Danh ngôn

Trong mọi cộng đồng, chúng ta cần một nhóm thiên thần gây rối.

We need, in every community, a group of angelic troublemakers.

(Bayard Rustin – trích bài phát biểu tại New York City 1963)

Trong mọi trường hợp, chắc chắn rằng sự thiếu hiểu biết, đi kèm với quyền lực, là kẻ thù tàn bạo nhất có thể có của công lý.

It is certain, in any case, that ignorance, allied with power, is the most ferocious enemy justice can have.

(James Baldwin - No Name in the Street 1972)

Các cuộc cách mạng và các cá nhân có thể bị giết hại, nhưng bạn không thể giết chết các ý tưởng.

While revolutionaries and individuals can be murdered, you cannot kill ideas.

(Thomas Sankara, một tuần trước khi bị ám sát, 1987)

Không có cảm giác nào cô đơn hơn việc bị chính đất nước mình trục xuất.

There's not a more lonely feeling than to be banished by my own country.

(Kiyo Sato – Kiyo’s Story 2009)

Ban Biên tập

Địa chỉ liên lạc:

1. Thơ

tho.vanviet.vd@gmail.com

2. Văn

vanviet.van14@gmail.com

3. Nghiên cứu Phê Bình

vanviet.ncpb@gmail.com

4. Vấn đề hôm nay

vanviet.vdhn1@gmail.com

5. Thư bạn đọc

vanviet.tbd14@gmail.com

6. Tư liệu

vanviet.tulieu@gmail.com

7. Văn học Miền Nam 54-75

vanhocmiennam5475@gmail.com

Tra cứu theo tên tác giả

Thứ Bảy, 20 tháng 4, 2019

Hồi ký Triệu Tử Dương (kỳ 5)

Nguyễn Quang A dịch

2. Cuộc Chiến đấu Đơn độc của Triệu

Đảng Cộng sản khởi động một chiến dịch dài hạn để về cơ bản xoá sự kiện Thiên An Môn khỏi lịch sử. Một bước đầu tiên gồm việc hạn chế các quyền tự do của cựu Tổng Bí Thư người đã phản đối sự đàn áp thẳng tay—vô hiệu hoá ông như một lực lượng chính trị. Sau khi Đặng chết, trong năm 1997, Triệu viết một lá thư cho Đảng Cộng sản đưa ra một lời kêu gọi cuối cùng cho các cựu đồng nghiệp của ông—nhiều trong số họ một thời đã ủng hộ lập trường của ông—để đảo ngược lời phán quyết chính thức gay gắt về sự cố Thiên An Môn. Nhưng chính trị của Trung Quốc đã chuyển theo một hướng mới. Người thay thế Triệu, Giang Trạch Dân, người có được vị trí của ông nhờ các sự kiện 1989, có lẽ thấy bức thư như một thách thức đối với quyền lực của ông và trả đũa bằng việc đặt những hạn chế thêm lên quyền tự do của Triệu.

Sau khi cuộc điều tra kết thúc, họ đã tiếp tục bắt tôi phải chịu sự quản thúc tại gia, hạn chế các quyền tự do cá nhân của tôi.

Trong khi cuộc điều tra đang được tiến hành, họ đã giam giữ tôi ở nhà suốt ba năm. Với cuộc điều tra kết thúc, các quyền tự do cá nhân của tôi cơ bản phải được khôi phục. Tôi đã nêu vấn đề rồi về việc khôi phục các quyền tự do cá nhân của tôi khi Kiều Thạch và Tống Bình đã đến để công bố sự kết thúc điều tra tôi. Họ đã không nói bất cứ thứ gì vào lúc đó trừ gợi ý rằng việc mở rộng các quyền tự do của tôi sẽ từ từ sao cho tác động được giảm nhẹ.

Thực ra, ngay khi họ công bố chấm dứt cuộc điều tra, ngay lập tức họ đã đề ra sáu quy tắc để hạn chế các hoạt động của tôi. Tuy vậy, trong khi họ áp đặt sáu quy tắc này, họ đã chẳng bao giờ đưa chúng cho tôi cũng đã không nói, mặt đối mặt, với tôi về chúng— có lẽ bởi vì họ cảm thấy có tội và đã sợ bị tóm với bằng chứng mà đã có thể được phơi ra cho thế giới bên ngoài và thu hút sự chú ý của báo chí quốc tế và trong nước.

Thay vào đó, họ đã chỉ thị Cục An Ninh của Văn phòng Tổng hợp và nhân viên nhà tôi để thực hiện chúng. Tất nhiên, các Đồng chí làm việc trong nhà tôi đã buộc phải tuân theo các lệnh từ trên. Nhưng bởi vì họ không được cho là nói rằng đấy đã là các quy tắc được áp đặt bởi các thượng cấp của họ, họ đã thường mè nheo tôi với những lời xin lỗi nguỵ tạo. Bởi vì họ đã hành động phi lý đến vậy, trong một giai đoạn đã thường có sự va chạm và đối đầu giữa tôi và họ. Muộn hơn, tôi đã phát hiện ra rằng không cần đổ lỗi cho họ, bởi vì họ đã chỉ thực hiện các mệnh lệnh từ trên.

Tôi đã cảm thấy rằng họ phải nói cho tôi cụ thể các quy tắc đã là gì—cái gì được phép và những gì không—để tôi có thể hiểu. Thí dụ, sau khi cuộc điều tra đã kết thúc, tôi yêu cầu một chuyến đi đến Quảng Đông vào mùa đông bởi vì vấn đề khí quản của tôi, khiến tôi bị ho nặng trong mùa đông khô ở miền bắc nhưng được cải thiện nhiều trong khí hậu miền nam. Họ đã đáp lại bằng nói rằng Chris Patten [thống đốc thuộc địa cuối cùng của Hong Kong] đã đang thử mở rộng các cuộc bầu cử dân chủ ở Hong Kong [ngang biên giới từ Quảng Đông], cho nên tình hình rất tế nhị; vì thế, đã không thuận tiện cho tôi để đi đến Quảng Đông.

Tôi đã nghĩ điều đó thật lố bịch! Bất cứ thứ gì Chris Patten làm ở Hong Kong là một vấn đề về công việc đối ngoại; có liên quan gì đến việc tôi ở Quảng Đông? Nhưng họ đã khăng khăng nói, “Ông không nên đi Quảng Đông, nhưng okay cho ông để đi Quảng Tây, Vân Nam, hay Quý Châu.”

Tôi đã quyết định đi Quảng Tây, nhưng ngay khi tôi chuẩn bị đi, họ đã đưa thêm một quy định nữa: rằng tôi bị hạn chế trong thành phố Nam Ninh ở Quảng Tây. Trong thực tế, sau khi tôi đến Nam Ninh, họ đã sử dụng mọi công cụ có thể để cản tôi đi bất cứ nơi nào khác.

Sau khi tôi trở về Bắc Kinh, tôi đã muốn đi chơi golf tại Sân Golf Xương Bình nhưng được bảo là không được phép. Tôi đã hỏi một quy tắc như vậy đến từ đâu. Họ không nói cho tôi, nhưng tiếp tục nói rằng tôi không thể đi. Tôi gọi sĩ quan an ninh Vương Đồng Hải (Thông Hải?) và bảo ông ta tôi muốn đưa ra một tuyên bố. Nội dung của tuyên bố đã là như sau:

Ngày hôm nay Cục An Ninh đã ngăn cản tôi đi đến Xương Bình để chơi golf. Tôi đã thậm chí không được phép đi đến Sân Golf Thuận Nghĩa (cũng được người Nhật quản lý), nơi tôi đã đi tháng Mười Hai vừa qua. Tôi tin đấy là một trường hợp Cục An Ninh tiến hành các hoạt động vượt thẩm quyền của nó, vi phạm các ý định của Uỷ ban Trung ương. Họ thậm chí đã răn bảo tôi xem xét bức tranh lớn hơn. Tôi không biết các vị có thể giải thích điều này thế nào! Năm ngoái, trong thời gian đại hội Đảng thứ 14, khi Kiều Thạch và bốn Đồng chí cấp cao đến để nói chuyện với tôi, tôi đã đưa ra một cách rõ ràng một đòi hỏi để các quyền tự do của tôi được khôi phục khi chấm dứt cuộc điều tra. Về các hoạt động của tôi, tôi sẵn sàng xem xét những hệ quả. Nếu đã có những gợi ý của ban lãnh đạo trung ương, tôi sẽ tôn trọng chúng, nhưng tôi tuyệt đối sẽ không chấp nhận bất kể quy tắc ép buộc tuỳ tiện nào để hạn chế quyền tự do của tôi. Lúc đó, bốn Đồng chí cấp cao đã không đưa ra phản đối nào đối với tuyên bố của tôi. Tôi không hiểu quyền hạn nào mà Cục An Ninh đã cản trở tôi đi chơi golf hôm nay. Tôi sẽ không chấp nhận bất kể sự hạn chế tương tự nào trong tương lai.

Tôi đã yêu cầu Vương Đồng Hải chuyển trọn vẹn thông báo này cho các thượng cấp của ông ta.

Lần khác, tôi đã hỏi để đi đến Câu Lạc Bộ Yang Feng Jia Dao để chơi bida. Đầu tiên họ đã từ chối, nhưng tôi đã cố đòi. Họ bảo lái xe sẽ không đưa tôi đi. Tôi bảo tôi có thể đi xe bus. Cuối cùng họ đã bằng lòng, nhưng họ đã hạn chế vào hai phiên buổi sáng một tuần. Tôi đã đi hai hay ba lần, trong thời gian đó tôi đã không thấy một ai trong câu lạc bộ. Muộn hơn tôi biết rằng họ đã bỏ trống câu lạc bộ, ngăn cản các Đồng chí khác ở đó để tạo ra một loại “nơi riêng tư” chỉ cho tôi. Vì sao? Bởi vì Câu lạc bộ Yang Feng Jia Dao đã là một câu lạc bộ cho các cán bộ cấp cao già, và họ đã sợ rằng tôi sẽ gặp những người quen và các bạn già. Tất nhiên họ chắc chắn đã không thể ngây thơ đến mức để tin rằng vào lúc chạm mặt những người này, tôi sẽ lao vào các bài phát biểu khiêu khích và bắt đầu tổ chức một mạng lưới.

Sự lo âu về cái được cho là “tác động” [của bất kể cuộc đi chơi nào] đã là lý do biện hộ họ đưa ra để che đậy kế hoạch của họ rằng tôi chẳng bao giờ xuất hiện trước công chúng nữa—sao cho nhân dân sẽ từ từ quên tôi, ném tôi vào quên lãng qua việc bắt phải câm họng. Cái gọi là “sợ tác động” đã ngụ ý rằng mọi tiếng động về tên tôi sẽ gây ra sự bất ổn định xã hội.

Có lẽ cuối cùng họ đã nhận ra rằng việc tiếp tục sự dàn xếp này đã không có ích, và rằng có thể tốt hơn để làm rõ vấn đề. Mãng Hiến Trung từ Đảng bộ của Văn phòng Tổng hợp của Uỷ ban Trung ương đã được cử đi để công bố lập trường của Văn phòng Tổng hợp, tức là, sáu quy tắc cho việc hạn chế các hoạt động của tôi. Bốn khoản đã xác định cụ thể các hạn chế đối với tôi:

1. Có thể tiếp khách ở nhà, nhưng không được tiếp phóng viên nào hay người nước ngoài nào.

2. Các hoạt động ở ngoài cần một sự hộ tống của các bảo vệ từ Cục An Ninh. Được phép dạo chơi trong các công viên ngoại ô. Tuy vậy, các bảo vệ phải ngăn chặn việc đến thăm những nơi đông người.

3. Xét rằng các sân golf ở khu vực Bắc Kinh tất cả được các công ty đầu tư nước ngoài quản lý hay là các liên doanh, và những người chơi trên các sân này tất cả là những người nước ngoài hay những người từ Hong Kong hoặc Macau, vì thế khuyến nghị rằng trong tương lai gần, các sân golf này được tránh. Như một thay thế, sân golf Thuận Nghĩa, được vận hành bởi các nông dân Trung Quốc địa phương, có thể được sử dụng.

4. Việc du hành ngoài Bắc Kinh có thể được dàn xếp, nhưng hiện nay, chỉ tới các tỉnh nội địa. Các khu vực duyên hải hay nhạy cảm phải được tránh. Một hành trình cụ thể phải được Uỷ ban Trung ương chuẩn y.

Bởi vì đấy là những quy tắc chính thức do Uỷ ban Trung ương đưa ra để hạn chế quyền tự do của tôi, tôi đã đáp lại bằng một lá thư cho Giang Trạch Dân và Ban Thường Vụ Bộ Chính trị. Bức thư của tôi là như sau:

1. Vào ngày 25 tháng Sáu, phó bí thư Đảng bộ của Văn phòng Tổng hợp, Đồng chí Mãng Hiến Trung, đã đọc nhiều quy tắc cho việc hạn chế các hoạt động của tôi mà đã có sự chuẩn y của Uỷ ban Trung ương. Chỉ khi đó tôi mới biết rằng sau khi kết thúc việc điều tra tôi, nhiều hạn chế đối với quyền tự do cá nhân của tôi đã tiếp tục tồn tại, và được thực hiện phù hợp với các quy tắc được Uỷ ban Trung ương chuẩn y. Tôi tin, tuy vậy, rằng các quy tắc này không tương thích với các nguyên tắc rằng Đảng phải hoạt động bên trong các giới hạn của hiến pháp và luật. Chúng cũng vi phạm nguyên tắc rằng “không sự đối xử nào, mà vi phạm kỷ luật Đảng và luật, được dùng chống lại một Đảng viên.” (Xem Điều số 10, “Một số Quy tắc Cai quản Đời sống Chính trị trong Đảng” do Uỷ ban Trung ương ban hành.) Vì thế, tôi đòi rằng Uỷ ban Trung ương xem xét lại và thu hồi các quy tắc này.

2. Các quy tắc cản tôi khỏi các sân golf đầu tư nước ngoài hay liên doanh “trong tương lai gần.” Tôi “hiện thời” cũng không được phép đi đến các tỉnh duyên hải. Tôi không có ý tưởng nào về các cụm từ “tương lai gần” và “hiện thời” có nghĩa là gì. Các quy tắc này được đưa trong tháng Mười năm ngoái; từ khi đó tám tháng đã trôi qua. Ý nghĩa gì các cụm từ “tương lai gần” hay “hiện thời” có thể có bây giờ?

3. Những hạn chế đối với quyền tự do của tôi trong nửa năm qua đã vượt quá ranh giới của các quy tắc này. Thí dụ, nếu các quy tắc cản tôi khỏi các tỉnh duyên hải, vì sao tôi đã bị hạn chế ở Nam Ninh khi tôi đi đến Quảng Tây đầu năm nay? Lần nữa, nếu các quy tắc cản tôi khỏi các khu đông người ở Bắc Kinh, vì sao đặt những hạn chế về số lần khi tôi đi đến Câu lạc bộ Yang Feng Jia Dao? Câu lạc bộ của các cán bộ cấp cao được xem là một khu đông người? Chắc chắn, điều này là không thể hiểu nổi cho bất kỳ ai.

Tất nhiên, sau khi lá thư được gửi đi, đã không có trả lời nào.

Họ đã luôn luôn rất lo lắng khi xử lý các vấn đề như vậy. Khi Mãng Hiến Trung được cử để công bố sáu quy tắc, tôi yêu cầu để xem tài liệu. Ông đã nói ông có thể đọc to nhưng không thể đưa cho tôi tài liệu. Tôi đã yêu cầu thư ký ghi lại những gì ông ta đang đọc to, điều mà là khó cho ông ta để cấm. Khi tôi mời ông ta xác nhận những gì được ghi lại, ông ta đã từ chối: “Bất cứ thứ ghì ông đã ghi lại là trách nhiệm của ông. Tôi sẽ không đọc nó.”

Đã có một sự sợ hãi về bị bóc trần, về bị rò rỉ ra thế giới bên ngoài. Theo cách này, họ đã có thể từ chối trách nhiệm trong hy vọng ngăn chặn các hậu quả không tiên đoán được. Điều này đã thật sự bất thường.

Họ đã nói rằng tôi có thể tiếp khách ở nhà, chừng nào họ không là các phóng viên và người nước ngoài. Nhưng trong thực tế, không ai đã được phép vào mà không có một sự hẹn gặp. Không để cho tôi biết, họ đã đuổi mọi người ra. Tôi thậm chí không biết ai sắp đến. Tôi đã báo cho họ trước về một số khách thăm tôi đang đợi, nhưng họ vẫn bắt phải được chuẩn y. Khi đến, họ phải chịu kiểm tra chứng minh thư và đăng ký, và tất cả mọi cố gắng được làm để cản các cuộc thăm viếng. Chỗ tôi đã luôn luôn là địa điểm nhạy cảm cao; với việc đưa thêm rất nhiều quy tắc và thủ tục, nó đã trở thành quá phiền phức cho nhiều người. Như một kết quả, lối vào nhà tôi là một chỗ lạnh lẽo, tiêu điều.

Tôi thậm chí tiếp ít khách hơn khi tôi đi ra ngoài Bắc Kinh. Ngoài nhân viên phục vụ và các lãnh đạo chóp bu của tỉnh, không ai được phép biết về sự đến của tôi. Chúng được giữ bí mật.

Thí dụ, một người quen già, Đồng chí Hạ Diệc Nhiên, đã gọi và yêu cầu gặp tôi. Đã không được phép. Một thí dụ khác đã là bạn cũ của tôi Lưu Chính Văn ở An Huy, người đã qua đời từ đó. Khi tôi đến Hợp Phì, ông đã thử đến thăm tôi. Ông đã điện thoại nhưng được bảo tôi đã ở ngoài khu vực. Lần thứ hai ông gọi, ông được bảo rằng tôi đã đi rồi. Họ đã sợ việc tôi gặp người dân.

Một lần tôi đã ở Tứ Xuyên và một số lãnh đạo mức thành phố và mức hạt đã tìm ra và đã muốn đến thăm tôi. Khi vấn đề muộn hơn đã được báo cáo lên Uỷ ban Trung ương, Uỷ ban Trung ương đã chỉ trích các lãnh đạo tỉnh Tứ Xuyên và đã yêu cầu một sự giải thích vì sao bí mật đã không được giữ nghiêm ngặt, dẫn đến nhiều người như thế thử đến thăm Triệu.

Tôi đi ra khỏi thành phố mỗi mùa đông, trừ trong năm 1997 và 1998. Tôi đã viết bảy bức thư cho Giang Trạch Dân và Bộ Chính trị về việc tôi đi Quảng Đông, nhưng đã không nhận được trả lời nào. Tôi đã nhận được một sự trả lời chỉ qua Văn phòng Tổng hợp, bảo tôi rằng tôi không thể đi tới Quảng Đông, nhưng có thể đi đến những vùng khác. Trong tháng Giêng 1993, tôi đã đi Nam Ninh ở Quảng Tây, đi qua Tràng Sa trên đường về; trong năm 1994, tôi đã đi đến Quý Châu, và ở một tuần tại Thành Đô; trong năm 1993, tôi đã ở Hắc Long Giang; trong năm 1994, tôi đã đi đến Trường Xuân và Cáp Nhĩ Tân; trong năm 1995, đến Giang Tây và An Huy; trong năm 1996, đến Vô Tích ở Giang Tô và Trấn Giang; trong năm 1997, đến Hàng Châu và sau đó Tứ Xuyên; từ mùa đông 1997 đến mùa xuân 1998, tôi đã không rời Bắc Kinh; trong năm 1999, đầu tiên tôi đã đi Hàng Châu và sau đó đến Yên Đài. Trong tháng Giêng năm này, tức là, 2000, tôi đã đi đến Quế Lâm và rồi Tứ Xuyên. Tầm di chuyển đã được mở rộng từ từ.

Ngoài việc từ chối yêu cầu hàng năm của tôi để đi Quảng Đông và Hải Nam, những yêu cầu để đi Vô Tích và Tô Châu đã bị từ chối trong 1995, như những yêu cầu đi Quảng Đông, Hải Nam, và Phúc Kiến trong mùa đông 1999 và mùa xuân 2000. Thay vào đó tôi đã đi Quảng Tây và qua Tứ Xuyên trên đường về.

Như một kết quả, tôi đã kết luận rằng họ đã nói “không vùng duyên hải nào được phép” như một cách để che giấu ý định của họ về ngăn cản tôi đi Quảng Đông. Nếu họ đã nhắc tới chỉ Quảng Đông, nó bị chọn ra một cách quá trắng trợn. Nhưng chẳng phải Yên Đài và Hàng Châu cả hai đều ở trong các vùng duyên hải ư? Tôi đã được phép đi đến những chỗ đó, nhưng không phải Quảng Đông. Về vì sao Quảng Đông đã bị loại ra, tôi chẳng có ý tưởng nào.

Vào mùa thu 1995, Đồng chí Trần Vân chết. Tôi đã ở Bắc Kinh lúc đó. Tôi đã rất buồn khi nghe tin. Mặc dù tôi đã không luôn luôn đồng ý với các ý tưởng của ông về cải cách, tuy nhiên tôi đã cảm thấy rằng theo nhiều cách ông đáng sự kính trọng. Tôi đã rất muốn đi đến gia đình Trần để chia buồn và bày tỏ tình cảm của tôi. Tôi đưa ra yêu cầu cho Văn phòng Tổng hợp và họ đã nhanh chóng trả lời, nói rằng không tiện. Cuối cùng tôi đã không được phép đi. Muộn hơn tôi đã biết rằng sau khi tôi đưa ra yêu cầu của mình, Văn phòng Tổng hợp đã liên hệ với gia đình Đồng chí Trần Vân, hy vọng họ bày tỏ mong muốn để ngăn tôi đi. Thay vào đó, gia đình đã bày tỏ sự sẵn sàng tiếp tôi, cho nên Văn phòng Tổng hợp đã không có lựa chọn nào khác ngoài bảo tôi là “bất tiện.” Họ đã luôn luôn từ chối quyền của tôi để đi tới những sự kiện tương tự, thế nhưng đồng thời họ không muốn thế giới bên ngoài biết rằng họ áp đặt những hạn chế như vậy.

Khi Đồng chí Đặng Tiểu Bình qua đời [trong tháng Hai 1997], tôi đang nghỉ ở Hàng Châu. Tôi đã rất buồn khi nghe tin. Tôi đã điện thoại ngay lập tức cho Văn phòng Tổng hợp yêu cầu chuyển một thông điệp cho các lãnh đạo của Uỷ ban Trung ương: thứ nhất, để bày tỏ những lời chia buồn của tôi và thứ hai, yêu cầu việc quay lại Bắc Kinh ngay lập tức để dự lễ tưởng niệm. Uỷ ban Trung ương đã trả lời nhanh chóng rằng sẽ không có một lễ để chia tay với người quá cố, và yêu cầu tôi không về Bắc Kinh.

Trong tháng Năm 1997, trên đường về Bắc Kinh từ Thành Đô, tôi đã nghe Đồng chí Bành Chân đã chết. Ngay khi tôi về đến Bắc Kinh, tôi đã gọi gia đình Bành Chân và nói với họ tôi sẽ đi đến nhà họ để tỏ lòng kính trọng của tôi. Sau đó tôi đã gọi Cục An Ninh để báo cho họ rằng tôi sắp đi đến nhà Bành Chân. Ngay khi Văn phòng Tổng hợp biết điều này, họ đã cử Mãng Hiến Trung đến nhà tôi để can ngăn tôi đừng đi. Mãng đã nói, “gia đình Bành Chân vẫn đã chưa dựng phòng tang,” và ông ta bảo tôi phải “xem xét bức tranh lớn” và “xem xét những hậu quả.”

Tôi đã rất bực với Mãng vì nói với tôi một điều dối trá trơ tráo, và chúng tôi đã cãi nhau. Vì sao tôi lại không được phép tưởng niệm cái chết của một lão Đồng chí? Đã có cái gì để sợ?

Vào ngày 12 tháng Chín, 1997, tôi đã gửi một bức thư đến đại hội Đảng lần thứ 15 và chín người khác qua Cục Dịch vụ Văn phòng Tổng hợp và yêu cầu họ chuyển nó cho Đại hội. Ngoài cho bảy uỷ viên Ban Thường vụ Bộ Chính trị, một đã được gửi cho Dương Thượng Côn, và bức khác cho Vạn Lí, bởi vì họ đã dính líu đến. Các bức thư đã được gửi qua Cục Dịch vụ Văn phòng Tổng hợp. Về sau tôi được biết rằng ít nhất hai trong số chín người đã chẳng bao giờ nhận được thư của tôi: Dương Thượng Côn và Đồng chí Vạn Lí. Về các uỷ viên của Ban Thường Vụ, tôi suy đoán rằng họ đã có thể nhận được. Tôi đã yêu cầu họ chuyển các bản sao cho toàn bộ Đại hội, nhưng việc này đã bị cản.

Bây giờ tôi sẽ kể lại nội dung của lá thư, vì đã có tin đồn trong công chúng về nội dung, một phần của nó đã không chính xác. Lá thư gốc là như sau:

Gửi đoàn Chủ tịch của đại hội Đảng thứ 15 và Tất cả các Đồng chí Đại biểu:

Đại hội Đảng thứ 15 là Đại hội cuối cùng của Đảng ta trong thế kỷ thứ hai mươi. Chỉ trong hơn hai năm nữa, thời gian sẽ đi vào thế kỷ thứ hai mươi mốt. Tại thời khắc quan trọng của việc suy ngẫm về quá khứ và tiến vào tương lai, tôi chân thành chúc Đại hội thành công trọn vẹn. Hãy cho phép tôi đề xuất vấn đề đánh giá lại sự cố mùng Bốn tháng Sáu, mà tôi hy vọng sẽ được thảo luận.

Các sự kiện Bốn tháng Sáu, mà đã làm thế giới bị sốc, bây giờ đã qua tám năm. Nhìn lại, có hai câu hỏi mà phải được trả lời với một thái độ tôn trọng các sự thực.

Thứ nhất, bất chấp những gì cực đoan, sai hay khó chịu đã xảy ra giữa các cuộc biểu tình sinh viên, đã chẳng bao giờ có bằng chứng để trụ đỡ cho sự chỉ rõ về “cuộc nổi loạn phản cách mạng.” Nếu nó đã không là một “cuộc nổi loạn phản cách mạng,” thì phương tiện của một sự đàn áp quân sự chẳng bao giờ nên được dùng để giải quyết nó.

Mặc dù sự đàn áp quân sự đã nhanh chóng dẹp yên tình hình, chúng ta không có lựa chọn thay thế nào trừ thú nhận rằng nhân dân, quân đội, Đảng, và chính phủ, quả thực cả nước chúng ta, đã trả giá đắt cho quyết định và hành động đó. Tác động tiêu cực tiếp tục tồn tại trong mối quan hệ giữa Đảng chúng ta và quần chúng, mối quan hệ giữa hai bờ eo biển Đài Loan, và các mối quan hệ quốc tế của nước chúng ta.

Bởi vì tác động của sự cố, cải cách chính trị được khởi xướng bởi Đại hội Đảng thứ Mười ba đã chết non và ở giữa dòng, để cải cách của hệ thống chính trị tụt lại đằng sau nghiêm trọng. Như một kết quả của tình hình nghiêm trọng này, trong khi cải cách kinh tế của nước chúng ta đã có tiến bộ đáng kể, mọi loại tật xấu xã hội đã nổi lên và đã bộc lộ ra và đang lan ra nhanh chóng. Các mâu thuẫn xã hội đã xấu đi, và tham nhũng bên trong và bên ngoài Đảng đang tăng nhanh và đã trở nên không thể chặn được.

Thứ hai, một phương pháp tốt hơn đã có thể được tìm thấy để đáp lại các cuộc biểu tình sinh viên sao cho sự đổ máu đã có thể được tránh trong khi vẫn làm cho tình hình lắng xuống? Thời đó tôi đã đề xuất “giải quyết vấn đề theo dân chủ và luật” và quả thực đã cố gắng cho một kết cục như vậy. Ngày nay, tôi vẫn tin rằng bằng việc chấp nhận các biện pháp như vậy, tình hình đã có thể chấm dứt một cách hoà bình mà không có sự đổ máu. Chí ít sự đối đầu nghiêm trọng và đẫm máu đã có thể được tránh.

Như mọi người biết, hầu hết các sinh viên đã đòi sự trừng trị tham nhũng và sự thúc đẩy cải cách chính trị, và đã không chủ trương lật đổ Đảng Cộng sản hay sự đánh đổ nền cộng hoà. Tình hình đã có thể dịu đi nếu chúng ta đã không diễn giải các hành động của các sinh viên như là chống-Đảng và chống-xã hội chủ nghĩa, mà đã chấp nhận những đòi hỏi có lý của họ và đã chấp nhận các biện pháp thương lượng kiên nhẫn, đối thoại, và làm giảm căng thẳng.

Nếu thế, không chỉ tất cả những tác động tiêu cực của sự đối đầu đẫm máu đã có thể tránh được, mà một loại mới của sự liên lạc và hình mẫu tương tác đã có thể được thiết lập giữa các đảng chính trị, chính phủ, và nhân dân; và đã có thể có một sự đẩy mạnh cải cách hệ thống chính trị, như thế chúng ta đã có thể không chỉ có tiến bộ đáng kể về cải cách kinh tế, mà mang lại những triển vọng mới cho việc cải cách hệ thống chính trị của nước chúng ta.

Sớm muộn, vấn đề đánh giá lại Bốn tháng Sáu phải được giải quyết. Cho dù bị trì hoãn dài, nhân dân sẽ không quên. Là tốt hơn để giải quyết nó sớm hơn là muộn hơn, một cách chủ động hơn là một cách bị động, và trong thời gian ổn định hơn là hỗn loạn.

Với tình hình quốc gia bây giờ ổn định, sự đồng thuận của nhiều người là một mong muốn cho sự ổn định và không thích sự hỗn loạn. Những xúc cảm dâng cao của quá khứ đã lắng xuống. Nếu Đảng chúng ta có thể tự chịu trách nhiệm để đề xướng một kiến nghị để đánh giá lại sự cố mùng Bốn tháng Sáu trong những điều kiện này, và dẫn đầu trong quá trình, là hoàn toàn có thể không bị tác động của những xúc cảm cực đoan từ các nguồn khác nhau, và để chuyển quá trình giải quyết một vấn đề lịch sử khó khăn theo những con đường đúng đắn của lý trí và sự khoan dung. Các nguyên tắc để giải quyết các vấn đề lịch sử đã có thể được đi theo, như “không bới móc chi tiết” và “tập trung vào những bài học để học hơn là đổ lỗi cá nhân.”

Nếu việc này được làm, không chỉ một tình huống lịch sử khó khăn được giải quyết, sự ổn định tình hình có thể được duy trì trong khi đồng thời tạo ra một môi trường quốc tế tốt hơn cho cải cách và mở cửa của nước chúng ta.

Tôi hy vọng rằng chúng ta có thể xem xét tình hình và đưa ra một quyết định sớm. Những gợi ý trên được đưa ra cho sự xem xét của Đại hội.

Triệu Tử Dương

12 tháng Chín, 1997

Tôi đã không phổ biến lá thư này, tôi cũng đã không đi qua bất cứ ai để đưa nó ra công khai. Tuy vậy, báo chí hải ngoại đã nhanh chóng biết về lá thư này, và tiếng ồn ào đã xảy ra sau đó.

Mãng Hiến Trung đã mau chóng đến gặp tôi. Ông đã chỉ ra rằng các điều kiện toàn quốc đã tuyệt vời lúc đó và yêu cầu tôi không làm xói mòn tình hình tuyệt vời đó và tuân theo kỷ luật Đảng. Ông đã ngụ ý rằng tôi đã không tuân theo kỷ luật này. Tôi đã trả lời ngay lập tức rằng tôi là một đảng viên của Đảng Cộng sản, và rằng Điều lệ Đảng rõ ràng đã cho các Đảng viên quyền để đưa ra những gợi ý cho Đại hội Đảng. Ông ta đã nói rằng đã có rồi một kết luận về Bốn tháng Sáu. Tôi đã nói rằng Đại hội Đảng, là cơ quan có thẩm quyền cao nhất của Đảng, có quyền để quyết định liệu có đánh giá lại Bốn tháng Sáu hay không. Cho dù đã có rồi một nghị quyết, nó vẫn có thể được đánh giá lại. Chắc chắn, nó có thể chọn khẳng định lại quyết định quá khứ của nó, nhưng đấy là bên trong thẩm quyền của Đại hội. Bất kể quyết định nào của Đảng có thể được Đại hội thảo luận.

Ông cũng đã nói rằng tôi không được phổ biến lá thư. Tôi đã trả lời rằng tôi đã gửi nó cho chín người, qua Cục Dịch vụ. Thực ra, tôi đã muốn biết, họ đã chuyển lá thư của tôi cho những ai? Tất nhiên, cuộc đối thoại đã rất khó chịu.

Cùng khoảng thời gian đó, Đồng chí Ung Văn Đào đã mất. Chúng tôi đã là các đồng nhiệp già và đã làm việc cùng nhau ở Quảng Đông. Tôi đã yêu cầu dự lễ tang ông. Trước đó, tôi đã được phép dự những lễ tang cho những người ở mức bộ trưởng, tuy không phải các thành viên của ban lãnh đạo trung ương. Tuy vậy, lần này họ đã bảo tôi rằng bởi vì tôi đã không tuân theo kỷ luật Đảng, tôi đã không được phép đi ra ngoài.

Những gì tiếp theo đã là việc cấm tất cả những người đến thăm tôi. Tính nghiêm khắc đã thậm chí gay gắt hơn trong thời gian cuộc điều tra. Một bà già từ Quảng Đông người một thời đã là một người giúp việc trong nhà tôi, và bây giờ đã khá già, đã đi cả ngàn kilometer để gặp tôi, nhưng đã bị giữ chờ ở bên ngoài nhà tôi nhiều giờ. Ngay cả khi vợ tôi quay về nhà từ việc mua sắm, ví của bà đã bị các bảo vệ lục soát tại cổng. Hiển nhiên những người lính đóng ở đó đã không chịu trách nhiệm về việc này; lệnh đã đến từ mức cao chí ít như Văn phòng Tổng hợp của Uỷ ban Trung ương. Vì thế, tôi đã viết một bức thư cho Văn phòng Tổng hợp như sau:

Các lãnh đạo của Văn phòng Tổng hợp của Uỷ ban Trung ương:

Xin chào!

Gần đây, Cục An Ninh của Văn phòng Tổng hợp đã lệnh cho những người bảo vệ tại nhà tôi để cấm tôi tiếp những người đến thăm, đi ra ngoài, và chơi golf.

Việc dự đám tang của một Đồng chí cũng đã bị cấm. Ngay cả những người họ hàng từ xa đến thăm đã bị chặn lại ở cổng. Tuy vậy, tất cả những thứ này đã được phép ngay cả dưới sáu quy tắc hạn chế quyền tự do của tôi được áp đặt sau đại hội Đảng thứ 14. Điều này có nghĩa rằng sau năm năm rưỡi bị quản thúc tại gia một phần, bây giờ tôi phải chịu sự quản thúc tại gia hoàn toàn. Việc này là sự vi phạm luật nghiêm trọng. Hiển nhiên, Cục An Ninh hay những binh lính đứng gác đã không thể tự họ đưa ra một quyết định như vậy. Lý do thật cho việc này là gì? Có phải các quy tắc ban đầu đã được bỏ và có những quy tắc mới thay vào? Trong mọi trường hợp, tôi đã không được thông báo.

Không có lựa chọn thay thế nào ngoài việc coi loại quản thúc tại gia không được tuyên bố này như sự chà đạp thô bạo hệ thống pháp lý xã hội chủ nghĩa. Với tư cách một Đảng viên, nếu tôi đã vi phạm kỷ luật Đảng (mà thực ra không phải vậy), sự quản trị của Đảng có thẩm quyền tiến hành hành động kỷ luật, kể cả việc đuổi tôi ra khỏi Đảng; nhưng nó không có quyền nào để hạn chế các quyền tự do cá nhân của tôi hay tước đoạt các quyền của tôi với tư cách một công dân. Điều lệ Đảng cấm nghiêm ngặt việc sử dụng các chiến thuật mà vi phạm Điều lệ Đảng hay các luật của nhà nước trong việc xử lý các đảng viên của nó. Những tổ chức hay cá nhân vi phạn các quy tắc này phải bị trừng trị qua hoạt động kỷ luật Đảng và các luật của nhà nước.

Với tư cách một công dân, cho dù tôi đã vi phạm luật (mà tuyệt đối không đúng thế), các hạn chế đối với quyền tự do đi lại của tôi phải theo các thủ tục pháp lý và chỉ các cơ quan thực thi luật của nhà nước có quyền lực để quản lý chúng. Những điều này được nói rõ trong các luật của nhà nước. Tuy Văn phòng Tổng hợp là một tổ chức cực kỳ quan trọng của Uỷ ban Trung ương, nó không phải là một cơ quan thực thi luật của nhà nước và không có quyền nào để thực hiện quyền lực thuộc cơ quan thực thi luật của nhà nước. Trong quá khứ, trong những năm khi chúng ta “đã không thừa nhận cả các luật lẫn các ràng buộc của trời,” những sự cố tương tự như những thứ được mô tả ở trên đã thường xảy ra, mà đã hình thành một tâm tính nào đó và hình mẫu hành vi giữa một số người. Tuy nhiên thời đại đó đã qua từ lâu.

Kể từ Chính sách Cải cách và Mở-Cửa, Đảng và nhà nước chúng ta đã luôn luôn nhấn manh việc thiết lập luật trị (rule of law). Đặc biệt sau đại hội Đảng lần thứ 15 vừa qua, những sự cố như thế này không được phép xảy ra.

Đồng chí Giang Trạch Dân, trong Báo cáo Chính trị đại hội Đảng của ông, đã long trọng hứa với thế giới để hoàn thiện hệ thống pháp lý xã hội chủ nghĩa, kể cả giữ vững nguyên tắc luật trị, đảm bảo rằng mọi vấn đề của nhà nước sẽ được tiến hành phù hợp với luật, tuyên bố rằng tất cả các luật sẽ được tuân thủ, rằng những kẻ vi phạm sẽ bị trừng trị, và rằng không cá nhân hay tổ chức nào có quyền lực đặc biệt bên ngoài các ranh giới của luật; rằng tất cả các tổ chức chính quyền sẽ tiến hành công việc của chúng phù hợp với luật, và rằng các quyền của các công dân sẽ được bảo vệ trong những điều khoản cụ thể. Tôi tin Tổng Bí Thư Giang Trạch Dân đã nghiêm túc về điều này và đã có ý định thực hiện nó và đã không chỉ nói đãi bôi.

Cho phép tôi hỏi, với tư cách một công dân người bị ngăn cản khỏi việc đi ra ngoài và tiếp những khách đến thăm và bị tước đoạt những quyền khác: Việc này có phù hợp với nguyên tắc làm các thứ phù hợp với luật? Có đúng là các vị đã đặt mình vào vị trí có quyền lực đặc biệt bên ngoài các đường ranh giới của luật? Văn phòng Tổng hợp là một tổ chức của Đảng mà ở ngay dưới mũi của ban lãnh đạo trung ương. Làm sao mà các vị đã không kiểm tra hành vi của chính các vị với các nguyên tắc về việc thiết lập luật trị (rule of law) mà đã được công bố tại đại hội Đảng thứ 15?

Tất nhiên, lá thư này đã không mang lại kết quả nào.

Vì tôi đã không nhận được bất cứ trả lời nào, sau một thời gian tôi đã lại viết cho Ban Thường Vụ Bộ Chính trị, tức là, cho mỗi trong bảy uỷ viên Ban Thường Vụ mới được bầu tại đại hội Đảng thứ 15. Trong quá khứ, mỗi khi tôi gửi các lá thư cho Ban Thường Vụ, chỉ một hay hai người đã nhận được chúng. Vì thế, lần này tôi đã gửi cho mỗi người trong số họ một bản, Lá thư đã như sau:

Đồng chí Giang Trạch Dân:

Xin chào!

Vào ngày 12 tháng Chín, tôi đã viết một lá thư cho đại hội Đảng thứ 15, gợi ý một sự đánh giá lại sự cố mùng Bốn tháng Sáu. Tôi tin rằng tất cả các vị đã thấy nó. Kể từ khi tôi gửi bức thư, tôi đã bị cấm tiếp các khách đến thăm hay việc ra ngoài nhà tôi. Các quyền tự do cá nhân của tôi đã bị hạn chế hoàn toàn. Các điều kiện trước kia của sự nửa-quản thúc tại gia của tôi đã biến thành sự quản thúc tại gia hoàn toàn.

Về sự vi phạm luật nghiêm trọng này, tôi đã viết cho Văn phòng Tổng hợp của Uỷ ban Trung ương đòi vấn đề này được giải quyết. Tuy vậy, sự quản thúc tại gia của tôi tiếp tục cho đến ngày này. Vì lý do này, tôi không có lựa chọn nào khác trừ đưa vấn đề này đến sự chú ý của các vị.

Với tư cách một Đảng viên, đưa ra một gợi ý cho Đại hội của Đảng là một việc thực hiện bình thường các quyền của Đảng viên. Điều này được nêu rõ trong Điều lệ Đảng. Bất chấp gợi ý của tôi có đúng hay sai, và bất chấp Đại hội Đảng có thảo luận nó hay không, tôi đã không thể vi phạm Điều lệ Đảng hay các luật của nhà nước. Tuy vậy, sự quản thúc tại gia và sự tước đoạt các quyền tự do cá nhân của tôi với tư cách một công dân gợi ý rằng tôi đang nhận sự đối xử của một tội phạm. Tôi thậm chí không biết tôi đã vi phạm các luật cụ thể nào, tôi cũng chẳng biết cơ quan thực thi pháp luật nào và các thủ tục nào của luật đã được sử dụng để cho phép sự quản thúc tại gia của tôi. Làm sao có thể bắt một cá nhân chịu loại này của sự quản thúc tại gia không được tuyên bố và sự tước đoạt các quyền của người đó với tư cách một công dân lại không tạo thành một sự chà đạp thô bạo hệ thống pháp lý xã hội chủ nghĩa? Trong lịch sử của Đảng chúng ta, ngoài các năm Cách mạng Văn hoá, sự tước đoạt các quyền tự do cá nhân và việc bắt chịu sự quản thúc tại gia vì giữ các quan điểm khác biệt đã là hiếm. Ngay cả vào đỉnh cao của việc Chủ tịch Mao tiến hành đấu tranh giai cấp trong năm 1962, ông cũng đã tức giận vì tuyên bố chỉ trích dài của Tướng Bành [Đức Hoài], ông đã không tước đoạt các quyền tự do cá nhân của Bành và thậm chí đã cử ông làm việc tại trung tâm chỉ huy phát triển. Tuy vậy, sau khi Đảng chúng ta đã học những bài học cay nghiệt về là quá “tả,” và sau khi chúng ta đã nhấn mạnh lặp đi lặp lại về việc thiết lập một nền luật trị xã hội chủ nghĩa mười năm qua, đặc biệt sau khi Tổng Bí Thư Giang Trạch Dân đã long trọng tuyên bố rằng Đảng chúng ta sẽ quản lý quốc gia theo luật và thiết lập luật trị (rule of law), quả thực không thể tưởng tượng được rằng sự vi phạm thô bạo như vậy của hệ thống pháp lý xã hội chủ nghĩa đang xảy ra ngay dưới mũi của Uỷ ban Trung ương.

Từ tháng Sáu 1989, tôi đã phải chịu một cách bất hợp pháp hoặc sự quản thúc tại gia hay sự nửa–quản thúc tại gia. Việc này đã xảy ra trong tám năm rưỡi rồi. Tôi không biết sự tước đoạt các quyền tự do này sẽ tiếp tục bao lâu nữa. Việc này không nghi ngờ gì đã làm tổn hại ghê gớm cho sức khoẻ thể chất và tinh thần của tôi, vì tôi đang gần tám mươi tuổi.

Tuy nhiên, sự thiệt hại nghiêm trọng hơn là cho hình ảnh của Đảng chúng ta và Uỷ ban Trung ương Đảng. Liệu người dân sẽ không so sánh những gì đã xảy ra với tôi với các nguyên tắc được công bố trong đại hội Đảng thứ 15, và bằng cách ấy đi đến kết luận riêng của họ về sự đáng tin của những nguyên tắc mới được công bố này? Hơn nữa, khi các thế hệ muộn hơn đánh giá thời kỳ này của lịch sử Đảng, họ hầu như chắc chắn sẽ không xem sự cố này của sự quản thúc tại gia kéo dài và sự tước đoạt các quyền tự do cá nhân của một Đảng viên vì giữ một quan điểm khác biệt như một thời khắc vẻ vang.

Tôi hy vọng bức thư này của tôi sẽ có được sự chú ý của Tổng Bí Thư và các Đồng chí trong Ban Thường Vụ. Tôi hy vọng hành vi trắng trợn này về sự vi phạm luật và các quy chế dưới chính mũi của Uỷ ban Trung ương sẽ chấm dứt mau chóng. Tôi hy vọng sự quản thúc tại gia của tôi sẽ được dỡ bỏ và các quyền tự do cá nhân của tôi được khôi phục, sao cho tôi sẽ không tiêu tốn những năm còn lại của mình trong những điều kiện cô đơn và thất vọng này.

Kèm theo đây tôi gửi lời chào!

Triệu Tử Dương

Bức thư này được gửi đi, nhưng như trước, đã không có trả lời nào. Muộn hơn, Văn phòng Tổng hợp đã gọi thư ký của tôi để xác nhận rằng họ đã nhận được lá thư. Họ đã nói rằng trước hết, đấy đã không phải là sự quản thúc tại gia (họ đã rất sợ gọi nó là “sự quản thúc tại gia”); và thứ hai, rằng tôi đã tự gây rắc rối cho mình. Có lẽ họ đã ngụ ý rằng tôi phải bị trách vì bức thư gửi cho đại hội Đảng thứ 15 [bị rò rỉ ra] hải ngoại. Đó đã là trả lời duy nhất tôi nhận được cho hai bức thư của tôi. Thực tế đã là tôi tiếp tục bị giam giữ ở nhà.

Một thời gian trôi qua cho đến đúng trước cuộc viếng thăm của Giang Trạch Dân tới Hoa Kỳ, với không dấu hiệu nào về bất kể ý định nào để nới lỏng các điều kiện của tôi. Rồi khá kỳ quặc, một hôm bác sĩ gia đình được phân công cho tôi từ ban sức khoẻ của Trung Nam Hải [vị trí tổng hành dinh của Đảng] đến nhà tôi và đột nhiên đã nhắc rằng là không tốt cho tôi để ở nhà suốt ngày.

Tôi cười và trả lời, “Tôi có lựa chọn nào?”

Ông ta nói, “Vì sao ông không viết một bức thư cho Văn phòng Tổng hợp để nêu vấn đề này, như thế ông có thể đi ra ngoài và chơi golf?”

Tôi nói, “tôi không được phép thậm chí tiếp các khách đến thăm bây giờ, nói chi đến đi ra ngoài để chơi golf.”

Ông ta nói, “Chúng ta sẽ đưa ra một báo cáo.”

Đấy đã là hành vi chưa từng có cho một thành viên của Ban Sức khoẻ của Trung Nam Hải và không hề phù hợp chút nào với các tập quán và các quy tắc. [Các thành viên của Ban Sức khoẻ] đã chẳng bao giờ được phép can thiệp vào những vấn đề loại này, bác sĩ này cũng đã không bao giờ gợi ý việc này trước đây.

Tôi nghĩ rằng có lẽ Giang Trạch Dân hy vọng rằng trong cuộc viếng thăm của ông tới Hoa Kỳ, nếu ai đó có hỏi ông về Triệu, ông đã có thể trả lời rằng Triệu không dưới sự quản thúc tại gia mà gần đây thậm chí đã đi ra ngoài để chơi golf. Với suy nghĩ này trong đầu, tôi đã trả lời ông ta, “Ông không được dính líu vào việc này. Dù sao, tôi không quan tâm gì đến chơi golf những ngày này.”

Tôi đã đối xử lạnh nhạt với ông ta. Vì sao một bác sĩ lại can thiệp vào những việc như vậy? Chỉ bởi lệnh của Văn phòng Tổng hợp. Rồi Đảng bộ của Văn phòng Tổng hợp đã gọi thư ký của tôi nói rằng việc chơi golf bây giờ đã được phép. Tuy tôi đã bị từ chối quyền để dự lễ tang của Ung Văn Đào, việc đi đến các đám tang tương tự trong tương lai bây giờ sẽ được phép. Không sự nhắc nào tới việc tiếp khách đến thăm.

Vì thế đã được làm rõ, rằng đã có một sự nới lỏng các quy tắc. Không khách viếng thăm nào hay cuộc đi xa khác nào đã được phép. Tuy vậy, vì tính quảng bá tốt nào đó, tôi đã được phép đi chơi golf và dự các đám tang. Tôi chẳng biết phải cười hay phải khóc với những chiến thuật như vậy. Tôi đơn giản đã từ chối chơi golf và tuyệt đối từ chối đi ra ngoài; tôi cũng đã không dự đám tang nào.

Như một kết quả, trong năm 1997, tôi đã không đi đâu trong mùa đông. Tôi đã ở toàn bộ mùa đông ở Bắc Kinh. Mặc dù Bắc Kinh đã khô và đầy bụi, và vấn đề hô hấp của tôi đã xấu đi và khiến tôi ho rất nhiều, tôi đã vẫn từ chối rời đi.

Nói về những vấn đề tầm thường này là vô nghĩa. Tuy vậy, điều này minh hoạ loại tâm tính họ đã có. Một mặt, họ đã không đếm xỉa gì đến luật và đã hạn chế một cách phi lý các hoạt động của tôi; mặt khác, họ đã sợ bị bóc trần và sợ báo chí nước ngoài.

Từ tháng Mười 1997 đến tháng Mười Hai 1999, không chỉ sáu quy tắc ban đầu đã không được nới lỏng, mà những hạn chế nghiêm ngặt hơn đã được thêm vào, từ chối các khách viếng thăm tôi và quyền của tôi để rời nhà tôi. Những điều kiện này đã kéo dài hơn hai năm.

Với thời gian trôi đi, đã có một chút nới lỏng. Bà con họ hàng đã được phép đến thăm, như một số Đồng chí có chức thấp hơn, hay các Đồng chí già đã về hưu. Thế nhưng nhiều lãnh đạo cấp cao đã về hưu, thí dụ những người đã giữ các chức mức bộ trưởng hay thứ trưởng, đã vẫn không được phép đến thăm tôi. Tất nhiên, họ đã chẳng bao giờ nói rõ các điều khoản này.

Vào nửa sau của năm ngoái [1999], tôi đã yêu cầu Đồng chí Triệu Kiện Dân [thống đốc của Tỉnh Sơn Đông] đến thăm, nhưng Văn phòng Tổng hợp đã ngay lập tức bảo tôi rằng ông ta không được phép đến. Một lần khác, tôi đã yêu cầu Đồng chí Tiêu Hồng Đạt [giám đốc Văn phòng Tổng hợp của Uỷ ban Quân sự Trung ương] đến thăm, nhưng việc này cũng bị Văn phòng Tổng hợp [của Uỷ Ban Trung ương] từ chối.

Trong tháng Mười Hai 1999, vì cựu thư ký của tôi, Đồng chí Dương Văn Chiêu, đã đến tuổi về hưu, một thư ký mới đã được phân công. Nhằm để công bố sự phân công thư ký mới, hai Đồng chí từ Đảng bộ của Văn phòng Tổng hợp đã được cử đến để nói chuyện với tôi.

Tôi đã tận dụng cơ hội để nêu hai vấn đề: thứ nhất đã là một yêu cầu để rời Bắc Kinh trong mùa đông, hy vọng đến Quảng Đông hay Hải Nam; thứ hai, tôi đã đòi chấm dứt mười năm quản thúc tại gia, đặc biệt các điều kiện quản thúc tại gia hoàn toàn bị áp đặt sau đại hội Đảng thứ 15.

Sau một thời gian, họ đã chuyển cho tôi qua thư ký rằng tôi không được đi đến Phúc Kiến, Quảng Đông, hay Hải Nam, nhưng các nơi khác đã được phép, như thế lập trường của họ đã được nới lỏng một chút. Những khách đến thăm nói chung đã được phép, như trước kia. Một số người được phép, một số người không được.

Tôi ngay lập tức yêu cầu Đồng chí Triệu Kiện Dân đến. Cuộc viếng thăm của ông đã được chấp thuận, và ông đã đến và thăm một lúc. Muộn hơn, các Đồng chí Tiêu Hồng Đạt, Đỗ Đạo Chánh [giám đốc Tổng cục Quản lý Báo chí và Xuất bản], và Diêu Tích Hoa [tổng biên tập của Quang minh Nhật báo] cũng đã đến thăm. Nhìn chung, đã có vẻ rằng hoàn cảnh đã quay lại các điều kiện của sáu quy tắc ban đầu.