống.

Anh có cách viết khác người, với những chữ hoa đột ngột, những dấu chấm lửng để tuỳ nghi mà đoán tác giả muốn đưa ta đi đâu, Ấy thế mà, thật lạ, những khái niệm siêu hình mờ mở nhân ảnh bỗng trở nên sáng rõ trên nền văn hào sảng, đây đó pha chút hài hước.

Những lần gặp nhau sau, chúng tôi tranh luận ồn ào, có cả cãi cọ nữa, về đủ loại đề tài – từ tình hình đất nước cho tới những hình thái xã hội dân chủ tương lai, về những hình thái độc tài trá hình còn có thể gặp, không loại trừ hình thái nguỵ dân chủ luôn rình rập và phải tạm bằng lòng khi quẳng đi được ách độc tài chuyên chế.

Lai thích thú nói về Mẫn và Tuệ với tư cách hai thành tố của "Nhân" như một điều không cần chứng minh. Anh làm rõ thêm ý nghĩa tưởng chừng không cần làm rõ thêm nữa của Nhân trị và Pháp trị. Khái niệm “nhân trị” trong anh không hề đồng nhất một chút nào với khái niệm thường có. Chữ “Nhân” trong anh rộng hơn, bao gồm cả “người” lẫn “tính người”.

Anh bốc lên khi nói về chữ "Tâm" sẽ cứu rỗi nhân loại, về Cõi Tâm Linh bị bỏ quên. Chính sự quên lãng ấy là cội nguồn gây ra thảm hoạ cho toàn thể loài người. Anh có thể nói hàng giờ về đề tài đó, cho tới khi từ cuống họng anh chỉ còn phát ra hơi gió thay cho tiếng nói. Tôi can anh đừng nói nữa thì anh gạt phắt, còn nói hăng hơn nữa, để chứng tỏ anh vẫn còn nói được.

Lai không kể vì sao anh bị tù. Tôi cũng không hỏi. Ở Việt Nam chẳng ai hỏi ai câu hỏi vô duyên đó. Người ta đi tù bởi đủ mọi tội có thật và không có thật. Đó là thời gian của cái gọi là cách mạng giải phóng, trong thực tế nó chẳng giải phóng được ai khi chính nó mang trên mình xiềng xích của một ảo ảnh. Trong thực tế nó là chính quyền độc tài được gọi khác đi là chuyên chính vô sản.

Nhà tù mọc lên như nấm sau mưa. Các lãnh tụ tự xưng anh minh không ngớt ngợi ca nền giáo dục tốt đẹp vô song của những trại cải tạo. Cứ như thể ở đầu vào trại là những kẻ hư hỏng, tội lỗi đầy mình, ở đầu ra là những công dân tốt đẹp ngời ngời. Phép mầu này được áp dụng từ đầu thế kỷ 20, mà bằng sáng chế không cần trình tòa thuộc về Lenin và Stalin. Lớp hậu sinh sao y bản chính, với đôi chút cải tiến cho thêm phần hào nhoáng. Rất nhiều công dân tốt sau khi được cải tạo nếu không nằm lại trong những nghĩa trang lổn nhổn gò đống thì đã trở thành người không ra hồn người.

Trại cải tạo tốt là thế nhưng nó đã không hoán cải được anh. Cái duy nhất nó làm được là để lại trong anh lối văng tục hồn nhiên bật ra trong những đề tài rất chi lịch sự với cả những người lịch sự mà anh gặp. Tôi nhẹ nhàng trách anh thì anh bảo: "Mình ở cái xã hội xuống cấp thì mình phải xuống cấp theo với nó tí chút mới phải, không thế thì hoà đồng làm sao được?" Cái gì vậy? Trở lại với Khổng Tử: "Thiên hạ đục ta trong làm sao được” chăng? Cái ngôn ngữ vỉa hè lên ngôi tự bao giờ để nhiễm vào cả những trí thức như anh? Tôi sai chăng khi quá khe khắt với nó? Điều tôi thấy, buồn rầu mà thấy, khi quan sát những cuộc trò chuyện của anh với các bạn trẻ từ trong nước ra là: dùng cái ngôn ngữ tệ hại ấy anh lại truyền đạt được tư tưởng của anh cho họ nhiều lần tốt hơn cái ngôn ngữ lịch sự nhưng (có lẽ) cổ hủ của tôi.

Ai đó sẽ hỏi tôi: "Phải chăng Đặng Phúc Lai là một tác gia lớn nhưng không ai biết để anh phải viết về anh ta những dòng trân trọng đến thế?"

Đặng Phúc Lai có thể là một tác gia lớn. Hoặc một tác gia chết đi mà chưa kịp trở thành lớn.

Anh không nổi tiếng với bất kỳ ai. Anh chỉ là một trong những cái bóng lướt qua cuộc đời này.

Giá mà có nhiều người đọc Lai để biết về anh. Mà những gì anh viết có nhiều nhặn gì cho cam. Không một cuốn sách được in, dù mỏng. Những người ham đọc thậm chí không biết gì về một cái bóng có tên Đặng Phúc Lai. Cho tới khi họ may mắn (hoặc không may mắn) được gặp anh. Cho tới khi được đọc một vài đoản văn của anh luận bàn về những lĩnh vực bị coi thường, bị bỏ quên, như con đường từ Giác, tới Tri, tới Thức, rồi tới Trí (bài "Cùng người bạn Ngẫu nhiên…, vài ba ý Ngẫu nhiên…, sau một lần Ngẫu nhiên"). Trong "Nhân Trần Độ", một bài khác, may mà được in trong vài ba ấn phẩm hải ngoại về người cộng sản phản tỉnh thì nội dung của nó lại là về ý nghĩa nhân sinh nhiều hơn về một con người cụ thể.

Đặng Phúc Lai còn có những đoản văn về Kinh Thủ Lăng Nghiêm, về sự tương đồng giữa bất khả tri luận khởi đầu từ Samjayin Vairatiputra tới Emanuel Kant, David Hume như một dạng của cái "Tri" mà ta hiểu, hoặc bàn về Tính Lưỡng cực và Bất nhất của Osho…

Các bạn trong nước gần anh hơn cho tôi biết Lai viết nhiều hơn những gì chúng ta biết. Những bài viết của anh chẳng được ai biết đến, trừ những người được anh giấu giếm trao tay những bản photocopy. Chúng rồi mất tăm mất tích trong biển cả vô tâm của người đời. Hi vọng rồi đây sẽ có ai đó rảnh rỗi, hoặc tò mò, sẽ sưu tầm những bài viết rải rác ấy để đưa chúng ra ánh sáng. Khi đó ta mới có dịp suy ngẫm cùng anh, một con người "trải mùi đời gót rỗ kỳ khu", một khối óc chẳng khi nào ngưng nghỉ về ý nghĩa của tồn tại.

Những ai từng tình cờ đọc anh đều yêu quý anh. Một học giả nọ, giáo sư hay tiến sĩ chi đó, bị Đặng Phúc Lai phê phán khá nặng nề trong một bài viết về học thuật, đã giấu biến bài phê bình đó khi được anh gửi cho đọc trước. Thế là bài viết ấy mất tăm mất tích. Người nhận kiên quyết không cho ai được ngó tới. Đặng Phúc Lai vốn không cẩn thận – đó là bản viết tay duy nhất. Mất là mất. Không thể lấy lại. Cũng không thể viết lại. Anh không có một cái máy chữ để gõ thành vài bản. Anh cũng không có tiền để đem bài viết của mình đi photocopy. Buồn cười là chính vị học giả ấy lại khoe mình là bạn thân nhất của Lai khi được tin anh qua đời. Nghĩa là Lai được cả những người không ưa anh, thậm chí ghét anh, cũng lấy làm hãnh diện được xưng là bạn anh.

Tôi không rõ vào những lúc ấy Lai có biết anh không còn sống bao lâu không? Thời gian sống của anh, theo lời tiên đoán của các bác sĩ chuyên khoa, không phải tính bằng năm, mà bằng tháng, rất có thể chỉ bằng ngày. Thông minh như anh thì không thể không biết, dù mọi người giấu anh. Ở anh, lạc quan không mang kính màu hồng mà là niềm tin vững chắc ở con người, ở cuộc đời. Anh phê phán không nể nang những quan điểm mà anh cho là sai, thậm chí cả với bạn bè, nhưng bao giờ cũng vậy, qua những lời đôi khi lỗ mãng của anh ai cũng thấy trong anh tình yêu bạn nồng nàn. Anh tham gia vào những việc xây dựng cái mà anh cho là tốt không một chút rụt rè, với tất cả niềm tin rằng cái tốt nhất định thắng.

Trở về Paris sau một chuyến đi Hoa Kỳ, tôi được xem biên bản một cuộc họp bàn của vài anh em về tạp chí Viễn Tượng sẽ ra đời. Đọc những ý kiến của anh trong cuộc họp đó tôi không thể tin rằng một người biết mình sắp rời bỏ thế gian lại có thể hăng say đến thế trong một công việc tương lai.

Đã có lần tôi viết rằng tôi chán ngấy cái vai MC nhà đòn. Tôi không muốn viết về cái chết của một người bạn nào nữa. Ở tuổi tôi bè bạn thưa dần. Tôi buồn lắm lắm mỗi lần phải xoá đi trong sổ tay một địa chỉ sẽ chẳng còn dùng đến.

Tôi có những người bạn nổi tiếng. Và những người bạn chưa từng nổi tiếng. Với những người sau, sự quên lãng của người đời để lại trong tôi cảm giác bất nhẫn.

Không nói gì về họ, chúng ta rơi vào vị thế kẻ vô ơn.

Những người như thế không nhiều, nhưng có, và có không ít, ở quê hương tội nghiệp của chúng ta.

Những người ấy có chung một số phận hẩm hiu. Rồi đây những người còn sống cũng nên nhớ tới họ khi ngoảnh nhìn về một thời đáng xấu hổ.

Paris, 2003