Danh ngôn

Trong mọi cộng đồng, chúng ta cần một nhóm thiên thần gây rối.

We need, in every community, a group of angelic troublemakers.

(Bayard Rustin – trích bài phát biểu tại New York City 1963)

Trong mọi trường hợp, chắc chắn rằng sự thiếu hiểu biết, đi kèm với quyền lực, là kẻ thù tàn bạo nhất có thể có của công lý.

It is certain, in any case, that ignorance, allied with power, is the most ferocious enemy justice can have.

(James Baldwin - No Name in the Street 1972)

Các cuộc cách mạng và các cá nhân có thể bị giết hại, nhưng bạn không thể giết chết các ý tưởng.

While revolutionaries and individuals can be murdered, you cannot kill ideas.

(Thomas Sankara, một tuần trước khi bị ám sát, 1987)

Không có cảm giác nào cô đơn hơn việc bị chính đất nước mình trục xuất.

There's not a more lonely feeling than to be banished by my own country.

(Kiyo Sato – Kiyo’s Story 2009)

Ban Biên tập

Địa chỉ liên lạc:

1. Thơ

tho.vanviet.vd@gmail.com

2. Văn

vanviet.van14@gmail.com

3. Nghiên cứu Phê Bình

vanviet.ncpb@gmail.com

4. Vấn đề hôm nay

vanviet.vdhn1@gmail.com

5. Thư bạn đọc

vanviet.tbd14@gmail.com

6. Tư liệu

vanviet.tulieu@gmail.com

7. Văn học Miền Nam 54-75

vanhocmiennam5475@gmail.com

Tra cứu theo tên tác giả

Thứ Năm, 5 tháng 12, 2019

Đĩ thúi & phần còn lại ở đời sau (kỳ 4)

Nguyễn Viện

10.

Hơn ba mươi năm sau lần đi tù vì tội làm tình trong nhà trọ không có hôn thú, Nguyễn lại vào tù bởi một chuyện vớ vẩn khác. Chàng bị bắt vì giúp đỡ dân oan mất đất viết đơn thưa kiện.

Tòa án khép tội Nguyễn xúi giục dân oan làm loạn và viết blog chống phá chế độ. Bốn năm tù.

Nguyễn đã từ chối nói lời sau cùng. Chàng phủ nhận toàn bộ cái phiên tòa giả hình, lố bịch không phải bằng những lời lẽ anh hùng mà bởi sự im lặng. Chàng không muốn thừa lời với những kẻ bất xứng.

Từ Hải nói với Thúc Sinh: “Thật lạ, ông Nguyễn vẫn còn tính nhân văn. Lẽ ra, ông ta phải biết mình đang ở thời đại nào”.

Thúc Sinh trầm ngâm: “Biến thái như cậu là thức thời. Nhưng cũng có thể vì thế, tôi chưa bao giờ coi cậu là nhà văn. Nói cậu đừng buồn”.

Từ Hải: “Tôi cần một chỗ đứng dưới ánh mặt trời. Và tôi nghĩ là tôi đã làm được điều đó”.

Thúc Sinh bảo: “Phải. Cậu đã làm được tất cả những gì cậu muốn. Và tôi biết, đến một lúc nào đó, cả ông Nguyễn cũng sẽ phải biến thái như cậu. Vì đó là guồng máy, không cho phép bất cứ ai có bản sắc cá biệt”.

Từ Hải nói: “Khi chọn nghề viết văn và làm báo, tôi tưởng mình vẫn có thể làm cách mạng theo một cách khác, dù lắt léo, kín đáo. Nhưng càng sống lâu, tôi càng biết mình ngụy tín. Vì thế, tôi theo anh. Không làm gì được cho sự công bằng giữa con người thì ít nhất tôi cũng không muốn làm cho mình bị thiệt thòi”.

Hồ Tôn Hiến cho gọi Thúc Sinh đến. “Hãy tìm cho tôi một người giỏi đoán điềm giải mộng”.

Thúc Sinh đưa Đạm Tiên vào gặp Hồ Tôn Hiến.

“Tôi có thể giúp gì được cho vương phủ?” Đạm Tiên hỏi.

Hồ Tôn Hiến nói: “Tôi nghe nói cô thông suốt âm dương. Vì thế, nhờ cô vài việc”.

Đạm Tiên bảo: “Tôi sẵn sàng nghe ngài đây”.

Hồ Tôn Hiến nói: “Tôi có những giấc mơ giữa ban ngày. Đại thể, đó là những sinh linh, không, không phải những sinh linh, mà là những ngọn cỏ. Trên đầu ngọn cỏ có những cái miệng. Những cái miệng đó phun ra máu làm đỏ cả bầu trời. Vâng, cỏ non xanh rợn chân trời và máu tươi chói lọi tầng không. Còn ban đêm thì lại khác cô ạ. Đêm trắng. Trắng không có bất cứ cái gì hiện hữu. Tôi không an tâm”.

Đạm Tiên hỏi: “Ngài có tin tôi không?”

Hồ Tôn Hiến đáp: “Tôi mời cô đến mà”.

Đạm Tiên nhắc lại: “Ngài có tin tôi không?”

Hồ Tôn Hiến buộc phải nói: “Thưa cô, tôi tin”.

Đạm Tiên: “Vậy ngài sẵn sàng làm theo lời tôi chứ?”

Hồ Tôn Hiến: “Thưa cô, sẵn sàng”.

Đạm Tiên: “Việc thứ nhất: Ngài cho lập ngay một bàn thờ, chỗ nào cũng được nhưng nhất thiết phải ở hướng Bắc. Trên bàn thờ ấy, ngài đặt một tượng thần Bạch Mi. Mỗi ngày ngài cúng bốn lần, sáng, trưa, chiều và trước khi đi ngủ trong vòng đúng một trăm ngày. Mỗi lần cúng, ngài đốt 4 cây nhang và thắp 16 ngọn nến. Không cần khấn vái gì, chỉ cần lòng thành hướng đến vô lượng kiếp của mình. Việc thứ hai: Sau một trăm ngày, ngài cho chuẩn bị lễ vật gồm một cô gái đồng trinh và một bình rượu Minh Mạng cúng cho thần Bạch Mi. Bản thân tôi sẽ lên đồng gọi hồn cho ngài hỏi han”.

Hồ Tôn Hiến: “Tôi sẽ làm theo lời cô”. Và Hồ Tôn Hiến đưa cho Đạm Tiên một cái séc tạm ứng 20.000 USD.

Một trăm ngày sau, trước bàn thờ Bạch Mi là Vương Thúy Kiều lõa thể nằm trên tấm thảm có in hình trống đồng Đông Sơn. Rượu Minh Mạng 14 ly đặt xung quanh. Đạm Tiên đứng thắp hương vái lạy thần tổ, rồi nàng dùng khăn riêng lau trên mặt vị thần theo nghi thức truyền thống của lầu xanh, cầu mong luôn được khách chơi yêu thương.

Xong, Đạm Tiên ngồi xuống xếp bằng, lấy khăn đỏ trùm kín đầu.

Thúc Sinh đưa cho Hồ Tôn Hiến bốn cây nhang đã cháy và một tờ giấy. Hồ Tôn Hiến khom người vái ba vái rồi lẩm nhẩm đọc những lời trong giấy. Đọc xong lại vái ba vái rồi mới cắm nhang vào lư hương. Bất thần, Đạm Tiên hét lên. Nàng giãy đành đạch như bị cắt tiết. Miệng phát ra âm thanh của một ông già: “Ta là Bạch Mi, cụ tổ của Vương Thúy Kiều đoạn trường tân thanh. Thiện nam muốn biết điều gì?”

Hồ Tôn Hiến thưa: “Thế lực thù địch rộ lên khắp nơi, thiện nam phải làm sao?”

Bạch Mi phán: “Phải nói cụ thể mới xử lý hiệu quả được. Gần hay xa, trong hay ngoài, bên trái hay phải, Đông Tây Nam Bắc ở đâu?”

Hồ Tôn Hiến thưa: “Trong cũng có, ngoài cũng có, gần cũng có mà xa cũng có, trái hay phải đều có”.

Bạch Mi phán: “Thế là thập diện mai phục, tứ bề thọ địch. Phải dùng kế Không thành của Gia Cát Lượng mà hành động”.

Hồ Tôn Hiến thưa: “Làm thế nào để bảo toàn gia nghiệp?”

Bạch Mi phán: “Cất giữ vàng thật, phát hành tiền giả”.

Hồ Tôn Hiến thưa: “Làm thế nào để tiêu diệt kẻ thù?”

Bạch Mi phán: “Muốn tiêu diệt thù ngoài thì phải củng cố nội lực. Muốn tiêu diệt thù trong thì phải gia tăng âm phúc. Muốn làm được cả hai việc đó thì trước hết phải xây dựng lại tổ đình xã tắc”.

Hồ Tôn Hiến thưa: “Còn muốn bảo toàn tính mạng?”

Bạch Mi phán: “Bồi dưỡng chân khí bằng miên trường âm hộ của trinh nữ thuần Việt. Muốn hỏi gì nữa không? Đã đến giờ ta thượng hưởng”.

Đạm Tiên ngã người lên Thúy Kiều và hai người ôm chặt lấy nhau.

Trước khi đưa ra dự án xây dựng lại tổ đình xã tắc, Hồ Tôn Hiến cho xây mới nhà thờ tổ dòng họ. Họ Hồ sai người về quê Tích Khê, tỉnh An Huy mua đất, cùng đi có một thày địa lý phong thủy. Việc chọn thế đất và thiết kế xây dựng hoàn toàn do ông thày quyết định theo tôn chỉ “đời đời bền vững”.

Hồ Tôn Hiến cũng ra một nghị quyết độc quyền thương hiệu vàng, đồng thời cho phát hành một loại tiền mới bằng giấy nhôm theo hệ cửu phân nhằm ghi dấu ấn thời đại của mình. Không nói ra, nhưng nhân dân đều biết chín nút là chắc cú. Đại Việt ta ắt phải thành rồng.

Riêng việc bồi dưỡng chân khí, Hồ Tôn Hiến vẫn giao cho Thúc Sinh lo liệu. Vốn là một người kỹ lưỡng, nhưng biết thụ hưởng, Thúc Sinh đều casting tất cả các em trước khi dâng cho thủ trưởng.

Có lẽ tử vi của Hồ Tôn Hiến không được tốt về hai cung thê, tử. Truyện kể rằng khi làm Án sát Chiết Giang, Hồ Tôn Hiến được Tể tướng của Gia Tĩnh chủ hôn cưới một hoa hậu ở địa phương, nhưng khi sang An Nam công cán, triều đình nhà Minh nhất quyết không cho họ Hồ mang vợ con theo, vì sợ họ Hồ cát cứ phản nghịch. Khi ở An Nam, họ Hồ được cống tiến một hoa khôi Tây Bắc. Cô này để lại cho họ Hồ một truyền nhân, trước khi cô bị giết để bảo toàn thanh danh cho Hồ Tôn Hiến. Thúc Sinh biết rõ việc này vì ông ta đã hưởng thừa cái vinh quang của thủ trưởng. Hồ Tôn Hiến có ý muốn thay đổi khẩu vị, Thúc Sinh tiến cử một chân dài Nam bộ. Trong kiệu màn che trướng rủ, Thúc Sinh động tà tâm hiếp cô này ngay giữa đường tiến cung. Cô mang dòng máu phản bội trong người về với Hồ Tôn Hiến. Có người bảo, Thúc Sinh buôn vua theo cách của Lã Bất Vi. Nhưng người con này đã tự sát khi anh ta vừa đến tuổi trưởng thành không biết vì lý do gì. Còn người con thứ hai với hoa khôi Tây Bắc chọn cách sống ẩn dật vô danh để cố giữ lấy cái mạng cùi. Người vợ đầu tiên và đứa con chính thống không ai biết số phận ra sao. Còn người con gái và con rể vẫn được coi là chính thức hiện đang sống với Hồ Tôn Hiến thật ra chỉ là bọn tình báo được triều đình nhà Minh cài cắm nhằm giám sát kẻ gian hùng này.

Nguyễn vùi mình trong bóng tối của nhà tù. Chàng tuyệt vọng như sau những ngày vừa giải phóng 1975. Cái cảm giác của sự chấm dứt dày vò chàng. Đối với việc viết văn, sự chấm dứt lại càng trở nên khốc liệt hơn. Nó giống như sự băm vằm. Nguyễn phải sống một cuộc đời khác, nếu muốn tồn tại. Chưa bao giờ ý nghĩ thỏa hiệp có trong đầu chàng. Cái thôi thúc của một nhà văn không phải là tìm kiếm danh vọng, lại càng không phải miếng cơm manh áo. Trong điều kiện bắt buộc của chữ nghĩa nô lệ, thì việc trở thành nhà văn chỉ là một hành động tự phỉ báng về nhân cách. Vì thế, Nguyễn đã sống như không sống. Đã chết mà vẫn lay lắt. Vả lại, cũng chẳng có bất cứ điều gì buộc Nguyễn phải viết, thế thì cớ gì chàng phải khom lưng làm một kẻ xu nịnh viết những điều dối trá?

Mã Kiều Nhi không bỏ rơi Nguyễn. Nàng tiếp tế thực phẩm cho chàng và an ủi linh hồn chàng bằng cách dùng những tờ giấy báo có in những bài thơ dịch gói quà cho chàng.

Nhưng người cứu vớt Nguyễn thực sự lại là một nhà sư. Bị giam chung với Nguyễn, nhà sư dạy chàng tập thiền, dạy chàng cách ngồi, cách hít thở và cách buông xả. Quan trọng hơn, nhà sư dạy chàng cách yêu cuộc đời, yêu những vạt nắng hiếm hoi nhìn thấy và yêu cái không gian chung quanh mình.

Rồi Nguyễn rơi vào một trạng huống tinh thần vô xứ. Chàng không còn coi điều gì là quan trọng hay đáng kể. Làm hay không làm bất cứ điều gì đều là những khả thể vô nhiễm, mặc dù chàng vẫn ý thức được tính nghiệp của nó. Một trong những hệ quả của tình trạng tinh thần này đã giúp chàng thoải mái trong việc sử dụng ngôn ngữ, nó thể hiện một tâm thái tự tại vượt qua cái hàng rào văn hóa ước lệ. Chính danh trong ngôn ngữ là chính tâm trong hành động và tư duy, nó cũng giải nghiệp và làm sáng tỏ hành động và tư duy, nó tác động ngược trở lại chính ngôn ngữ và tạo ra sức sống mới cho ngôn ngữ. Nguyễn cảm thấy mình linh hoạt hơn. Chữ nghĩa với chàng trở nên trần trụi mà cũng tràn trề sắc độ phong nhiêu hơn. Đầy ngẫu hứng và chạm đến cốt tủy. Thay vì câm lặng, Nguyễn nhảy múa. Thay vì dâng một đóa hồng, Nguyễn đã cầm lên cây búa. Chàng hủy diệt và luôn luôn hủy diệt.

Đấy là cách Nguyễn thoát ra khỏi nhà tù.

11.

Thúc Sinh hoàn toàn nhận thức được cái hệ thống thù địch với con người vẫn đang vận hành và đúc khuôn cuộc sống mà ông đã thích nghi, thậm chí có khả năng điều khiển nó phục vụ cho lợi ích của mình, đến một lúc nào đó tất yếu sẽ đổ vỡ. Bởi hệ thống ấy được thiết lập và điều hành dựa trên các nguyên lý áp đặt của ý chí sai lầm. Vì thế, ông đã dự bị cho tương lai ở một xứ sở khác, nơi ông sẽ tận hưởng thành quả của mình một cách an toàn nhất. Nhưng ông cũng không muốn trở thành người trắng tay với lịch sử. Ông đặt cục gạch giữ chỗ cho lương tâm của mình với nhân gian bằng cách cho Từ Hải phục hồi nhân phẩm. Ông bảo Từ Hải cần phải trở lại là chính mình. Biết bất bình và biết phản kháng.

Thúc Sinh nói với Từ Hải: “Chúng ta cần có một phương án cho những biến cố lịch sử. Tình thế hiện nay cho thấy, không có bất cứ một lực cản nào có thể ngăn được xu thế dân chủ đang đi tới. Sự thay đổi sẽ là tất yếu dù muốn hay không muốn. Vấn đề là thời gian và lực lượng nào sẽ làm chủ được sự thay đồi đó. Đây là thời cơ của cậu”.

Từ Hải thận trọng: “Anh không gài để bắt tôi chứ?”

Thúc Sinh nói: “Nếu cậu không làm thì cũng sẽ có người khác làm. Tôi cần kiểm soát được mọi tình huống. Trong trường hợp của tôi và cậu, tôi nói thật, chúng ta đặt cược cả hai cửa. Kiểu gì chúng ta cũng thắng. Cậu hiểu chứ?”

Từ Hải: “Vâng, tôi hiểu”.

Tuy nói thế, Từ Hải thừa biết mình có thể trở thành tốt thí bất cứ lúc nào. Nhưng từ chối Thúc Sinh không phải là điều đơn giản. Cũng có thể điều này còn là gợi ý của Hồ Tôn Hiến. Từ Hải bỗng nhận ra mình chỉ là một con bài.

Từ Hải nói: “Tôi thật sự không còn dũng khí. Vả lại, tôi chỉ muốn trung thành với anh cũng như với Hồ Tôn Hiến”.

Thúc Sinh cười lớn: “Nếu cậu không muốn thì thôi. Sau này đừng trách tôi không chia sẻ với cậu”.

Từ Hải bảo: “Guồng máy đã nhào trộn tôi thành bã và bản thân tôi cũng đã tự gọt giũa cho vừa với cuộc sống này. Tôi đã quen phục tùng. Biết bất bình và biết phản kháng vượt quá sức tôi”.

Thúc Sinh: “Cậu vẫn còn ý thức và nhận diện được mình thì chưa phải là hỏng hết. Nếu cậu bảo cậu đã quen phục tùng, thì hãy nghe đây: Chúng ta chơi cờ và chúng ta tự biến thành quân cờ. Một cuộc chơi đến tận cùng số phận. Chúng ta chỉ có một trả giá duy nhất là trở thành tay chơi thứ thiệt. Đấy là điều tôi muốn, tôi và cậu không phải là dũng sĩ giác đấu. Chúng ta là những con buôn, có thể bỏ vốn bằng máu nhưng không chấp nhận thua lỗ”.

Từ Hải nghĩ, chẳng có điều gì chắc chắn, nhất là lại đầu cơ vào chính trị. Tuy nhiên, chàng vẫn nói với Thúc Sinh: “Nếu anh cũng chơi thì tôi theo”.

Khi ấy có nhiều người chính thức ra khỏi đảng của Hồ Tôn Hiến, hoặc tiêu cực hơn thì lẳng lặng không sinh hoạt chi bộ nữa.

Đạm Tiên nói với Từ Hải: “Để phù hợp với bản chất của anh, anh không thể bó thân mãi trong cái đảng ẩm ương ấy, vào Hội Bạch Mi với chúng em, anh tha hồ tung hoành. Sự nghiệp của anh sẽ bền vững muôn đời cùng với sự bất biến của đĩ nghiệp chúng em”.

Từ Hải trừng mắt hỏi: “Sao lại gọi là ẩm ương?”

Đạm Tiên nói: “Một cái đảng độc tôn, độc tài toàn trị, nhưng lại lãnh đạo tập thể. Không ai chịu trách nhiệm. Cứ một thằng làm thì hai thằng phá, bọn ngu dốt còn lại thì ỡm ờ ăn theo. Vì thế đảng của anh suốt bao năm nay chỉ biết loay hoay tự sướng, vơ vét và làm khổ nhân dân”.

Từ Hải hỏi: “Cô không sợ bạo chúa à?”

Đạm Tiên nói: “Bạo chúa mà được việc thì vẫn còn hơn cái lũ ham hố quyền lực mà không biết làm gì ngoài việc bắt nạt dân chúng. Em nói cho anh biết nhé, không phải chỉ có Đảng của Hồ Tôn Hiến mới theo đuổi quyền lực. Bọn đĩ điếm chúng em cũng muốn thực thi công lý theo cái cách phổ quát nhất, anh cứ nhìn kỹ xem”.

Từ Hải cười lớn: “Công lý ở chỗ nào?”

Đạm Tiên: “Ăn bánh phải trả tiền. Có phải là công lý không?”

Từ Hải đáp: “Phải”.

Đạm Tiên: “Bọn anh vơ vét của nhân dân, có đền bù gì xứng đáng?”

Từ Hải nói: “Chúng tôi đã mang lại cho nhân dân một nền dân chủ gấp trăm lần hơn các nước tư bản”.

Nghe xong, Đạm Tiên bị sặc, vãi đái ướt nhẹp quần lót.

Từ Hải cảm nhận được điều gì đó khác thường nơi Đạm Tiên, hỏi: “Em sao vậy?“

Đạm Tiên bảo: “Không có gì. Anh hài hước thông minh hơn em tưởng”.

Vào Sài Gòn công tác, Hồ Tôn Hiến được Thúc Sinh chiêu đãi một thực đơn châu Phi hoang dã từ thức ăn đến các em phục dịch đẳng cấp văn học khiêu dâm Mã Kiều Nhi, Đạm Tiên và Vương Thúy Kiều.

Thúc Sinh nói với Hồ Tôn Hiến: “Chúng ta đang ở bên bờ vực phá sản. Nếu không quyết liệt xóa bàn làm lại, chúng ta sẽ mất hết, kể cả mạng sống”.

Hồ Tôn Hiến bảo: “Trung Quốc đang có tham vọng tranh dành địa vị bá chủ thế giới. Manh động lúc này có thể dẫn tới việc quân Trung Quốc mang xe tăng tràn qua biên giới như thảm kịch của Hungary 1956, Tiệp Khắc 1968..”.

Thúc Sinh nói: “Nếu Mỹ hậu thuẫn đưa hạm đội 7 vào Biển Đông thì không sợ. Nhưng dù sao cũng phải tạo ra một bối cảnh hợp lý”.

Hồ Tôn Hiến bảo: “Tình báo Hoa Nam có mặt ở khắp nơi. Không qua mặt bọn chúng được”.

Thúc Sinh: “Chẳng lẽ chúng ta buông xuôi chờ ngày nhân dân đến treo cổ?”

Hồ Tôn Hiến: “Không, phải hành động. Chúng ta cần có một quần chúng của mình bên cạnh một đồng minh đáng tin cậy”.

Thúc Sinh: “Chúng ta chỉ có một quần chúng bất mãn. Bên ngoài không ai tin chúng ta”.

Hồ Tôn Hiến: “Trước hết cần giải quyết càng nhanh càng tốt bọn cơ hội trong Đảng”.

Thúc Sinh giật mình sợ Hồ Tôn Hiến giao việc cho mình. Ông không muốn là kẻ thù của bất cứ ai. Nhưng Hồ Tôn Hiến đã nói tiếp: “Ông gọi Sở Khanh cho tôi”.

Thúc Sinh đáp: “Ngày mai tôi sẽ cho nó trình diện anh”.

Rối Thúc Sinh bảo Vương Thúy Kiều chơi đàn. Những khúc dân ca Trung Quốc được Mã Kiều Nhi và Đạm Tiên thay nhau hát. Nước sông Tiền Đường chảy về phương Nam hoài cảm trong tâm hồn họ.

Hôm sau, Thúc Sinh đưa Sở Khanh ra mắt Hồ Tôn Hiến tại Đền Hùng Sài Gòn.

Hồ Tôn Hiến hỏi: “Anh biết việc tôi cần chứ?”

Sở Khanh nhanh nhẩu: “Tìm cho ngài một cô gái?”

Hồ Tôn Hiến hỏi như không nghe Sở Khanh nói gì: “Anh vẫn còn khả năng lừa tình chứ?”

Sở Khanh: “Vâng, đấy là nghề của tôi”.

Hồ Tôn Hiến nói: “Tôi muốn anh lừa cả bầy cừu”.

Sở Khanh: “Thưa được ạ. Nhưng tôi cần chính danh”.

Hồ Tôn Hiến nói: “Thúc Sinh sẽ làm thủ tục cho anh”.

Ban Huấn giáo trực thuộc văn phòng Hồ Tôn Hiến được thành lập do Sở Khanh làm trưởng ban. Ban này có trách nhiệm chính thức là tư vấn chính phủ về các lĩnh vực thông tin, văn hóa và giáo dục.

Thế giới có hình tam giác. Ta – Địch – Bọn không phải ta, không phải địch. Trong thế tam phân ấy, không cái nào đối đầu trực tiếp với cái nào, chúng nương nhau mà thành. Không có địch thì phải tạo ra địch, vì không có địch thì không có ta. Có ta mà không có “bọn không phải ta, không phải địch” thì không thể có vận hành, cai trị. Mà cai trị thì không chỉ có đàn áp, cai trị cũng cần tung hô. Đàn áp là biện pháp. Cứu cánh là tung hô. Thần thánh trên trời và ma quỉ dưới đất cũng chỉ là một hệ thống. Sở Khanh trình bày dự án hành động dựa trên các nguyên lý mâu thuẫn và đồng nhất. Theo đó, thúc đẩy mâu thuẫn để tạo nên sự đồng nhất. “Thế lực thù địch” và “phản động” trở thành sách lược qui phục quần chúng. Và “sở hữu toàn dân” hay “thế giới đại đồng” sẽ là chiêu bài xuyên suốt cuộc vận động lịch sử. Mục tiêu lừa tình do Hồ Tôn Hiến đề ra được Sở Khanh thi hành triệt để. Tất cả nghệ thuật lừa gái đều được Sở Khanh áp dụng để chinh phục quần chúng. Bầy cừu nhắm mắt đưa chân. Bọn chăn cừu muốn cắt lông và làm thịt nhưng không muốn vỗ béo bầy cừu. Bầy cừu đói muốn làm loạn nhưng vốn bản chất là cừu nên không bao giờ cừu biến thành sói.

Thế giới có hình vuông. Dân gian gọi là tứ trụ triều đình. Sự mất cân bằng của quyền lợi và tham vọng làm xô lệch cái hình vuông ấy. Thúc Sinh bí mật giao nhiệm vụ cho Sở Khanh thúc đẩy cái mâu thuẫn đa phương ấy lên cao với mục đích đồng nhất thế giới chỉ còn một đường thẳng. Đường thẳng ấy dẫn tới đâu không ai biết. Điều quan trọng là quyền lực phải được quy về một mối.

Bầy cừu nằm mơ có một ngày trời mới đất mới, nên Sở Khanh lại có nhiệm vụ cho một dự án lừa tình khác.

Thay vì một đường thẳng, thế giới biến thành hai đường đối nghịch chà xát nhau. Cả những kẻ đứng bên lề phải hay lề trái đều điêu đứng. Xác ruồi muỗi nhiều như cát.

Hoàng đế Gia Tĩnh cho sứ giả sang gặp Hồ Tôn Hiến.

Sứ giả nói: “Xét vì tình đồng hương, trên cơ sở đồng văn, hàng xóm láng giềng tốt, Thiên triều ủng hộ đồng chí trong cuộc tranh chấp quyền lực hiện nay”.

Hồ Tôn Hiến cúi đầu đa tạ, hô vang: “Gia Tĩnh vạn vạn tuế, vạn vạn tuế”.

Sứ giả tiếp: “Tuy nhiên, đồng chí không được quên sự cưu mang của Thiên triều với đồng chí. Vì thế đồng chí cần phải nêu cao tấm gương thần phục Thiên triều cho cả thế giới thấy. Vì cả thế giới này sẽ phải thần phục Thiên triều như đồng chí đã thần phục”.

Hồ Tôn Hiến đáp: “Tôi biết việc mình phải làm”.

Khi sứ giả vừa ra về, Hồ Tôn Hiến nhổ ra một búng máu, chửi: “Địt mẹ chúng mày”.

12.

Hồ Tôn Hiến ném chai rượu vào tường. Tiếng thủy tinh vỡ sắc nhọn. Đạm Tiên dâng một chai rượu khác, Hồ Tôn Hiến tiếp tục ném vào tường. Khi Hồ Tôn Hiến mỏi tay, thẫn thờ... Đạm Tiên cởi quần áo cho Hồ Tôn Hiến và dìu ông vào phòng tắm. Nàng tắm cho Hồ Tôn Hiến như một người mẹ tắm cho con. Nàng hát nho nhỏ bài ru ca dao. Đạm Tiên biết, sau những cơn điên loạn, nước mát và những bài hát ca dao sẽ làm cho tâm hồn Hồ Tôn Hiến bình an và biến ông thành một đứa bé ngoan ngoãn. Cuộc làm tình sau đó cũng chỉ kết thúc trên đỉnh cao khi Hồ Tôn Hiến đạt được cảm thức của một thứ tình mẫu tử. Đạm Tiên phục vụ Hồ Tôn Hiến như một nô tì và ban phát dục tình như một nữ chúa. Hồ Tôn Hiến không mưu cầu thuật trường sinh bất lão nơi các cô gái trẻ, ông ta cần an nghỉ với một người giàu trải nghiệm.

Tuy không am tường về chính trị, nhưng Đạm Tiên biết nỗi cô đơn của Hồ Tôn Hiến. Cái chỗ dựa lưng tưởng vững chắc của Hồ Tôn Hiến là Gia Tĩnh thật ra lại là mối lo ngại lớn nhất, bởi vì bất cứ lúc nào Gia Tĩnh cũng có thể thay ngựa giữa dòng. Vả lại dựa vào Gia Tĩnh, Hồ Tôn Hiến phải trả cái giá rất đắt, một là mất tính chính nghĩa, hai là sẽ bị cái đám “không phải ta, không phải địch” tẩy chay. Bọn thù địch tất nhiên một mất một còn, nhưng dẫu sao vẫn là trực diện, có thể chiến đấu. Sợ nhất là các đồng chí đâm sau lưng. Bọn “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa “ này càng lúc càng đông. Bọn cơ hội, phản bội thì không thiếu.

Đạm Tiên nói với Hồ Tôn Hiến: “Em biết anh thừa khả năng đối phó với quân thù, nhưng anh không thể đối phó với bọn âm binh. Anh không thể chiến đấu với cái anh không thấy”.

Hồ Tôn Hiến nói: “Em có thể giúp gì cho anh?”

Đạm Tiên bảo: “Anh biết em là ma đúng không?”

Hồ Tôn Hiến đáp: “Biết”.

Đạm Tiên bảo: “Chỉ có ma mới diệt được ma”.

Hồ Tôn Hiến: “Anh hiểu”.

Đạm Tiên nói: “Hãy xây cho em một cái am ở lưng chừng trời”.

Hồ Tôn Hiến: “Cuộc chiến của anh ở trên mặt đất mà”.

Đạm Tiên bảo: “Đúng. Ở lưng chừng trời, em canh giữ mặt đất cho anh. Cả ma quỉ và thần thánh sẽ nằm trong tầm kiểm soát của em. Em án ngữ mọi liên kết móc nối. Không một tổ chức đối lập nào có thể hình thành khi em ở lưng chừng trời. Em sẽ chia rẽ phân hóa mọi thành phần. Em sẽ làm cho mọi thứ nát như tương. Làm cho mọi ý chí và hình ảnh trở nên nhơ nhớp..”.

Hồ Tôn Hiến nói: “OK. Một cái am hoành tráng giữa lưng chừng trời. Em muốn ở Yên Tử, Phú Thọ hay Bảy Núi?”

Đạm Tiên: “Am thờ em là trái núi thứ tám ở Châu Đốc cuối trời phiêu lãng”.

Hồ Tôn Hiến bảo: “Nhất trí. Trong vòng một năm sẽ hoàn thành ước nguyện cho em”.

Đạm Tiên dặn: “Đây là vấn đề phong thủy địa lý có tính quyết định đối với sinh mạng và sự nghiệp của anh, vì thế hãy hình dung nó là một tổ nhện hay lưới trời cũng được”.

Hồ Tôn Hiến rất tâm đắc: “Anh hiểu. Mẻ lưới ở cuối trời tuyệt địa”.

Ngay hôm sau, một kiến trúc sư và một thày phong thủy được triệu tập. Chưa đầy một năm, công trình xây dựng nhà thờ Đạm Tiên hoàn thành. Đó là một tổ nhện được nối bằng cáp từ đỉnh bảy ngọn núi ở Châu Đốc treo một cái am khổng lồ hình con nhện chúa giữa lưng chừng trời. Lễ khánh thành được tổ chức vào ban đêm, đích thân Hồ Tôn Hiến và ông thày cúng thỉnh từ núi Sam đến dâng hương. Họ khấn vái những gì chỉ có Đạm Tiên biết.

Cũng từ đó, Đạm Tiên vĩnh viễn rời bỏ ngôi mộ hoang ràu ràu ngọn cỏ, về ngự trong am con nhện giữa Thất Sơn huyền bí.

Đạm Tiên đưa cho Nguyễn tờ giấy ở dạng tro than và bảo chàng đọc.

-Lịch sử là hư cấu và được hư cấu theo một logic mang tính lý thuyết. Đối với Hồ Tôn Hiến và thời đại của ông ta chỉ có một thứ logic duy nhất là ta nhất định thắng, địch nhất định thua. Và cái lý thuyết của nó tất nhiên cũng là chính nghĩa thuộc về ta bất kể nó như thế nào.

-Khi chính trị và văn học nghệ thuật ăn cánh với nhau, con người bị giết chết.

-Trong các chế độ độc tài, văn nghệ sĩ chính thống là kẻ đồng lõa với tội ác.

-Hư vô hóa cuộc sống cũng chỉ là cách trốn trách nhiệm.

Nguyễn hỏi: “Của ai vậy?”

Đạm Tiên bảo: “Của nhân dân đấy”.

Nguyễn nói: “Cứt đái”.

Đạm Tiên ra vẻ nghiêm trọng: “Trước sự thống khổ của con người, nhà văn không thể là kẻ vô tội”.

Nguyễn nói: “Cứt đái hết”.

Đạm Tiên cười sằng sặc.

13.

Sở Khanh con nhà nòi đẹp trai, được xếp vào loại “người đương thời” mẫu mã chính thống, tài năng và thành đạt của báo chí lá cải. Để tả Sở Khanh có thể nói một cách đặc trưng, hắn giống đại gia và cũng giống quan quyền. Phổ thông và ba hoa. Văn nghệ sĩ các loại phục tùng hắn vì hắn là biểu tượng của khát vọng chinh phục.

Sở Khanh tâu với Hồ Tôn Hiến: “Văn nghệ sĩ và các loại tương cận đều rất háo danh, để sai khiến được bọn này cần ban tặng cho chúng các chức danh này nọ. Vì các chức danh, chúng sẽ như lũ thiêu thân”.

Hồ Tôn Hiến bảo: “Được. Ta biết sức mạnh của các nghệ sĩ. Đồng chí rất thâm sâu. Ta sẽ ban cho chúng mọi tước vị cao cả”.

Sở Khanh tâu tiếp: “Văn nghệ sĩ và các loại tương cận cũng đều rất thích được sai khiến, xin hãy giao việc cho chúng vì chúng sẽ tưởng đấy là nghĩa lớn”.

Hồ Tôn Hiến bảo: “Được. Hãy tập hợp chúng lại dưới ngọn cờ vinh quang của ta”.

Sở Khanh trở thành Hội trưởng của Hội Văn nghệ sĩ và các loại tương cận.

Nhiệm vụ của Hội là lừa tình toàn thể bầy cừu. Nhưng làm gì thì cũng cần phải lo cho bản thân trước. Cơ hội không phải lúc nào cũng có. Vì thế, Sở Khanh lừa ngay bọn háo danh muốn trở thành văn nghệ sĩ cung đình. Chúng sẵn sàng cống nạp cho Sở Khanh tất cả mọi thứ kể cả vợ con.

Quả thật cao cả đáng kính khi người ta trở thành lực lượng dẫn dắt dư luận và tạo khuôn mẫu cho toàn xã hội. Càng cao cả đáng kính hơn khi môi trường hoạt động của nó cũng là một quan trường. Vì thế, chẳng có lý do gì Sở Khanh lại không trở thành nghệ sĩ nguyên soái khi các nghệ sĩ dưới trướng hắn là nghệ sĩ công huân, nghệ sĩ nhân dân, nghệ sĩ ưu tú, hay nghệ sĩ bá tước, nghệ sĩ nam tước, nghệ sĩ tử tước các loại... Nhưng cuộc đời vốn tréo ngoe khốn nạn, lại càng tréo ngoe khốn nạn hơn với Sở Khanh khi gã lừa tình của mọi thời đại này bỗng trở nên bất lực giữa lúc sự nghiệp huy hoàng nhất. Các cao thủ làng chơi như Đạm Tiên, Mã Kiều Nhi hay Vương Thúy Kiều dù đã diễn hết nghề vẫn không làm cho cặc Sở Khanh cứng và xuất tinh được. Sở Khanh mô tả trường hợp của mình là “bi kịch nghề nghiệp”.

Vương Thúy Kiều hỏi Nguyễn: “Anh có cách gỡ rối cho Sở Khanh không?”

Nguyễn bảo: “Cứ để cho nó khí tồn tại não, để nó hiểu cái ẩn ức của nhân dân”.

Thúy Kiều nói: “Vấn đề là em không muốn tổn hại thanh danh, uy tín nghề nghiệp của mình”.

Nguyễn bảo: “Oan ức cho em thật. Hãy bảo nó khi ngủ với em thì cứ tưởng tượng là ngủ với cả nhân dân, nó sẽ sướng thôi”.

Vương Thúy Kiều kể lại với Sở Khanh, hắn cười khinh bỉ: “Mả mẹ mấy thằng nhà văn dốt nát, hợm hĩnh. Đã là nghệ sĩ nguyên soái thì không đụ toàn thể nhân dân mà lại đụ cái con mẹ già của nó à”.

Vương Thúy Kiều bảo: “Không, đấy chỉ là một cách nói thôi”.

Sở Khanh nói: “Cô còn dạy khôn tôi à? Những cơn lên đồng tập thể mê cuồng của quần chúng không phải là do tôi tạo nên sao? Tôi cũng biết sướng y như khi tôi làm tình với cô. Chẳng những thế, tôi cũng còn biết tổng hòa chúng lại theo kiểu 2 trong 1. Nói chung, nghệ thuật thì không thiếu, vấn đề còn lại vẫn là năng lực bản thân. Nhưng tôi có cảm giác đây là vấn nạn của cái gọi là lỗi hệ thống”.

Vương Thúy Kiều cười: “Anh thiếu sự đồng thuận của quần chúng”.

Sở Khanh cũng cười: “Cưỡng hiếp cũng có cái sướng của nó. Tuy nhiên, như thế không xứng danh Sở Khanh”.

Vương Thúy Kiều nhìn Sở Khanh chằm chằm. Nàng nhớ đến lúc gặp Sở Khanh lần đầu ở lầu Ngưng Bích và đã gửi số phận mình cho hắn với niềm hy vọng được giải phóng. Vẫn là con người chải chuốt quen thuộc đó, nhưng hắn bao giờ cũng xa lạ với nàng. Cái khác biệt về bản chất có lẽ đã làm cho Kiều thất bại trong việc làm tình với hắn. Nhưng nàng cũng nhận ra mình chưa bao giờ thoát được tay hắn. Chưa bao giờ nàng tự do.

Không chỉ Thúy Kiều hay bọn văn nhân háo danh, mà ngay cả những trí thức lịch lãm nhất cũng mắc lừa Sở Khanh. Nguyễn bảo đấy là hội chứng tả khuynh của thời đại và chàng cũng không tránh khỏi sa vào lưới của nó. Nhưng một trong những người đã khai sinh ra thể chế lừa lọc đó, Thúc Sinh lại bảo, sự tật nguyền và mê muội của xã hội loài người mang tính nội tại và tất yếu. Người ta bị lừa không phải vì ngu mà chỉ vì không dám sống khác.

Khi trở lại lầu Ngưng Bích nhìn sóng biển vỗ bờ, tâm trạng của Thúy Kiều lại bồi hồi và nàng biết mình vẫn chờ đợi một cơ hội để giải thoát. Nhưng giải thoát để về đâu, nàng không hề nghĩ tới.

Thúc Sinh nói: “Tôi yêu Thúy Kiều không phải vì cô ấy tin người, mà bởi cô ấy luôn hy vọng”.

Nguyễn nói: “Hy vọng là nhược điểm lớn nhất của con người. Nó làm cho người ta trở nên tội nghiệp và bị lợi dụng”.

Thúc Sinh nói: “Nhưng sự hy vọng cũng làm cho con người trở thành người nhất. Tôi muốn gửi gấm Thúy Kiều cho anh”.

Nguyễn bảo: “Tôi chẳng làm gì được ngoài việc biến cô ấy thành thiên cổ”.

Thúc Sinh nói: “Thật ra, anh có thể làm được nhiều hơn thế”.

Nguyễn bảo: “Trong thể chế này, nhà văn chỉ có thể là cái loa cho bọn thống trị”.

Thúc Sinh nói: “Đã đến lúc anh có thể là cái loa cho chính anh và cho những người như Thúy Kiều”.

Nguyễn bảo: “Tôi không tin”.

Thúc Sinh nói: “Tôi không bảo kê được cho anh. Nhưng anh cứ làm thì anh sẽ tin. Hơn nữa, anh cũng sẽ thấy Từ Hải xuất hiện trở lại với đúng vai trò của mình”.

Nguyễn hỏi: “Một kịch bản mới cho tình hình mới?”

Thúc Sinh: “Anh hiểu như thế cũng được. Nhưng anh không được quên điều này: Lịch sử luôn lập lại nhưng lịch sử cũng luôn đi tới”.

14.

Từ Hải dằn ly rượu xuống, nói: “Cuộc sống đã trở nên không chịu nổi. Tất cả những gì ông Hồ Chí Minh lên án chế độ thực dân đang lập lại ở mức độ kinh tởm hơn nhiều lần”.

Nguyễn bảo: “Bây giờ ông mới thấy sao?”

Từ Hải: “Trước đây tôi vẫn cho rằng đó chỉ là hiện tượng của thời kỳ quá độ. Nhưng với thời gian, những cái xấu xa và tình trạng không thể sửa chữa của nó đã minh chứng rằng đó là bản chất”.

Nguyễn cười: “Anh sẽ làm gì?”

Từ Hải không cần rào đón: “Không có cách nào khác ngoài việc thay đổi nó”.

Nguyễn vẫn cười: “Bằng cái gì và như thế nào?”

Từ Hải nhìn thẳng vào mặt Nguyễn: “Đó là việc của ông và những trí thức như ông”.

Nguyễn không cười được nữa, chàng cầm ly rượu lên soi qua ánh nắng, rồi đặt ly xuống mà không uống. Nguyễn không thể tự cho phép mình bỏ qua cái gánh nặng mà Từ Hải vừa quăng cho chàng.

Nguyễn và những trí thức như chàng đã làm gì trước hiện thực cuộc sống và lịch sử?

Cúi đầu và im lặng. Người ta vẫn sống như trách nhiệm thuộc về người khác.

Từ Hải vỗ vai Nguyễn: “Tôi cần ông”.

Nguyễn im lặng một lúc rồi nói: “Tôi không phải Cao Bá Quát”.

Từ Hải cười lớn: “Tôi không cần quân sư quạt mo. Ông là nhà văn, điều tôi muốn là ông hãy sống và viết như một nhà văn. Nếu tất cả các nhà văn đều sống và viết như một nhà văn thì có lẽ đất nước này đã khác”.

Nguyễn nói: “Tôi hiểu. Chúng ta cần sự thức tỉnh của mọi công dân và một áp lực xã hội đủ mạnh buộc chế độ phải thay đổi”.

Đạm Tiên bảo: “Các bác hơi bị lạc quan quá. Âm phủ càng ngày càng đông”.

Từ Hải nói: “Những xác chết cũng cần lên tiếng”.

Đạm Tiên bảo: “Họ đã lên tiếng bằng cách không nhắm mắt”.

Khi nhà văn tự đặt mình dưới sự lãnh đạo của đảng cầm quyền và trở thành bồi bút cho bọn thống trị, họ đánh mất nhân cách. Tự xóa bỏ cái đa nguyên của tư tưởng và đặt gông cùm ý thức hệ lên vai mình, họ xóa trắng bản thân.

Từ Hải nói: “Họ cũng cần sám hối”.

Đạm Tiên bảo: “Họ đã sám hối bằng sự vô ích của mình”.

Từ Hải nói: “Họ cần hành động để chuộc tội bởi ngay cả sự im lặng cũng có tội”.

Đạm Tiên bảo: “Không một ai còn khả năng hành động”.

Nguyễn hồi hướng tự ngã nhưng đồng thời cũng muốn giết Vương Thúy Kiều, như thể chỉ có giết Thúy Kiều chàng mới tìm lại được mình.

Thúy Kiều không phải nguyên nhân hay biểu tượng cho sự tha hóa của chàng, hoặc bất cứ thứ gì tương tự như thế, nhưng chàng cảm thấy một nhu cầu ngày càng lớn phải giết Thúy Kiều như cái nhất thiết của sự tồn sinh nơi chàng. Chàng muốn giết Thúy Kiều một cách tuyệt đối. Bởi thế, khi gặp bất cứ trang sách nào có tên Vương Thúy Kiều, Nguyễn đều xé nát. Chàng biết việc ấy là trẻ con, nhưng vẫn cứ làm. Tuy nhiên, mỗi khi gặp mặt Thúy Kiều, chàng lại không biết phải hành động như thế nào, bởi vì chàng không thực sự thù ghét nàng. Nguyễn vừa muốn bóp cổ nàng, vừa muốn đụ nàng. Và chàng nghĩ mình sẽ đụ nàng như đụ một con đĩ, nhưng chàng đã đụ nàng như một khát vọng thánh hóa và vô độ của mình. Nguyễn muốn cầm dao đâm nàng, nhưng chàng đã hôn vào những vết thương tưởng tượng ấy. Nguyễn muốn treo cổ nàng, nhưng rồi chàng đã làm tình với cái xác chết khô queo ấy qua ngày này tháng nọ. Và chàng khám phá ra mình đã chỉ yêu những xác chết. Điều này lại càng khiến chàng muốn giết Thúy Kiều.

Nguyễn nói với Thúy Kiều: “Em hãy nhắm mắt lại và làm một xác chết”.

Nhưng Thúy Kiều nói: “Làm sao em có thể bất động trong lúc cả linh hồn và thể xác đều sướng cuồng sướng dại?”

Nguyễn nói: “Cho dù em có hòa nhịp cộng hưởng xoắn xuýt đến đâu, nó vẫn mang lại một cảm xúc trái ngược. Sự toàn mãn nơi anh phải là nguyên thể không san sẻ”.

Thúy Kiều bảo: “Vậy thì hãy cho em uống rượu với thuốc ngủ. Em sẽ là một xác chết cho anh muốn làm gì thì làm”.

Và Thúy Kiều đã uống rượu vang với năm viên thuốc ngủ. Nàng chỉ thích rượu vang. Thúy Kiều nói: “Em cho anh ba ngày ba đêm để cực lạc, viên mãn và tự do. Nếu anh muốn cho em chết, cũng chẳng sao. Em không oán trách”.

Trước khi đi sâu vào giấc ngủ, Thúy Kiều đã ôm hôn Nguyễn.

Nguyễn để Thúy Kiều trần truồng nằm trên sàn gỗ. Chàng cắm những ngọn nến viền quanh thân thể nàng. Rồi chàng cúi lạy nàng như cách người ta lạy vái người chết. Lạy mãi. Khi những ngọn nến cháy hết, chàng lật úp nàng lại, banh chân ra và chàng đút một cây nến mới vào lỗ đít nàng, thắp sáng suốt ba ngày đêm.

Thúy Kiều không chết. Nhưng từ đó Thúy Kiều không bao giờ ị nữa. Và giống như con Tỳ Hưu, nàng trở thành thần linh phong thủy cho tất cả những ai mưu cầu danh tiếng và sự phong lưu, thanh lịch.

Tranh, tượng Thúy Kiều được các nghệ nhân, nghệ sĩ các loại chế tác đủ kiểu để phục vụ thị trường mê tín và nghệ thuật. Tất cả những ai phỉ báng Thúy Kiều đều bị xã hội lên án như kẻ đánh mất truyền thống và niềm tự hào dân tộc.

Người thông suốt âm dương, Đạm Tiên bảo: “Bản chất và cứu cánh của sự tồn tại trong xã hội loài người chỉ là huyền thoại”.

Nắm bắt được nguyên lý ấy, Sở Khanh không những đã tạo ra vô số những huyền thoại cho ông chủ của mình là Hồ Tôn Hiến, mà còn tư vấn cho chính Hồ Tôn Hiến tự sáng chế những huyền thoại về mình trong những trước tác thuộc loại phổ cập học làm người. Nhờ thế, sau này Hồ Tôn Hiến cũng đã được tôn thờ trong các đình làng.

Người túc trí đa mưu, Thúc Sinh chỉ cười.

Vào thời điểm này, Kim Trọng đang giữ chức Án sát Nam Đô. Tuy trông coi việc hình, trật tự trị an nhưng với tinh thần “còn Hồ Tôn Hiến, còn mình”, Kim Trọng đã lạm quyền kiểm soát cả việc học tập theo gương Hồ Tôn Hiến của nhân dân. Người được coi là có bản lãnh chính trị vững vàng phải luôn luôn biết lập lại cấp trên một cách tuyệt đối và sự trung thành ấy trở thành chuẩn mực cho sự khả tín của công dân. Tất cả những người có tư duy độc lập và chính kiến khác biệt đều bị qui kết là “thế lực thù địch và phản động”. Số phận của họ nằm trên thớt.

Tuy nhiên, trong chỗ riêng tư, Kim Trọng chỉ tôn thờ một Thúy Kiều. Ông muốn thỉnh một chân dung Thúy Kiều về yểm trong nhà như biểu tượng cho sự chân thực của mình về tính người, nhưng Thúy Vân phản đối, người đàn bà mẫu mực ấy bảo: “Em không muốn con gái em tiến thân theo cách ấy”.

Thúc Sinh bí mật gặp Kim Trọng, nói: “Ông là người nắm rõ thái độ chính trị của tất cả mọi người. Ai là kẻ cơ hội. Ai là kẻ bất mãn. Ai là người lý tưởng. Vì thế, tôi nhờ ông chuẩn bị cho một danh sách các nhân vật mà ta có thể sử dụng được cho một tổ chức đối lập trong tương lai, kể cả ông. Tôi cũng nhờ ông chuẩn bị một kịch bản cho sự xuất hiện của họ một cách công khai”.

Kim Trọng e dè bảo: “Chúng ta không chia sẻ quyền lực. Quyền lãnh đạo của chúng ta là tuyệt đối”.

Thúc Sinh nói: “Vẫn biết thế. Nhưng tình hình mới buộc chúng ta phải có kế sách, tránh một cuộc lật đổ đẫm máu”.

Kim Trọng tỏ ra hoài nghi, ông nói: “Chúng ta vẫn vững vàng và tôi tuyệt đối trung thành với đồng chí đại ca Hồ Tôn Hiến, cho nên tôi chỉ có thể gửi ông bản danh sách các nhân vật mà ông cần. Còn cái kịch bản gì đó thì xin phép ông cho tôi đứng ngoài”.

Thúc Sinh nói: “Ông cần một xác nhận từ Hồ Tôn Hiến?”

Kim Trọng bảo: “Tôi không dám đòi hỏi. Nhưng tôi sẵn sàng tuân lệnh cấp trên”.

Thúc Sinh nói: “Ông sẽ nhận được điều ông muốn”.

Kim Trọng bảo: “Tôi không tin bọn trí thức”.

Thúc Sinh nói: “Đúng. Nhưng chúng ta có thể sử dụng chúng, vì bởi bọn chúng lúc nào cũng chỉ mong muốn được người khác sử dụng. Bọn chúng cần một vai trò và chúng ta sẽ cho chúng tham gia cái trò chơi lịch sử này”.

Kim Trọng: “Tôi e ngại tình thế có thể vuột khỏi tầm kiểm soát của chúng ta”.

Thúc Sinh: “Đấy là nhiệm vụ của ông. Hồ Tôn Hiến tin ông”.

Kim Trọng: “Không sợ tôi cướp cờ à?”

Thúc Sinh: “Đấy không phải là tính cách của ông”.

N.V.