Danh ngôn
Trong mọi cộng đồng, chúng ta cần một nhóm thiên thần gây rối.
We need, in every community, a group of angelic troublemakers.
(Bayard Rustin – trích bài phát biểu tại New York City 1963)
Trong mọi trường hợp, chắc chắn rằng sự thiếu hiểu biết, đi kèm với quyền lực, là kẻ thù tàn bạo nhất có thể có của công lý.
It is certain, in any case, that ignorance, allied with power, is the most ferocious enemy justice can have.
(James Baldwin - No Name in the Street 1972)
Các cuộc cách mạng và các cá nhân có thể bị giết hại, nhưng bạn không thể giết chết các ý tưởng.
While revolutionaries and individuals can be murdered, you cannot kill ideas.
(Thomas Sankara, một tuần trước khi bị ám sát, 1987)
Không có cảm giác nào cô đơn hơn việc bị chính đất nước mình trục xuất.
There's not a more lonely feeling than to be banished by my own country.
(Kiyo Sato – Kiyo’s Story 2009)
Ban Biên tập
Địa chỉ liên lạc:
1. Thơ
tho.vanviet.vd@gmail.com
2. Văn
vanviet.van14@gmail.com
3. Nghiên cứu Phê Bình
vanviet.ncpb@gmail.com
4. Vấn đề hôm nay
vanviet.vdhn1@gmail.com
5. Thư bạn đọc
vanviet.tbd14@gmail.com
6. Tư liệu
vanviet.tulieu@gmail.com
7. Văn học Miền Nam 54-75
vanhocmiennam5475@gmail.com
Tra cứu theo tên tác giả
- A. A. Fadeev
- A. Puskin
- A. T.
- Abdulrazak Gurnah
- Abraham F. Lowenthal
- Ace Le
- Ace Lê
- Adam Gopnik
- Adonis
- Adrian Horton
- Agi Mishol
- Ajar
- Akiko Miki
- Alain Guillemin
- Alan Phan
- Alăng Văn Gáo
- Alăng Văn Giáo
- Albert Camus
- Aldous Huxley
- Aleksandr Griboedov
- Alesandr Blok
- Alex Marshall
- Alex Smith
- Alex Thai
- Alex-Thái Đình Võ
- Alexander Fadeev
- Alexander Solzhenitsyn
- Alexandra Alter
- Alexandre FERON
- Alice Munro
- Alina Lesik
- Alison Flood
- Allen Ginsberg
- Amanda Gorman
- Amartya Sen
- Amelia Glaser
- Amos Oz
- An Nam
- Anatole France
- Anatoly Gavrilov
- Anders Olsson
- André Breton
- André Menras
- André Menras – Hồ Cương Quyết
- André Menras Hồ Cương Quyết
- Andrea Hoa Pham
- Andrea Kendall-Taylor
- Andreas Fulda
- Andreas Wimmer
- Andrew Postman
- Andy Cao
- Anh Anh
- Anh Hồng
- Anh Hồng (nhà thơ)
- Ánh Liên
- Anh Nhi
- Anh Văn
- Anika Zeller
- Anna Akhmatova
- Anna Maria Bracale Ceruti
- Anna Mitchell
- Anne Carson
- Anne Cazaubon
- Anne Hébert
- Anne Henochowicz
- Annie Ernaux
- António Jacinto
- Antôn Nguyễn Trường Thăng
- Archimedes L.A. Patti
- Arlette Quỳnh Anh Trần
- Arnold Schwarzenegger
- Arthur Koestler
- Arty Abel
- Arvind Subramanian
- Augustina
- Aurélie Coulon
- Aurelien Breeden
- Ba Sàm
- Bá Thụ Đàm
- Bạch Cúc
- Bạch Hoàn
- Bách Mỵ
- Bách Thân
- Bạch X. Phẻ
- Bạch Xuân Phẻ
- Bakhtin
- Ban Mai
- Bàn Văn Thòn
- Ban Vận động Văn đoàn Độc lập Việt Nam
- Bảo Huân
- Bảo La
- Bảo Nhi Lê
- Bảo Ninh
- Bảo Phác
- Bão Vũ
- Barbara Demick
- Bashô
- Batrioldman
- Bauxite Việt Nam
- Bắc Đảo
- Bắc Phong
- Bằng Việt
- BB Ngô
- Bei Dao
- Benjamin Péret
- Benjamin Ramm
- Bertolt Brecht
- Bertrand Russell
- Bettina Rheims
- Bích Ngân
- Biếm họa
- Biên Cương
- Biệt Hiệu
- Bilahari Kausikan
- Bill Hayton
- Billy Collins
- Bình Nguyên Lộc
- Brahma Chellaney
- Branko Milanovic
- Brett Reilly
- Brian Pascus
- Brian Wu
- Brice Pedroletti
- Brodsky
- Bryan
- Bùi An
- Bùi Bảo Trúc
- Bùi Bích Hà
- Bùi Chát
- Bùi Chí Trung
- Bùi Chí Vinh
- Bùi Công Thuấn
- Bùi Công Trực
- Bùi Đức Lại
- Bùi Giáng
- Bùi Hải Quảng
- Bùi Hoàng Tám
- Bùi Hoằng Vị
- Bùi Huệ Chi
- Bui Huy Hoi Bui
- Bùi Mai Hạnh
- Bùi Mạnh Hùng
- Bùi Mẫn Hân
- Bùi Minh Quốc
- Bùi Ngọc Tấn
- Bùi Quang Thắng
- Bùi Suối Hoa
- Bùi Thanh Hiếu
- Bùi Thanh Phương
- Bùi Thanh Tuấn
- Bùi Thụy Băng
- Bùi Tiến An
- Bùi Trân Phượng
- Bùi Trọng Hiền
- Bùi Văn Kha
- Bùi Văn Nam Sơn
- Bùi Việt Sỹ
- Bùi Vĩnh Phúc
- Bùi Xuân Bách
- Bùi Xuân Đính
- Bùi-Viết Văn Đức
- Bulgakov
- Bửu Chỉ
- C.D.
- Cái Lư Hương
- Cái Trọng Ty
- Cam Ly
- Cảnh Chánh
- Cao Bảo Vân
- Cao Bình Minh
- Cao Chi
- Cao Gia An
- Cao Hành Kiện
- Cao Huy Thuần
- Cao Kim Ánh
- Cao La
- Cao Quang Nghiệp
- Cao Tần
- Cao Thị Hồng
- Cao Thu Cúc
- Cao Việt Dũng
- Cao Xuân Hạo
- Cao Xuân Huy
- Carl Bildt
- Carl O. Schuster
- Carlos Assunção
- Carolyn Mary Kleefeld
- Cát Linh
- Cẩm Tú
- Cấn Thị Thêu
- Chan Phuong
- Chanh Tam
- Charles Bo
- Charles Bukowski
- Charles Simic
- Chau Doan
- Chân Minh
- Chân Pháp Xa
- Chân Phương
- Chân Xuân Tản Viên
- Châu Diên
- Châu Hải Đường
- Châu Hồng Thủy
- Châu Hữu Quang
- Chenn
- Chế Diễm Trâm
- Chế Lan Viên
- Chi Mai
- Chi Phương
- Chiêu Dương
- Chiêu Khiêm
- Chiharu Shiota
- Chim Hải
- Chim Trắng
- Chinh Ba
- Chính Tâm
- Chính Vĩ
- Chinua Achebe
- Chơn Không Cao Ngọc Phượng
- Christian Gampert
- Christian Welzel
- Christina Mary Hjortlund
- Christoph Giesen
- Christoph Sator
- Christopher Balding
- Christopher Goscha
- Christy Wampole
- Chu Dương
- Chu Hảo
- Chu Hoạch
- Chu Kim
- Chu Mộng Long
- Chu Quang Tiềm
- Chu Tử
- Chu Văn Lễ
- Chu Văn Sơn
- Chu Vĩnh Hải
- Chu Vương Miện
- Chu Xuân Diên
- Chung Le
- Claire Simon
- Clay Phạm
- Concepcion de Leon
- Connie Hoàng
- Cora Engelbrecht
- Costica Bradatan
- Cổ Ngư
- Cù An Hưng
- Cù Huy Hà Vũ
- Cù Mai Công
- Cù Tuấn
- Cung Minh Huân
- Cung Tích Biền
- Cung Trầm Tưởng
- D. S. Likhachev
- Da Màu
- Dạ Ngân
- Dạ Thảo Phương
- Dã Tượng
- DAD
- Dadolin Murak
- Damien Keown
- Dan Bilefsky
- Dan Slater
- Dana Gioia
- Danh ngôn
- Dani Rodrik
- Daniel Halpern
- Daniel Hautzinger
- Daron Accemoglu
- David Brown
- David Gascoyne
- David Marchese
- David Weinberger
- Ðặng Thơ Thơ
- Demetrio Paparoni
- DEUTSCHE WELLE
- Di
- Di Li
- Diêm Liên Khoa
- Diễm Thi
- Diễm Tường
- Diễn đàn Thế kỷ
- Diệp Duy Liêm
- Diệp Huy
- Ðinh Cường
- Dino Buzatti
- Dipanjan Roy Chaudhury
- Dmitri Prokofyev
- Dmitry Burago
- Dmitry Muratov
- Doãn Cẩm Liên
- Doãn Mạnh Dũng
- Doãn Mẫn
- Doãn Quốc Sỹ
- Dominique Lemieux
- Donald Inglehart
- Donna Ashworth
- Ðỗ Quang Nghĩa
- Ðỗ Quyên
- Du Tử Lê
- Dung Nguyễn
- Dũng Phan
- Dũng Trung Kqd
- Dũng Vũ
- Duy Lam
- Duy Tân
- Duy Thanh
- Duy Thông
- Duyên Anh
- Dư Hoa
- Dư Kiệt
- Dư Thị Hoàn
- Dư Thu Vũ
- Dương Đại Triều Lâm
- Dương Đình Giao
- Dương Khánh Phương
- Dương Kiền
- Dương Ngạn
- Dương Nghiễm Mậu
- Dương Ngọc Thái
- Dương Như Nguyện
- Dương Phương Vinh
- Dương Thắng
- Dương Thiệu Tước
- Dương Thu Hương
- Dương Thuấn
- Dương Tú
- Dương Tường
- Dương Văn Ba
- Dylan Suher
- Đà Văn
- Đàm Hà Phú
- Đàm Hách Thành
- Đào An Khánh
- Đào Anh Kha
- Đào Công Tiến
- Đào Duy Anh
- Đào Hiếu
- Đào Lê Na
- Đào Ngọc Chương
- Đào Nguyên
- Đào Nguyễn
- Đào Nguyên Phương Thảo
- Đào Như
- Đào Phương Liên
- Đào Quang Toản
- Đào Tấn Phần
- Đào Thái Tôn
- Đào Thị Hương
- Đào Tiến Thi
- Đào Trung Đạo
- Đào Trường Phúc
- Đào Tuấn
- Đào Tuấn Ảnh
- Đào Văn Thuỵ
- Đào Văn Tiến
- Đào Vũ Anh Hùng
- Đặng Anh Đào
- Đặng Bích Phượng
- Đặng Chương Ngạn
- Đặng Đình Cung
- Đặng Đình Mạnh
- Đặng Hà
- Đặng Hải Sơn
- Đặng Hoàng Giang
- Đặng Hồng Nam
- Đặng Hùng Võ
- Đặng Hương Giang
- Đặng Hữu
- Đặng Mai Lan
- Đặng Mậu Tựu
- Đăng Nguyên
- Đặng Phùng Quân
- Đặng Quốc Thông
- Đặng Sơn Duân
- Đặng Thái
- Đăng Thành
- Đặng Thân
- Đặng Thị Hảo
- Đặng Thơ Thơ
- Đặng Tiến
- Đặng Tiến (Thái Nguyên)
- Đặng Trung Nghĩa
- Đặng Túy
- Đặng Văn Dũng
- Đặng Văn Hùng
- Đặng Văn Ngữ
- Đặng Văn Sinh
- Đặng Vũ Vương
- Đặng Xuân Thảo
- Đặng Xuân Xuyến
- Đằng-Giao
- Điểm Thọ
- Đinh Bá Anh
- Đinh Cường
- Đinh Hoàng Thắng
- Đinh Hùng
- Đình Kính
- Đinh Linh
- Đinh Ngọc Thu
- Đinh Phương
- Đinh Phương Thảo
- Đinh Quang Anh Thái
- Đinh Thanh Huyền
- Đinh Thị Như Thúy
- Đinh Trường Chinh
- Đinh Từ Bích Thuý
- Đinh Từ Bích Thúy
- Đinh Văn Đức
- Đinh Vũ Hoàng Nguyên
- Đinh Ý Nhi
- Đinh Yên Thảo
- Đoàn Ánh Thuận
- Đoàn Bảo Châu
- Đoàn Cầm Thi
- Đoàn Công Lê Huy
- Đoàn Hồng Lê
- Đoàn Huy Giao
- Đoàn Huyền
- Đoàn Khắc Xuyên
- Đoàn Lê Giang
- Đoàn Nhã Văn
- Đoàn Thanh Liêm
- Đoan Trang
- Đoàn Tùng Nguyễn
- Đoàn Tử Huyến
- Đoàn Việt Hùng
- Đoàn Xuân Kiên
- Đỗ Anh Hoa
- Đỗ Anh Tuấn
- Đỗ Cao Bảo
- Đỗ Duy Ngọc
- Đỗ Đức
- Đỗ Đức Đông Ngàn
- Đỗ Đức Hiểu
- Đỗ Hòa
- Đỗ Hoàng Diệu
- Đỗ Hồng Ngọc
- Đỗ Hồng Nhung
- Đỗ Hữu Chí
- Đỗ Kh
- Đỗ Kh.
- Đỗ Khiêm
- Đỗ Kim Thêm
- Đỗ Lai Thuý
- Đỗ Lai Thúy
- Đỗ Lê Anh Đào
- Đỗ Mạnh Hoàng
- Đỗ Minh Tuấn
- Đỗ Nghê
- Đỗ Ngọc
- Đỗ Ngọc Thống
- Đỗ Quang Nghĩa
- Đỗ Quang Vinh
- Đỗ Quý Toàn
- Đỗ Quyên
- Đỗ Quỳnh Dao
- Đỗ Thắng Cảnh
- Đỗ Thị Thu Trà
- Đỗ Thiên Anh Tuấn
- Đỗ Trí Vương
- Đỗ Trọng Khơi
- Đỗ Trung Quân
- Đỗ Trường
- Đỗ Tuyết Khanh
- Đồng Chuông Tử
- Đông Hoài
- Đông Hồ
- Đông Kha
- Đông Ngàn Đỗ Đức
- Đông Nghi
- Đức Ban
- Đức Đàm
- Đức Flying Bay
- Đức Hoàng
- Đức Lê
- Đức Phổ
- Đức Tâm
- Đức Tiến
- E.E. Cummings
- E.M. Chernoivanenko
- Eamonn Butler
- Eckart Kleßmann
- Eduardo Galeano
- Edward Hirsch
- Elena Pucillo Truong
- Elias Canetti
- Ellen Bass
- Eloisa Amezcua
- Emiel Roothooft
- Emmanuelle Jardonnet
- Eric Weiner
- Erica Frantz
- Erik Harms
- Erik Korling
- Euan Ward
- Evgheni Dobrenko
- F.N.
- Federico García Lorca
- Feliks Kuznesov
- Filip Lech
- Flanny O’Connor
- Florence Noiville
- Florian Altenhöner
- Francis Fukuyama
- Francis Fukuyma
- Frank Dikötter
- Frank O'Hara
- Frankfurt
- Fred Hiatt
- Friedrich Dürrenmatt
- Friedrich Nietzsche
- Fritz J. Raddatz
- Gabriel García Márquez
- Gaither Stewart
- Gaiutra Bahadur
- Gary Leupp
- Gặp gỡ và trò chuyện
- Georg Bönisch
- Georg Trakl
- George Burchett
- George Orwell
- George Perreault
- George Siemens
- Gerhard Will
- Germain Droogenbroodt
- Giang Dang
- Giang Lại Đức
- Giang Nam
- Giáng Vân
- Giáp Văn Dương
- Gideon Rachman
- Giuse Lê Công Đức
- Goethe
- Gonçalo Fernandes
- Gottfried Benn
- Graham Allison
- Grigory Yudin
- Günter Kunert
- Gyảng Anh Iên
- Hà Duy Phương
- Hà Dương Tuấn
- Hà Dương Tường
- Hà Đình Nguyên
- Hạ Đình Nguyên
- Hà Huy Sơn
- Hà Hương
- Hà Lệ Minh
- Hà Ngọc Hòa
- Hạ Nguyên
- Hà Nguyên Du
- Hà Nhân
- Hà Nhật
- Hà Phạm Phú
- Hà Quang Vinh
- Hà Sĩ Phu
- Hà Thanh Vân
- Hà Thế
- Hà Thị Minh Đạo
- Hà Thúc Sinh
- Hà Thủy Nguyên
- Hà Tùng Long
- Hà Tùng Sơn
- Hà Văn Thịnh
- Hà Văn Thùy
- Hà Vũ Trọng
- Hagi Kenaan
- Hai An Vu
- Hải Hạc
- Hải Ngọc
- Hai Thanh
- Han Dang
- Hàn Giang
- Han Kang
- Hàn Vĩnh Diệp
- Hạnh Nguyên
- Hạnh Phước
- Hạnh Viên
- Hannah Beech
- Hào Thiện Nhân
- Haruki Murakami
- Hân Hương
- Heiko Buschke
- Heinrich Heine
- Henri Michaux
- Henry David Thoreau
- Henry Wadsworth Longfellow
- Heriberto Araújo
- Hermann Hesse
- Hiền Trang
- Hiệp Ikaria
- Hiệu Minh
- Hiếu Tân
- Ho Lai-Ming
- Hòa Bình Lê
- Hoa Níp
- Hoài Hương
- Hoài Nam
- Hoài Phương
- Hoài Thanh
- Hoài Việt
- Hoài Ziang Duy
- Hoan Doan
- Hoàn Nguyễn
- Hoàng Ánh
- Hoàng Anh Tuấn
- Hoàng Cát
- Hoàng Cầm
- Hoàng Chí Hiếu
- Hoàng Chính
- Hoàng Cường Long
- Hoàng Dũng
- Hoàng Dương Tuấn
- Hoàng Đăng Khoa
- Hoàng Đỗ
- Hoàng Đông
- Hoàng Đức Truật
- Hoàng Hà
- Hoàng Hải Thủy
- Hoàng Hải Vân
- Hoảng Hãn
- Hoàng Hưng
- Hoàng Khởi Phong
- Hoàng Kim Oanh
- Hoàng Lại Giang
- Hoàng Lan
- Hoàng Lan Anh
- Hoàng Lan Chi
- Hoàng Lê
- Hoàng Lệ
- Hoàng Linh
- Hoàng Long
- Hoàng Mai Ðạt
- Hoàng Mạnh Hải
- Hoàng Minh Trí
- Hoàng Minh Tường
- Hoàng Nam
- Hoàng Nga
- Hoàng Ngọc Biên
- Hoàng Ngọc Hiến
- Hoàng Ngọc Nguyên
- Hoàng Ngọc Tuấn
- Hoàng Nguyễn
- Hoàng Nguyên Vũ
- Hoàng Nhơn
- Hoàng Nhuận Cầm
- Hoàng Phong Tuấn
- Hoàng Phủ Ngọc Tường
- Hoàng Quân
- Hoàng Quốc Hải
- Hoàng Thị Hường
- Hoàng Thị Thu Thủy
- Hoàng Thu Phố
- Hoàng Thúy
- Hoàng Thuỵ Anh
- Hoàng Tiến
- Hoàng Trung Thông
- Hoàng Tuấn Công
- Hoàng Tuấn Phổ
- Hoàng Tùng
- Hoàng Tuỵ
- Hoàng Văn Sơn
- Hoàng Việt
- Hoàng Vũ Thuật
- Hoàng Xuân Phú
- Hoàng Xuân Sơn
- Hoàng Xuân Tuyền
- Hoàng Yến
- Horst Bienek
- Howard Gardner
- Hồ Anh Thái
- Hồ Bạch Thảo
- Hồ Bất Khuất
- Hồ Diệu Vân
- Hồ Dzếnh
- Hồ Đắc Vũ
- Hồ Đình Nghiêm
- Hồ Hải Thụy
- Hồ Hữu Tường
- Hồ Minh Tâm
- Hồ Ngọc Đại
- Hồ Như
- Hồ Phú Bông
- Hồ Tịnh Tình
- Hồ Trường An
- Hồ Tú Bảo
- Hội những người ủng hộ GS. Chu Hảo
- Hồng Anh
- Hồng Hoang
- Hồng Lê Thọ
- Hồng Phú
- Huệ Hương Hoàng
- Huguette Bertrand
- Huong Nguyen
- Huy Cận
- Huy Đức
- Huy Tưởng
- Huyền Thương
- Huỳnh Duy Lộc
- Huỳnh Hoa
- Huỳnh Hữu Uỷ
- Huỳnh Hữu Ủy
- Huỳnh Kim Báu
- Huỳnh Kim Quang
- Huỳnh Lê Nhật Tấn
- Huỳnh Liễu Ngạn
- Huỳnh Ngọc Chênh
- Huỳnh Như Phương
- Huỳnh Sơn Phước
- Huỳnh Tấn Mẫm
- Huỳnh Thế Du
- Huỳnh Thục Vy
- Huỳnh Trọng Khang
- Huỳnh Tuấn Anh
- Hứa Chương Nhuận
- Hương Lan
- Hường Thanh
- Hương Thủy
- Hữu Danh
- Hữu Đông
- Hữu Loan
- Hữu Mai
- Hữu Phương
- Ian Bui
- Ian Johnson
- Igor Poglazov
- Ilza Burchett
- Inrasara
- Iris Radisch
- Isabella Kwai
- Issa
- Issac Bashevis Singer
- Italo Calvino
- Iya Kiva
- J. M. Lotman
- J.B Nguyễn Hữu Vinh
- Jacques Attali
- Jacques Prévert
- Jake Johnson
- James Borton
- James Daniel Spears
- James G. Zumwalt
- James Grossman
- James Joyce
- James Poniewozik
- James Stavridis
- James WrightJuan Felipe Herrera
- Janos Kornai
- Jared Carters
- Jason Lopata
- Jason Morris-Jung
- Jay Nordlinger
- Jaya K.
- Jean Chesnaux
- Jean d'Ormesson
- Jean Piaget
- Jean Przyluski
- Jean Toomer
- Jean-Jacques Brochier
- Jean-Jacques Roth
- Jean-Louis Rocca
- Jean-Luc Chalumeau
- Jean-Marc Roberts
- Jean-Patrick Géraud
- Jean-Paul Sartre
- Jefferson Cowie
- Jeffrey Hanfover
- Jeffrey Nall
- Jessica Swoboda
- Jessie Yeung
- Jiayang Fan
- Jimmy Carter
- Joan Hua
- João Guimarães Rosa
- Joaquin Nguyễn Hòa
- John Barrow
- John Cheever
- John Freeman
- John Keane
- John McCain
- Jon Fosse
- Jonathan Dee
- Jonathan London
- Jörg Wischermann
- Jorge Amado
- Jorge Luis Borges
- Joschka Fischer
- Josée Lapointe
- Joseph Wong
- Joseph Wright
- Josh Rogin
- Joshua Rothman
- Juan Pablo Cardenal
- Juan Pablo Cardenal & Heriberto Araújo
- Julia Cagé
- Julio Cortázar
- Jun’ichiro Tanizaki
- Kahil Gibral
- Kai Hoàng
- Kale
- Kalynh Ngô
- Kamel Daoud
- Kao Phú
- Kap Seol
- Karel Appel
- Karen Tongson
- Kate Chopin
- Kazuo Shiraga
- Kenneth Nguyen
- Keorapetse Kgositsile
- Kerstin Holm
- Kều Jang
- Kha Lương Ngãi
- Kha Tiệm Ly
- Khải Đơn
- Khái Hưng
- Khaly Chàm
- Khang Quốc Ngọc
- Khánh
- Khánh Bình
- Khánh Duy
- Khánh Ly
- Khánh Mai
- Khanh Nguyen
- Khanh Pham
- Khánh Phương
- Khánh Trâm
- Khánh Trường
- Khét
- Khế Iêm
- Khiêm Nhu
- Khổng Đức Thiêm
- Khuất Đẩu
- Khuê Phạm
- Khuyết Thư
- Kiệm Hoàng
- Kiến Văn
- Kiệt Anh Hùng
- Kiệt Tấn
- Kiều Duy Vĩnh
- Kiều Loan
- Kiều Mai Sơn
- Kiều Maily
- Kiều Phong
- Kiều Thị An Giang
- Kim Ân
- Kim Chi
- Kim Dung
- Kim Hạnh
- Kim Thúy
- Kim Trần
- Kinh Bắc
- Kính Hòa
- Klaus Wiegerefe
- Kúm
- Kurt-Martin Mayer
- Kỳ Duyên
- Kyoko Numano
- L. N. Tolstoy
- L. V. H.
- La Khắc Hoà
- La Khắc Hòa
- Lã Nguyên
- Lại Nguyên Ân
- Lam Điền
- Lam Hạnh
- Lam Ngọc
- Lam Thái Hòa
- Lan Nguyên
- Lang Anh
- Langston Hughes
- LAP
- Larry Diamond
- Lars Vargö
- Laura Cappelle
- Laurent Sagalovitsch
- Lawrence Ferlinghetti
- Lâm Chương
- Lâm Duyên
- Lâm Hạnh
- Lâm Lê
- Lâm Ngân Mai
- Lâm Quang Mỹ
- Lâm Thị Mỹ Dạ
- Leon Trotsky
- Leonard Cohen
- Lê An Thế
- Lê Anh Hoài
- Lê Anh Hùng
- Lê Ân
- Lê Bá Đảng
- Lê Bích Vượng
- Lê Chiều Giang
- Lê Công Định
- Lê Công Giàu
- Lê Công Tư
- Lê Ðình Nhất Lang
- Lê Dũng
- Lê Duy Nam
- Lê Đạt
- Lê Đăng Doanh
- Lê Đình Cai
- Lê Đình Khẩn
- Lê Đình Thắng
- Lê Đỗ Huy
- Lê Đức Dục
- Lê Đức Thôn
- Lê Giang Trần
- Lê Hải
- Lệ Hằng
- Lê Hiệp
- Lê Hoài Nguyên
- Lê Hoàng Diễm Trang
- Lê Hoàng Lân
- Lê Học Lãnh Vân
- Lê Hồ Quang
- Lê Hồng Hà
- Lê Hồng Hiệp
- Lê Hồng Lâm
- Lê Hùng
- Lê Hùng Vọng
- Lê Huyền Ái Mỹ
- Lê Huỳnh Lâm
- Lê Hữu
- Lê Hữu Khoá
- Lê Hữu Khóa
- Lê Hữu Nam
- Lê Kế Lâm
- Lê Khải
- Lê Kim Duy
- Lê Ký Thương
- Lê Lạc Giao
- Lê Luân
- Lê Mã Lương
- Lê Mai
- Lê Mai Lĩnh
- Lê Mạnh Chiến
- Lê Mạnh Đức
- Lê Minh Chánh
- Lê Minh Hà
- Lê Minh Hiền
- Lê Minh Khuê
- Lê Minh Phong
- Lê Ngân Hằng
- Lê Ngọc Luân
- Lê Ngọc Sơn
- Lê Nguyễn
- Lê Nguyễn Duy Hậu
- Lê Nguyễn Hương Trà
- Lê Nguyên Long
- Lê Nguyên Vỹ
- Lê Như Bình
- Lê Oa Đằng
- Lê Phan
- Lê Phú Khải
- Lê Quang
- Lê Quang Đức
- Lê Quảng Hà
- Lê Quang Hợp
- Lê Quang Thành
- Lê Quân
- Lê Quốc Anh
- Lê Quỳnh
- Lê Quỳnh Mai
- Lê Sa Long
- Lê Si Na
- Lê Sơn
- Lê Tất Đạt
- Lê Tất Điều
- Lê Thanh Dũng
- Lê Thanh Hải
- Lê Thanh Phong
- Lê Thanh Trường
- Lê Thân
- lê thi diem thuý
- Lê Thị Hồng Minh
- Lê Thị Huệ
- Lê Thị Hường
- Lê Thị Oanh
- Lê Thị Thấm Vân
- Lê Thiết Cương
- Lê Thiếu Nhơn
- Lê Thọ Bình
- Lê Thời Tân
- Lê Thời Thôi
- Lê Thu Hiền
- Lê Thúy Bảo Liên
- Lê Tiên Long
- Lê Trí Tuệ
- Lê Trinh
- Lê Trọng Nghĩa
- Lê Trọng Nguyễn
- Lê Trung Tĩnh
- Lê Trường Thanh
- Lê Tuấn Huy
- Lê Tuyết Hạnh
- Lê Văn Bỉnh
- Lê Văn Hảo
- Lê Văn Hiếu
- Lê Văn Hòa
- Lê Văn Luân
- Lê Văn Sơn
- Lê Văn Trung
- Lê Văn Tùng
- Lê Vĩnh Tài
- Lê Vĩnh Triển
- Lê Vũ Trường Giang
- Lê Xuân Khoa
- Lê Xuyên
- Li Edelkoort
- Li Zhongqin
- Liêu Diệc Vũ
- Liêu Thái
- Liễu Trương
- Linh Nguyên
- Linh Văn
- Linh Vân
- Linh-Chân Brown
- LKH
- Lorca
- Louis Aragon
- Louise Glück
- Lộc Vàng
- Luân Hoán
- Ludwig von Mises
- Luke Hunt
- Luke Turner
- Lữ Kiều
- Lữ Quỳnh
- Lương Đào
- Lương Thiệu Quân
- Lương Thư Trung
- Lưu Á Châu
- Lưu Bình Nhưỡng
- Lưu Diệu Vân
- Lưu Đức Trung
- Lưu Hà
- Lưu Hiểu Ba
- Lưu Khánh Thơ
- Lưu Mê Lan
- Lưu Minh Hải
- Lưu Na
- Lưu Nhi Dũ
- Lưu Quang Vũ
- Lưu Thuỷ Hương
- Lưu Thủy Hương
- Lưu Trọng Văn
- Lưu Uyên Khôi
- Lý Đợi
- Ly Hoàng Ly
- Lý Ngang
- Ly Phạm
- Lý Quang Hoàn
- Lý Thanh
- Lý Tiến Dũng
- Lý Toàn Thắng
- Lý Trực Dũng
- Lý Xuân Hải
- Lydia Davis
- Lynh Bacardi
- LysP
- M. Gorky
- M.L. Gasparov
- Mạc Phong Tuyền
- Mạc Văn Trang
- Mạc Việt Hồng
- Mạch Nha
- Mạch Quang Thắng
- Madeleine Riffaud
- Mai An Nguyễn Anh Tuấn
- Mai Anh Tuấn
- Mai Bá Ấn
- Mai Bá Kiếm
- Mai Chanh
- Mai Hiền
- Mai Khôi
- Mai Kim Ngọc
- Mai Nhật
- Mai Ninh
- Mai Quốc Ấn
- Mai Quỳnh
- Mai Quỳnh Nam
- Mai Sơn
- Mai Thái Lĩnh
- Mai Thanh Sơn
- Mai Thảo
- Mai Tú Ân
- Mai Văn Hoan
- Mai Văn Phấn
- Mai Văn Tính
- Maki Starfield
- Mamleev
- Mạnh Kim
- Mão Xuyên
- Marc Andrus
- Marcel Reich-Ranicki
- Marci Shore
- Marco Ferrarese
- Margarita Lyutova
- Maria Donovan
- Maria Ressa
- Mario Vargas Llosa
- Marion Hennebert
- Mark B. Hamilton
- Mark Binelli
- Mark Frankland
- Mark Osaki
- Mark Strand
- Marta Hillers
- Martin Jankowski
- Martin Kulldorff
- Marty Robbins
- Mary Morose
- Mary Walsh
- Mathias Mayer
- Matthew Clayfield
- Matthew Crawford
- Maurice Blanchot
- Maximilian Steinbeis
- May
- Maya Angelou
- Mặc Đỗ
- Mặc Lâm
- Mân Côi
- McAmmond Nguyễn Thị Tư
- Media Văn Việt
- Michael Burawoy
- Michael Scammell
- Miêng
- Mike Ives
- Mikhail Shishkin
- Mikhail Viktorovich Zygar
- Milan Kundera
- Mimmi Diệu Hường Bergström
- MInh Anh
- Minh Huệ
- Minh Hùng
- Minh Luật
- Minh Quang – Lê Chiên
- Minh Quang Ho
- Minh Tâm
- Minh Thùy
- Minh Thư
- Minh Toàn
- Minh Tuấn
- Monica Berlin
- Mỹ Hằng
- Mỹ Lan
- N. S. Khrushchev
- Nam Dao
- Nam Dao Nguyễn Mạnh Hùng
- Nam Đan
- Nam Đông
- Nam Nguyên
- Nam Sơn
- Naowarat Pongpaiboon
- Natalia lacovelli
- Nataliya Zhynkina
- Natsume Sōseki
- Nay Aung
- ng. anhanh
- Ng.Uyển Nicole Dương
- Ngải Vị VỊ
- Ngân Xuyên
- Nghệ thuật
- Nghiêm Lương Thành
- Nghiêm Phương Mai
- Nghiêm Xuân Hồng
- Nghiên Cứu Phê Bình
- Ngo Thu
- Ngọc Anh
- Ngọc Duy Phan
- Ngoc Hien Bui
- Ngọc Linh
- Ngô Anh Tuấn
- Ngô Bảo Châu
- Ngô Đình Thẩm
- Ngô Đồng
- Ngô Hương Giang
- Ngô Khắc Tài
- Ngộ Không Phí Ngọc Hùng
- Ngô Liêm Khoan
- Ngô Mai Phong
- Ngô Minh
- Ngô Minh Khôi
- Ngô Ngọc Loan
- Ngô Ngọc Trai
- Ngô Nguyên Dũng
- Ngô Nhật Đăng
- Ngô Quốc Phương
- Ngô Quốc Thịnh
- Ngô Thế Vinh
- Ngô Thị Kim Cúc
- Ngô Thị Thanh Lịch
- Ngô Tùng Phong
- Ngô Tự Lập
- Ngô Văn
- Ngô Văn Giá
- Ngô Viết Nam Sơn
- Ngô Viết Trọng
- Ngô Vĩnh Long
- Ngô Xuân Hội
- Ngô Xuân Phúc
- Ngô Xuân Thảo
- Ngu Yên
- Nguyen Duc Thanh
- Nguyễn Hải Hoành
- Nguyễn Anh Dũng
- Nguyễn Anh Tuấn
- Nguyễn Anh Tuấn - đạo diễn
- Nguyễn Bá Chung
- Nguyễn Bách Việt
- Nguyễn Bảo Chân
- Nguyễn Bắc Sơn
- Nguyên Bình
- Nguyễn Bính
- Nguyên Cầm
- Nguyên Cẩn
- Nguyên Chánh
- Nguyễn Chí Hoan
- Nguyễn Chí Thuật
- Nguyễn Chí Trung
- Nguyễn Chí Tuyến
- Nguyễn Chinh Trung
- Nguyễn Cung Thông
- Nguyễn Cường
- Nguyễn Danh Bằng
- Nguyễn Danh Huế
- Nguyễn Danh Lam
- Nguyễn Ðăng Thường
- Nguyễn Duy
- Nguyễn Dương Quang
- Nguyễn Đạt
- Nguyễn Đắc Kiên
- Nguyễn Đắc Xuân
- Nguyễn Đăng Điệp
- Nguyễn Đăng Hưng
- Nguyễn Đăng Khoa
- Nguyễn Đăng Mạnh
- Nguyễn Đăng Na
- Nguyễn Đăng Quang
- Nguyễn Đăng Thường
- Nguyễn Đình Ấm
- Nguyễn Đình Bin
- Nguyễn Đình Bổn
- Nguyễn Đình Chú
- Nguyễn Đình Cống
- Nguyễn Đình Đăng
- Nguyễn Đình Huỳnh
- Nguyễn Đình Thắng
- Nguyễn Đình Thi
- Nguyễn Đình Toàn
- Nguyễn Đổng Chi
- Nguyễn Đông Thức
- Nguyễn Đức
- Nguyễn Đức Dương
- Nguyễn Đức Hiệp
- Nguyễn Đức Mậu
- Nguyễn Đức Sơn
- Nguyễn Đức Thắng
- Nguyễn Đức Tiến
- Nguyễn Đức Tùng
- Nguyễn Đức Tường
- Nguyễn Gia Trí
- Nguyên Giác
- Nguyên Giác Phan Tấn Hải
- Nguyễn Hà Luân
- Nguyễn Hải Hoành
- Nguyễn Hải Yến
- Nguyễn Hàn Chung
- Nguyễn Hiến Lê
- Nguyễn Hoa Lư
- Nguyễn Hoài Nam
- Nguyễn Hoài Văn
- Nguyễn Hoài Vân
- Nguyễn Hoàn
- Nguyễn Hoàn Nguyên
- Nguyễn Hoàng Ánh
- Nguyễn Hoàng Anh Thư
- Nguyễn Hoàng Diệu Thủy
- Nguyễn Hoàng Diệu Thúy
- Nguyễn Hoàng Giao
- Nguyễn Hoàng Linh
- Nguyễn Hoàng Trung
- Nguyễn Hoàng Văn
- Nguyễn Hồng Anh
- Nguyễn Hồng Giao
- Nguyễn Hồng Hưng
- Nguyễn Hồng Lam
- Nguyễn Hồng Nhung
- Nguyễn Hồng Thục
- Nguyễn Huệ Chi
- Nguyễn Hùng
- Nguyễn Huy Hoàng
- Nguyễn Huy Thiệp
- Nguyễn Huy Vũ
- Nguyên Hưng
- Nguyễn Hưng Quốc
- Nguyễn Hương
- Nguyễn Hữu Đễ
- Nguyễn Hữu Hồng Minh
- Nguyễn Hữu Liêm
- Nguyễn Hữu Nhật
- Nguyễn Hữu Sơn
- Nguyễn Hữu Thiết
- Nguyễn Hữu Việt Hưng
- Nguyễn Hữu Vinh
- Nguyễn kc Hậu
- Nguyễn Khải
- Nguyễn Khánh Duy
- Nguyễn Khánh Trường
- Nguyễn Khắc An
- Nguyễn Khắc Bình
- Nguyễn Khắc Mai
- Nguyễn Khắc Ngân Vi
- Nguyễn Khắc Phê
- Nguyễn Khắc Phi
- Nguyễn Khắc Phục
- Nguyễn Khiêm
- Nguyễn Khôi
- Nguyễn Kiến Phước
- Nguyễn Kiều Dung
- Nguyễn Kiều Hưng
- Nguyên Lạc
- Nguyễn Lãm Thắng
- Nguyễn Lan Phương
- Nguyễn Lân Bình
- Nguyễn Lân Thắng
- Nguyễn Lê Hồng Hưng
- Nguyễn Lệ Uyên
- Nguyễn Linh Giang
- Nguyễn Linh Quang
- Nguyễn Lộ Trạch
- Nguyễn Luận
- Nguyễn Lương Hải Khôi
- Nguyễn Lương Ngọc
- Nguyễn Lương Thịnh
- Nguyễn Lương Vỵ
- Nguyễn Mai
- Nguyễn Man Nhiên
- Nguyễn Mạnh An Dân
- Nguyễn Mạnh Côn
- Nguyễn Mạnh Đẩu
- Nguyễn Mạnh Tiến
- Nguyễn Manh Trinh
- Nguyễn Mạnh Trinh
- Nguyễn Mạnh Tuấn
- Nguyễn Mạnh Tường
- Nguyễn Minh Anh
- Nguyễn Minh Hòa
- Nguyễn Minh Kính
- Nguyễn Minh Nhị
- Nguyễn Minh Nhựt
- Nguyễn Minh Thuyết
- Nguyễn Mộng Giác
- Nguyên Ngọc
- Nguyễn Ngọc Chu
- Nguyễn Ngọc Giao
- Nguyễn Ngọc Hoa
- Nguyễn Ngọc Lanh
- Nguyễn Ngọc Liễm
- Nguyễn Ngọc Lung
- Nguyễn Ngọc Tâm
- Nguyễn Ngọc Thiện
- Nguyễn Ngọc Tú Anh
- Nguyễn Ngọc Tư
- Nguyên Nguyên
- Nguyễn Nguyên
- Nguyễn Nguyên Bình
- Nguyễn Nhật Tín
- Nguyên Nhi
- Nguyễn Như Huy
- Nguyễn Phạm Hùng
- Nguyễn Phú Yên
- Nguyễn Phúc Vĩnh Ba
- Nguyễn Phượng
- Nguyễn Phương Đình
- Nguyễn Phương Mai
- Nguyễn Phương Mạnh
- Nguyễn Quang
- Nguyễn Quang A
- Nguyễn Quang Bình
- Nguyễn Quang Duy
- Nguyễn Quang Dy
- Nguyễn Quang Đồng
- Nguyễn Quang Hồng
- Nguyễn Quang Hưng
- Nguyễn Quang Lập
- Nguyễn Quang Thạch
- Nguyễn Quang Thân
- Nguyễn Quang Thiều
- Nguyễn Quang VInh
- Nguyễn Quân
- Nguyễn Quốc Lâm
- Nguyễn Quốc Thái
- Nguyễn Quốc Toàn
- Nguyễn Quốc Trụ
- Nguyễn Quốc Tuấn
- Nguyên Sa
- Nguyễn Sĩ Dũng
- Nguyễn Sơn Lâm
- Nguyễn Sỹ Phương
- Nguyễn Sỹ Tế
- Nguyễn Tà Cúc
- Nguyễn Tài Cẩn
- Nguyễn Tấn Cứ
- Nguyễn Tất Nhiên
- Nguyễn Thạch Giang
- Nguyễn Thái Hòa
- Nguyễn Thái Hợp
- Nguyễn Thái Sơn
- Nguyễn Thái Tuấn
- Nguyễn Thanh Bình
- Nguyễn Thanh Châu
- Nguyễn Thanh Giang
- Nguyễn Thanh Hiện
- Nguyễn Thanh Hùng
- Nguyễn Thanh Huy
- Nguyễn Thanh Huyền
- Nguyễn Thanh Mỹ
- Nguyễn Thành Nam
- Nguyễn Thanh Nghị
- Nguyễn Thanh Nguyệt
- Nguyễn Thành Phong
- Nguyễn Thanh Sơn
- Nguyễn Thành Sơn
- Nguyễn Thanh Tâm
- Nguyễn Thành Thi
- Nguyễn Thanh Tuyền
- Nguyễn Thanh Văn
- Nguyễn Thanh Việt
- Nguyễn Thế Hùng
- Nguyễn Thế Thanh
- Nguyễn Thị Ái Tiên
- Nguyễn Thị Bích Hậu
- Nguyễn Thị Bích Ngà
- Nguyễn Thị Bình
- Nguyễn thị Cỏ May
- Nguyễn Thị Dư Khánh
- Nguyễn Thị Hải
- Nguyễn Thị Hậu
- Nguyễn Thị Hiền
- Nguyễn Thị Hoàng
- Nguyễn Thị Hoàng Bắc
- Nguyễn Thị Hồng
- Nguyễn Thị Khánh Minh
- Nguyễn Thị Khánh Trâm
- Nguyễn Thị Kim Chi
- Nguyễn Thị Kim Phụng
- Nguyễn Thị Minh Ngọc
- Nguyễn Thị Minh Thương
- Nguyễn Thị Ngọc Hải
- Nguyễn Thị Ngọc Nhung
- Nguyễn Thị Oanh
- Nguyễn Thị Phước
- Nguyễn Thị Thanh Bình
- Nguyễn Thị Thanh Hải
- Nguyễn Thị Thanh Lưu
- Nguyễn Thị Thanh Xuân
- Nguyễn Thị Thanh Yến
- Nguyễn Thị Thảo An
- Nguyễn Thị Thúy Hạnh
- Nguyễn Thị Thùy Linh
- Nguyễn Thị Thụy Vũ
- Nguyễn Thị Thuyền
- Nguyễn Thị Tịnh Thy
- Nguyễn Thị Từ Huy
- Nguyễn Thị Vinh
- Nguyễn Thiện Tống
- Nguyễn Thiện Tơ
- Nguyễn Thói Đời
- Nguyễn Thông
- Nguyễn Thu Quỳnh
- Nguyễn Thu Trang
- Nguyễn Thụy Anh
- Nguyễn Thùy Dương
- Nguyễn Thúy Hạnh
- Nguyễn Thụy Long
- Nguyễn Thuỵ Phương
- Nguyễn Thùy Song Thanh
- Nguyễn Thỵ
- Nguyễn Thy Anh
- Nguyễn Tiến Dũng
- Nguyễn Tiến Lập
- Nguyễn Tiến Trung
- Nguyễn Tiến Văn
- Nguyễn Trần Bạt
- Nguyễn Tri Phương Đông
- Nguyễn Triệu Nam
- Nguyễn Trọng Bình
- Nguyễn Trọng Chức
- Nguyễn Trọng Huân
- Nguyễn Trọng Khôi
- Nguyễn Trọng Tạo
- Nguyễn Trung
- Nguyễn Trung Bảo
- Nguyễn Trung Dân
- Nguyễn Trung Hiếu
- Nguyễn Trung Kiên
- Nguyễn Trung Thuần
- Nguyễn Trường Giang
- Nguyễn Trường Huy
- Nguyễn Trường Uy
- Nguyễn Tuấn
- Nguyễn Tuấn Anh
- Nguyễn Tuấn Khoa
- Nguyễn Tùng
- Nguyễn Tùng Linh
- Nguyễn Tuyết Lan
- Nguyễn Tuyết Lộc
- Nguyễn Tư Nghiêm
- Nguyễn Tử Siêm
- Nguyễn Tường Bách
- Nguyễn Tường Thiết
- Nguyễn Tường Thụy
- Nguyễn Ước
- Nguyễn Vạn An
- Nguyễn Vạn Phú
- Nguyễn Văn
- Nguyễn Văn Ba
- Nguyễn Văn Chính
- Nguyễn Văn Ðậu
- Nguyễn Văn Dũng
- Nguyễn Văn Đài
- Nguyễn Văn Gia
- Nguyễn Văn Hạnh
- Nguyễn Văn Hiệp
- Nguyễn Văn Hòa
- Nguyễn Văn Hùng
- Nguyễn Văn Huyên
- Nguyễn Văn Lợi
- Nguyễn Văn Lục
- Nguyễn Văn Miếng
- Nguyễn Văn Nghệ
- Nguyễn Văn Nho
- Nguyễn Văn Phong
- Nguyễn Văn Phú
- Nguyễn Văn Phước
- Nguyễn Văn Sâm
- Nguyễn Văn Sơn
- Nguyễn Văn Tao
- Nguyễn Văn Thiệu
- Nguyễn Văn Thọ
- Nguyễn Văn Trọng
- Nguyễn Văn Trung
- Nguyễn Văn Tuấn
- Nguyễn Văn Vĩnh
- Nguyễn Văn Xuân
- Nguyễn Vi Khải
- Nguyễn Vi Yên
- Nguyễn Viện
- Nguyễn Việt Anh
- Nguyễn Việt Chiến
- Nguyễn Viết Lãm
- Nguyễn Vĩnh Nguyên
- Nguyễn Vũ Hiệp
- Nguyễn Vũ Tiềm
- Nguyễn Vỹ
- Nguyễn Vy Khanh
- Nguyễn Xuân Diện
- Nguyễn Xuân Hằng
- Nguyễn Xuân Hoàng
- Nguyễn Xuân Hưng
- Nguyễn Xuân Khánh
- Nguyễn Xuân Khoát
- Nguyễn Xuân Nghĩa
- Nguyễn Xuân Nha
- Nguyễn Xuân Quang
- Nguyễn Xuân Thiệp
- Nguyễn Xuân Thọ
- Nguyễn Xuân Tiệp
- Nguyễn Xuân Tường Vy
- Nguyễn Xuân Xanh
- Nguyễn Ý Thuần
- Nguyên Yên
- Nguyễn-Chương Mt
- Nguyễn-hòa-Trước
- Nguyệt Chu
- Nguyệt Quỳnh
- Nguyệt Vi
- Ngự Thuyết
- Người Buôn Gió
- Ngyễn Trung Bảo
- Nh. Tay Ngàn
- Nhã
- Nhã Ca
- Nhã Duy
- Nhã Thuyên
- Nhan Do Thanh
- Nhân Hồng
- Nhật Chiêu
- Nhật Lệ
- Nhất Linh
- Nhật Tiến
- Nhật Tuấn
- Nhất Uyên
- Nhị Linh
- Nhị Ngã
- Nhóm Vì một Hà Nội xanh
- Như Huy
- Như Không
- Như Quỳnh
- Như Quỳnh de Prelle
- Như Ý
- Nhược Thủy
- Niall Ferguson
- Nick Hilden
- Nicolas Casey
- Nikulin
- Nina McPherson
- Ninh Dương
- Ninh Kiều
- Nobert Hummelt
- Nông Hồng Diệu
- NP Phan
- Obama
- Ocean Vương
- Octavio Paz
- Ogden Nash
- Oksana Zabuzhko
- Oleg Kashin
- Ondrej Slowik
- onggiaolang
- Orlando Figes
- Orwell
- Oscar Salemink
- Oscar Wilde
- Pablo Neruda
- Pablo Picasso
- Palmer
- Patrick Frater
- Patrick Lodge
- Paul Auster
- Paul Celan
- Paul Éluard
- Paul Hoover
- Paul Mendez
- Paul Mozur
- Paul Theroux
- Paul-François Paoli
- Paulus Lê Sơn
- Pavel Basinsky
- Pavlo Vyshebaba
- Paweł Kubiak
- Pawel Kuczynski
- Paweł Łepkowski
- Percy Mabandu
- Pervez Hoodbhoy
- Peter B. Zinoman
- Peter Hansen
- Peter Harvey
- Peter Kleiner
- Peter Singer
- Phạm Anh Tuấn
- Phạm Biểu Tâm
- Phạm Cao Hoàng
- Phạm Châu
- Phạm Chí Dũng
- Phạm Chi Lan
- Phạm Chu Sa
- Phạm Công Luận
- Phạm Công Thiện
- Phạm Công Trứ
- Phạm Công Út
- Phạm Duy
- Phạm Duy Nghĩa
- Phạm Đình Trọng
- Phạm Đình Vy
- Phạm Đoan Trang
- Phạm Hải Anh
- Phạm Hải Âu
- Phạm Hiền Mây
- Phạm Hoàng Quân
- Phạm Hồng Sơn
- Phạm Hùng Việt
- Phạm Huy Thông
- Phạm Khiêm Ích
- Phạm Kiều Tùng
- Phạm Kỳ Đăng
- Phạm Lệ Quyên
- Phạm Lê Vương Các
- Phạm Linh
- Phạm Lưu Vũ
- Phạm Minh Hoàng
- Phạm Minh Ngọc
- Phạm Minh Quân
- Phạm Minh Trung
- Phạm Ngọc Lư
- Phạm Ngọc Thái
- Phạm Ngọc Tiến
- Phạm Nguyên Trường
- Phạm Ngữ
- Phạm Phan Long
- Phạm Phú Cường
- Phạm Phú Hải
- Phạm Phú Minh
- Phạm Phú Phong
- Phạm Phú Thứ
- Phạm Phú Viết
- Phạm Phúc Thịnh
- Phạm Phương
- Phạm Quang Ái
- Phạm Quang Long
- Phạm Quang Trung
- Phạm Quang Tuấn
- Phạm Sỹ Sáu
- Phạm Tăng
- Phạm Thành
- Phạm Thành Hưng
- Phạm Thanh Nghiên
- Phạm Thảo Nguyên
- Phạm Thế Cường
- Phạm Thị
- Phạm Thị Anh Nga
- Phạm Thị Hoài
- Phạm Thị Kiều Ly
- Phạm Thị Ngọc
- Phạm Thị Phương
- Phạm Thiên Ân
- Phạm Thiên Thư
- Phạm Tín An Ninh
- Phạm Toàn
- Phạm Trần
- Phạm Trọng Chánh
- Phạm Trung Nghĩa
- Phạm Tuấn
- Phạm Tư Thanh Thiện
- Phạm Tường Vân
- Phạm Văn
- Phạm Văn Khoái
- Phạm Văn Quang
- Phạm Văn Tình
- Phạm Văn Vũ
- Pham Viem Phuong
- Phạm Viêm Phương
- Phạm Viết Đào
- Phạm Việt Hưng
- Phạm Vũ Lửa Hạ
- Phạm Xuân Đài
- Phạm Xuân Hùng
- Phạm Xuân Nguyên
- Phạm Xuân Trường
- Phan An Sa
- Phan Ba
- Phan Bội Châu
- Phan Cẩm Thượng
- Phan Châu Thành
- Phan Cự Đệ
- Phan Đạo
- Phan Đắc Lữ
- Phan Đình Diệu
- Phan Độc Lập
- Phan Hải-Đăng
- Phan Hồng Giang
- Phan Huy Dũng
- Phan Huy Đường
- Phan Huy Lê
- Phan Huyền Thư
- Phan Kế Toại
- Phan Khôi
- Phan Lặng Yên
- Phan Mạnh Quỳnh
- Phan Nam Sinh
- Phan Ngọc
- Phan Nguyên
- Phan Nhật Nam
- Phan Nhiên Hạo
- Phan Ni Tấn
- Phan Phương Đạt
- Phan Quang
- Phan Tấn Hải
- Phan Tấn Uẩn
- Phan Thanh Bình
- Phan Thắng
- Phan Thế Hải
- Phan Thị Hà Dương
- Phan Thị Kim Phúc
- Phan Thị Trọng Tuyển
- Phan Thị Vàng Anh
- Phan Thu Vân
- Phan Thúy Hà
- Phan Trang Hy
- Phan Trí Đỉnh
- Phan Trọng Hoàng Linh
- Phan Văn Giưỡng
- Phan Văn Song
- Phan Văn Thắng
- Phan Vũ
- Phan Xine
- Phan Xuân Sinh
- Phannguyên Psg
- Phanxipăng
- Phaolô VI
- Pháp Hoan
- Pháp Vân
- Phapxa Chan
- Phát biểu nhận giải Văn Việt
- Phil Caputo
- Philip Larkin
- Philip Roth
- Phong Âm
- Phong Linh
- Phong Nguyen
- Phong Quang
- Phố Văn
- Phú Quang
- Phù Sa
- Phúc Lai GB
- Phúc Tiến
- Phunchok Stobdan
- Phùng Anh Kiệt
- Phùng Hi
- Phùng Hoài Ngọc
- Phùng Học Vinh
- Phùng Ngọc Kiên
- Phùng Nguyễn
- Phùng Quán
- Phùng Thành Chủng
- Phùng Thị Hạ Nguyên
- Phùng Thị Như Hà
- Phuong Ta
- Phương Hương
- Phương Phương
- Phương Thảo
- Phương Thuý
- Phương Uy
- Pierre Darriulat
- Pierre Lemieux
- Prashanth Parameswaran
- Qladimir Pyljow
- Quách Hạo Nhiên
- Quách Tấn
- Quách Thoại
- Quảng Diệu Trần Bảo Toàn
- Quang Dũng
- Quang Đức
- Quang Minh
- Quang Phan
- Quảng Tánh Trần Cầm
- Quậy Nguyễn
- Quế Hương
- Quốc Dũng
- Quốc Phương
- Quốc Toản
- Quyên Di
- Quyên Hoàng
- Quỳnh Dao
- Quỳnh Hợp
- Quỳnh Iris de Prelle
- Quỳnh Vi
- Rabindranath Tagore
- Rachel Adams
- Rainer Maria Rilke
- Ralph Chaplin
- Rebecca Mead
- Rebecca Solnit
- Reiner Traub
- Remo Verdickt
- Riccardo Gazzaniga
- Richard C. Paddock
- Richard Millet
- Richard Serra
- Robert Desnos
- Robert McCrump
- Roger Vu
- Roland Barthes
- Romain Rolland
- Ronald F. Inglehart
- Ruben David Gonzalez Gallego
- Russell Edson
- Ruth Ingram
- Ryszard Legutko
- Salman Rushdie
- Salvatore Babones
- Sam Dresser
- Sạn chữ
- Sandra Kerschbaumer
- Sara Teasdale
- Sarah Pulliam Bailey
- Sarah Thornton
- Sáu Nghệ
- Sergio Bitar
- Shakespeare
- Shannon Van Sant
- Sheikha A
- Sheila Fischman
- Sheila Ngoc Pham
- Sheri Berman
- Shigeeda Yutaka
- Shirin Ebadi
- Shukshin
- Simon Johnson
- Sire Apm Lukwesa
- Slavoj Žižek
- Sohaniim
- Son Kieu Mai
- Song Chi
- Song Hà
- Song Nguyễn
- Song Phạm
- Song Phan
- Song Thao
- Số đặc biệt
- Sơn Ca
- Sơn Hoàng Liên
- Sơn Kiều Mai
- Sơn Nam
- Stefan Dege
- Stefano Harney
- Stephan Koester
- Stephen B. Young
- Steve Earle
- Susan Sontag
- Suzuki Katsuhiko
- Sương Nguyệt Minh
- Sương Quỳnh
- Svetlana Alexievich
- Svetlana Alexievitch
- Svetlana Alexiévitch
- Sylvia Plath
- T. Đ.
- T.Vấn
- Tạ Anh Thư
- Tạ Chí Đại Trường
- Tạ Duy Anh
- Tạ Tỵ
- Tạ Văn Tài
- Tạ Văn Thông
- Tạ Xuân Hải
- Tadeusz Rósewicz
- Tam Ích
- Tamarchenko
- Tàn Tuyết
- Tanaami Keiichi
- Taras Shevchenko
- Tarik Khaldi
- Tawada Yoko
- Tăng Quang
- Tâm An
- Tâm Chánh
- Tâm Don
- Tâm Thường Định
- Tâm Việt
- Tấn An
- Teolinda Gersão
- Teresa Mỹ Chúc
- Thạch Đạt Lang
- Thạch Quỳ
- Thạch Thảo
- Thái Bá Tân
- Thái Bá Vân
- Thái Bảo
- Thái Hà
- Thái Hạo
- Thái Kế Toại
- Thái Kim Lan
- Thái Ngọc San
- Thái Sinh
- Thái Thanh
- Thái Thăng Long
- Thái Tuấn
- Thái Văn
- Thái Văn Đào
- Thái Vũ
- Thạnh Đà
- Thanh Hằng - Anh Khoa
- Thành Lộc
- Thanh Nam
- Thanh Ngọc
- Thanh Phương
- Thanh Tâm Tuyền
- Thanh Thảo
- Thanh Thuỷ
- Thanh Trúc
- Thanh Tùng
- Thanh Xuân
- Thanhhà Lại
- Thảo Dân
- Thao Dinh
- Thảo luận
- Thảo Nguyên
- Thảo Trường
- Thảo Vy
- Thẩm Đống
- Thận Nhiên
- Thân Trọng Mẫn
- Thân Trọng Sơn
- Thế Dũng
- Thế Giang
- Thế Quân
- THẾ THANH
- Thế Uyên
- Thi Hoàng
- Thi Nguyên
- Thi sỹ ỦA
- Thi Vũ
- Thích Nhất Hạnh
- Thích Nữ Chân Không
- Thích Phước An
- Thierry Leclère
- Thierry Lentz
- Thiên Di
- Thiên Điểu
- Thiền Lâm
- Thiền Nguyễn
- Thiên Thai
- Thiện Tùng
- Thiện Ý
- Thiết Thạch
- Thiếu Khanh
- Thiều Mai Lâm
- Tho Nguyen
- Thomas A. Bass
- Thomas Bo Pedersen
- Thomas Mahler
- Thomas S. Mullaney
- Thông Đặng
- Thơ
- Thu Phong
- Thu Vàng
- Thuận
- Thuần Ngô
- Thuận Paris
- Thuận Thiên
- Thục Quyên
- Thụy An
- Thùy Dung
- Thụy Khuê
- Thùy Linh
- Thụy My
- Thủy Tiên
- Thư Bạn Đọc
- Thường Quán
- Thy An
- Tịch Ru
- Tiet Hung Thai
- Tiêu Dao Bảo Cự
- Tiêu Kiện Sinh
- Tiểu Tử
- Tillman Miller
- Timothy Brennan
- Timothy Garton Ash
- Timothy Snyder
- Tina Hà Giang
- Tomas Tranströmer
- Tô Đăng Khoa
- Tô Hải
- Tô Hoàng
- Tố Hữu
- Tô Lan Hương
- Tô Ngọc Vân
- Tô Thẩm Huy
- Tô Thùy Yên
- Tô Văn Trường
- Tôi Đây
- Tôn Thất Thông
- Tống Văn Công
- Trà Đóa
- Trà Nhiên
- Tracy K. Smith
- Tran Dinh Dung
- Tran Nam Dung
- Trang Châu
- Trang Hạ
- Trang Thanh
- Trang Thế Hy
- Trangđài Glassey Trầnguyễn
- Trangđài Glasssey-Trầnguyễn
- Trao đổi
- Trầm Tử Thiêng
- Trần Anh Hùng
- Trần Bá Đại Dương
- Trần Bang
- Trần Bình Nam
- Trần C. Trí
- Trần Cao Lĩnh
- Trần Cao Tường
- Trần Công Tâm
- Trần Công Tín
- Trần Dạ Từ
- Trần Dần
- Trần Doãn Nho
- Trần Dũng Thanh Huy
- Trần Duy
- Trần Duy Phiên
- Trần Duy Trung
- Trần Đăng Khoa
- Trần Đăng Tuấn
- Trần Đĩnh
- Trần Đình Bút
- Trần Đình Hoành
- Trần Đình Lương
- Trần Đình Sơn Cước
- Trần Đình Sử
- Trần Đình Triển
- Trần Đình Trợ
- Trần Độ
- Trần Đồng Minh
- Trần Đức Anh Sơn
- Trần Đức Thảo
- Trần Đức Tiến
- Trần Đức Tín
- Trần Đức Toản
- Trần Gia Huấn
- Trần Gia Ninh
- Trần Hà Linh
- Trần Hạ Tháp
- Trần Hạ Vi
- Trần Hải
- Trần Hạnh
- Trần Hậu
- Trần Hoài Anh
- Trần Hoài Thư
- Trần Hoàng Phố
- Trần Hoàng Trúc
- Trần Hoàng Vy
- Trần Hùng
- Trần Huy Bích
- Trần Huy Minh Phương
- Trần Huy Quang
- Trần Huỳnh Duy Thức
- Trần Hữu Dũng
- Trần Hữu Khánh
- Trần Hữu Quang
- Trần Hữu Tá
- Trần Hữu Thục
- Trần Khánh Triệu
- Trần Kiêm Đoàn
- Trần Kiêm Trinh Tiên
- Trần Kim Trắc
- Trần Kỳ Trung
- Trần Lam
- Trần Lê Sơn Ý
- Trần Lương
- Trần Lý Trí Tân
- Trần Mạnh Hảo
- Trần Mạnh Tuấn
- Trần Minh Phi
- Trần Minh Quốc
- Trần Mộng Tú
- Trần Nam Bình
- Trần Ngân Hà
- Trần Nghi Hoàng
- Trần Ngọc Cư
- Trần Ngọc Hiếu
- Trần Ngọc Tuấn
- Trần Ngọc Vương
- Trần Nguyên Đán
- Trần Nhã Thụy
- Trần Nhương
- Trần Phong Giao
- Trần Phong Vũ
- Trần Quang Đức
- Trần Quang Lộc
- Trần Quốc Nam
- Trần Quốc Thuận
- Trần Quốc Toàn
- Trần Quốc Trọng
- Trần Quốc Vượng
- Trần Quyết Thắng
- Trân Sa
- Trần Song Hào
- Trần Thành
- Trần Thanh Ái
- Trần Thanh Cảnh
- Trần Thanh Huy
- Trần Thanh Vân
- Trần Thắng
- Trần Thế Vĩnh
- Trần Thị Băng Thanh
- Trần Thị Diệu Tâm
- Trần Thị Lai Hồng
- Trần Thị Lam
- Trần Thị NgH.
- Trần Thị Nguyệt Mai
- Trần Thị Phương Phương
- Trần Thị Thanh Thoả
- Trần Thị Trường
- Trần Thiện Đạo
- Trần Thùy Mai
- Trần Tiến
- Trần Tiễn Cao Đăng
- Trần Tiến Dũng
- Trần Tiễn Khanh
- Trần Tố Nga
- Trần Trọng Dương
- Trần Trọng Thức
- Trần Trọng Vũ
- Trần Trung Chính
- Trần Trung Đạo
- Trần Tuấn
- Trần Từ Mai
- Trần Vàng Sao
- Trần Văn Chánh
- Trần Văn Đỉnh
- Trần Văn Khê
- Trần Văn Minh
- Trần Văn Nam
- Trần Văn Thọ
- Trần Văn Thủy
- Trần Văn Tý
- Trần Vấn Lệ
- Trần Việt Hà
- Trần Viết Ngạc
- Trần Vinh Dự
- Trần Vũ
- Trần Vũ Hải
- Trần Vương Thuấn
- Trần Vương Thuận
- Trần Wũ Khang
- Trần Xuân Hoài
- Trần Xuân Linh
- Trần Xuân Lĩnh
- Trần Xuân Thảo
- Trần Yên Hòa
- Trần Yên Nguyên
- Trên
- Trên Facebook
- Trên Facebook/Minds
- Trên kệ sách
- Trên trang diaCRITICS
- Trí Hiệu Dân
- Triều Anh
- Triều Hoa Đại
- Triêu Nhan
- Triều Sơn
- Triệu Tử Dương
- Trịnh Anh Tuấn
- Trịnh Bá Phương
- Trịnh Bách
- Trịnh Cao Hòa Thanh
- Trịnh Chu
- Trịnh Công Sơn
- Trịnh Cung
- Trịnh Duy Kỳ
- Trịnh Hữu Long
- Trịnh Kim Tiến
- Trịnh Lữ
- Trịnh Minh Tuấn
- Trịnh Sơn
- Trịnh Thanh Thủy
- Trịnh Thu Tuyết
- Trịnh Vĩnh Phúc
- Trịnh Xuân Thuận
- Trịnh Xuân Thủy
- Trịnh Y Thư
- Trọng Anh
- Trọng Phú
- Trọng Thành
- Tru Sa
- Trúc Giang
- Trúc Thông
- Trúc Ty
- Trump
- Trung Bảo
- Trung Dũng Kqd
- Trùng Dương
- Trung Trung Đỉnh
- Trư Sa
- Trường An
- Trương Anh Ngọc
- Trương Anh Thụy
- Trương Chính
- Trương Duy Nhất
- Trương Đăng Dung
- Trương Điện Thắng
- Trương Đình Phượng
- Trương Hồng Quang
- Trương Huy San
- Trường Minh
- Trương Ngọc Chương
- Trương Nguyên
- Trương Nguyện Thành
- Trương Nhân Tuấn
- Trương Phượng
- Trương Quang
- Trương Quang Đệ
- Trương Quang Nhuệ
- Trương Quang Vĩnh
- Trương Thị Ngọc Hân
- Trương Thiên Phàm
- Trương Thu Hiền
- Trương Tố Hoa
- Trương Trọng Nghĩa
- Trương Tửu
- Trương Văn Dân
- Trương Văn Vĩnh
- Trương Vũ
- Trương Xuân Thiên
- Tú Mỡ
- Tù Quốc Hoài
- Tù Sâm
- Tú Trung Hồ
- Tuấn Duy
- Tuấn Khanh
- Tuân Nguyễn
- Tuấn Thảo
- Tuệ Anh
- Tuệ Đăng
- Tuệ Nguyên
- Tuệ Nhân
- Tuệ Nhật
- Tuệ Sĩ
- Tuệ Sỹ
- Tùng Dương Cola
- Tung Nguyen
- Turner
- Túy Hồng
- Tuyết Nghi
- Tư
- Từ Dung
- Tư liệu
- Tử Linh
- Từ Mai Trần Huy Bích
- Từ Quốc Hoài
- Từ Sâm
- Từ Thức
- Tưởng
- Tương Lai
- Umberto Eco
- Uông Tăng Kỳ
- Uông Triều
- Uyển Ca
- Uyên Nguyễn
- Uyên Thao
- Uyên Vũ
- V. Erofiev
- Vàng A Giang
- Varlam Shalamov
- Vasco Gargalo
- Vasily Makarovich
- Văn
- Văn Biển
- Văn Cao
- Văn Chinh
- Văn Công Hùng
- Văn Giá
- Văn học
- Văn học Miền Nam 54-75
- Văn Như Cương
- Văn Quang
- Văn Tâm
- Văn Việt
- Văn.
- Vấn đề hôm nay
- Vận Động Ứng Cử Đại Biểu Quốc Hội 2016
- Vân Hạ
- Vân Phi
- Velcrow Ripper
- Veronica Melkozerova
- Vi Lãng
- Vi Trần
- Vi Yên
- Viet Thanh Nguyen
- Viên Linh
- Việt Bách
- Việt Bình
- Việt Dzũng
- Việt Khang
- Việt Lang
- Việt Phương
- Viktor Maslov
- Vinh Anh
- Vĩnh Hảo
- Vĩnh Quyền
- Virginia Heffernan
- Virginia Woolf
- Vladimir Nabokov
- Võ An Đôn
- Võ Anh Minh
- Võ Anh Thơ
- Võ Bá Cường
- Võ Đắc Danh
- Võ Định Hình
- Võ Đức Phúc
- Võ Hồng
- Võ Huy Tâm
- Võ Hương Quỳnh
- Võ Kỳ Điền
- Võ Ngàn Sông
- Võ Phiến
- Võ Thị Hảo
- Võ Thị Thu Hằng
- Võ Tiến Cường
- Võ Tòng Xuân
- Võ Trí Hảo
- Võ Văn Quản
- Võ Văn Tạo
- Võ Văn Thôn
- Võ Xuân Quế
- Võ Xuân Sơn
- Volker Weidermann
- Volodymyr Vynnychenko
- Volodymyr Zelenskyy
- Vũ Bằng
- Vũ Biện Điền
- Vũ Cao Đàm
- Vũ Cát Tường
- Vũ Đình Hòe
- Vũ Đình Huỳnh
- Vũ Đình Liên
- Vũ Đình Phòng
- Vũ Đức Khanh
- Vũ Đức Phúc
- Vũ Đức Sao Biển
- Vu Gia
- Vũ Hà Văn
- Vũ Hạnh
- Vũ Hoàng Chương
- Vũ Hoàng Thư
- Vũ Hồng Ánh
- Vũ Huy Ngọc
- Vũ Huy Quang
- Vũ Khắc Hoè
- Vũ Khắc Khoan
- Vũ Kim Hạnh
- Vũ Kim Thu
- Vũ Lâm
- Vũ Lập Nhật
- Vũ My Lan
- Vũ Ngọc Giao
- Vũ Ngọc Hoàng
- Vũ Ngọc Tâm
- Vũ Ngọc Tiến
- Vũ Nho
- Vũ Oanh
- Vũ Quang Việt
- Vũ Quí Hạo Nhiên
- Vũ Quốc Ngữ
- Vũ Quỳnh Hương
- Vũ Quỳnh Nh.
- Vũ Thành Sơn
- Vũ Thanh Tâm
- Vũ Thanh Tùng
- Vũ Thành Tự Anh
- Vũ Thế Khôi
- Vũ Thị Hải
- Vũ Thị Nhuận
- Vũ Thị Phương Anh
- Vũ Thị Phương Lan
- Vũ Thị Thanh
- Vũ Thị Thanh Mai
- Vũ Thư Hiên
- Vũ Tiến Lập
- Vũ Trọng Khải
- Vũ Tuấn Hoàng
- Vũ Từ Trang
- Vũ Tường
- Vũ Viết Tuân
- Vũ Xuân Tửu
- Vương Bích Ngọc
- Vương Đan
- Vương Huy
- Vương Ngọc Minh
- Vương Tiểu Nhị
- Vương Trí Nhàn
- Vương Trọng
- Vương Trùng Dương
- Vương Trung Hiếu
- Vy Thảo
- W. H. Auden
- Wa Praong
- Walt Whitman
- Walter Isaacson
- Wayne Karlin
- Wells
- Wendy Barker
- Wilhelm Schmid
- Will Nguyen
- William Carlos Williams
- William Nee
- William Stafford
- William Stanley Merwin
- Winston Phan Đào Nguyên
- Wislawa Szymborska
- Wolf Biermann
- Wolfgang Borchert
- Wynn Gadkar Wilcox
- Xie Tao
- Xuân Ba
- Xuân Diệu
- Xuân Dương
- Xuân Đài
- Xuân Minh
- Xuân Phượng
- Xuân Sách
- Xuân Thọ
- Xuân Vũ
- Xương Văn
- Y Chan
- Ý Nhi
- Y Uyên
- Yanis Varoufakis
- Yevgeny Yevtushenko
- Yên Ba
- Yên Khắc Chính
- Yến Năng
- Yên San
- Yên San Thụy Miên
- Yên Thao
- Yiyun Li
- Yoko Ogawa
- Yōko Ogawa
- Yoko Tawada
- Young Sang Lee
- Yuliya Ilchuk
- Yuno Bigboi
- Yves Sintomer
- Yvette Tan
- Zac Herman
Hát Giặm Nghệ-Tĩnh I và II của Nguyễn Đổng Chi và Ninh Viết Giao
Lê Văn Hảo
Các tỉnh Nghệ-an và Hà-tĩnh ở về phía Nam Thanh-hóa, thuộc miền Trung Việt-nam, đã hình thành nên một nhóm địa văn hóa thuần nhất, thường được gọi là văn hóa Nghệ-Tĩnh. Tiến trình của Đại Việt (Việt Lớn, tên cũ của Việt-nam) trong nhiều thế kỷ, là một đất nước được thiên nhiên phú bẩm cho những danh lam thắng cảnh hùng vĩ, nhưng lại chứa đựng những nguồn tài nguyên hạn chế, phải tiếp xúc với một khí hậu khắc nghiệt, và phải hứng chịu nhiều bất ổn và chiến tranh thường xuyên. Tuy nhiên, những vùng đất bạc bẽo này đã ban tặng và sản sinh cho Việt-nam một số công dân nổi tiếng nhất: quan đại thần, nhà thơ, nhà yêu nước, nhà cách mạng. Dường như ở đây con người được định hình mạnh mẽ bởi khung cảnh địa lý đặc biệt.
Bộ sách Hát Giặm Nghệ-Tĩnh của Nguyễn Đổng Chi và Ninh Viết Giao, gồm hai quyển[1], lần đầu tiên trình bày một thể loại hát dân ca vùng miền thuộc một số địa phương trong [hai] tỉnh này, chưa rõ xuất xứ và còn ít được biết đến (I, tr. 7, 51, 54). Hát Giặm Nghệ-Tĩnh có ba phần:
Phần đầu Quyển I (I, tr. 9-120) trình bày định nghĩa, khảo sát nguồn gốc và hình thức thể loại của các bài hát giặm cũng như tập quán và phong tục liên quan đến các bài hát đó, những giai thoại gắn liền với các ca sĩ nổi tiếng trong vùng. Phần đầu tiên này có thể đính kèm chương kết luận ngắn ở Quyển II (II, tr. 338-345) nói về những đặc điểm chính của hát giặm và triển vọng về phương diện văn học và âm nhạc của thể loại này.
Phần thứ hai Quyển I (I, tr. 121-309) là một tuyển tập khoảng 50 bài hát miêu tả đời sống vật chất và xã hội của người Nghệ-Tĩnh trong thời kỳ phong kiến và thuộc địa của lịch sử Việt Nam.
Phần thứ ba, Quyển II, tập hợp gần 80 bài hát [hát giặm vè] liên quan đến các cuộc đấu tranh chính trị do dân tộc này khởi xướng trong hàng trăm năm qua (II, tr. 20-337).
I. Phần thứ nhất của Hát giặm Nghệ-Tĩnh: “Nghiên cứu về hát giặm”.
Tác giả bắt đầu bằng việc xem xét vị trí của những bài hát này trong văn học Việt-nam (trang 9-24). Hát Giặm xét từ góc độ văn học thuộc thể loại thơ đoản cú. Bên cạnh hai hình thức thơ 2 chân hay 2 chữ (vãn hai hoặc vè hai), và 4 chân hay 4 chữ (vãn tứ hoặc vè bốn) thì các bài hát giặm bao gồm các khổ thơ thường được nhóm lại từ các câu thơ 5 chân hay 5 chữ[2].
Khăn chít vành Hà-nội
Ướm mặc[*] kiểu Thừa-thiên
Miệng nói đôi đồng tiền
Rõ mày hoa mắt phượng
Thiệt mày ngài mắt phượng
Dịch:
Bạn đội khăn xếp kiểu Hà-nội
Yếm che ngực của bạn kiểu Thừa-thiên
Khi nói, bạn lộ ra đôi má lúm đồng tiền
Lông mày của bạn đang nở hoa
Đôi mắt bạn giống đôi mắt chim phượng
Quả tình lông mày của bạn có nét duyên của con ngài xứng với đôi mắt phượng của bạn.
Thuật ngữ Hát Giặm vẫn chưa tìm được một định nghĩa cho thật thỏa đáng. Theo Nguyễn Đổng Chi, giặm gần giống với các từ ngữ dắm (hay dặm "thêm, chèn, thay thế, lấp đầy khoảng trống") và "lén đưa một thứ gì cho ai đó" [dắm dúi]. Ở vùng Nghệ-an, dắm đúng nghĩa là trồng cây lúa để thay thế những cây bị chết hoặc bị bật gốc. Chúng ta biết rằng trong các cuộc đối đáp của Hát Giặm, người đối hoặc người đáp đều phải ghép dòng đầu khúc hát mình sắp hát với dòng cuối khúc hát do đối phương vừa hát xong. Việc thêm vần và hát ngay sau ai đó trong khi vẫn giữ được sự tiếp nối của câu thơ, đã tạo cho Hát Giặm những nét đồng nghĩa với Hát Xắp (nghĩa là "Các bài hát ngang mức với ...") và Hát Luồn (nghĩa là "Các bài hát được đưa vào trong những bài hát khác").
Hát Giặm có ba loại:
a. Những bài hát ứng tác đối đáp xen kẽ giữa con trai và con gái;
b. Những bài hát ngẫu hứng chỉ dành cho một nhóm con trai hoặc một nhóm con gái hát với nhau, không có câu hỏi và câu trả lời; chủ đề bài hát loại 2 ít liên quan đến tình yêu hơn những câu chuyện vặt đáng quan tâm ở địa phương hoặc rộng ra là trong một khu vực, những dư luận, tin đồn, chuyện phiếm, chuyện thời sự;
c. Những bài hát được sáng tác không theo ngẫu hứng, kể một câu chuyện có ý nghĩa, bao gồm phần mở đầu, phần tiếp theo và phần kết thúc, và không giống như hai loại trước, chúng chú ý nhiều đến nội dung nghiêm túc và hình thức thơ hơn là giai điệu và cách hát: đây là những bài Hát Giặm Vè (một thể loại kể vè), những bài hát mà cách diễn đạt lại ít giống với âm nhạc, giống lời nói bình thường hơn (tr. 27-32).
Chức năng của Hát Giặm dường như trước hết là các bài hát về lao động và tình yêu, có thể được dùng như các bài hát thờ cúng (hát tụng thần). Ở vùng Nghệ-Tĩnh chúng phổ biến đến nỗi những người cai trị địa phương đã có ý tưởng sử dụng chúng như những cuộc kể vè để giáo dục người lớn và trẻ em bằng cách thấm nhuần các nguyên tắc lịch sử, đạo đức. Các nhà truyền giáo cũng sử dụng hình thức Hát Giặm để truyền đạo cho đồng bào. Hát giặm[**] thời sự và Hát giặm vè cũng đã trở thành một loại nhật ký truyền khẩu, trong đó một dư luận được bày tỏ nhanh chóng; lời ngợi ca những thành tích hoặc chỉ trích những khuyết điểm được ghi nhận ngay tại chỗ (hay khen hèn chê) (tr. 34).
Nguồn gốc của những bài hát này vẫn chưa xác định được. Nhiều khúc hát tác giả sưu tầm cho thấy, vào cuối thế kỷ XVII và đầu thế kỷ XVIII, Hát Giặm đã rất thịnh hành (tr. 51). Hơn nữa, nhịp điệu bài hát càng cổ thì càng có nhiều câu 4 chân (chữ) xen lẫn vào câu 5 chân (chữ), có thể dẫn đến giả thuyết câu thơ 4 chân (chữ) vốn là nguồn gốc của Hát Giặm. Nguyễn Đổng Chi cũng trích dẫn một vài câu thơ 4, 5 chân (chữ) từ Kinh Thi và từ một loạt bài hát dân gian của các dân tộc Tiền-Đông Dương (Proto-Indochine) ở Tây Nguyên Trung Bộ Việt Nam (trước đây gọi bằng thuật ngữ Mọi, “man rợ”); rồi ông đặt những câu Hát Giặm sát gần bên những câu thơ bốn chân (chữ) ngay trước một đoạn điệp khúc (câu thơ 9 chữ) đặc trưng cho thể loại Hát đuổi hay thể loại “tẩu mã” (tiếng hý của con ngựa đang chạy) trong tiết mục Hát Chèo, “sân khấu dân gian miền Bắc Việt-nam” (tr. 46-48). Những mối liên hệ được nhận ra ở đây, cũng như tính chất cổ xưa của truyền thống hát đối đáp giữa các chàng trai và các cô gái, cho phép đoán định rằng nguồn gốc của Hát Giặm cần được tìm kiếm ở những thời điểm xưa hơn nhiều so với thế kỷ XVII.
Về tính chất vùng miền hạn hẹp của những bài hát dặm thì tác giả đã tìm ra hai nguyên nhân:
a. Đó là những bài hát dân gian được diễn đạt bằng thứ ngôn ngữ tầm thường (tiếng nôm), đích thị là nó phải chịu đựng sự ghẻ lạnh của tầng lớp nho sĩ, ngoại trừ trong ba thế kỷ gần đây;
b. Đó chủ yếu là những bài hát mà phương ngữ Nghệ-Tĩnh chiếm ưu thế cả về ngữ âm và từ vựng. Người dân ở các vùng khác trong nước có thói quen chê bai người Nghệ-Tĩnh vì ngữ điệu nặng và khó nghe (giọng nói nặng nề, trọ trẹ). Quả thực là ở Nghệ-Tĩnh có khuynh hướng phát âm vừa nặng vừa kéo dài ở những từ như sữa (Bắc Việt): sựa (Nghệ-Tĩnh); rẽ: rẹ; lão: lạo; cửa: cựa; hay như: ông: ôông; trong: troong; khóc: khoóc; học: hoọc; chửi: chưởi; rượu: riệu, v.v. Và nhất là rất nhiều từ địa phương trong Hát Giặm lại xen lẫn với những tiếng Việt cổ xưa nhất.
Ví dụ:
nác (Nghệ-Tĩnh): nước (Bắc Việt); tru: trâu; eng: anh; mô: đâu; nì: này; chắc: nhau; miện: kỳ; rọng: ruộng; vống: vụng; khót: gọt; nỏ: không; mấn: váy; trạch: chọn; kháp: gặp; giừ: bây giờ; chước: giấc; nhởi: chơi; lái: lưới; khái: hổ; chộ: thấy.
Ngữ nghĩa và ngữ âm của tiếng Nghệ-Tĩnh được so sánh với ngữ nghĩa và ngữ âm của tiếng Mường (bộ tộc thiểu số ở vùng trung du miền Bắc Việt-nam); chúng góp phần vào việc nghiên cứu quá trình tiến triển của tiếng Việt mà chúng phản ánh ở một giai đoạn tương đối cổ.
Các hình thức Hát Giặm rất đa dạng: mỗi khúc hát bắt đầu bằng một đoạn dạo đầu của hai hoặc nhiều câu 6/8 luân phiên nhau; mỗi khổ thơ ít nhất bốn câu, nhiều nhất hai mươi câu; các câu thường dài 5 chân (chữ), nhưng có thêm bớt, chúng có thể lên đến 10 [chân/chữ] tùy theo nhu cầu của giai điệu hoặc cách diễn đạt ý tưởng (tr. 56-59). Các vần tuân theo hệ thống bằng và trắc[3]; mỗi khổ thơ có một câu điệp khúc [câu thứ năm] láy lại câu thứ tư của khổ thơ nhưng được thay đổi một đôi chữ và bắt vần với câu đầu tiên của khổ thơ sau.
Câu thứ năm: … (khổ trước)… mà tiêu dụng vần trắc
Câu đầu [khổ sau]: Chàng phải ghi một bụng vần trắc
Câu thứ hai: Thiếp phải quyết một lòng vần bằng
Câu thứ ba: Chàng đi học gia công vần bằng
Câu thứ tư: Thiếp mừng riêng trong dạ vần trắc
Câu thứ năm: Thiếp mừng thầm trong dạ [láy lại] vần trắc
Theo tác giả, phát biểu với sự am tường sự việc đâu ra đấy, thì đối với những người ham thích các bài hát, hai câu thơ vần trắc trong mỗi khổ thơ là phần chủ chốt ở tất cả mọi thể thức hát (đối đáp, không đối đáp, giặm vè). Sự tiếp diễn của bài hát được so sánh với một dòng nước chảy từng đợt rồi bất thình lình đổ tất cả xuống thành một dòng chảy xiết, hoặc như một con diều hâu bay vút lên, lượn lờ, rồi xé không khí, đâm thẳng vào con mồi của nó: bài hát cũng bao gồm trong nó giai điệu đổ dốc này khiến nó trở nên đắt giá. Còn với câu điệp khúc thì không bắt buộc, có thể xóa bỏ tùy ý trong trường hợp nó kéo dài sự trình diễn vô ích, nhưng được giữ lại khi cần tăng thêm lực, tăng cường độ cho những ý thể hiện trong câu thơ trước nó (tr. 62).
Hát Giặm thuộc thể loại văn học bình dân, truyền khẩu, mang dấu ấn của một loại hình nghệ thuật cụ thể, rất gần gũi với hình dáng, màu sắc và hương vị của cuộc sống thường ngày ở nông thôn. Sức mạnh của các ý tưởng, các châm ngôn được thể hiện bằng các phương thức song song đối ngẫu, bằng hiệu ứng so sánh (rõ ràng hoặc ngầm hiểu) và ám dụ của chính các phương thức đó. Nhưng phương thức đáng chú ý nhất của thi pháp và phong cách dân gian vẫn là sự liên kết chặt chẽ với ngôn từ và dựa vào việc sử dụng (nếu không phải là bịa đặt ra khi cần thiết) những từ ngữ tạo nên hình ảnh, gợi lên các biểu cảm (những từ chuyển tải cảm tưởng hoặc cảm giác về sự vật đã được nhìn thấy, được trải nghiệm). Ví dụ, chúng ta hãy đọc đoạn thơ sau đây miêu tả một con gà trống tơ:
Chỉ một tài ve gấy
Nghe tiếng gáy e e
Nghe tiếng gáy cánh tròe
Nghiêng bên này bên nọ
Ngồi chuốt mồng chuốt mỏ
Mắt lúng liếng lung liêng
Mắt lúng liếng trập triềng
Thật như loài kẻ cắp
Miệng túc túc tắp tắp
Ngặp vô rồi nhả ra
Ve con gấy đàn bà
Không ai bằng nó nữa
Dịch:
Tài năng duy nhất của anh ta là tán tỉnh;
khi anh ta nghe thấy tiếng hát “e e” bên cạnh mình, thì cánh của anh ta sải rộng ra;
anh ta nghiêng về mọi hướng,
anh ta ngồi xuống, vuốt ve cái mào, cái mỏ;
anh ta trông láu lỉnh, láo liêng,
anh ta trông láu lỉnh,
anh ta quan sát, do dự
thực giống như một tên ăn cắp.
Anh ta thốt ra những tiếng kêu lặp đi lặp lại không thành tiếng;
anh ta ngậm vào sau đó nhả cái mình đang giữ ra.
Để thu hút các cô gái và phụ nữ
Không ai có thể sánh được với anh ta.
Những từ ngữ như nghiêng, chuốt, ngặp, nhả, e e, cánh troè, kẻ cắp và đặc biệt là những biểu cảm thị giác lúng liếng, lung liêng, trập triềng, túc túc tắp tắp, dày đặc khó dịch miêu tả cảnh tượng một chú gà trống đang tìm kiếm sự ưu ái từ một đàn gà mái. Có vẻ như sự dư dôi của những biểu cảm độc đáo và hiếm gặp này là sáng tạo có chủ ý mà người viết bài hát buột thốt ra ngay trong cao trào một cuộc hát (tr. 68).
Hát Giặm mặc dù chỉ được mở rộng hạn chế (ở một số tổng hoặc huyện của Nghệ-an và nhất là Hà-tĩnh) nhưng vẫn đóng một vai trò quan trọng trong đời sống và phong tục tập quán của nông dân Nghệ-Tĩnh. Dưới đây là bức tranh về một lễ hội Hát Giặm đối đáp trai gái theo Nguyễn Đổng Chi (tr. 72-84):
Một nhóm những người đam mê hát bao gồm hai, ba hoặc năm, sáu người, trong đó một tay bẻ chuyện (có nghĩa là "người ứng biến, người đối đáp có tài") là người chỉ huy. Nhóm này gặp một nhóm khác do những người khác giới họp lại. Lúc đầu, một người đàn ông bắt đầu hát lên một vài câu dạo đầu gần như không quan trọng hoặc vui vẻ, cho đến khi nhóm kia cất lên giọng của một phụ nữ, và bữa tiệc hát bắt đầu. Hai nhóm ngồi đối mặt cách nhau khoảng chục mét, tốt nhất là dưới bóng một vài gốc cây, tuỳ theo sở thích kín đáo và sự ý tứ của họ.
Khán giả vây quanh rất đông, các ca sĩ luôn ngồi trong tư thế ngồi xổm và tránh xa mọi ánh sáng nó có nguy cơ, cũng như tư thế ngồi bình thường, làm mất hết cảm hứng của mình. Về phía nam, các ca sĩ hát bằng cách phẩy chiếc quạt cho méo giọng đi, điều không xảy ra ở phía nữ, những người muốn giữ cho giai điệu âm thanh nguyên vẹn. Những câu hát dạo đầu có phong cách đơn giản, và bắt đầu từ một câu chuyện thông thường (ví dụ như: "Tôi gần như đã ngủ khi một người bạn đến mời tôi đến bữa tiệc vui vẻ ở đây"), hoặc có phong cách lãng mạn, độc đáo, bất ngờ, ít liên quan đến tình huống trước mắt, tùy thuộc vào người hát thuộc "trường phái cũ" hay "trường phái mới". Một số người tự giới thiệu mình bằng những danh tính giả, những gốc gác tưởng tượng để trong trường hợp thất bại, không phải xấu hổ, không để tiếng không hay cho những cuộc hát sau... Các bài hát dạo đầu của nhóm nam luôn bao gồm những lời khen ngợi, chúc tụng, chúc mừng gia chủ nếu cuộc hát diễn ra trong một ngôi nhà, khen ngợi những điều đáng chú ý nếu diễn ra ở sân đình (nhà công cộng và nơi tổ chức lễ hội của làng).
Trước khi đề cập các câu hỏi về tình cảm, tình yêu, đối phương của cả hai bên đều đặt câu hỏi về tên tuổi và lý lịch của nhau; đố nhau, thách nhau, nhai trầu, hút thuốc lào. Cuối cùng khi tình yêu chớm nở, bùng lên, trai và gái, đàn ông và đàn bà, đều dành nhiều thời gian cho những chủ đề khá kín đáo, tóm lại đó là những lời tỏ tình công khai, hầu như không còn ngụy trang dưới bức màn ẩn dụ và so sánh: sợi dây tìm mũi trâu, hay người chặt cây bắc chiếc cầu. Đó là sự tìm kiếm tình yêu, mong muốn kết hôn, an cư lạc nghiệp. Hạnh phúc đối với người hát của cả hai giới là được gần nhau (nam cận nữ kề), cũng là niềm thích thú khi có thể hát các bài ứng khẩu, được thử thách đối phương về sự thông minh, lanh lợi, khả năng hiểu biết văn chương. Khi một cô gái trẻ tìm thấy một người bạn đời mà cô ấy tin là xứng đáng, cuộc hát đối đáp sẽ được tiếp tục kéo dài trong ngày. Nếu không, việc giao lưu âm nhạc sẽ nhạt đi, giảm bớt, cô gái tuyên bố mình đã nhận lời rồi, chàng trai bày tỏ sự thất vọng, bất mãn của anh ta.
Các thủ lĩnh của các nhóm hát giặm phần lớn thuộc về huyện Thạch-hà; từ các quan đại thần như nhà chí sĩ, nhà thơ Nguyễn Công Trứ, từ những nhà cách mạng lớn như Phan Bội Châu thuở thiếu thời, đều đã từng vang danh rực rỡ trong các phường hát tài năng của cả một vùng; một số cuộc hôn nhân đã trở thành cái kết sau những trò chơi kiểu này; có những nam ca sĩ nổi tiếng bị các cô gái trẻ thông minh, thanh lịch đánh gục. Đấy là một số giai thoại mà chúng tôi đọc được (tr. 93-120) liên quan đến những người yêu thích hát giặm thuở xưa.
Kết luận công trình nghiên cứu của mình về Hát Giặm, các tác giả Hát giặm Nghệ-Tĩnh đã xác định những đặc điểm chính của lối hát này (Quyển II, tr. 338-345):
1° Hát Giặm Nghệ-Tĩnh là một thể loại hát dân gian đề cập đến vấn đề bất bình đẳng xã hội mà người nông dân thường là nạn nhân, nhiều hơn, phong phú hơn bất kỳ thể loại nào khác. Trong văn học bình dân Việt-nam nói chung, người ta gặp không ít lời phàn nàn, tố cáo chống lại những sai trái, bóp nặn, áp bức do chế độ phong kiến gây ra. Trên thực tế, người nông dân đã phải chịu đựng nó nhưng không hiểu nguyên nhân thực sự những khổ nạn của mình mà hầu hết quy cho ông Trời, số kiếp, tiền định.
Ngược lại, ở Hát Giặm, nông dân Nghệ-Tĩnh, từ rất lâu trước thời kỳ Xô Viết ngắn ngủi vào khoảng những năm 1930, đã biết phản kháng trực tiếp chống lại những địa chủ giàu có, bọn lưu manh và đám quan lại, những kẻ trục lợi của thực dân. Mảnh đất Nghệ-Tĩnh đã hình thành nên một dân tộc anh hùng, quật khởi trước mọi bất công, nếu cần trả giá bằng mạng sống. Phương tiện đấu tranh của họ có thể là khởi nghĩa vũ trang nhưng cũng có thể dưới hình thức phản kháng, thóa mạ thường ngày, như trường hợp nói ở đây: những người nông dân này đã sử dụng thể thơ 5 chân (chữ) của Hát Giặm hơn là thơ 6/8 lục bát để tố cáo những kẻ vốn là tác giả đích thực của sự khốn cùng của họ.
2° Một số lượng lớn các bài hát giặm được sáng tác theo mô hình những bài kể vè, giống như một truyện kể nặng lớp lang, thích hợp với việc lưu truyền một câu chuyện có mục đích đạo đức, hoặc triết lý, chính trị xã hội hoặc tình cảm: Hát Giặm có thể đáp ứng tất cả những nhu cầu này với một khả năng thích nghi hầu như tốt hơn bất kỳ hình thức nào khác (thể thơ 6/8 hoặc 7/7, thơ 4 chữ, v.v.). Về phương diện văn học, một trong những đặc điểm của Hát Giặm là tính giản dị trong cách diễn đạt thi ca, thích dùng phương ngữ, lặp lại các từ, các câu cuối, bất kể độ dài, câu độn. Mặt khác hình thức Hát Giặm cũng uyển chuyển súc tích, lựa chọn chính xác sự việc được kể và những hình ảnh gợi liên tưởng. Với điều đó, các bài hát dặm rời xa kiểu thơ tinh tế mà gần lại với thể loại tự sự dân gian.
3° Một đặc điểm khác của Hát Giặm là khả năng phản ánh lịch sử địa phương, khu vực và thậm chí cả quốc gia trong một thời kỳ nhất định. Không giống như những câu tục ngữ và những bài ca dao mà nét đặc thù liên quan đến địa điểm và thời gian sự việc xảy ra thường bị xóa bỏ hoặc làm mờ đi, các bài Hát giặm có thể nói là gắn liền với việc miêu tả một số phong tục, tập quán và một số lượng lớn các sự kiện lịch sử - xã hội diễn ra vào những thời điểm hoặc tại những nơi mà người cầm bút ghi lại câu chuyện thường lưu tên tuổi của mình cho hậu thế thay vì chìm vào ẩn danh như trường hợp của các tác giả thuộc các thể loại văn học đại chúng khác.
II. Phần thứ hai của Hát giặm Nghệ-Tĩnh: "Phong tục tập quán qua các bài hát".
Khoảng hơn năm mươi bài hát giặm vè (kể vè) tập hợp lại trong Quyển I của Hát giặm Nghệ-Tĩnh cung cấp cho ta một bức tranh rõ nét về đời sống vật chất và tinh thần của nông dân Nghệ-Tĩnh.
Về đời sống kinh tế - kỹ nghệ, những minh chứng thú vị được phơi bày qua các khúc hát có tựa đề: Luận về nghề làm vàng giấy; Về sự thay đổi thời tiết trong năm âm lịch; mấy điều kinh nghiệm để biết trời mưa, v.v.
Đời sống tình cảm của người dân Nghệ-Tĩnh được miêu tả trong những bài Hát Giặm vè gợi lên tình cảnh những người đàn bà góa bụa, những người phụ nữ lẻ mọn; nỗi bất hạnh và niềm hy vọng của một người phụ nữ bị bỏ rơi; những chuyện lo lót của một ông lý trưởng trong làng để được lấy một người đàn bà làm vợ kế; năm đêm thức trắng của một cặp vợ chồng trẻ gồm một chàng nho sinh và một cô thợ dệt; những lời hòa giải gửi đến một ông già hay cáu giận với bà vợ của mình.
Đời sống xã hội của người nông dân dưới nhiều khía cạnh sống lại trong mắt chúng ta qua những nét vẽ chớp nhoáng, chân thực, đôi khi đầy màu sắc, đôi khi đầy hài hước, đôi khi đầy xúc động. Chẳng hạn, ta thấy đám tang của những vị thân hào diễu qua trước mắt; một đám cưới (một đoạn hát giặm ròng rất điêu luyện miêu tả đám cưới với một số lượng lớn các thuật ngữ vay mượn từ trong sách y học Hán Việt cổ truyền và sách thuốc); những chàng nho sinh thi hỏng trở về và bị những người thợ cấy chế giễu; những kẻ khoác lác hùng hồn kể nhiều câu chuyện khó tin về các cuộc hôn nhân hoặc về những trò quyến rũ vờ vịt làm ra vẻ si tình của bọn họ; một người mẹ cho con gái lời khuyên đức hạnh vào đêm trước lễ cưới của cô ta; những bậc cha mẹ bày tỏ việc dạy dỗ con cái họ bằng những lời thống thiết, do bản tính và do tấm lòng trung hậu mà càng gắng sức.
Ví dụ :
Khi khóc dai ngồi dỗ
Khi ngứa ngáy ngồi xoa
Trông tháng trọn ngày qua
Trông từng thi từng thí
Tập dần dần từng thí
Khi bữa ăn dang dở
Con tiểu giải lên mình
Ai nấy cũng đều kinh
Cha mẹ ngồi chịu vậy
Hết lau chùi rửa ráy
Trở Iại lại bế bồng
Nhớp nhúa cũng như không
Nâng như vàng như ngọc
Coi bằng vàng bằng ngọc
Kể trong nhà đói khổ
Trời giá rét căm căm
Nơi ướt để mẹ nằm
Nơi khô xê con lại
Nơi ấm bồng con lại
Nghe con cụi quậy
Mẹ lật đật dậy liền
Dậy thổi lửa thắp đèn
Cho con chơi con bú
Cho con nằm con bú
Suốt đêm ngày lụ khụ
Cha như đứa tiểu hầu
Mẹ như đứa tiểu hầu
Nghĩa khó nhọc bấy lâu
Công giữ gìn chăm sóc
Dịch:
Khi con tiếp tục khóc, mẹ dỗ dành con;
Khi con ngứa, mẹ xoa cho con;
Người mẹ ấy hy vọng rằng những tháng, rằng những ngày
sẽ trôi qua mà không gặp sự cố gì.
Người mẹ ấy quan sát con kỹ lưỡng, tỉ mỉ bắt con tập tành từng chút một.
Giữa bữa ăn,
Con làm ướt quần áo của mẹ;
Mọi người nhìn sửng sốt,
Nhưng cha mẹ của con chịu đựng hết.
Mỗi khi con được rửa sạch, lau khô,
Mẹ lại bế con trên tay;
Cho dù con sạch hay con bẩn, điều đó chẳng quan trọng gì
(Chúng ta bồng bế mày cẩn thận như vàng,
giống như một viên ngọc trai,
chúng ta coi mày như vàng, như một viên ngọc trai).
Dù đói, dù khổ
Và cái lạnh khắc nghiệt hành hạ,
Mẹ nằm lên chỗ ướt (trên giường)
Đẩy con đến nơi khô ráo,
Dịch con đến nơi ấm áp.
Khi thấy con cựa động, tỉnh dậy,
Lập tức mẹ dậy ngay
Và thắp đèn lên
để con có thể chơi đùa và được bú sữa mẹ,
để con nằm yên đó và được bú sữa mẹ.
Ngày và đêm chăm sóc con
Cha trông giống như một người hầu
Mẹ trông giống như một người giúp việc
Hãy suy nghĩ một chút về tất cả những nỗi khó nhọc kéo dài,
tận tâm chăm sóc con.
Một phương diện đáng chú ý trong đời sống xã hội của nông dân Nghệ-Tĩnh trước đây: đó là những ức hiếp nhiều mặt đè nặng lên vai họ, từ bọn trùm sỏ có máu mặt ở địa phương (bài hát về sự thối nát và ngang ngược của hào lý), đến các nhà cầm quyền phong kiến trung ương (bài hát thở than chê trách cảnh lao dịch kéo dài trong việc đào kênh Lạc-hạ). Những bài hát này phần lớn được sáng tác vào những thập niên cuối cùng của cả một thiên niên kỷ phong kiến (nhiều thập kỷ của triều Nguyễn), trong đó rất hiếm những thời kỳ ngắn ngủi được sống trong thái bình thịnh trị (bài hát về sự dư dật của một năm thu hoạch sau ngày vua Bảo Đại lên ngôi).
III. Phần thứ ba của Hát giặm Nghệ-Tĩnh: "Các cuộc đấu tranh chính trị của nhân dân từ thời Tự Đức đến ngày nay".
Tập II của Hát giặm Nghệ-Tĩnh gồm gần 80 bài Giặm vè kể lại các cuộc đấu tranh chính trị của nhân dân Việt Nam ở vùng Nghệ-Tĩnh, chủ yếu nổi lên chống lại các thế lực áp bức của chủ nghĩa thực dân (tr. 20-337). Đây trước hết là những khúc hát miêu tả và tôn vinh các thủ lĩnh của phong trào kháng chiến của nho sĩ (Phong trào Cần vương). Giọng sử thi chiếm phần nổi trội trong các bài hát kể lại những chiến thắng, tiếc thay lại quá ngắn ngủi, của những người vốn là sĩ phu trở thành thủ lĩnh trong chiến trận: Phong trào Lê Doãn Nhạ (tr. 56 và tiếp theo); thắng lợi của Bảng Ninh xông vào thành Hà-tĩnh (tr. 64 và tiếp theo). Sau khi cuộc kháng chiến của phong trào Cần vương bùng lên rồi tắt lịm mà không nhìn thấy tương lai, tiếp đến là những bức tranh đen tối và đầy kịch tính về cuộc sống hàng ngày dưới ách của những kẻ áp bức mới, những “quỷ trắng” (bạch quỷ) (tr. 54) mà người ta không biết từ đâu chúng đến. Tình cảnh khốn cùng của dân chúng và những thủ đoạn bòn rút gây phẫn nộ của chính quyền chiếm đóng (cuộc sống cu li, tr. 107); kiếp sống của những nông dân mọt đời trong lao dịch vì những việc xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế suốt mấy thập kỷ đầu tiên của nền thuộc địa (tr. 99 và tiếp theo); bức tranh so sánh giữa cuộc sống của người bị đô hộ và cuộc sống tưởng tượng về tương lai một khi giành lại được tự do (tr. 113).
Một số bài hát giặm tiết lộ sự mệt mỏi của một số đông nông dân trước tình trạng mất an ninh kéo dài và sự khắc nghiệt của công cuộc bình định nông thôn trên cả nước nhằm tiêu diệt các trung tâm đề kháng cuối cùng; từ mệt mỏi, người ta chuyển sang chủ nghĩa định mệnh, cam chịu, thậm chí là khẩn cầu (rủ lòng tha cho những người dân nghèo khổ, tr. 90), và còn tệ hơn nữa là phản bội và đành chấp nhận tình cảnh nô lệ (tr. 181). Bên cạnh những bài có âm hưởng tiêu cực và “phản động” này, các tác giả Hát giặm Nghệ-Tĩnh II đã sưu tầm được một số lượng lớn những bài khác kể lại cuộc đấu tranh anh dũng dưới nhiều hình thức, đặc biệt do nhân dân Nghệ-Tĩnh dẫn đầu, chống lại các thế lực áp bức: bài hát về phong trào chống sưu thuế (tr. 156); lời một người vợ khuyến khích chồng đi du học – đặc biệt là học quân sự – để chuẩn bị cho tương lai; lời một cô em gái thúc giục người chị của mình hãy noi gương phụ nữ ở các quốc gia văn minh sẵn sàng gánh vác những nghĩa vụ và trách nhiệm mới (tr. 147 và tiếp theo); những lời dỗ dành đám người Việt tham gia vào hàng ngũ binh lính thực dân nhằm nhắc nhở họ về lòng yêu nước (tr. 154, 237, 256); quang cảnh đầy ấn tượng về cư dân các làng Cát-ngạn và Thanh-thủy bắt đám nhân viên hải quan Pháp làm tổn thương đến quyền sản xuất rượu của họ phải sửa chữa sai lầm (tr. 119 và tiếp theo). Nhờ vậy, cuộc đấu tranh bao gồm nhiều phương diện không trực tiếp và cả những cung cách bất ngờ, táo tợn. Đáng chú ý là các khúc Hát Giặm đóng góp vào việc tuyên truyền đường lối cách mạng, với văn phong giản dị, sáng rõ, súc tích nhưng là những lời có sức lay động, kêu gọi khởi nghĩa, hy sinh, đấu tranh không khoan nhượng (tr. 215); giọng bi thảm nhất được thể hiện trong một bài dài, mô tả một vụ giống như chiến dịch triệt hạ những người tù yêu nước đang làm công việc xây dựng con đường 14 gần Kontum (cao nguyên miền Trung Việt-nam), nơi đã đem lại cho nó cái danh hiệu một nhà tù lừng tiếng đau buồn (tr. 259-285). Như vậy, những bài hát này xuất hiện như là tài liệu cho lịch sử Việt-nam đương đại, được nhìn từ phía những người Việt tham dự tích cực hoặc là những người chứng kiến.
Với độ dày gần 700 trang, hai tập Hát Giặm Nghệ-Tĩnh đã cung cấp cho chúng ta một tài liệu quan trọng trong việc nghiên cứu Việt-nam trên nhiều lĩnh vực: văn học dân gian, dân tộc học và lịch sử.
Chỉ đáng tiếc rằng các tác giả không dành cho độc giả bất kỳ ghi chép chuyển thể âm nhạc nào của các bài hát giặm; khía cạnh dân tộc học-âm nhạc trong công trình của Nguyễn Đổng Chi và Ninh Viết-Giao được trình bày quá tóm tắt (ở Quyển I, tr. 88-90); cách hát, cách kéo dài các từ theo lối uốn giọng đặc biệt của Hát Giặm được chỉ ra, nhưng không thấy có nhạc tương ứng với lời; điều này chỉ mới đưa lại cho chúng ta một ý niệm sơ sài về những nét đặc thù của nhạc Hát Giặm, trong khi ở bình diện ấy người viết đã có sự đánh giá cao.
L.V.H.
Tập san Trường Viễn Đông Bác cổ Pháp, Paris; Tập LII, số 1 (1964); tr. 256-266
Nguyễn Huệ Chi dịch
(1) Quyển I [do Nguyễn Đổng Chi viết] tái bản năm 1962. Bản in đầu tiên của Quyển I [1942] có tựa đề: Hát Dặm Nghệ-Tĩnh. Quyển II [do Nguyễn Đổng Chi và Ninh Viết Giao sưu tầm], có tựa đề Hát Giặm Nghệ-Tĩnh. Các tác giả không giải thích lý do của sự thay đổi chính tả từ dặm sang giặm. Đối với chúng tôi, dường như hai từ đồng âm trên cuối cùng là đồng nghĩa.
Phần chú thêm của người dịch: Hát giặm Nghệ Tĩnh gồm 3 tập, Tập I là phần chuyên khảo và 50 bài hát giặm đính kèm, của Nguyễn Đổng Chi, công bố 1944, tái bản viết lại hoàn toàn vào năm 1962, có đề ở đầu sách lời tuyên bố: Bỏ bản in lần thứ nhất. Tập II, 1963 và Tập III, 1962 gồm những bài hát giặm đối đáp và những bài hát giặm vè do Nguyễn Đổng Chi và Ninh Viết Giao sưu tập. Tác giả bài viết hình như viết và hoàn thành bài này vào năm 1962 nên chưa có trong tay Tập II (sưu tập phần hát giặm đối đáp), vì thế trong bài chỉ giới thiệu Tập I (chuyên khảo, kèm theo 50 bài hát) và Tập III (sưu tập 80 bài hát giặm vè).
(2) Chân hoặc từ hoặc âm tiết đều giống nhau, vì tiếng Việt là ngôn ngữ đơn âm.
(*) Tác giả bài viết là người xứ Huế vốn có cách phát âm lẫn lộn giữa t và c đứng cuối từ (mặt –> mặc; chặt –> chặc; giặt –> giặc…) nên khi chép lại câu hát trên đây đã viết nhầm chữ mặc (động từ) ra mặt (danh từ), nhưng vẫn hiểu đúng là động từ mặc nên dịch sang tiếng Pháp không sai. Cảm ơn PGSTS Hoàng Dũng đã chỉ cho điều này, và chúng tôi xin sửa chữ mặt trong nguyên gốc bài viết sang chữ mặc để độc giả khỏi hiểu nhầm. Còn chữ Ướm là yếm tức chiếc yếm che ngực của phụ nữ thuở xưa ghi âm theo tiếng Nghệ – Người dịch.
(**) Trong bài viết tác giả dùng chữ giặm nhưng cũng đôi lúc viết dặm. Chúng tôi đều đổi lại giặm cho thống nhất – Người dịch.
(3) Xem P. Huard và M. Durand, Tri thức Việt Nam, 1954, tr. 277: luật thơ Hán-Việt. “Mỗi từ (hoặc ký tự) được tính là một chân. Tất cả các từ (hoặc ký tự) được phân bổ trong hai khoảng âm vực: âm vực bằng (ngang, tiếp nối) bao gồm tất cả các từ không có thanh điệu hoặc có thanh điệu được đánh dấu bằng giọng trầm trong tiếng Pháp, huyền (`); âm vực trắc (nghiêng, chéo) bao gồm các từ mà thanh điệu được đánh dấu bằng tất cả những dấu biểu âm khác: sắc ('), hỏi (?), nặng (.), ngã (~). Ở thể thơ, sự phân bố âm vực bằng và âm vực trắc đều tuân theo quy tắc của từng thể loại.
NGUYỄN ĐỔNG CHI - Hát dặm Nghệ-Tĩnh, «Les chants dits Dặm des provinces de Nghệ-an et de Hà-tĩnh», vol. I.
(Éditions Tân Việt, Hànội, 1944, 340 p. In- 12.(*) )
NGUYỄN ĐỔNG CHI et NINH VIẾT GIAO - Hát Giặm Nghệ-Tĩnh, vol. II.
(Éditions Sử học, Viện Sử học (Institut d’histoire), Hànội, 1962, 348 p. in-12.)
Les provinces de Nghệ-an et de Hà-tĩnh forment, au Sud du Thanh-hóa dans le Centre-Vietnam, un ensemble géo-culturel homogène communément dénommé le Nghệ-Tĩnh. Marche du Đại Việt (le Grand Việt, ancien nom du Vietnam) pendant de longs siècles, c’est un pays pourvu de paysages grandioses, mais con tenant des ressources limitées, exposé à un climat inclément, soumis de surplus à des troubles et des guerres fréquents. Ces terres ingrates avaient pourtant donné et donnent au Vietnam quelques-uns de ses citoyens les plus célèbres: grands mandarins, poètes, patriotes, révolutionnaires. Il semble bien qu'ici l’homme est fortement façonné par le cadre géographique spécialement caractérisé.
Il est done intéressant de connaïtre la vie sociale et spirituelle des paysans du Nghệ-Tĩnh telle qu’elle se réflète par exemple à travers les deux genres de chants populaires : Hát Ví et Hát Giặm auxquels nous pouvons être initiés grâce aux importants ouvrages de MM. Nguyễn Đổng Chi, Ninh Viết Giao et Nguyễn Chung Anh.
Le livre de Nguyễn Đổng Chi et Ninh Viết Giao, Hát Giặm Nghệ-Tĩnh, en deux volumes[1], présente pour la première fois un genre de chants populaires régionaux qui est inconnu en dehors de la province d’origine et peu connu dans un certain nombre de localités à l'intérieur même de cette province (I, p. 7, 51, 54). Hát Giặm Nghệ-Tĩnh (abrév. HGNT) comporte trois parties: la première (I, p. 9-120) examine la définition, les origines et les formes des chants (Hát) Giặm ainsi que les mœurs et les coutumes qui s’y rapportent, les anecdotes relatives aux chanteurs célèbres de la région. À cette première partie peut être rattaché le court chapitre de conclusion (II, p. 338-345) portant sur les principales caractéristiques des chants giặm et leur avenir littéraire et musical.
La deuxième partie (I, p. 121-309) est une anthologie d’environ 50 morccaux de chants décrivant la vie matérielle et sociale du peuple du Nghệ-Tĩnh pendant la période féodale et la période coloniale de l'histoire vietnamienne. La troisième partie groupe près de 80 pièces de chants relatant les luttes politiques menées par ce peuple depuis ces cent dernières années (II, p. 20-337).
I. Premiere partie de HGNT: «Recherches sur les chants giặm».
L’auteur commence par examiner la place de ces chants dans la littérature vietnamienne (p. 9-24). Les Hát Giặm au point de vue littéraire appartiennent au genre de poésies au mètre court: À côté d’eux figurent les poésies populaires aux vers de deux pieds([2]) (vãn hai ou vè hai), de quatre pieds (vãn tứ ou vè bốn) alors que les chants giặm comportent des strophes groupant en général des vers de cinq pieds.
Khăn chít vành Hà nội
Ướm mặt kiểu Thừa Thiên
Miệng nói đôi đồng tiền
Rõ mày hoa mắt phượng
Thiệt mày ngài mắt phượng
Traduction:
Vous portez votre turban à la mode d'Hanoi
Votre couvre-sein à la Thừa Thiên
En parlant vous montrez vos joues à fossettes
Vos sourcils sont en fleur
Vos yeux ressemblent à ceux du phénix certes vos sourcils ont la grâce des vers à soie dignes de vos yeux de phénix.
L’expression Hát Giặm (Hát «Chants»; Giặm terme dialectal) ne trouve pas encore une définition satisfaisante. Selon Nguyễn Đổng Chi, giặm serait proche des termes dắm (ou dặm "ajouter, intercaler, remplacer, remplir un vide") et de dấm dúi "glisser en cachette quelque chose à quelqu’un". Dans la région de Nghệ-an, dắm signifie proprement planter des pieds de riz pour remplacer ceux qui sont morts ou qui ont été arrachés (p. 26). On sait que pendant les dialogues de chants giặm, celui qui répond ou réplique doit faire rimer le premier vers de son chant avec le dernier vers chanté par son adversaire. Le fait d'insérer la rime et de chanter immédiatement après quelqu'un en gardant la suite du courant poétique, donne aux Hát Giặm les synonymes de Hát Xắp (litt. «Chants au même niveau que...») et de Hát Luồn (litt. «Chants qui s’introduisent dans d'autres»).
Les Hát Giặm se divisent en trois catégories : a. Chants improvisés et alternés entre les garçons et les filles; b. Chants improvisés entre un groupe de garçons seulement, ou entre un groupe de filles, sans questions et répliques : les thèmes de chants portent alors moins sur l'amour que sur les petites histoires d’intérêt local ou tout au plus régional, les bruits, les on-dit, les racontars, ce sont les hát giặm thời sự («d'actualité»); c. Chants composés et non plus improvisés, qui racontent une histoire significative comportant un début, une suite et une fin, et qui, contrairement aux catégories précédentes, font plus cas de leur contenu sérieux et de leur forme poétique que de la mélodie et la façon de chanter: ce sont les Hát Giặm vè (genre de récitatifs), morceaux chantés dont la déclamation se rapproche moins de la musique vocale que du langage parlé (p. 27-32).
La fonction des Hát Giặm semble avoir été d'abord des chants de travail et d'amour qui éventuellement pouvaient servir de chants de culte (hát tụng thần); leur popularité dans la région du Nghệ-Tĩnh était telle que les dirigeants locaux eurent l’idée de les employer comme des récitatifs vè pour éduquer les adultes et les enfants en leur inculquant des principes d’histoire, de morale; des missionnaires employèrent aussi la forme des Hát Giặm pour évangéliser le peuple; les Hát dặm thời sự et les Hát dặm vè étaient devenus aussi des sortes de journaux oraux où s’exprimait une opinion publique prompte à louanger les mérites ou à critiquer les travers observés sur le vif (hay khen hèn chê) (p. 34).
L’origine de ces chants n’est pas encore déterminée; plusieurs morceaux recueillis par l'auteur semblent montrer qu'à la fin du XVIIè siècle et au début du XVIIIè siècle les Hát Giặm furent déjà prospères (p. 51); par ailleurs, plus l’allure d'un chant est ancienne, plus abondent les vers de quatre pieds qui se mêlent à ceux de cinq pieds, ce qui a pu faire supposer que les vers de quatre pieds furent à l’origine des Hát Giặm. Nguyễn Đổng Chi a cité également quelques strophes de vers de quatre ou cinq pieds du Che-King (Kinh Thi) et du répertoire des chants populaires des peuplades proto-indochinoises des Hauts-Plateaux du Centre-Vietnam (désignées autrefois par le terme péjoratif de Mọi «sauvages»); puis il a rapproché les Hát Giặm avec les vers de quatre pieds précédant un refrain (vers de neuf pieds) propres au genre des Hát đuổi «chants de poursuite» ou tẩu mã «chant du cheval qui court» dans le répertoire du Hát Chèo «théâtre populaire du Nord-Vietnam» (p. 46-48). Ces rapprochements, ainsi que l’ancienneté de la tradition des chants alternés des garçons et des filles, font penser que l’origine des Hát Giặm devra être recherchée dans des temps bien plus anciens que le XVIIè siècle.
Au caractère de régionalisme étroit de ces chants, l’auteur a trouvé deux causes : a. Ce sont des chants populaires exprimés dans la langue vulgaire (tìếng nôm) qui était précisément tenue en piètre estime par les lettrés, sauf pendant les trois derniers siècles; b. Ce sont surtout des chants où le dialecte du Nghệ-Tĩnh prédominait aux points de vue de la phonétique comme du vocabulaire. Les habitants des autres régions du pays reprochaient traditionnellement à ceux du Nghệ-Tĩnh leur intonation lourde, difficile à saisir (giọng nói nặng nề, trọ trẹ); il y a en effet au Nghệ-Tĩnh la double tendance d'alourdir et d’allonger la prononciation des mots comme sữa (Nord-Vietnam) : sựa (Nghệ- Tĩnh); rẽ : rẹ; lão : lạo; cửa : cựa; ou comme ông : ôông; trong : troong; khóc : khoóc; chửi : chưởi; rượu : riệu, etc. Quant au vocabulaire dialectal, il abonde surtout dans les Hát Giặm alternés qui sont les plus anciens.
Exemples:
nác (Nghệ-Tĩnh) : nước (Nord-Vietnam) «eau»; tru : trâu «buffle»; eng : anh «frère»; mô : đâu «où»; nì : này «ce, ici»; chắc : nhau «entre eux, réciproquement»; miện : kỳ «époque, division»; rọng : ruộng «rizière»; vống : vụng «maladroit»; khót : gọt «tailler, couper, peler» ; nỏ : chẳng «non, ne pas»; mấn : váy «jupe»; trạch : chọn «choisir»; kháp : gặp «rencontrer»; giừ : bây giờ «maintenant»; chước : giấc «somme, sommeil»; nhởi: chơi «jouer, s’amuser» ; lái : lưới « filet»; khái : cọp «tigre»; chộ : thấy «voir, s’apercevoir».
La sémantique et la phonétique du parler du Nghệ-Tĩnh sont à rapprocher de celles du parler des Mường (peuplade minoritaire des régions moyennes du Nord-Vietnam); elles contribuent à l’étude de l’évolution de la langue vietnamienne dont elles reflètent une étape assez ancienne.
Les formes des Hát Giặm sont très variées: chaque pièce de chant débute par un prélude de deux ou de plusieurs vers de six et huit pieds alternés; chaque strophe comporte au moins quatre vers, au plus vingt vers; les vers sont en général de cinq pieds (ou mots), mais modifiés, ils peuvent en avoir jusqu’à dix selon les besoins de la mélodie ou de l’expression des idées (p. 56-59). Les rimes obéissent au système des rimes bằng et trắc([3]); chaque strophe comporte un vers-refrain qui reprend le quatrième vers de la strophe en le modifiant un peu, et qui rime avec le premier vers du strophe suivant.
Exemple:
5e vers ... (strophe préc.)... mà tiêu dụng rime trắc
1er vers Chàng phải ghi một bụng rime trắc
2e vers Thiếp phải quyết một lòng rime bằng
3e vers Chàng đi học gia công rime bằng
4e vers Thiếp mừng riêng trong dạ rime trắc
5e vers Thiếp mừng thầm trong dạ [láy lại] rime trắc
Traduction:
Vous devez graver ceci dans votre cœur,
Moi-même j’en suis décidé dans mon cœur,
Vous vous efforcez de votre mieux dans les études,
Moi (femme) j’en serai heureuse à part moi,
J’en serai bien heureuse à part moi.
Selon l'auteur, qui parle en connaissance de cause, les deux vers aux rimes trắc dans chaque strophe représentent l’élément essentiel pour les amateurs de chants, de toutes catégories (alternés, non alternés, récitatifs): la suite du chant est comparée à un courant d'eau qui coule à flots puis soudain se verse tout entier dans un rapide, ou encore à un épervier qui plane, plane, puis fendant l’air, pique tout droit sur sa proie: le chant comporte lui aussi cette chute mélodique qui en fait son prix. Quand [Quant] au vers-refrain, il est facultatif, à supprimer quand il représente une longueur inutile, mais à retenir et mettre à profit quand il ajoute sa force, son intensité, à l’idée exprimée dans le vers qui le précède (p. 62).
Les Hát Giặm, appartenant à la littérature populaire, orale, portent la marque d’un art concret, tout proche des formes, couleurs, saveurs de la vie quotidienne de la campagne. La force des idées, des préceptes, est exprimée par les procédés du parallélisme et de l’antithèse (đối ngẫu), par ceux de la comparaison (claire ou implicite) et de l'allusion. Mais le procédé le plus remarquable de la poétique et de la stylistique populaires reste celui qui est étroitement lié au langage et qui consiste à employer (sinon à inventer au besoin) des mots qui font image, des impressifs (mots qui donnent l'impression ou la sensation de la chose vue, vécue). Lisons par exemple cette strophe décrivant un jeune coq:
Chỉ một tài ve gấy
Nghe tiếng gáy e e
Nghe tiếng gáy cánh tròe
Nghiêng bên này bên nọ
Ngồi chuốt mồng chuốt mỏ
Mắt lúng liếng lung liêng
Mắt lúng liếng trập triềng
Thật như loài kẻ cắp
Miệng túc túc tắp tắp
Ngặp vô rồi nhả ra
Ve con gấy đàn bà
Không ai bằng nó nữa
Traduction:
Son seul talent c’est de faire la cour;
quand il entend chanter «é é» à côté de lui, alors ses ailes s'étendent largement;
il se penche de tous les côtés,
il s’asseoit, caresse sa crête, son bec;
il regarde l'air malin, turbulent, l’air malin, il regarde, hésitant. Ressemblant vraiment à un voleur.
Il pousse des cris inarticulés, répétés; il aborde puis recule, lâchant sa prise;
Pour courtiser les filles et les femmes
Nul ne peut l’égaler.
Les mots comme nghiêng, chuốt, ngặp, nhả, e e, cánh troè, kẻ cắp et surtout les impressifs lúng liếng lung liêng, trập triềng, túc túc tắp tắp difficilement traduisibles décrivent à merveille le spectacle d’un coquelet en train de chercher les faveurs de quelque poulette. Il semble pour le surplus que ces impressifs, originaux et rares, furent inventés exprès par l’auteur du chant pour la circonstance (p. 68).
Les Hát Giặm bien qu’ils soient d’extension limitée (dans quelques sous- préfectures ou préfectures du Nghệ-an et surtout du Hà-tĩnh seulement) jouent cependant un rôle important dans les mœurs et coutumes de la paysannerie du Nghệ-Tĩnh. Voici selon Nguyễn Đổng Chi, le tableau d’une fête de chants Giặm alternés des garçons et des filles (p. 72-84):
Un groupe d'amateurs de chants se compose de deux, trois ou de cinq, six personnes dont un tay bẻ chuyện (litt. «celui qui improvise, qui réplique avec talent») est le chef. Ce groupe rencontre un autre formé par des personnes de sexe opposé. Au début, un homme se met à chanter quelques phrases de prélude quasi insignifiantes ou gaies, jusqu'à l'instant où venant de l’autre groupe s’élève la voix d'une femme et la fête de chants commence. Les deux groupes s’assoient face à face à une dizaine de mètres environ, de préférence sous l’ombre de quelque arbre à cause de leur volonté de discrétion, de réserve.
L’auditoire se masse tout autour, les chanteurs s’assoient toujours en position accroupie et à l’écart de toute lumière qui risquerait, ainsi que la position assise normale, de tuer leur inspiration. Du côté masculin, les chanteurs chantent en faisant déformer leur voix par le souffle d’un éventail dont se passent les femmes, lesquelles veulent garder pure leur mélodie. Les vers-préludes sont d’un style simple, et partent d’un fait courant (l’idée en est par ex. : «J'ai déjà presque dormi quand un ami est venu me convier à la fête joyeuse que voici»), ou sont d'un style romanesque, original, inattendu, qui a peu de rapport avec la situation présente, suivant que les chanteurs appartiennent à «l’ancienne école» ou à «la nouvelle». Certains se présentent en s’inventant une fausse identité, une origine imaginaire pour qu'en cas d’échec, il n’y ait pas de honte, de fâcheuse réputation pour l'avenir... Les chants-préludes du groupe masculin comportent toujours des compliments, des vœux, vœux aux maîtres de maison si la fête a lieu dans une maison, éloges aux notables si elle se déroule dans la cour du đình (maison commune et salle de fête du village).
Avant d’aborder les questions de sentiment, d’amour, les adversaires des deux côtés s’interrogent sur leurs noms et curriculum vitae; s’envoient des devinettes, se lancent des défis, s’invitent à mâcher du bétel et à fumer du tabac. Quand enfin l'amour s'épanouit, éclate, garçons et filles, hommes et femmes s’étendent longuement sur les sujets assez confidentiels, ce sont en somme des déclarations d’amour publiques, à peine déguisées sous le voile de la métaphore et de la comparaison: la corde cherche le museau du buffle, ou l’homme qui va abattre les arbres pour construire un pont, c’est la recherche de l’amour, le désir de se marier, de s'installer en ménage. Le bonheur pour les chanteurs des deux sexes, c’est celui de se trouver proches les uns des autres (nam cận nữ kề), c’est aussi le plaisir de pouvoir improviser des chants, de défier l’adversaire sur le plan de l'intelligence, du sang-froid, de la connaissance littéraire. Quand une jeune fille trouve un partenaire qu'elle croit digne d’elle, le dialogue chanté se prolonge jusqu’au jour. Sinon, l’échange musical s'affadit, s’affaiblit, la fille se déclare déjà promise, le garçon exprime sa déception, son mécontentement.
Les chefs des groupes de chants giặm appartenaient en majorité à la préfecture de Thạch-hà. De grands mandarins comme le lettré et poète Nguyễn Công-Trứ, de grands révolutionnaires comme Phan Bội-Châu connurent au temps de leur jeunesse une réputation éclatante dans le monde des chanteurs de talent de la région; un certain nombre de mariages furent conclus après des joutes de ce genre; des chanteurs célèbres du côté masculin furent battus par des jeunes filles intelligentes et sans prétention: tels sont quelques-unes des anecdotes que nous lisons (p. 93-120) concernant les amateurs des chants giặm d'autrefois.
En conclusion de leurs recherches sur les Hát Giặm les auteurs de HGNT II ont dégagé les principales caractéristiques de ces chants (II, p. 338- 345):
1° Les Hát Giặm Nghệ-Tĩnh sont un genre de chants populaires qui aborde, plus abondamment qu'aucun autre genre, le problème des inégalités sociales dont étaient traditionnellement victimes les paysans. Dans la littérature vietnamienne populaire en général, on rencontre bien des plaintes, et des accusations contre les prévarications, les exactions, les oppressions causées par le régime féodal; en fait les paysans en souffraient mais ignoraient les véritables causes de leurs maux qu'ils attribuaient tout au plus au Ciel, au Sort, à la Fatalité.
Dans les Hát Giặm au contraire, les paysans du Nghệ-Tĩnh, bien avant la période de leurs Soviets éphémères aux environs des années 30, savaient protester directement contre les riches propriétaires fonciers, les notables et les mandarins, les profiteurs de la colonisation. La terre du Nghệ-Tĩnh a façonné une race d’hommes héroïques, insoumis devant n’importe quelle injustice, au prix de leur vie s’il le faut; leur moyen de lutte peut être l’insurrection armée mais il peut prendre aussi la forme quotidienne de la protestation, de l'invective comme c'est ici le cas: ces paysans ont employé les vers de cinq pieds des Hát Giặm de préférence aux vers 6/8 lục bát pour dénoncer les vrais auteurs de leur misère.
2° Un grand nombre de chants giặm sont composés sur le modèle du récitatif vè qui apparaît comme un conte bien composé propre à faire circuler une histoire à but moral, ou philosophique, socio-politique ou sentimental: les Hát Giặm peuvent prêter à tous ces usages leur forme qui semble mieux adaptée que toutes autres (vers 6/8 ou 7/7, vers de 4 pieds, etc.). Une des caractéristiques des Hát Giặm au point de vue littéraire c’est leur simplicité dans l’expression poétique, leur préférence pour les mots du cru, les répétitions de termes, de phrases, à l'exclusion cependant des longueurs, des superfétations. La forme des Hát Giặm tend par ailleurs à la concision, au choix exact des faits racontés et des images évocatrices. Ce faisant, ces chants s’éloignent de la poésie raffinée pour se rapprocher des genres narratifs populaires.
3° Une autre caractéristique des Hát Giặm c'est leur faculté de refléter l’histoire locale, régionale et même nationale pour une période donnée. À la différence des dictons et des poésies populaires phong dao où les particularités concernant l’espace et le temps sont habituellement effacées ou confuses, les chants giặm s’attachent pour ainsi dire à la description d’un certain nombre de mœurs et de coutumes, et d'un grand nombre de faits socio-historiques ayant cours ou ayant lieu à l’époque où tels ou tels d’entre eux furent composés par tel ou tel auteur qui le plus souvent laisse son nom à la postérité au lieu de sombrer dans l’anonymat comme c’est le cas des auteurs d’autres genres de la littérature populaire.
II. Deuxième partie de HGNT: «Mœurs et coutumes à travers les chants».
Les quelque cinquante chants giặm vè (récitatifs) groupés dans le premier volume de HGNT nous offrent un bon tableau de la vie matérielle et spirituelle des paysans du Nghệ-Tĩnh.
Sur la vie techno-économique, d'intéressants témoignages nous sont livrés par les pièces intitulées : Luận về nghề làm vàng giấy «Sur le métier de fabricants de papiers votifs»; Về sự thay đổi thời tiết trong năm âm lich «Sur les changements du temps et des saisons dans l’année lunaire»; Mấy điều kinh nghiệm để biết trời mưa «Recettes pour prévoir la pluie», etc.
La vie sentimentale du peuple de Nghệ-Tĩnh nous est décrite dans les chants Giặm vè évoquant la situation des veuves et des femmes de second rang; les malheurs et espoirs d'une femme délaissée, les démarches d'un maire de village (lý trưởng) en vue d'épouser une femme de second rang (vợ kế); les cinq veilles d’un jeune ménage composé d’un lettré étudiant et d'une tisseuse; les paroles réconciliatrices à l’adresse d'un vieillard irascible envers son épouse.
La vie sociale des paysans sous ses multiples aspects nous est restituée en des instantanés réalistes tantôt hauts en couleurs, tantôt pleins d’humour, tantôt gorgés d’émotion; nous voyons ainsi passer devant nous des enterrements de notables, un mariage (morceau Hát Giặm de pure virtuosité où la description des épousailles est faite avec un grand nombre de termes empruntés à la médecine et à la pharmacopée traditionnelles sino-vietnamiennes), des lettrés étudiants rentrés bredouilles d’un concours littéraire et ridiculisés par des riziculteurs ; des fanfa- rons qui racontent force histoires invraisemblables sur les mariages ou sur leurs prétendues conquêtes amoureuses; une mère donnant à sa fille des conseils de sagesse à la veille du mariage de celle-ci; des parents qui s’expriment sur l’éducation de leurs enfants en des propos pathétiques à force d'humanité et de véracité.
Exemple:
Khi khóc dai ngồi dỗ
Khi ngứa ngáy ngồi xoa
Trông tháng trọn ngày qua
Trông từng thi từng thí
Tập dần dần từng thí
Khi bữa ăn dang dở
Con tiểu giải lên mình
Ai nấy cũng đều kinh
Cha mẹ ngồi chịu vậy
Hết lau chùi rửa ráy
Trở Iại lại bế bồng
Nhớp nhúa cũng như không
Nâng như vàng như ngọc
Coi bằng vàng bằng ngọc
Kể trong nhà đói khổ
Trời giá rét căm căm
Nơi ướt để mẹ nằm
Nơi khô xê con lại
Nơi ấm bồng con lại
Nghe con cụi quậy
Mẹ lật đật dậy liền
Dậy thổi lửa thắp đèn
Cho con chơi con bú
Cho con nằm con bú
Suốt đêm ngày lụ khụ
Cha như đứa tiểu hầu
Mẹ như đứa tiểu hầu
Nghĩa khó nhọc bấy lâu
Công giữ gìn chăm sóc
Traduction:
Quand tu persistes à pleurer, ta mère te console;
Quand tu as des démangeaisons, ta mère les frictionne;
Elle espère que les mois, que les jours
Passent sans incident.
Avec minutie elle veille sur toi, avec minutie elle te fait faire des exercices. En plein repas,
Tu mouilles jusqu’aux vêtements de ta mère;
Tout le monde regarde ébahi,
Mais tes parents le supportent bien.
Chaque fois que tu es lavé, essuyé,
Ta mère te porte de nouveau dans ses bras;
Que tu sois propre ou que tu te salisses peu importe
(Nous te portons avec précaution comme de l'or
Comme une perle, nous te considérons comme de l'or, comme une perle.)
Malgré la faim, malgré la misère
Et le froid rigoureux qu'il fait,
Ta mère se couche sur l'endroit humide (du lit)
Te poussant vers l’endroit sec,
Te déplaçant vers l’endroit bien tiède.
S'apercevant que tu remues, réveillé,
Vite ta mère se lève immédiatement
Et allume la lampe
Pour que tu puisses t'amuser, et être allaité,
Pour que tu te couches là et sois allaité.
Jour et nuit vaquant à tes soins
Ton père ressemble à un valet
Ta mère ressemble à une servante
Pense un peu à toutes ces peines depuis longtemps
Consacrées à veiller sur toi.
Un aspect de la vie sociale des paysans du Nghệ-Tĩnh d’autrefois est digne de remarque: c’étaient les oppressions conjuguées qui pesaient sur leurs épaules provenant et de l'oligarchie des notables locaux (chant sur les corruptions et prévarications des hào lý) et des autorités féodales centrales (chant sur les plaintes contre les dures corvées de creusement du canal de la rivière de Lạc-hạ). Ces chants furent pour la plupart composés pendant les dernières décades de la longue période féodale millénaire (décades de la dynastie des Nguyễn) pendant lesquelles rares furent les courts laps de temps placés sous les signes de la paix et de la prospérité (chant sur l'abondance d’une récolte annuelle survenue au lendemain de l’avènement de Bảo-Đại).
III. Troisième partie de Hát Giặm Nghệ-Tĩnh: «Luttes politiques du peuple depuis le règne de Tự-Đức jusqu’à nos jours».
Le volume II de HGNT contient près de 80 pièces de récitatifs giặm vè relatant les luttes politiques du peuple vietnamien de la région du Nghệ-Tĩnh menées principalement contre les puissances d’oppression du colonialisme (p. 20-337). Ce sont d'abord les morceaux de chant décrivant et glorifiant les dirigeants du Mouvement de la Résistance des Lettrés (Phong trào Cần vương). L’accent épique prédomine dans les chants relatant les victoires hélas trop éphémères des anciens lettrés devenus hommes de guerre: le Mouvement de Lê Doãn-Nhạ (p. 56 et suiv.), la victoire de Bang Ninh prenant d’assaut la citadelle du Hà-tĩnh (p. 64 et suiv.). Après la flambée de résistance sans lendemain de ce Mouvement Cần vương, viennent les peintures sombres et dramatiques de la vie quotidienne vécue sous le joug des nouveaux oppresseurs, ces «diables blancs» (bạch quỷ) (p. 54) dont on ne savait venir à bout: tableaux de la misère du peuple et des exactions révoltantes des autorités d'occupation (Vie de coolie, p. 107; Vie de paysans corvéables à merci pour l'édification de l'infrastructure économique pendant les premières décades de la colonisation, p. 99 et suiv.; Tableau comparé de la vie des colonisés et de la vie imaginée de l’avenir où la liberté sera reconquise, p. 113).
Certaines pièces de chants giặm trahissent la lassitude d'un bon nombre de paysans devant le prolongement de l’insécurité et des rigueurs de la campagne de pacification à travers le pays pour l’extinction des derniers foyers de résistance; de la lassitude on passe au fatalisme, à la résignation, à la supplication même (Daignez ménager le pauvre peuple, p. 90), et pire encore à la trahison et au servage consenti (p. 181). À côté de ces pièces aux accents négatifs et «réactionnaires», les auteurs de HGNT II ont recueilli un grand nombre d'autres qui relatent la lutte héroïque aux formes multiples menée spécialement par le peuple du Nghệ- Tĩnh contre les puissances d’oppression: chants Pour la Campagne contre les Impôts, p. 156; Paroles d’une épouse encourageant son mari à aller étudier à l’étranger — études militaires surtout — pour préparer l’avenir; Paroles d’une petite sœur conviant sa grande sœur à imiter l’exemple des femmes des pays civilisés avec les nouveaux devoirs et les nouvelles responsabilités que cela implique, p. 147 et suiv.; Paroles pour amadouer les Vietnamiens engagés comme soldats au service des colonisateurs et pour les rappeler au patriotisme (p. 154, 237, 256); Spectacles insignes des habitants des villages de Cát-ngạn et de Thanh-thủy infligeant une correction aux douaniers français ayant porté atteinte à leur droit à la production de l’alcool (p. 119 et suiv.). La lutte comporte donc des aspects indirects et des procédés inattendus, téméraires. Remarquables sont les morceaux de Hát Giặm consacrés à la propagande des principes de la révolution, au style simple, clair, concis mais impliquant d’émouvants appels à la révolte, au sacrifice, à la lutte sans merci, p. 215; l’accent le plus tragique s’exprime dans le long morceau où est décrite une sorte de campagne d'extermination menée contre les patriotes prisonniers préposés à la confection de la R. N. 14 près de Kontum (Hauts Plateaux du Centre Vietnam) qui donna son nom à un bagne de triste célébrité (p. 259-285). Ces chants apparaissent ainsi comme des documents pour l’histoire vietnamienne contemporaine, vue du côté des Vietnamiens par des participants actifs ou des témoins oculaires.
Les deux volumes de Hát Giặm Nghệ-Tĩnh nous apportent ainsi en près de 700 pages, un important document pour les études vietnamiennes dans plusieurs domaines: celui de la littérature populaire, celui de l'ethnologie et celui de l’histoire.
On regrette seulement que les auteurs ne nous aient donné aucune transcription musicale des chants giặm; le côté ethnomusicologique du travail de Nguyễn Đổng-Chi et de Ninh Viết-Giao est par trop sommaire : au vol. I, p. 88-90, la façon de chanter, de faire étirer les mots suivant l’inflexion particulière aux Hát Giặm nous est indiquée, mais nous n'avons pas la musique correspondant aux paroles, ce qui ne nous donne qu'une faible idée des particularités musicales des Hát Giặm dont les auteurs nous ont pourtant vanté les mérites (I, p. 62).
Lê Văn Hảo
Bulletin de l’Ecole française d’Extrême-Orient, Paris; Tome LII, no 1 (1964); pp. 256-266.
(*) Bài này gồm 3 phần, phần I bình luận bộ sách Hát Giặm Nghệ-Tĩnh 2 quyển (tr. 256-266), phần II bình luận sách Hát ví Nghệ-Tĩnh của Nguyễn Chung Anh (tr. 266-271), phần III bình luận sách Hát phường vải ca dao Nghệ-Tĩnh của Ninh Viết Giao (tr. 271-274). Vì giới hạn trong việc dịch phần Hát giặm Nghệ-Tĩnh nên chúng tôi lược bớt nguyên văn hai phần sau. Chữ in-12 ghi ở trên tiêu đề có nghĩa: sách Hát giặm Nghệ-Tĩnh khổ 13x19 – Người dịch.
(1) Rééd. du voL I annoncée pour 1962. La première éd. du voL I a pour titre : Hát Dặm Nghệ-Tĩnh; le vol. II, Hát Giặm Nghệ-Tĩnh, sans que les auteurs expliquent les raisons de ce changement orthographique. II nous semble que ces deux homonymes sont en fin de compte synonymes.
(2) Pied ou mot ou syllabe sont ici la même chose puisque le vietnamicn est une langue monosyllabique.
(3) Cf. P. Huard et M. Durand. Connaissance du Vietnam, 1954, p. 277: prosodie sino-vietnamienne. «Chaque mot (ou caractère) compte pour un pied. Tous les mots (ou caractères) sont répartis dans deux registres: le registre bằng (égal, continu) comprenant tous les mots sans accent de tonalité ou avec l'accent de tonalité marqué par le signe de l'accent grave français (`) (huyền); le registre trắc (incliné, oblique) comprenant les mots dont la tonalité est marquée par tous les autres accents de tonalités : sắc ('), hỏi (?), nặng (.), ngã (~). Dans les formes poétiques, la répartition des sons bằng et des sons trắc suit les règles fixées selon les genres.