Danh ngôn
Trong mọi cộng đồng, chúng ta cần một nhóm thiên thần gây rối.
We need, in every community, a group of angelic troublemakers.
(Bayard Rustin – trích bài phát biểu tại New York City 1963)
Trong mọi trường hợp, chắc chắn rằng sự thiếu hiểu biết, đi kèm với quyền lực, là kẻ thù tàn bạo nhất có thể có của công lý.
It is certain, in any case, that ignorance, allied with power, is the most ferocious enemy justice can have.
(James Baldwin - No Name in the Street 1972)
Các cuộc cách mạng và các cá nhân có thể bị giết hại, nhưng bạn không thể giết chết các ý tưởng.
While revolutionaries and individuals can be murdered, you cannot kill ideas.
(Thomas Sankara, một tuần trước khi bị ám sát, 1987)
Không có cảm giác nào cô đơn hơn việc bị chính đất nước mình trục xuất.
There's not a more lonely feeling than to be banished by my own country.
(Kiyo Sato – Kiyo’s Story 2009)
Ban Biên tập
Địa chỉ liên lạc:
1. Thơ
tho.vanviet.vd@gmail.com
2. Văn
vanviet.van14@gmail.com
3. Nghiên cứu Phê Bình
vanviet.ncpb@gmail.com
4. Vấn đề hôm nay
vanviet.vdhn1@gmail.com
5. Thư bạn đọc
vanviet.tbd14@gmail.com
6. Tư liệu
vanviet.tulieu@gmail.com
7. Văn học Miền Nam 54-75
vanhocmiennam5475@gmail.com
Tra cứu theo tên tác giả
- A. A. Fadeev
- A. Puskin
- A. T.
- Abdulrazak Gurnah
- Abraham F. Lowenthal
- Ace Le
- Ace Lê
- Adam Gopnik
- Adonis
- Adrian Horton
- Agi Mishol
- Ajar
- Akiko Miki
- Alain Guillemin
- Alan Phan
- Alăng Văn Gáo
- Alăng Văn Giáo
- Aldous Huxley
- Aleksandr Griboedov
- Alesandr Blok
- Alex Marshall
- Alex Smith
- Alex Thai
- Alex-Thái Đình Võ
- Alexander Fadeev
- Alexander Solzhenitsyn
- Alexandra Alter
- Alexandre FERON
- Alice Munro
- Alina Lesik
- Alison Flood
- Allen Ginsberg
- Amanda Gorman
- Amartya Sen
- Amelia Glaser
- Amos Oz
- An Nam
- Anatole France
- Anatoly Gavrilov
- Anders Olsson
- André Breton
- André Menras
- André Menras – Hồ Cương Quyết
- André Menras Hồ Cương Quyết
- Andrea Hoa Pham
- Andrea Kendall-Taylor
- Andreas Fulda
- Andreas Wimmer
- Andrew Postman
- Andy Cao
- Anh Anh
- Anh Hồng
- Anh Hồng (nhà thơ)
- Ánh Liên
- Anh Nhi
- Anh Văn
- Anika Zeller
- Anna Akhmatova
- Anna Maria Bracale Ceruti
- Anna Mitchell
- Anne Carson
- Anne Hébert
- Anne Henochowicz
- Annie Ernaux
- António Jacinto
- Antôn Nguyễn Trường Thăng
- Archimedes L.A. Patti
- Arlette Quỳnh Anh Trần
- Arnold Schwarzenegger
- Arthur Koestler
- Arty Abel
- Arvind Subramanian
- Augustina
- Aurélie Coulon
- Aurelien Breeden
- Ba Sàm
- Bá Thụ Đàm
- Bạch Cúc
- Bạch Hoàn
- Bách Mỵ
- Bách Thân
- Bạch X. Phẻ
- Bạch Xuân Phẻ
- Bakhtin
- Ban Mai
- Bàn Văn Thòn
- Ban Vận động Văn đoàn Độc lập Việt Nam
- Bảo Huân
- Bảo La
- Bảo Nhi Lê
- Bảo Ninh
- Bảo Phác
- Bão Vũ
- Barbara Demick
- Bashô
- Batrioldman
- Bauxite Việt Nam
- Bắc Đảo
- Bắc Phong
- Bằng Việt
- BB Ngô
- Bei Dao
- Benjamin Péret
- Benjamin Ramm
- Bertolt Brecht
- Bertrand Russell
- Bettina Rheims
- Bích Ngân
- Biếm họa
- Biên Cương
- Biệt Hiệu
- Bilahari Kausikan
- Billy Collins
- Bình Nguyên Lộc
- Brahma Chellaney
- Branko Milanovic
- Brett Reilly
- Brian Pascus
- Brian Wu
- Brice Pedroletti
- Brodsky
- Bryan
- Bùi An
- Bùi Bảo Trúc
- Bùi Bích Hà
- Bùi Chát
- Bùi Chí Trung
- Bùi Chí Vinh
- Bùi Công Thuấn
- Bùi Công Trực
- Bùi Đức Lại
- Bùi Giáng
- Bùi Hải Quảng
- Bùi Hoàng Tám
- Bùi Hoằng Vị
- Bùi Huệ Chi
- Bui Huy Hoi Bui
- Bùi Mai Hạnh
- Bùi Mạnh Hùng
- Bùi Mẫn Hân
- Bùi Minh Quốc
- Bùi Ngọc Tấn
- Bùi Quang Thắng
- Bùi Suối Hoa
- Bùi Thanh Hiếu
- Bùi Thanh Phương
- Bùi Thanh Tuấn
- Bùi Thụy Băng
- Bùi Tiến An
- Bùi Trân Phượng
- Bùi Trọng Hiền
- Bùi Văn Kha
- Bùi Văn Nam Sơn
- Bùi Việt Sỹ
- Bùi Vĩnh Phúc
- Bùi Xuân Bách
- Bùi Xuân Đính
- Bùi-Viết Văn Đức
- Bulgakov
- Bửu Chỉ
- C.D.
- Cái Lư Hương
- Cái Trọng Ty
- Cam Ly
- Cảnh Chánh
- Cao Bảo Vân
- Cao Bình Minh
- Cao Chi
- Cao Gia An
- Cao Hành Kiện
- Cao Huy Thuần
- Cao Kim Ánh
- Cao La
- Cao Quang Nghiệp
- Cao Tần
- Cao Thị Hồng
- Cao Thu Cúc
- Cao Việt Dũng
- Cao Xuân Hạo
- Cao Xuân Huy
- Carl Bildt
- Carl O. Schuster
- Carlos Assunção
- Carolyn Mary Kleefeld
- Cát Linh
- Cẩm Tú
- Cấn Thị Thêu
- Chan Phuong
- Chanh Tam
- Charles Bo
- Charles Bukowski
- Charles Simic
- Chau Doan
- Chân Minh
- Chân Pháp Xa
- Chân Phương
- Chân Xuân Tản Viên
- Châu Diên
- Châu Hải Đường
- Châu Hồng Thủy
- Châu Hữu Quang
- Chenn
- Chế Diễm Trâm
- Chế Lan Viên
- Chi Mai
- Chi Phương
- Chiêu Dương
- Chiêu Khiêm
- Chiharu Shiota
- Chim Hải
- Chim Trắng
- Chinh Ba
- Chính Tâm
- Chính Vĩ
- Chinua Achebe
- Chơn Không Cao Ngọc Phượng
- Christian Gampert
- Christian Welzel
- Christina Mary Hjortlund
- Christoph Giesen
- Christoph Sator
- Christopher Balding
- Christopher Goscha
- Christy Wampole
- Chu Dương
- Chu Hảo
- Chu Hoạch
- Chu Kim
- Chu Mộng Long
- Chu Quang Tiềm
- Chu Tử
- Chu Văn Lễ
- Chu Văn Sơn
- Chu Vĩnh Hải
- Chu Vương Miện
- Chu Xuân Diên
- Chung Le
- Claire Simon
- Clay Phạm
- Concepcion de Leon
- Connie Hoàng
- Cora Engelbrecht
- Costica Bradatan
- Cổ Ngư
- Cù An Hưng
- Cù Huy Hà Vũ
- Cù Mai Công
- Cù Tuấn
- Cung Minh Huân
- Cung Tích Biền
- Cung Trầm Tưởng
- D. S. Likhachev
- Da Màu
- Dạ Ngân
- Dạ Thảo Phương
- Dã Tượng
- DAD
- Dadolin Murak
- Damien Keown
- Dan Bilefsky
- Dan Slater
- Dana Gioia
- Danh ngôn
- Dani Rodrik
- Daniel Halpern
- Daniel Hautzinger
- Daron Accemoglu
- David Brown
- David Gascoyne
- David Marchese
- David Weinberger
- Ðặng Thơ Thơ
- Demetrio Paparoni
- DEUTSCHE WELLE
- Di
- Di Li
- Diêm Liên Khoa
- Diễm Thi
- Diễm Tường
- Diễn đàn Thế kỷ
- Diệp Duy Liêm
- Diệp Huy
- Ðinh Cường
- Dino Buzatti
- Dipanjan Roy Chaudhury
- Dmitri Prokofyev
- Dmitry Burago
- Dmitry Muratov
- Doãn Cẩm Liên
- Doãn Mạnh Dũng
- Doãn Mẫn
- Doãn Quốc Sỹ
- Dominique Lemieux
- Donald Inglehart
- Donna Ashworth
- Ðỗ Quang Nghĩa
- Ðỗ Quyên
- Du Tử Lê
- Dung Nguyễn
- Dũng Phan
- Dũng Trung Kqd
- Dũng Vũ
- Duy Lam
- Duy Tân
- Duy Thanh
- Duy Thông
- Duyên Anh
- Dư Hoa
- Dư Kiệt
- Dư Thị Hoàn
- Dư Thu Vũ
- Dương Đại Triều Lâm
- Dương Đình Giao
- Dương Khánh Phương
- Dương Kiền
- Dương Ngạn
- Dương Nghiễm Mậu
- Dương Ngọc Thái
- Dương Như Nguyện
- Dương Phương Vinh
- Dương Thắng
- Dương Thiệu Tước
- Dương Thu Hương
- Dương Thuấn
- Dương Tú
- Dương Tường
- Dương Văn Ba
- Dylan Suher
- Đà Văn
- Đàm Hà Phú
- Đàm Hách Thành
- Đào An Khánh
- Đào Anh Kha
- Đào Công Tiến
- Đào Duy Anh
- Đào Hiếu
- Đào Lê Na
- Đào Ngọc Chương
- Đào Nguyên
- Đào Nguyễn
- Đào Nguyên Phương Thảo
- Đào Như
- Đào Phương Liên
- Đào Quang Toản
- Đào Tấn Phần
- Đào Thái Tôn
- Đào Thị Hương
- Đào Tiến Thi
- Đào Trung Đạo
- Đào Trường Phúc
- Đào Tuấn
- Đào Tuấn Ảnh
- Đào Văn Thuỵ
- Đào Văn Tiến
- Đào Vũ Anh Hùng
- Đặng Anh Đào
- Đặng Bích Phượng
- Đặng Chương Ngạn
- Đặng Đình Cung
- Đặng Đình Mạnh
- Đặng Hà
- Đặng Hải Sơn
- Đặng Hoàng Giang
- Đặng Hồng Nam
- Đặng Hùng Võ
- Đặng Hương Giang
- Đặng Hữu
- Đặng Mai Lan
- Đặng Mậu Tựu
- Đăng Nguyên
- Đặng Phùng Quân
- Đặng Quốc Thông
- Đặng Sơn Duân
- Đặng Thái
- Đăng Thành
- Đặng Thân
- Đặng Thị Hảo
- Đặng Thơ Thơ
- Đặng Tiến
- Đặng Tiến (Thái Nguyên)
- Đặng Trung Nghĩa
- Đặng Túy
- Đặng Văn Dũng
- Đặng Văn Hùng
- Đặng Văn Ngữ
- Đặng Văn Sinh
- Đặng Vũ Vương
- Đặng Xuân Thảo
- Đặng Xuân Xuyến
- Đằng-Giao
- Điểm Thọ
- Đinh Bá Anh
- Đinh Cường
- Đinh Hoàng Thắng
- Đinh Hùng
- Đình Kính
- Đinh Linh
- Đinh Ngọc Thu
- Đinh Phương
- Đinh Phương Thảo
- Đinh Quang Anh Thái
- Đinh Thanh Huyền
- Đinh Thị Như Thúy
- Đinh Trường Chinh
- Đinh Từ Bích Thuý
- Đinh Từ Bích Thúy
- Đinh Văn Đức
- Đinh Vũ Hoàng Nguyên
- Đinh Ý Nhi
- Đinh Yên Thảo
- Đoàn Ánh Thuận
- Đoàn Bảo Châu
- Đoàn Cầm Thi
- Đoàn Công Lê Huy
- Đoàn Hồng Lê
- Đoàn Huy Giao
- Đoàn Huyền
- Đoàn Khắc Xuyên
- Đoàn Lê Giang
- Đoàn Nhã Văn
- Đoàn Thanh Liêm
- Đoan Trang
- Đoàn Tùng Nguyễn
- Đoàn Tử Huyến
- Đoàn Việt Hùng
- Đoàn Xuân Kiên
- Đỗ Anh Hoa
- Đỗ Anh Tuấn
- Đỗ Cao Bảo
- Đỗ Duy Ngọc
- Đỗ Đức
- Đỗ Đức Đông Ngàn
- Đỗ Đức Hiểu
- Đỗ Hòa
- Đỗ Hoàng Diệu
- Đỗ Hồng Ngọc
- Đỗ Hồng Nhung
- Đỗ Hữu Chí
- Đỗ Kh
- Đỗ Kh.
- Đỗ Khiêm
- Đỗ Kim Thêm
- Đỗ Lai Thuý
- Đỗ Lai Thúy
- Đỗ Lê Anh Đào
- Đỗ Mạnh Hoàng
- Đỗ Minh Tuấn
- Đỗ Nghê
- Đỗ Ngọc
- Đỗ Ngọc Thống
- Đỗ Quang Nghĩa
- Đỗ Quang Vinh
- Đỗ Quý Toàn
- Đỗ Quyên
- Đỗ Quỳnh Dao
- Đỗ Thắng Cảnh
- Đỗ Thị Thu Trà
- Đỗ Thiên Anh Tuấn
- Đỗ Trí Vương
- Đỗ Trọng Khơi
- Đỗ Trung Quân
- Đỗ Trường
- Đỗ Tuyết Khanh
- Đồng Chuông Tử
- Đông Hoài
- Đông Hồ
- Đông Kha
- Đông Ngàn Đỗ Đức
- Đông Nghi
- Đức Ban
- Đức Đàm
- Đức Flying Bay
- Đức Hoàng
- Đức Lê
- Đức Phổ
- Đức Tâm
- Đức Tiến
- E.E. Cummings
- E.M. Chernoivanenko
- Eamonn Butler
- Eckart Kleßmann
- Eduardo Galeano
- Edward Hirsch
- Elena Pucillo Truong
- Elias Canetti
- Ellen Bass
- Eloisa Amezcua
- Emiel Roothooft
- Emmanuelle Jardonnet
- Eric Weiner
- Erica Frantz
- Erik Harms
- Erik Korling
- Euan Ward
- Evgheni Dobrenko
- F.N.
- Federico García Lorca
- Feliks Kuznesov
- Filip Lech
- Flanny O’Connor
- Florence Noiville
- Florian Altenhöner
- Francis Fukuyama
- Francis Fukuyma
- Frank Dikötter
- Frank O'Hara
- Frankfurt
- Fred Hiatt
- Friedrich Dürrenmatt
- Friedrich Nietzsche
- Fritz J. Raddatz
- Gabriel García Márquez
- Gaither Stewart
- Gaiutra Bahadur
- Gary Leupp
- Gặp gỡ và trò chuyện
- Georg Bönisch
- Georg Trakl
- George Burchett
- George Orwell
- George Perreault
- George Siemens
- Gerhard Will
- Germain Droogenbroodt
- Giang Dang
- Giang Lại Đức
- Giang Nam
- Giáng Vân
- Giáp Văn Dương
- Gideon Rachman
- Giuse Lê Công Đức
- Goethe
- Gonçalo Fernandes
- Gottfried Benn
- Graham Allison
- Grigory Yudin
- Günter Kunert
- Gyảng Anh Iên
- Hà Duy Phương
- Hà Dương Tuấn
- Hà Dương Tường
- Hà Đình Nguyên
- Hạ Đình Nguyên
- Hà Huy Sơn
- Hà Hương
- Hà Lệ Minh
- Hà Ngọc Hòa
- Hạ Nguyên
- Hà Nguyên Du
- Hà Nhân
- Hà Nhật
- Hà Phạm Phú
- Hà Quang Vinh
- Hà Sĩ Phu
- Hà Thanh Vân
- Hà Thế
- Hà Thị Minh Đạo
- Hà Thúc Sinh
- Hà Thủy Nguyên
- Hà Tùng Long
- Hà Tùng Sơn
- Hà Văn Thịnh
- Hà Văn Thùy
- Hà Vũ Trọng
- Hagi Kenaan
- Hai An Vu
- Hải Hạc
- Hải Ngọc
- Hai Thanh
- Han Dang
- Hàn Giang
- Han Kang
- Hàn Vĩnh Diệp
- Hạnh Nguyên
- Hạnh Phước
- Hạnh Viên
- Hannah Beech
- Hào Thiện Nhân
- Haruki Murakami
- Hân Hương
- Heiko Buschke
- Heinrich Heine
- Henri Michaux
- Henry David Thoreau
- Henry Wadsworth Longfellow
- Heriberto Araújo
- Hermann Hesse
- Hiền Trang
- Hiệp Ikaria
- Hiệu Minh
- Hiếu Tân
- Ho Lai-Ming
- Hòa Bình Lê
- Hoa Níp
- Hoài Hương
- Hoài Nam
- Hoài Phương
- Hoài Thanh
- Hoài Việt
- Hoài Ziang Duy
- Hoan Doan
- Hoàn Nguyễn
- Hoàng Ánh
- Hoàng Anh Tuấn
- Hoàng Cát
- Hoàng Cầm
- Hoàng Chí Hiếu
- Hoàng Chính
- Hoàng Cường Long
- Hoàng Dũng
- Hoàng Dương Tuấn
- Hoàng Đăng Khoa
- Hoàng Đỗ
- Hoàng Đông
- Hoàng Đức Truật
- Hoàng Hà
- Hoàng Hải Thủy
- Hoàng Hải Vân
- Hoảng Hãn
- Hoàng Hưng
- Hoàng Khởi Phong
- Hoàng Kim Oanh
- Hoàng Lại Giang
- Hoàng Lan
- Hoàng Lan Anh
- Hoàng Lan Chi
- Hoàng Lê
- Hoàng Lệ
- Hoàng Linh
- Hoàng Long
- Hoàng Mai Ðạt
- Hoàng Mạnh Hải
- Hoàng Minh Trí
- Hoàng Minh Tường
- Hoàng Nam
- Hoàng Nga
- Hoàng Ngọc Biên
- Hoàng Ngọc Hiến
- Hoàng Ngọc Nguyên
- Hoàng Ngọc Tuấn
- Hoàng Nguyễn
- Hoàng Nguyên Vũ
- Hoàng Nhơn
- Hoàng Nhuận Cầm
- Hoàng Phong Tuấn
- Hoàng Phủ Ngọc Tường
- Hoàng Quân
- Hoàng Quốc Hải
- Hoàng Thị Hường
- Hoàng Thị Thu Thủy
- Hoàng Thu Phố
- Hoàng Thúy
- Hoàng Thuỵ Anh
- Hoàng Tiến
- Hoàng Trung Thông
- Hoàng Tuấn Công
- Hoàng Tuấn Phổ
- Hoàng Tùng
- Hoàng Tuỵ
- Hoàng Văn Sơn
- Hoàng Việt
- Hoàng Vũ Thuật
- Hoàng Xuân Phú
- Hoàng Xuân Sơn
- Hoàng Xuân Tuyền
- Hoàng Yến
- Horst Bienek
- Howard Gardner
- Hồ Anh Thái
- Hồ Bạch Thảo
- Hồ Bất Khuất
- Hồ Diệu Vân
- Hồ Dzếnh
- Hồ Đắc Vũ
- Hồ Đình Nghiêm
- Hồ Hải Thụy
- Hồ Hữu Tường
- Hồ Minh Tâm
- Hồ Ngọc Đại
- Hồ Như
- Hồ Phú Bông
- Hồ Tịnh Tình
- Hồ Trường An
- Hồ Tú Bảo
- Hội những người ủng hộ GS. Chu Hảo
- Hồng Anh
- Hồng Hoang
- Hồng Lê Thọ
- Hồng Phú
- Huệ Hương Hoàng
- Huguette Bertrand
- Huong Nguyen
- Huy Cận
- Huy Đức
- Huy Tưởng
- Huyền Thương
- Huỳnh Duy Lộc
- Huỳnh Hoa
- Huỳnh Hữu Uỷ
- Huỳnh Hữu Ủy
- Huỳnh Kim Báu
- Huỳnh Kim Quang
- Huỳnh Lê Nhật Tấn
- Huỳnh Liễu Ngạn
- Huỳnh Ngọc Chênh
- Huỳnh Như Phương
- Huỳnh Sơn Phước
- Huỳnh Tấn Mẫm
- Huỳnh Thế Du
- Huỳnh Thục Vy
- Huỳnh Trọng Khang
- Huỳnh Tuấn Anh
- Hứa Chương Nhuận
- Hương Lan
- Hường Thanh
- Hương Thủy
- Hữu Danh
- Hữu Đông
- Hữu Loan
- Hữu Mai
- Hữu Phương
- Ian Bui
- Ian Johnson
- Igor Poglazov
- Ilza Burchett
- Inrasara
- Iris Radisch
- Isabella Kwai
- Issa
- Issac Bashevis Singer
- Italo Calvino
- Iya Kiva
- J. M. Lotman
- J.B Nguyễn Hữu Vinh
- Jacques Attali
- Jacques Prévert
- Jake Johnson
- James Borton
- James Daniel Spears
- James G. Zumwalt
- James Grossman
- James Joyce
- James Poniewozik
- James Stavridis
- James WrightJuan Felipe Herrera
- Janos Kornai
- Jared Carters
- Jason Lopata
- Jason Morris-Jung
- Jay Nordlinger
- Jaya K.
- Jean Chesnaux
- Jean d'Ormesson
- Jean Piaget
- Jean Przyluski
- Jean Toomer
- Jean-Jacques Brochier
- Jean-Jacques Roth
- Jean-Louis Rocca
- Jean-Luc Chalumeau
- Jean-Marc Roberts
- Jean-Patrick Géraud
- Jean-Paul Sartre
- Jefferson Cowie
- Jeffrey Hanfover
- Jeffrey Nall
- Jessica Swoboda
- Jessie Yeung
- Jiayang Fan
- Jimmy Carter
- Joan Hua
- João Guimarães Rosa
- Joaquin Nguyễn Hòa
- John Barrow
- John Cheever
- John Freeman
- John Keane
- John McCain
- Jon Fosse
- Jonathan Dee
- Jonathan London
- Jörg Wischermann
- Jorge Amado
- Jorge Luis Borges
- Joschka Fischer
- Josée Lapointe
- Joseph Wong
- Joseph Wright
- Josh Rogin
- Joshua Rothman
- Juan Pablo Cardenal
- Juan Pablo Cardenal & Heriberto Araújo
- Julia Cagé
- Julio Cortázar
- Jun’ichiro Tanizaki
- Kahil Gibral
- Kai Hoàng
- Kale
- Kalynh Ngô
- Kamel Daoud
- Kao Phú
- Kap Seol
- Karel Appel
- Karen Tongson
- Kate Chopin
- Kazuo Shiraga
- Kenneth Nguyen
- Keorapetse Kgositsile
- Kerstin Holm
- Kều Jang
- Kha Lương Ngãi
- Khái Hưng
- Khaly Chàm
- Khang Quốc Ngọc
- Khánh
- Khánh Bình
- Khánh Duy
- Khánh Ly
- Khánh Mai
- Khanh Nguyen
- Khanh Pham
- Khánh Phương
- Khánh Trâm
- Khánh Trường
- Khét
- Khế Iêm
- Khiêm Nhu
- Khổng Đức Thiêm
- Khuất Đẩu
- Khuê Phạm
- Khuyết Thư
- Kiệm Hoàng
- Kiến Văn
- Kiệt Anh Hùng
- Kiệt Tấn
- Kiều Duy Vĩnh
- Kiều Loan
- Kiều Mai Sơn
- Kiều Maily
- Kiều Phong
- Kiều Thị An Giang
- Kim Ân
- Kim Chi
- Kim Dung
- Kim Hạnh
- Kim Thúy
- Kim Trần
- Kinh Bắc
- Kính Hòa
- Klaus Wiegerefe
- Kúm
- Kurt-Martin Mayer
- Kỳ Duyên
- Kyoko Numano
- L. N. Tolstoy
- L. V. H.
- La Khắc Hoà
- La Khắc Hòa
- Lã Nguyên
- Lại Nguyên Ân
- Lam Điền
- Lam Ngọc
- Lam Thái Hòa
- Lan Nguyên
- Lang Anh
- Langston Hughes
- LAP
- Larry Diamond
- Lars Vargö
- Laura Cappelle
- Laurent Sagalovitsch
- Lawrence Ferlinghetti
- Lâm Chương
- Lâm Duyên
- Lâm Hạnh
- Lâm Lê
- Lâm Ngân Mai
- Lâm Quang Mỹ
- Lâm Thị Mỹ Dạ
- Leon Trotsky
- Leonard Cohen
- Lê An Thế
- Lê Anh Hoài
- Lê Anh Hùng
- Lê Ân
- Lê Bá Đảng
- Lê Bích Vượng
- Lê Chiều Giang
- Lê Công Định
- Lê Công Giàu
- Lê Công Tư
- Lê Ðình Nhất Lang
- Lê Dũng
- Lê Duy Nam
- Lê Đạt
- Lê Đăng Doanh
- Lê Đình Cai
- Lê Đình Khẩn
- Lê Đình Thắng
- Lê Đỗ Huy
- Lê Đức Dục
- Lê Đức Thôn
- Lê Giang Trần
- Lê Hải
- Lệ Hằng
- Lê Hiệp
- Lê Hoài Nguyên
- Lê Hoàng Diễm Trang
- Lê Hoàng Lân
- Lê Học Lãnh Vân
- Lê Hồ Quang
- Lê Hồng Hà
- Lê Hồng Hiệp
- Lê Hồng Lâm
- Lê Hùng
- Lê Hùng Vọng
- Lê Huyền Ái Mỹ
- Lê Huỳnh Lâm
- Lê Hữu
- Lê Hữu Khoá
- Lê Hữu Khóa
- Lê Hữu Nam
- Lê Kế Lâm
- Lê Khải
- Lê Kim Duy
- Lê Ký Thương
- Lê Lạc Giao
- Lê Luân
- Lê Mã Lương
- Lê Mai
- Lê Mai Lĩnh
- Lê Mạnh Chiến
- Lê Mạnh Đức
- Lê Minh Chánh
- Lê Minh Hà
- Lê Minh Hiền
- Lê Minh Khuê
- Lê Minh Phong
- Lê Ngân Hằng
- Lê Ngọc Luân
- Lê Ngọc Sơn
- Lê Nguyễn
- Lê Nguyễn Duy Hậu
- Lê Nguyễn Hương Trà
- Lê Nguyên Long
- Lê Nguyên Vỹ
- Lê Như Bình
- Lê Oa Đằng
- Lê Phan
- Lê Phú Khải
- Lê Quang
- Lê Quang Đức
- Lê Quảng Hà
- Lê Quang Hợp
- Lê Quang Thành
- Lê Quân
- Lê Quốc Anh
- Lê Quỳnh
- Lê Quỳnh Mai
- Lê Sa Long
- Lê Si Na
- Lê Sơn
- Lê Tất Đạt
- Lê Tất Điều
- Lê Thanh Dũng
- Lê Thanh Hải
- Lê Thanh Phong
- Lê Thanh Trường
- Lê Thân
- lê thi diem thuý
- Lê Thị Hồng Minh
- Lê Thị Huệ
- Lê Thị Hường
- Lê Thị Oanh
- Lê Thị Thấm Vân
- Lê Thiết Cương
- Lê Thiếu Nhơn
- Lê Thọ Bình
- Lê Thời Tân
- Lê Thời Thôi
- Lê Thu Hiền
- Lê Thúy Bảo Liên
- Lê Tiên Long
- Lê Trí Tuệ
- Lê Trinh
- Lê Trọng Nghĩa
- Lê Trọng Nguyễn
- Lê Trung Tĩnh
- Lê Trường Thanh
- Lê Tuấn Huy
- Lê Tuyết Hạnh
- Lê Văn Bỉnh
- Lê Văn Hảo
- Lê Văn Hiếu
- Lê Văn Hòa
- Lê Văn Luân
- Lê Văn Sơn
- Lê Văn Trung
- Lê Văn Tùng
- Lê Vĩnh Tài
- Lê Vĩnh Triển
- Lê Vũ Trường Giang
- Lê Xuân Khoa
- Lê Xuyên
- Li Edelkoort
- Li Zhongqin
- Liêu Diệc Vũ
- Liêu Thái
- Liễu Trương
- Linh Nguyên
- Linh Văn
- Linh Vân
- Linh-Chân Brown
- LKH
- Lorca
- Louis Aragon
- Louise Glück
- Lộc Vàng
- Luân Hoán
- Ludwig von Mises
- Luke Hunt
- Luke Turner
- Lữ Kiều
- Lữ Quỳnh
- Lương Đào
- Lương Thiệu Quân
- Lương Thư Trung
- Lưu Á Châu
- Lưu Bình Nhưỡng
- Lưu Diệu Vân
- Lưu Đức Trung
- Lưu Hà
- Lưu Hiểu Ba
- Lưu Khánh Thơ
- Lưu Mê Lan
- Lưu Minh Hải
- Lưu Na
- Lưu Nhi Dũ
- Lưu Quang Vũ
- Lưu Thuỷ Hương
- Lưu Thủy Hương
- Lưu Trọng Văn
- Lưu Uyên Khôi
- Lý Đợi
- Ly Hoàng Ly
- Lý Ngang
- Ly Phạm
- Lý Quang Hoàn
- Lý Thanh
- Lý Tiến Dũng
- Lý Toàn Thắng
- Lý Trực Dũng
- Lý Xuân Hải
- Lydia Davis
- Lynh Bacardi
- LysP
- M. Gorky
- M.L. Gasparov
- Mạc Phong Tuyền
- Mạc Văn Trang
- Mạc Việt Hồng
- Mạch Nha
- Mạch Quang Thắng
- Madeleine Riffaud
- Mai An Nguyễn Anh Tuấn
- Mai Anh Tuấn
- Mai Bá Ấn
- Mai Bá Kiếm
- Mai Chanh
- Mai Hiền
- Mai Khôi
- Mai Kim Ngọc
- Mai Nhật
- Mai Ninh
- Mai Quốc Ấn
- Mai Quỳnh
- Mai Quỳnh Nam
- Mai Sơn
- Mai Thái Lĩnh
- Mai Thanh Sơn
- Mai Thảo
- Mai Tú Ân
- Mai Văn Hoan
- Mai Văn Phấn
- Mai Văn Tính
- Maki Starfield
- Mamleev
- Mạnh Kim
- Marc Andrus
- Marcel Reich-Ranicki
- Marci Shore
- Marco Ferrarese
- Margarita Lyutova
- Maria Donovan
- Maria Ressa
- Mario Vargas Llosa
- Marion Hennebert
- Mark B. Hamilton
- Mark Binelli
- Mark Frankland
- Mark Osaki
- Mark Strand
- Marta Hillers
- Martin Jankowski
- Martin Kulldorff
- Marty Robbins
- Mary Morose
- Mary Walsh
- Mathias Mayer
- Matthew Clayfield
- Matthew Crawford
- Maurice Blanchot
- Maximilian Steinbeis
- May
- Maya Angelou
- Mặc Đỗ
- Mặc Lâm
- Mân Côi
- McAmmond Nguyễn Thị Tư
- Media Văn Việt
- Michael Burawoy
- Michael Scammell
- Miêng
- Mike Ives
- Mikhail Shishkin
- Mikhail Viktorovich Zygar
- Milan Kundera
- Mimmi Diệu Hường Bergström
- MInh Anh
- Minh Huệ
- Minh Hùng
- Minh Luật
- Minh Quang – Lê Chiên
- Minh Quang Ho
- Minh Tâm
- Minh Thùy
- Minh Thư
- Minh Toàn
- Minh Tuấn
- Monica Berlin
- Mỹ Hằng
- Mỹ Lan
- N. S. Khrushchev
- Nam Dao
- Nam Dao Nguyễn Mạnh Hùng
- Nam Đan
- Nam Đông
- Nam Nguyên
- Nam Sơn
- Naowarat Pongpaiboon
- Natalia lacovelli
- Nataliya Zhynkina
- Natsume Sōseki
- Nay Aung
- ng. anhanh
- Ng.Uyển Nicole Dương
- Ngải Vị VỊ
- Ngân Xuyên
- Nghệ thuật
- Nghiêm Lương Thành
- Nghiêm Phương Mai
- Nghiêm Xuân Hồng
- Nghiên Cứu Phê Bình
- Ngo Thu
- Ngọc Anh
- Ngọc Duy Phan
- Ngoc Hien Bui
- Ngọc Linh
- Ngô Anh Tuấn
- Ngô Bảo Châu
- Ngô Đình Thẩm
- Ngô Đồng
- Ngô Hương Giang
- Ngô Khắc Tài
- Ngộ Không Phí Ngọc Hùng
- Ngô Liêm Khoan
- Ngô Minh
- Ngô Minh Khôi
- Ngô Ngọc Loan
- Ngô Ngọc Trai
- Ngô Nguyên Dũng
- Ngô Nhật Đăng
- Ngô Quốc Phương
- Ngô Quốc Thịnh
- Ngô Thế Vinh
- Ngô Thị Kim Cúc
- Ngô Thị Thanh Lịch
- Ngô Tùng Phong
- Ngô Tự Lập
- Ngô Văn
- Ngô Văn Giá
- Ngô Viết Nam Sơn
- Ngô Viết Trọng
- Ngô Vĩnh Long
- Ngô Xuân Hội
- Ngô Xuân Phúc
- Ngô Xuân Thảo
- Ngu Yên
- Nguyen Duc Thanh
- Nguyễn Hải Hoành
- Nguyễn Anh Dũng
- Nguyễn Anh Tuấn
- Nguyễn Anh Tuấn - đạo diễn
- Nguyễn Bá Chung
- Nguyễn Bách Việt
- Nguyễn Bảo Chân
- Nguyễn Bắc Sơn
- Nguyên Bình
- Nguyên Cầm
- Nguyên Cẩn
- Nguyên Chánh
- Nguyễn Chí Hoan
- Nguyễn Chí Thuật
- Nguyễn Chí Trung
- Nguyễn Chí Tuyến
- Nguyễn Chinh Trung
- Nguyễn Cung Thông
- Nguyễn Cường
- Nguyễn Danh Bằng
- Nguyễn Danh Huế
- Nguyễn Danh Lam
- Nguyễn Ðăng Thường
- Nguyễn Duy
- Nguyễn Dương Quang
- Nguyễn Đạt
- Nguyễn Đắc Kiên
- Nguyễn Đắc Xuân
- Nguyễn Đăng Điệp
- Nguyễn Đăng Hưng
- Nguyễn Đăng Khoa
- Nguyễn Đăng Mạnh
- Nguyễn Đăng Na
- Nguyễn Đăng Quang
- Nguyễn Đăng Thường
- Nguyễn Đình Ấm
- Nguyễn Đình Bin
- Nguyễn Đình Bổn
- Nguyễn Đình Chú
- Nguyễn Đình Cống
- Nguyễn Đình Đăng
- Nguyễn Đình Huỳnh
- Nguyễn Đình Thắng
- Nguyễn Đình Thi
- Nguyễn Đình Toàn
- Nguyễn Đổng Chi
- Nguyễn Đông Thức
- Nguyễn Đức
- Nguyễn Đức Dương
- Nguyễn Đức Hiệp
- Nguyễn Đức Mậu
- Nguyễn Đức Sơn
- Nguyễn Đức Thắng
- Nguyễn Đức Tiến
- Nguyễn Đức Tùng
- Nguyễn Đức Tường
- Nguyễn Gia Trí
- Nguyên Giác
- Nguyên Giác Phan Tấn Hải
- Nguyễn Hà Luân
- Nguyễn Hải Hoành
- Nguyễn Hải Yến
- Nguyễn Hàn Chung
- Nguyễn Hiến Lê
- Nguyễn Hoa Lư
- Nguyễn Hoài Nam
- Nguyễn Hoài Văn
- Nguyễn Hoài Vân
- Nguyễn Hoàn
- Nguyễn Hoàn Nguyên
- Nguyễn Hoàng Ánh
- Nguyễn Hoàng Anh Thư
- Nguyễn Hoàng Diệu Thủy
- Nguyễn Hoàng Diệu Thúy
- Nguyễn Hoàng Giao
- Nguyễn Hoàng Linh
- Nguyễn Hoàng Trung
- Nguyễn Hoàng Văn
- Nguyễn Hồng Anh
- Nguyễn Hồng Giao
- Nguyễn Hồng Hưng
- Nguyễn Hồng Lam
- Nguyễn Hồng Nhung
- Nguyễn Hồng Thục
- Nguyễn Huệ Chi
- Nguyễn Hùng
- Nguyễn Huy Hoàng
- Nguyễn Huy Thiệp
- Nguyễn Huy Vũ
- Nguyên Hưng
- Nguyễn Hưng Quốc
- Nguyễn Hương
- Nguyễn Hữu Đễ
- Nguyễn Hữu Hồng Minh
- Nguyễn Hữu Liêm
- Nguyễn Hữu Nhật
- Nguyễn Hữu Sơn
- Nguyễn Hữu Thiết
- Nguyễn Hữu Việt Hưng
- Nguyễn Hữu Vinh
- Nguyễn kc Hậu
- Nguyễn Khải
- Nguyễn Khánh Duy
- Nguyễn Khánh Trường
- Nguyễn Khắc An
- Nguyễn Khắc Bình
- Nguyễn Khắc Mai
- Nguyễn Khắc Phê
- Nguyễn Khắc Phi
- Nguyễn Khắc Phục
- Nguyễn Khiêm
- Nguyễn Khôi
- Nguyễn Kiến Phước
- Nguyễn Kiều Dung
- Nguyễn Kiều Hưng
- Nguyên Lạc
- Nguyễn Lãm Thắng
- Nguyễn Lan Phương
- Nguyễn Lân Bình
- Nguyễn Lân Thắng
- Nguyễn Lê Hồng Hưng
- Nguyễn Lệ Uyên
- Nguyễn Linh Giang
- Nguyễn Linh Quang
- Nguyễn Lộ Trạch
- Nguyễn Luận
- Nguyễn Lương Hải Khôi
- Nguyễn Lương Ngọc
- Nguyễn Lương Vỵ
- Nguyễn Mai
- Nguyễn Man Nhiên
- Nguyễn Mạnh An Dân
- Nguyễn Mạnh Côn
- Nguyễn Mạnh Đẩu
- Nguyễn Mạnh Tiến
- Nguyễn Manh Trinh
- Nguyễn Mạnh Trinh
- Nguyễn Mạnh Tuấn
- Nguyễn Mạnh Tường
- Nguyễn Minh Anh
- Nguyễn Minh Hòa
- Nguyễn Minh Kính
- Nguyễn Minh Nhị
- Nguyễn Minh Nhựt
- Nguyễn Minh Thuyết
- Nguyễn Mộng Giác
- Nguyên Ngọc
- Nguyễn Ngọc Chu
- Nguyễn Ngọc Giao
- Nguyễn Ngọc Hoa
- Nguyễn Ngọc Lanh
- Nguyễn Ngọc Liễm
- Nguyễn Ngọc Lung
- Nguyễn Ngọc Tâm
- Nguyễn Ngọc Thiện
- Nguyễn Ngọc Tú Anh
- Nguyễn Ngọc Tư
- Nguyên Nguyên
- Nguyễn Nguyên Bình
- Nguyễn Nhật Tín
- Nguyên Nhi
- Nguyễn Như Huy
- Nguyễn Phạm Hùng
- Nguyễn Phú Yên
- Nguyễn Phúc Vĩnh Ba
- Nguyễn Phượng
- Nguyễn Phương Đình
- Nguyễn Phương Mai
- Nguyễn Phương Mạnh
- Nguyễn Quang
- Nguyễn Quang A
- Nguyễn Quang Bình
- Nguyễn Quang Duy
- Nguyễn Quang Dy
- Nguyễn Quang Đồng
- Nguyễn Quang Hồng
- Nguyễn Quang Hưng
- Nguyễn Quang Lập
- Nguyễn Quang Thạch
- Nguyễn Quang Thân
- Nguyễn Quang Thiều
- Nguyễn Quang VInh
- Nguyễn Quân
- Nguyễn Quốc Lâm
- Nguyễn Quốc Thái
- Nguyễn Quốc Toàn
- Nguyễn Quốc Trụ
- Nguyễn Quốc Tuấn
- Nguyên Sa
- Nguyễn Sĩ Dũng
- Nguyễn Sơn Lâm
- Nguyễn Sỹ Phương
- Nguyễn Sỹ Tế
- Nguyễn Tà Cúc
- Nguyễn Tài Cẩn
- Nguyễn Tấn Cứ
- Nguyễn Tất Nhiên
- Nguyễn Thạch Giang
- Nguyễn Thái Hòa
- Nguyễn Thái Hợp
- Nguyễn Thái Sơn
- Nguyễn Thái Tuấn
- Nguyễn Thanh Bình
- Nguyễn Thanh Châu
- Nguyễn Thanh Giang
- Nguyễn Thanh Hiện
- Nguyễn Thanh Hùng
- Nguyễn Thanh Huy
- Nguyễn Thanh Huyền
- Nguyễn Thanh Mỹ
- Nguyễn Thành Nam
- Nguyễn Thanh Nghị
- Nguyễn Thanh Nguyệt
- Nguyễn Thành Phong
- Nguyễn Thanh Sơn
- Nguyễn Thành Sơn
- Nguyễn Thanh Tâm
- Nguyễn Thành Thi
- Nguyễn Thanh Tuyền
- Nguyễn Thanh Văn
- Nguyễn Thanh Việt
- Nguyễn Thế Hùng
- Nguyễn Thế Thanh
- Nguyễn Thị Bích Hậu
- Nguyễn Thị Bích Ngà
- Nguyễn Thị Bình
- Nguyễn thị Cỏ May
- Nguyễn Thị Dư Khánh
- Nguyễn Thị Hải
- Nguyễn Thị Hậu
- Nguyễn Thị Hiền
- Nguyễn Thị Hoàng
- Nguyễn Thị Hoàng Bắc
- Nguyễn Thị Khánh Minh
- Nguyễn Thị Khánh Trâm
- Nguyễn Thị Kim Chi
- Nguyễn Thị Kim Phụng
- Nguyễn Thị Minh Ngọc
- Nguyễn Thị Minh Thương
- Nguyễn Thị Ngọc Hải
- Nguyễn Thị Ngọc Nhung
- Nguyễn Thị Oanh
- Nguyễn Thị Phước
- Nguyễn Thị Thanh Bình
- Nguyễn Thị Thanh Hải
- Nguyễn Thị Thanh Lưu
- Nguyễn Thị Thanh Xuân
- Nguyễn Thị Thanh Yến
- Nguyễn Thị Thảo An
- Nguyễn Thị Thúy Hạnh
- Nguyễn Thị Thùy Linh
- Nguyễn Thị Thụy Vũ
- Nguyễn Thị Thuyền
- Nguyễn Thị Tịnh Thy
- Nguyễn Thị Từ Huy
- Nguyễn Thị Vinh
- Nguyễn Thiện Tống
- Nguyễn Thiện Tơ
- Nguyễn Thói Đời
- Nguyễn Thông
- Nguyễn Thu Quỳnh
- Nguyễn Thu Trang
- Nguyễn Thùy Dương
- Nguyễn Thúy Hạnh
- Nguyễn Thụy Long
- Nguyễn Thuỵ Phương
- Nguyễn Thùy Song Thanh
- Nguyễn Thỵ
- Nguyễn Thy Anh
- Nguyễn Tiến Dũng
- Nguyễn Tiến Lập
- Nguyễn Tiến Trung
- Nguyễn Tiến Văn
- Nguyễn Trần Bạt
- Nguyễn Tri Phương Đông
- Nguyễn Triệu Nam
- Nguyễn Trọng Bình
- Nguyễn Trọng Chức
- Nguyễn Trọng Huân
- Nguyễn Trọng Khôi
- Nguyễn Trọng Tạo
- Nguyễn Trung
- Nguyễn Trung Bảo
- Nguyễn Trung Dân
- Nguyễn Trung Hiếu
- Nguyễn Trung Kiên
- Nguyễn Trung Thuần
- Nguyễn Trường Giang
- Nguyễn Trường Huy
- Nguyễn Trường Uy
- Nguyễn Tuấn
- Nguyễn Tuấn Anh
- Nguyễn Tuấn Khoa
- Nguyễn Tùng
- Nguyễn Tùng Linh
- Nguyễn Tuyết Lan
- Nguyễn Tuyết Lộc
- Nguyễn Tư Nghiêm
- Nguyễn Tử Siêm
- Nguyễn Tường Bách
- Nguyễn Tường Thiết
- Nguyễn Tường Thụy
- Nguyễn Ước
- Nguyễn Vạn Phú
- Nguyễn Văn
- Nguyễn Văn Ba
- Nguyễn Văn Chính
- Nguyễn Văn Ðậu
- Nguyễn Văn Dũng
- Nguyễn Văn Đài
- Nguyễn Văn Gia
- Nguyễn Văn Hạnh
- Nguyễn Văn Hiệp
- Nguyễn Văn Hòa
- Nguyễn Văn Hùng
- Nguyễn Văn Huyên
- Nguyễn Văn Lợi
- Nguyễn Văn Lục
- Nguyễn Văn Miếng
- Nguyễn Văn Nghệ
- Nguyễn Văn Nho
- Nguyễn Văn Phong
- Nguyễn Văn Phú
- Nguyễn Văn Phước
- Nguyễn Văn Sâm
- Nguyễn Văn Sơn
- Nguyễn Văn Tao
- Nguyễn Văn Thiệu
- Nguyễn Văn Thọ
- Nguyễn Văn Trọng
- Nguyễn Văn Trung
- Nguyễn Văn Tuấn
- Nguyễn Văn Vĩnh
- Nguyễn Văn Xuân
- Nguyễn Vi Khải
- Nguyễn Vi Yên
- Nguyễn Viện
- Nguyễn Việt Anh
- Nguyễn Việt Chiến
- Nguyễn Viết Lãm
- Nguyễn Vĩnh Nguyên
- Nguyễn Vũ Hiệp
- Nguyễn Vũ Tiềm
- Nguyễn Vỹ
- Nguyễn Vy Khanh
- Nguyễn Xuân Diện
- Nguyễn Xuân Hằng
- Nguyễn Xuân Hoàng
- Nguyễn Xuân Hưng
- Nguyễn Xuân Khánh
- Nguyễn Xuân Khoát
- Nguyễn Xuân Nghĩa
- Nguyễn Xuân Nha
- Nguyễn Xuân Quang
- Nguyễn Xuân Thiệp
- Nguyễn Xuân Thọ
- Nguyễn Xuân Tiệp
- Nguyễn Xuân Tường Vy
- Nguyễn Xuân Xanh
- Nguyễn Ý Thuần
- Nguyên Yên
- Nguyễn-Chương Mt
- Nguyễn-hòa-Trước
- Nguyệt Chu
- Nguyệt Quỳnh
- Nguyệt Vi
- Ngự Thuyết
- Người Buôn Gió
- Ngyễn Trung Bảo
- Nh. Tay Ngàn
- Nhã
- Nhã Ca
- Nhã Duy
- Nhã Thuyên
- Nhan Do Thanh
- Nhân Hồng
- Nhật Chiêu
- Nhật Lệ
- Nhất Linh
- Nhật Tiến
- Nhật Tuấn
- Nhất Uyên
- Nhị Linh
- Nhị Ngã
- Nhóm Vì một Hà Nội xanh
- Như Huy
- Như Không
- Như Quỳnh
- Như Quỳnh de Prelle
- Như Ý
- Nhược Thủy
- Niall Ferguson
- Nick Hilden
- Nicolas Casey
- Nikulin
- Nina McPherson
- Ninh Dương
- Ninh Kiều
- Nobert Hummelt
- Nông Hồng Diệu
- NP Phan
- Obama
- Ocean Vương
- Octavio Paz
- Ogden Nash
- Oksana Zabuzhko
- Oleg Kashin
- Ondrej Slowik
- onggiaolang
- Orlando Figes
- Orwell
- Oscar Salemink
- Oscar Wilde
- Pablo Neruda
- Pablo Picasso
- Palmer
- Patrick Frater
- Patrick Lodge
- Paul Auster
- Paul Celan
- Paul Éluard
- Paul Hoover
- Paul Mendez
- Paul Mozur
- Paul Theroux
- Paul-François Paoli
- Paulus Lê Sơn
- Pavel Basinsky
- Pavlo Vyshebaba
- Paweł Kubiak
- Pawel Kuczynski
- Paweł Łepkowski
- Percy Mabandu
- Pervez Hoodbhoy
- Peter B. Zinoman
- Peter Hansen
- Peter Harvey
- Peter Kleiner
- Peter Singer
- Phạm Anh Tuấn
- Phạm Biểu Tâm
- Phạm Cao Hoàng
- Phạm Châu
- Phạm Chí Dũng
- Phạm Chi Lan
- Phạm Chu Sa
- Phạm Công Luận
- Phạm Công Thiện
- Phạm Công Út
- Phạm Duy
- Phạm Duy Nghĩa
- Phạm Đình Trọng
- Phạm Đình Vy
- Phạm Đoan Trang
- Phạm Hải Anh
- Phạm Hải Âu
- Phạm Hiền Mây
- Phạm Hoàng Quân
- Phạm Hồng Sơn
- Phạm Hùng Việt
- Phạm Huy Thông
- Phạm Khiêm Ích
- Phạm Kiều Tùng
- Phạm Kỳ Đăng
- Phạm Lệ Quyên
- Phạm Lê Vương Các
- Phạm Linh
- Phạm Lưu Vũ
- Phạm Minh Hoàng
- Phạm Minh Ngọc
- Phạm Minh Quân
- Phạm Minh Trung
- Phạm Ngọc Lư
- Phạm Ngọc Thái
- Phạm Ngọc Tiến
- Phạm Nguyên Trường
- Phạm Ngữ
- Phạm Phan Long
- Phạm Phú Cường
- Phạm Phú Hải
- Phạm Phú Minh
- Phạm Phú Phong
- Phạm Phú Thứ
- Phạm Phú Viết
- Phạm Phúc Thịnh
- Phạm Phương
- Phạm Quang Ái
- Phạm Quang Long
- Phạm Quang Trung
- Phạm Quang Tuấn
- Phạm Sỹ Sáu
- Phạm Tăng
- Phạm Thành
- Phạm Thành Hưng
- Phạm Thanh Nghiên
- Phạm Thảo Nguyên
- Phạm Thế Cường
- Phạm Thị
- Phạm Thị Anh Nga
- Phạm Thị Hoài
- Phạm Thị Kiều Ly
- Phạm Thị Ngọc
- Phạm Thị Phương
- Phạm Thiên Ân
- Phạm Thiên Thư
- Phạm Tín An Ninh
- Phạm Toàn
- Phạm Trần
- Phạm Trọng Chánh
- Phạm Trung Nghĩa
- Phạm Tuấn
- Phạm Tư Thanh Thiện
- Phạm Tường Vân
- Phạm Văn
- Phạm Văn Khoái
- Phạm Văn Quang
- Phạm Văn Song
- Phạm Văn Tình
- Phạm Văn Vũ
- Pham Viem Phuong
- Phạm Viêm Phương
- Phạm Viết Đào
- Phạm Việt Hưng
- Phạm Vũ Lửa Hạ
- Phạm Xuân Đài
- Phạm Xuân Hùng
- Phạm Xuân Nguyên
- Phạm Xuân Trường
- Phan An Sa
- Phan Ba
- Phan Bội Châu
- Phan Cẩm Thượng
- Phan Châu Thành
- Phan Cự Đệ
- Phan Đạo
- Phan Đắc Lữ
- Phan Đình Diệu
- Phan Độc Lập
- Phan Hải-Đăng
- Phan Hồng Giang
- Phan Huy Dũng
- Phan Huy Đường
- Phan Huy Lê
- Phan Huyền Thư
- Phan Kế Toại
- Phan Khôi
- Phan Lặng Yên
- Phan Mạnh Quỳnh
- Phan Nam Sinh
- Phan Ngọc
- Phan Nguyên
- Phan Nhật Nam
- Phan Nhiên Hạo
- Phan Ni Tấn
- Phan Phương Đạt
- Phan Quang
- Phan Tấn Hải
- Phan Tấn Uẩn
- Phan Thanh Bình
- Phan Thắng
- Phan Thế Hải
- Phan Thị Hà Dương
- Phan Thị Kim Phúc
- Phan Thị Trọng Tuyển
- Phan Thị Vàng Anh
- Phan Thu Vân
- Phan Thúy Hà
- Phan Trang Hy
- Phan Trí Đỉnh
- Phan Trọng Hoàng Linh
- Phan Văn Giưỡng
- Phan Văn Song
- Phan Văn Thắng
- Phan Vũ
- Phan Xine
- Phan Xuân Sinh
- Phannguyên Psg
- Phanxipăng
- Phaolô VI
- Pháp Hoan
- Pháp Vân
- Phapxa Chan
- Phát biểu nhận giải Văn Việt
- Phil Caputo
- Philip Larkin
- Philip Roth
- Phong Linh
- Phong Nguyen
- Phong Quang
- Phố Văn
- Phú Quang
- Phù Sa
- Phúc Lai GB
- Phúc Tiến
- Phunchok Stobdan
- Phùng Anh Kiệt
- Phùng Hi
- Phùng Hoài Ngọc
- Phùng Học Vinh
- Phùng Ngọc Kiên
- Phùng Nguyễn
- Phùng Quán
- Phùng Thành Chủng
- Phùng Thị Hạ Nguyên
- Phùng Thị Như Hà
- Phuong Ta
- Phương Hương
- Phương Phương
- Phương Thảo
- Phương Thuý
- Phương Uy
- Pierre Darriulat
- Pierre Lemieux
- Prashanth Parameswaran
- Qladimir Pyljow
- Quách Hạo Nhiên
- Quách Tấn
- Quách Thoại
- Quảng Diệu Trần Bảo Toàn
- Quang Dũng
- Quang Đức
- Quang Minh
- Quang Phan
- Quảng Tánh Trần Cầm
- Quậy Nguyễn
- Quế Hương
- Quốc Dũng
- Quốc Phương
- Quốc Toản
- Quyên Di
- Quyên Hoàng
- Quỳnh Iris de Prelle
- Quỳnh Vi
- Rabindranath Tagore
- Rainer Maria Rilke
- Ralph Chaplin
- Rebecca Mead
- Rebecca Solnit
- Reiner Traub
- Remo Verdickt
- Riccardo Gazzaniga
- Richard C. Paddock
- Richard Millet
- Richard Serra
- Robert Desnos
- Robert McCrump
- Roger Vu
- Roland Barthes
- Romain Rolland
- Ronald F. Inglehart
- Ruben David Gonzalez Gallego
- Russell Edson
- Ruth Ingram
- Ryszard Legutko
- Salman Rushdie
- Salvatore Babones
- Sam Dresser
- Sạn chữ
- Sandra Kerschbaumer
- Sara Teasdale
- Sarah Pulliam Bailey
- Sarah Thornton
- Sáu Nghệ
- Sergio Bitar
- Shakespeare
- Shannon Van Sant
- Sheikha A
- Sheila Fischman
- Sheila Ngoc Pham
- Sheri Berman
- Shigeeda Yutaka
- Shirin Ebadi
- Shukshin
- Simon Johnson
- Sire Apm Lukwesa
- Slavoj Žižek
- Sohaniim
- Son Kieu Mai
- Song Chi
- Song Hà
- Song Nguyễn
- Song Phạm
- Song Phan
- Song Thao
- Số đặc biệt
- Sơn Ca
- Sơn Hoàng Liên
- Sơn Kiều Mai
- Sơn Nam
- Stefano Harney
- Stephan Koester
- Stephen B. Young
- Steve Earle
- Susan Sontag
- Suzuki Katsuhiko
- Sương Nguyệt Minh
- Sương Quỳnh
- Svetlana Alexievich
- Svetlana Alexievitch
- Svetlana Alexiévitch
- Sylvia Plath
- T. Đ.
- T.Vấn
- Tạ Anh Thư
- Tạ Chí Đại Trường
- Tạ Duy Anh
- Tạ Tỵ
- Tạ Văn Tài
- Tạ Văn Thông
- Tạ Xuân Hải
- Tadeusz Rósewicz
- Tam Ích
- Tamarchenko
- Tàn Tuyết
- Tanaami Keiichi
- Taras Shevchenko
- Tarik Khaldi
- Tăng Quang
- Tâm An
- Tâm Chánh
- Tâm Don
- Tâm Thường Định
- Tâm Việt
- Tấn An
- Teolinda Gersão
- Teresa Mỹ Chúc
- Thạch Đạt Lang
- Thạch Quỳ
- Thạch Thảo
- Thái Bá Tân
- Thái Bá Vân
- Thái Bảo
- Thái Hà
- Thái Hạo
- Thái Kế Toại
- Thái Kim Lan
- Thái Ngọc San
- Thái Sinh
- Thái Thanh
- Thái Thăng Long
- Thái Tuấn
- Thái Văn
- Thái Văn Đào
- Thái Vũ
- Thạnh Đà
- Thanh Hằng - Anh Khoa
- Thành Lộc
- Thanh Nam
- Thanh Ngọc
- Thanh Phương
- Thanh Tâm Tuyền
- Thanh Thảo
- Thanh Thuỷ
- Thanh Trúc
- Thanh Tùng
- Thanh Xuân
- Thanhhà Lại
- Thảo Dân
- Thao Dinh
- Thảo luận
- Thảo Nguyên
- Thảo Trường
- Thảo Vy
- Thẩm Đống
- Thận Nhiên
- Thân Trọng Mẫn
- Thân Trọng Sơn
- Thế Dũng
- Thế Giang
- Thế Quân
- THẾ THANH
- Thế Uyên
- Thi Hoàng
- Thi Nguyên
- Thi sỹ ỦA
- Thi Vũ
- Thích Nhất Hạnh
- Thích Nữ Chân Không
- Thích Phước An
- Thierry Leclère
- Thierry Lentz
- Thiên Di
- Thiên Điểu
- Thiền Lâm
- Thiền Nguyễn
- Thiên Thai
- Thiện Tùng
- Thiện Ý
- Thiết Thạch
- Thiếu Khanh
- Thiều Mai Lâm
- Tho Nguyen
- Thomas A. Bass
- Thomas Bo Pedersen
- Thomas Mahler
- Thomas S. Mullaney
- Thông Đặng
- Thơ
- Thu Phong
- Thu Vàng
- Thuận
- Thuần Ngô
- Thuận Paris
- Thuận Thiên
- Thục Quyên
- Thụy An
- Thùy Dung
- Thụy Khuê
- Thùy Linh
- Thụy My
- Thủy Tiên
- Thư Bạn Đọc
- Thường Quán
- Thy An
- Tịch Ru
- Tiet Hung Thai
- Tiêu Dao Bảo Cự
- Tiêu Kiện Sinh
- Tiểu Tử
- Tillman Miller
- Timothy Brennan
- Timothy Garton Ash
- Timothy Snyder
- Tina Hà Giang
- Tomas Tranströmer
- Tô Đăng Khoa
- Tô Hải
- Tô Hoàng
- Tố Hữu
- Tô Lan Hương
- Tô Ngọc Vân
- Tô Thẩm Huy
- Tô Thùy Yên
- Tô Văn Trường
- Tôi Đây
- Tôn Thất Thông
- Tống Văn Công
- Trà Đóa
- Trà Nhiên
- Tracy K. Smith
- Tran Dinh Dung
- Tran Nam Dung
- Trang Châu
- Trang Hạ
- Trang Thanh
- Trang Thế Hy
- Trangđài Glassey Trầnguyễn
- Trangđài Glasssey-Trầnguyễn
- Trao đổi
- Trầm Tử Thiêng
- Trần Anh Hùng
- Trần Bá Đại Dương
- Trần Bang
- Trần Bình Nam
- Trần C. Trí
- Trần Cao Lĩnh
- Trần Cao Tường
- Trần Công Tâm
- Trần Công Tín
- Trần Dạ Từ
- Trần Dần
- Trần Doãn Nho
- Trần Dũng Thanh Huy
- Trần Duy
- Trần Duy Phiên
- Trần Duy Trung
- Trần Đăng Khoa
- Trần Đăng Tuấn
- Trần Đĩnh
- Trần Đình Bút
- Trần Đình Hoành
- Trần Đình Lương
- Trần Đình Sơn Cước
- Trần Đình Sử
- Trần Đình Triển
- Trần Đình Trợ
- Trần Độ
- Trần Đồng Minh
- Trần Đức Anh Sơn
- Trần Đức Thảo
- Trần Đức Tiến
- Trần Đức Tín
- Trần Đức Toản
- Trần Gia Huấn
- Trần Gia Ninh
- Trần Hà Linh
- Trần Hạ Tháp
- Trần Hạ Vi
- Trần Hải
- Trần Hạnh
- Trần Hậu
- Trần Hoài Anh
- Trần Hoài Thư
- Trần Hoàng Phố
- Trần Hoàng Trúc
- Trần Hoàng Vy
- Trần Hùng
- Trần Huy Bích
- Trần Huy Minh Phương
- Trần Huy Quang
- Trần Huỳnh Duy Thức
- Trần Hữu Dũng
- Trần Hữu Khánh
- Trần Hữu Quang
- Trần Hữu Tá
- Trần Hữu Thục
- Trần Khánh Triệu
- Trần Kiêm Đoàn
- Trần Kiêm Trinh Tiên
- Trần Kim Trắc
- Trần Kỳ Trung
- Trần Lam
- Trần Lê Sơn Ý
- Trần Lương
- Trần Lý Trí Tân
- Trần Mạnh Hảo
- Trần Mạnh Tuấn
- Trần Minh Phi
- Trần Minh Quốc
- Trần Mộng Tú
- Trần Nam Bình
- Trần Ngân Hà
- Trần Nghi Hoàng
- Trần Ngọc Cư
- Trần Ngọc Hiếu
- Trần Ngọc Tuấn
- Trần Ngọc Vương
- Trần Nguyên Đán
- Trần Nhã Thụy
- Trần Nhương
- Trần Phong Giao
- Trần Phong Vũ
- Trần Quang Đức
- Trần Quang Lộc
- Trần Quốc Nam
- Trần Quốc Thuận
- Trần Quốc Toàn
- Trần Quốc Trọng
- Trần Quốc Vượng
- Trần Quyết Thắng
- Trân Sa
- Trần Song Hào
- Trần Thành
- Trần Thanh Ái
- Trần Thanh Cảnh
- Trần Thanh Huy
- Trần Thanh Vân
- Trần Thắng
- Trần Thế Vĩnh
- Trần Thị Băng Thanh
- Trần Thị Diệu Tâm
- Trần Thị Lai Hồng
- Trần Thị Lam
- Trần Thị NgH.
- Trần Thị Nguyệt Mai
- Trần Thị Phương Phương
- Trần Thị Thanh Thoả
- Trần Thị Trường
- Trần Thiện Đạo
- Trần Thùy Mai
- Trần Tiến
- Trần Tiễn Cao Đăng
- Trần Tiến Dũng
- Trần Tiễn Khanh
- Trần Tố Nga
- Trần Trọng Dương
- Trần Trọng Thức
- Trần Trọng Vũ
- Trần Trung Chính
- Trần Trung Đạo
- Trần Tuấn
- Trần Từ Mai
- Trần Vàng Sao
- Trần Văn Chánh
- Trần Văn Đỉnh
- Trần Văn Khê
- Trần Văn Minh
- Trần Văn Nam
- Trần Văn Thọ
- Trần Văn Thủy
- Trần Văn Tý
- Trần Vấn Lệ
- Trần Việt Hà
- Trần Viết Ngạc
- Trần Vinh Dự
- Trần Vũ
- Trần Vũ Hải
- Trần Vương Thuấn
- Trần Vương Thuận
- Trần Wũ Khang
- Trần Xuân Hoài
- Trần Xuân Linh
- Trần Xuân Lĩnh
- Trần Xuân Thảo
- Trần Yên Hòa
- Trần Yên Nguyên
- Trên
- Trên Facebook
- Trên Facebook/Minds
- Trên kệ sách
- Trên trang diaCRITICS
- Trí Hiệu Dân
- Triều Anh
- Triều Hoa Đại
- Triêu Nhan
- Triều Sơn
- Triệu Tử Dương
- Trịnh Anh Tuấn
- Trịnh Bá Phương
- Trịnh Bách
- Trịnh Cao Hòa Thanh
- Trịnh Chu
- Trịnh Công Sơn
- Trịnh Cung
- Trịnh Duy Kỳ
- Trịnh Hữu Long
- Trịnh Kim Tiến
- Trịnh Lữ
- Trịnh Minh Tuấn
- Trịnh Sơn
- Trịnh Thanh Thủy
- Trịnh Thu Tuyết
- Trịnh Vĩnh Phúc
- Trịnh Xuân Thuận
- Trịnh Xuân Thủy
- Trịnh Y Thư
- Trọng Anh
- Trọng Phú
- Trọng Thành
- Tru Sa
- Trúc Giang
- Trúc Thông
- Trúc Ty
- Trump
- Trung Bảo
- Trung Dũng Kqd
- Trùng Dương
- Trung Trung Đỉnh
- Trư Sa
- Trường An
- Trương Anh Ngọc
- Trương Anh Thụy
- Trương Chính
- Trương Duy Nhất
- Trương Đăng Dung
- Trương Điện Thắng
- Trương Đình Phượng
- Trương Hồng Quang
- Trương Huy San
- Trường Minh
- Trương Ngọc Chương
- Trương Nguyên
- Trương Nguyện Thành
- Trương Nhân Tuấn
- Trương Phượng
- Trương Quang
- Trương Quang Đệ
- Trương Quang Nhuệ
- Trương Quang Vĩnh
- Trương Thị Ngọc Hân
- Trương Thiên Phàm
- Trương Thu Hiền
- Trương Tố Hoa
- Trương Trọng Nghĩa
- Trương Tửu
- Trương Văn Dân
- Trương Văn Vĩnh
- Trương Vũ
- Trương Xuân Thiên
- Tú Mỡ
- Tù Quốc Hoài
- Tù Sâm
- Tú Trung Hồ
- Tuấn Duy
- Tuấn Khanh
- Tuân Nguyễn
- Tuấn Thảo
- Tuệ Anh
- Tuệ Đăng
- Tuệ Nguyên
- Tuệ Nhân
- Tuệ Nhật
- Tuệ Sĩ
- Tuệ Sỹ
- Tùng Dương Cola
- Tung Nguyen
- Turner
- Túy Hồng
- Tuyết Nghi
- Tư
- Từ Dung
- Tư liệu
- Tử Linh
- Từ Mai Trần Huy Bích
- Từ Quốc Hoài
- Từ Sâm
- Từ Thức
- Tưởng
- Tương Lai
- Umberto Eco
- Uông Tăng Kỳ
- Uông Triều
- Uyển Ca
- Uyên Nguyễn
- Uyên Thao
- Uyên Vũ
- V. Erofiev
- Vàng A Giang
- Varlam Shalamov
- Vasco Gargalo
- Vasily Makarovich
- Văn
- Văn Biển
- Văn Cao
- Văn Chinh
- Văn Công Hùng
- Văn Giá
- Văn học
- Văn học Miền Nam 54-75
- Văn Như Cương
- Văn Quang
- Văn Tâm
- Văn Việt
- Văn.
- Vấn đề hôm nay
- Vận Động Ứng Cử Đại Biểu Quốc Hội 2016
- Vân Hạ
- Vân Phi
- Velcrow Ripper
- Veronica Melkozerova
- Vi Lãng
- Vi Trần
- Vi Yên
- Viet Thanh Nguyen
- Viên Linh
- Việt Bách
- Việt Bình
- Việt Dzũng
- Việt Khang
- Việt Lang
- Việt Phương
- Viktor Maslov
- Vinh Anh
- Vĩnh Hảo
- Vĩnh Quyền
- Virginia Heffernan
- Virginia Woolf
- Vladimir Nabokov
- Võ An Đôn
- Võ Anh Minh
- Võ Anh Thơ
- Võ Bá Cường
- Võ Đắc Danh
- Võ Định Hình
- Võ Đức Phúc
- Võ Hồng
- Võ Huy Tâm
- Võ Hương Quỳnh
- Võ Kỳ Điền
- Võ Ngàn Sông
- Võ Phiến
- Võ Thị Hảo
- Võ Thị Thu Hằng
- Võ Tiến Cường
- Võ Tòng Xuân
- Võ Trí Hảo
- Võ Văn Quản
- Võ Văn Tạo
- Võ Văn Thôn
- Võ Xuân Quế
- Võ Xuân Sơn
- Volker Weidermann
- Volodymyr Vynnychenko
- Volodymyr Zelenskyy
- Vũ Bằng
- Vũ Biện Điền
- Vũ Cao Đàm
- Vũ Cát Tường
- Vũ Đình Hòe
- Vũ Đình Huỳnh
- Vũ Đình Liên
- Vũ Đình Phòng
- Vũ Đức Khanh
- Vũ Đức Phúc
- Vũ Đức Sao Biển
- Vu Gia
- Vũ Hà Văn
- Vũ Hạnh
- Vũ Hoàng Chương
- Vũ Hoàng Thư
- Vũ Hồng Ánh
- Vũ Huy Ngọc
- Vũ Huy Quang
- Vũ Khắc Hoè
- Vũ Khắc Khoan
- Vũ Kim Hạnh
- Vũ Kim Thu
- Vũ Lâm
- Vũ Lập Nhật
- Vũ My Lan
- Vũ Ngọc Giao
- Vũ Ngọc Hoàng
- Vũ Ngọc Tâm
- Vũ Ngọc Tiến
- Vũ Nho
- Vũ Oanh
- Vũ Quang Việt
- Vũ Quí Hạo Nhiên
- Vũ Quốc Ngữ
- Vũ Quỳnh Hương
- Vũ Quỳnh Nh.
- Vũ Thành Sơn
- Vũ Thanh Tâm
- Vũ Thanh Tùng
- Vũ Thành Tự Anh
- Vũ Thế Khôi
- Vũ Thị Hải
- Vũ Thị Nhuận
- Vũ Thị Phương Anh
- Vũ Thị Phương Lan
- Vũ Thị Thanh
- Vũ Thị Thanh Mai
- Vũ Thư Hiên
- Vũ Tiến Lập
- Vũ Trọng Khải
- Vũ Tuấn Hoàng
- Vũ Từ Trang
- Vũ Tường
- Vũ Viết Tuân
- Vũ Xuân Tửu
- Vương Bích Ngọc
- Vương Đan
- Vương Huy
- Vương Ngọc Minh
- Vương Tiểu Nhị
- Vương Trí Nhàn
- Vương Trọng
- Vương Trùng Dương
- Vương Trung Hiếu
- Vy Thảo
- W. H. Auden
- Wa Praong
- Walt Whitman
- Walter Isaacson
- Wayne Karlin
- Wells
- Wendy Barker
- Wilhelm Schmid
- Will Nguyen
- William Carlos Williams
- William Nee
- William Stafford
- William Stanley Merwin
- Winston Phan Đào Nguyên
- Wislawa Szymborska
- Wolf Biermann
- Wolfgang Borchert
- Wynn Gadkar Wilcox
- Xie Tao
- Xuân Ba
- Xuân Diệu
- Xuân Dương
- Xuân Đài
- Xuân Minh
- Xuân Phượng
- Xuân Sách
- Xuân Thọ
- Xuân Vũ
- Xương Văn
- Y Chan
- Ý Nhi
- Y Uyên
- Yanis Varoufakis
- Yevgeny Yevtushenko
- Yên Ba
- Yên Khắc Chính
- Yến Năng
- Yên San
- Yên San Thụy Miên
- Yiyun Li
- Yoko Ogawa
- Yōko Ogawa
- Yoko Tawada
- Young Sang Lee
- Yuliya Ilchuk
- Yuno Bigboi
- Yves Sintomer
- Yvette Tan
- Zac Herman
Văn học miền Nam 54-75 (526): Mặc Đỗ (kỳ 6)
Trăm năm Mặc Đỗ – Mặc Đỗ và văn học Miền Nam
Nguyễn Tà Cúc
Trong những đoạn trước, người viết đã trình bày tới bối cảnh của một nền văn học di cư, lần đầu ít nhất còn được tạm cư trên quê nhà, lần sau thì vời vợi cánh thuyền trên đại dương. Người viết chọn nhà văn Mặc Đỗ (1917-) – nhà văn lớn tuổi nhất thuộc Văn học Miền Nam, hiện cư ngụ tại Austin, thủ phủ tiểu bang Texas – để làm một trong vài trường hợp tiêu biểu cho số nhà văn di cư chống Cộng di cư từ Bắc xuôi Nam năm 1954 rồi lại cùng các nhà văn Miền Nam khác di tản và/hay lưu vong ra ngoại quốc. Sự lựa chọn ấy không nhắm tuổi tác mà vào sáng tác của ông. Vì không có sáng tác, nghĩa là sinh hoạt văn nghệ lưu lại, lịch sử Miền Nam sẽ thêm nhòe đi như số phận một cô nữ tỳ rụt rè giữ phận quạt mát cho bà tướng Miền Bắc đao kiếm chống kẻ xâm lăng Hoa Kỳ.
Phận hèn mọn của một cô nữ tỳ ấy đã được ghi lại cũng bằng sáng tác hay phát biểu không chỉ từ những người phản chiến tại đây mà còn từ nhiều nơi khác trên thế giới như qua nhà văn Gabriel García Márquez (1927-2014), từng đoạt giải Nobel Văn chương năm 1982. Tháng chạp 1978, Gabriel García Márquez viết bài tường thuật về chuyến thăm viếng Việt Nam. Ông vốn là ký giả cưng của nhật báo El Espectador (thành phố Bogotá, Colombia) và các bài viết của ông sau in lại thành 4 tuyển tập. Bản tin về Việt Nam có tựa Vietnam por dentro (Bên trong Việt Nam) được đăng trong tuyển tập thứ tư Obra periodística 4: Por la libre (1974-1995).
Ngày 29 tháng 5, 1980, tạp chí âm nhạc The Rolling Stones cho đăng lại "Vietnam por dentro" bằng Anh ngữ với tựa "The Vietnam Wars.” Những ai từng đọc Trăm năm cô liêu, tác phẩm nổi tiếng của ông, chắc chắn không thể nào tưởng tượng nổi tác giả của nó có thể vô tâm, thậm chí tàn nhẫn và cũng có thể dùng chữ "bất lương" trong trường hợp này. Từ một ngòi viết rất hoa lệ, sử dụng lối văn chương hiện thực thần bí để tạo nên một thế giới Châu Mỹ Latin linh nghiệm, một dòng mực đen ngòm chảy tuôn mạt sát cả một nửa chủng tộc và quay mặt đi trước nỗi thống hận của con người:
-"[…] Thứ thuốc đắt nhất vào tháng 8 năm ngoái tại Việt Nam là thuốc chống say sóng […] Bọn hợp tác với chế độ cũ và bọn tiểu tư sản, vì những thay đổi trong xã hội, đã mất hết những đặc quyền của họ và không mong gì khác hơn là đào thoát với bất cứ giá nào. Chỉ có những người mà lương tâm chính trị đã được thử thách nhiều mới chịu sửa soạn ở lại mà số này cũng chẳng còn bao nhiêu trong một thành phố đồi trụy đã bị Hoa Kỳ chiếm đóng nhiều năm. Đại đa số còn lại sẵn sàng bỏ đi mà không cần băn khoăn về số phần sau này của họ […] Những nhân sự được huấn luyện kỹ nhất về phương diện chính trị và khả năng nghề nghiệp đã bị chế độ trước sát hại một cách có hệ thống trong Chương trình Phượng Hoàng […] Cuộc di tản của người tỵ nạn bắt đầu vào tháng tư năm 1975 […] Cựu quân nhân và cảnh sát, kẻ lộ mặt làm gián điệp và kẻ tra tấn (tù nhân), cùng với kẻ sát nhân được trả công trong Chương trình Phượng Hoàng, đã tẩu thoát ra khỏi đất nước […] Tuy vậy, vấn đề trầm trọng nhất mà Việt Nam phải đối phó sau khi đã được giải phóng, không phải là tội nhân chiến tranh mà là đám tiểu tư sản tại Miền Nam với người Hoa chiếm đa số […] Dưới sự chiếm đóng của bọn "Yankee,” Sài Gòn đã mất hết căn cước văn hóa của nó, biến thành một thiên đàng nhân tạo […] Cái giá của sự mê sảng này thực kinh ngạc: 360,000 người tàn tật, một triệu góa phụ, nửa triệu gái điếm, nửa triệu con nghiện, một triệu người mắc bệnh lao và một triệu cựu binh sĩ của chế độ cũ không cách nào cải tạo lại được cho hoàn toàn để gia nhập vào một xã hội mới…” (Gabriel García Márquez, "Vietnam Wars – Fighting to reclaim its devastated country, Vietnam faces a hostile China and the threat of a defeated enemy within its borders,” ngày 29. 5. 1980, The Rolling Stones/ dịch giả Gregory Rabassa chuyển sang Anh ngữ) (1)
-"[…] Việt Nam, một lần nữa, lại là nạn nhân của một cuộc âm mưu vĩ đại của thế giới. Chính phủ Việt Nam chưa từng trục xuất ai cả dù là có thể họ đã ngó lơ lúc đó. Nhưng tôi biết rằng trong sự hỗn loạn của cuộc chạy trốn (năm 1975) rất nhiều chuyên viên và nhân sự chuyên nghiệp – những người tối cần thiết cho việc tái tạo đất nước – đã bỏ đi. Nhà cầm quyền đã phạm mấy lỗi lầm không chữa được. Lỗi lầm thứ nhất là tính sai hay là không tiên liệu được cuộc vận động vĩ đại của thế giới dành cho người Việt tỵ nạn… (“[…] Vietnam had once more been the victim of an immense international conspiracy. Its government hadn’t expelled anyone, although it was probable that at times it had conveniently looked the other way. But I was aware that in the confusion of the exodus, a great many technicians and professionals that the country urgently needed for reconstruction had left. The government had made irreparable mistakes. The first had been miscalculating or not foreseeing the enormous size of the international campaign in favor of the refugees…") (Gabriel García Márquez, sđd)
Một phần trình bày cảm tưởng khác về người tỵ nạn của Gabriel García Márquez cũng làm cho Enrique Krauze, một sử gia kiêm tiểu luận gia người Mexico, phẫn nộ:
– "Với người sáng lập Tổ chức Habeas, cái tai họa không phải ở chỗ hàng trăm ngàn người tỵ nạn bị chết đuối, bị chết đói, bị bệnh nặng, bị cướp hết tài sản, bị hãm hiếp, bị giết. Cái tai họa là cả thế giới đã được biết về sự thể này. García Márquez ân hận rằng người Việt – những người quyền thế, những người mà ông ta phỏng vấn – không sở hữu "sự tiên liệu để tính được bàn cân rộng lớn của cuộc vận động mà thế giới dành cho người tỵ nạn.” Người tranh đấu cho nhân quyền đã thắng kẻ độc tài.– đấy mới là sự làm phiền lòng García Márquez … (“For the founder of Habeas, the calamity was not the hundreds of thousands of fugitives drowned, starving, ill, stripped of their possessions, raped, murdered. The calamity was that the world knew about all this. García Márquez regretted that the Vietnamese—the important Vietnamese, the ones he had interviewed —did not possess the "foresight to calculate the vast scale of the international effort on behalf of the refugees.” The humanitarians had outplayed the totalitarians — that is what bothered him…") (Enrique Krauze, "In the Shadow of the Patriarch-Gabriel García Márquez and the demons of his time,” The New Republic, trang 44, ngày 4.11.2009 - http://www.newrepublic.com/article/books-and-arts/the-shadow-the-patriarch)
García Márquez tự nhận nghề ký giả mới là nghề thực của ông. Ông còn bày tỏ rằng "Trong ngành báo chí, chỉ cần một sự kiện sai là (đủ) làm tổn hại cho cả bài viết…” (“I’ve always been convinced that my true profession is that of a journalist […] In journalism just one fact that is false prejudices the entire work…") (Peter H. Stone phỏng vấn Gabriel García Márquez, "The Art of Fiction No. 69,” The Paris Review Số 82, Mùa đông 1981- http://www.theparisreview.org/interviews/3196/the-art-of-fiction-no-69-gabriel-garcia-marquez)
Khỏi phải nói, bài tường thuật về Việt Nam của García Márquez có quá nhiều sai lầm đủ nói lên thiên kiến của một tác gia chưa hề biết đến cái đói, nói chi mất tự do; một tác gia từng bị một tác gia khác – Mario Vargas Llosa, người Peru – mắng là "Con điếm của Castro" . Ông cũng bị tố nhận ân huệ của Castro cùng với những bữa tiệc linh đình, đủ sức tặng bạn hữu rượu của hãng Veuve Clicquot (giá hiện thời một chai từ gần 60 mĩ kim cho tới có khi hơn 2, 3 ngàn mĩ kim) trong khi khẩu phần hàng tháng của một người dân Cuba lúc ấy (1982) là khoảng hơn 3 ký gạo, 1 ký đậu, hơn 2 ký đường, 250 gram dầu, 400 gram "pasta,” 10 quả trứng, nửa ký thịt gà đông lạnh và khoảng 250 gram thịt gà bằm có thể thay bằng cá, vv. (Enrique Krauze, trích dẫn Ángel Esteban&Stéphanie Panichelli, sđd, t.rang 45)
Người viết trích dẫn xem ra rất dài dòng những thí dụ này để cuối cùng chúng ta cùng suy luận mấy điểm sau đây. Theo họ, thứ nhất, tự điển Miền Nam – phản ảnh dân trí của một quốc gia – vô giá trị. Thứ hai, người Việt ở Biển-ngoài không sử dụng được tiếng Việt "thuần chất" nghĩa là sẽ không sáng tác được. Thứ ba người tỵ nạn Cộng sản toàn là bọn sát nhân và lười biếng từng nhận bổng lộc của triều đình… Hoa kỳ (!) Nhưng một điều quan trọng nữa, theo người viết, là cái mà họ không nhắc đến: nhà văn, Văn học Miền Nam và Văn học Biển-ngoài. Lý do đơn giản là họ không biết hay cố tình không biết. Mà có biết thì cũng không biết đầy đủ.
Bởi vậy, một cách khác, các tác phẩm của Mặc Đỗ, căn cứ trên bối cảnh lịch sử và quan điểm của tác giả, cũng cho thêm tài liệu về phần sử-đang-viết, phần khuyết sử là sử của Văn học Miền Nam mà các "sử quan" bên nhà xem ra vẫn chưa rành lắm qua các cuốn bình luận mới đây.
I-Từ Siu cô nương tới Bốn mươi - Sống với sự phi lý: "Il n’y a qu’un problème philosophique vraiment sérieux: c’est le suicide… L’absurde naît de cette confrontation entre l’appel humain et le silence déraisonnable du monde…” (Le mythe de Sisyphe, 1942, Albert Camus)
Siu cô nương, một truyện dài của Mặc Đỗ, xuất bản vào tháng giêng 1959, có thể coi là tác phẩm duy nhất của một nhân chứng về những ngày thoi thóp của Hà Nội, về cái không khí chênh vênh của những Hà Nội đi hay Hà Nội ở. Trước khi tiến xa hơn với Siu cô nương, người viết phải nói ngay rằng xét theo thứ tự ngày tháng thì lẽ ra phải bàn đến Bốn mươi trước vì Bốn mươi được xuất bản vào cuối tháng 10, 1957 nghĩa là hai năm trước Siu cô nương. Nhưng với một sự chủ quan bất thường lẽ ra không nên có của một độc giả, người viết đem Siu cô nương ra bàn đến ngay vì tác phẩm này chứng minh hầu như chắc chắn, cả cho tác phẩm đi trước, rằng Mặc Đỗ gần gụi "ý niệm phi lý" rồi thái độ "đầu thế" ("engagé" – chữ của Trần Phong Giao trong bản dịch Văn nghệ hiện đại, Albert Camus) hơn là thái độ của các tác gia Hoa Kỳ thuộc thời "thế hệ bỏ đi" (lost generation – chữ của Mặc Đỗ) mà ông từng chuyển ngữ như Ernest Hemingway và John Steinbeck. Trong nhiều tác phẩm của Mặc Đỗ, sự phi lý xuất hiện để con người vươn lên khôi phục phẩm giá đã bị chế ngự bởi những sự phi lý đó:
-"Có ai ý niệm nổi cái sức chiêu dụ ghê người của trang giấy trắng những khi chàng ngồi một mình ở trước bàn! Những hàng chữ nối đuôi nhau không ngớt, những nhân vật chàng gọi dậy để sống lại sâu sắc những vô lý của cái xã hội vô lý, và họp nhau lại để tạo nên những tác phẩm, để chứng tỏ rằng cũng còn có những gì có lý ở bên bao nhiêu cái vô lý lớn…” (… Mặc Đỗ, Bốn mươi, trang 10)
-"Anh đã làm một cuộc thăm dò về quá khứ và đem chính mình ra so đọ với hiện tại. Anh đã gặp bao nhiêu tâm hồn bạn, ở những người trước cũng như những người chung quanh. Bây giờ cố gắng xây dựng hiện tại để lo gìn giữ lấy tương lai…” (Mặc Đỗ, Bốn mươi, trang 214)
Lý do gần gũi hơn đó có thể rất giản dị: cũng như thế hệ Albert Camus với trận thế chiến 1939 và riêng Camus với cuộc chiến dành độc lập của Algeria, thế hệ Mặc Đỗ đã phải chịu cơn ba đào của những biến cố chính trị đẫm máu giữa người Việt và người Pháp và giữa người Việt quốc gia và người Việt cộng sản. Trong hoàn cảnh ấy, thế hệ Mặc Đỗ không có sự lựa chọn như "thế hệ bỏ đi" của Hoa Kỳ. Thế hệ này, theo nhân chứng Malcolm Cowley, đã "bỏ đi" vì nhiều lý do như: họ đã được huấn luyện để sửa soạn cho một đời sống trong một thế giới khác sau khi chiến tranh chấm dứt (mà cuộc chiến lại chỉ sửa soạn cho họ đi du lịch hay đầy nhộn nhịp), họ cố sống đời lưu cư xa xứ, họ không chấp nhận bất cứ kiểu mẫu hướng dẫn nào về lối hành đạo của thế hệ trước và vì họ đã mường tượng một thứ chân dung sai lầm của xã hội với vị trí nhà văn trong đó, v.v. (Malcolm Cowley, Exile’s Return – A Literary Odyssey of the 1920’s, trang 9, Nhà xuất bản Viking Press, 1951). Những lý do ấy quả là một thứ xa xỉ phẩm cho thế hệ Nhất Linh, Mặc Đỗ Từ trước tới nay, có hai người đã phê bình Siu cô nương. Tam Ích, người thứ nhất, đề cập đến khía cạnh lịch sử và Cao Huy Khanh, người thứ hai, kết luận rằng Mặc Đỗ là một "tiểu thuyết gia tâm lý.” Theo Tam Ích,
-"Lát nữa ba người thanh niên, hai con đĩ và một xác chết sẽ hiện trên màn ảnh, và kết cuộc là ba chàng sẽ giã từ Hà Nội để vào Sài Gòn, tránh cộng sản […] Ba người này là một thứ thanh niên trí thức tiểu tư sản của một thời đại mới […] Ba người đó thuộc về những hạng người yêu nước, yêu dân tộc, muốn cho lịch sử có ý nghĩa nhưng không muốn chiếm độc quyền một danh từ đẹp nào! […] Và nhất là họ không yêu nước như những người cộng sản: nghĩa là họ chống cộng[…] và thái độ trí thức của họ – thái độ của những người đã lựa chọn và những người "cùng một lứa bên trời lận đận" – đượm một hương vị thất vọng và rất hiện sinh. […] Họ làm gì, dự định những gì, trong lúc lịch sử đương vạch biên giới tại vĩ tuyến 17 giữa đất nước, và đương thử thách một sự "hợp chất" trên đời sống hai mươi lăm triệu người? Làm gì thì chưa biết, nhưng khi kết thúc thì tác giả dè dặt, và những nhân vật nói thứ ngôn ngữ của những người phóng biếm (chinique)… Thấy họ lên xe lửa vào Nam (ở mấy trang cuối cùng của Siu cô nương), mà lòng thì cũng nao nao xuất ngoại […] Mộ nói: "Chúng mày khéo lôi thôi, tao đã nói mãi: ra đi là mất. Mất thì phải làm lại, còn cãi nhau nỗi gì?" Lũy cãi: "Chết mất mát gì mà kêu ca.” Mộ phản đối: "Có mất. Mất một con đĩ và một cái xác chết.” Lũy tu một hớp rượu, gật gù, rất buồn: "Ừ, hai con đĩ và một cái xác chết.”
"Xin nói rõ: cái xác chết đây là cái xác chết của Hiểu: một thanh niên trí thức, loại bốn mươi, có học, có lý tưởng, nhưng chết vì đau ho lao nặng quá. Còn hai con đĩ: một con là Siu cô nương, một cô gái trí thức lai Tàu, làm việc cho một nhà khiêu vũ, biết nói tiếng Pháp, có trong tủ sách một vài cuốn sách hiện sinh… Mặc Đỗ đem Siu cô nương vào trong truyện làm cái cớ để cho những nhân vật khác lưu động trên sân khấu một cách mềm dẻo: một vai phụ nhưng chập chờn trong toàn diện cuốn sách như một nếp duyên… Còn con đĩ thứ hai là Loan, một cô gái đẹp của một nhà nho giáo, hy sinh tấm thân trong trắng cho sĩ quan Pháp để phụng sự đảng… Mà thiệt là cắc cớ: Loan lại yêu Thái, một luật sư ở Hà Nội – hai tâm hồn thương nhau nhưng tự dối mình, yêu nhau nhưng khó lấy nhau, giữa lúc một người (Loan) vào đảng cộng sản như tín đồ vào giáo đường, còn một người (Thái) lại chống cộng! Cuối cùng, Thái từ chối Loan và Loan thức một giấc mộng nửa hư nửa thực; và Mộ từ chối Siu để Siu chạy đi tìm một anh chàng trọc phú người Trung Hoa […] Thái, Mộ, Lũy, trên chuyến tàu vào Sài Gòn mơ hồ tiếc hai con đĩ trong tiềm thức mà không dám thú nhận. Vì vậy, Mộ và Lũy đã đặt mối tình với đĩ ngang cái chết thiêng liêng của một người bạn mà tình thân hữu cao quý như tất cả mọi thực thể có vị trí trên bàn thờ thần tượng. Cái chết của bạn và mối tình của con đĩ đều có địa vị trong lòng người: giữa hư và thực, giữa cái đáng tôn thờ và cái đáng chà đạp, biên giới lờ mờ không rõ ràng" (Tam Ích, Ý văn 1, Lá Bối xuất bản lần thứ nhất, Sài Gòn ngày 22. 2. 1967 – Bản điện tử do talawas thực hiện)
Nhưng nếu xét khác đi, Siu cô nương mới là nhân vật chính của "ý thức phi lý" để làm bật lên ý thức tiếp tục tranh đấu cho một cuộc sống xán lạn và công bằng hơn, dù có tuyệt vọng thể nào, của ba người đàn ông thua cuộc, ít nhất là vào lúc đó. Siu cô nương, gục xuống vì sự chối từ sống chung của Mộ – trong khi bao lâu nay nàng đã cứ đinh ninh là chắc chắn đến nỗi nhờ người bạn gái mua nhà trước ở Sài gòn "xây một cái tổ xinh xinh" cho hai người– đi thẳng đến trao thân cho một thương gia Hoa Kiều dù trước đó nàng ghét hắn cay đắng. Đó là một thứ tự vận chậm mà chắc cho một cô gái thông minh, có sắc và trí thức khi nhận ra sự phi lý của cuộc đời mình, một cuộc đời không do mình định đoạt dù cố gắng tới đâu: cái lúc tưởng cầm chắc một hạnh phúc thì cũng là lúc rơi ngay xuống vực. Siu cô nương rơi xuống vực vì nàng không đối diện được một cuộc đời vốn đầy những lẽ nghịch thường bủa vây bằng bao điều phi lý:
-"Cái phi lý ở đây bắt nguồn từ sự so sánh bi đát giữa cuộc đời phi lý với ý muốn trật tự, hữu lý trong thâm tâm con người. Giác ngộ rồi, sẽ thấy triết lý cao xa nhất là bám chặt lấy cuộc đời đầy phi lý, đi hẳn vào giữa khuôn khổ của hiện hữu, như lời thơ Pindare mà Albert Camus hằng yêu mến: “Hồn ta ơi đừng nghĩ đến cuối đời bất diệt, hãy tận hưởng, hãy khai thác triệt để khu vực của khả dĩ, của hiện hữu!.” Phải tận hưởng, phải sống nhiều vì thái độ khôn ngoan nhất vẫn là nhìn thẳng vào cái phi lý của cuộc đời, bình tĩnh khai thác tới mức tối đa cái gì là khả dĩ, trong khuôn khổ cuộc đời phi lý. Phải tạo nên một hình ảnh Sisyphe sung sướng trong cái phi lý, “phải tưởng tượng Sisyphe sung sướng” (lời Albert Camus) vì không còn giải pháp nào khác. Lối thoát tự nhiên người ta nghĩ đến trước nhất, khi cảm thấy đời phi lý, có lẽ là tự sát. Nhưng đó không phải là một giải pháp hay. Vì theo Albert Camus, khi biết cuộc đời phi lý, thái độ tự nhiên, thực nhất, tức là sống trong cuộc đời phi lý đó. Tự vẫn, tức là đã gián tiếp bắt cuộc đời phải có một ý nghĩa mà nó không hề có….”(Trần Hồng Châu, Dăm ba điều nghĩ về văn học nghệ thuật, "Camus giữa lòng thế kỷ XX: con người khao khát đi tìm hạnh phúc trong cái phi lý của cuộc đời,” trang 175-176, Văn nghệ xuất bản, 2003, Hoa Kỳ) (2)
Một cái chết thứ hai trong Siu cô nương – cái chết của Hiểu, người viết bản kịch Những người có mặt mà Siu cô nương đóng vai chính – cũng lại đậm nét ý niệm phi lý. Hiểu, một đảng viên của một đảng chống Cộng sản, không chết vì "đau bệnh ho lao" mà chết vì đầu hàng số phần thua trận trong trận đánh thứ nhất với người Cộng sản. Chàng không chịu uống thuốc nữa khi biết chắc người Cộng sản đã rõ nắm được Miền Bắc. Trong khi các bạn thân của Hiểu như Thái (luật sư), Mộ (chính khách) và Lũy (giáo sư nhưng hoạt động văn nghệ và chính trị) quyết tái lập một nước cờ khác bằng cách di Nam, Hiểu trốn bạn nằm đợi chết ở một nơi hẻo lánh. Thìn, bác sĩ của Hiểu, giải nghĩa cho các bạn của chàng:
-"[…]Chữa lao cũng như chữa cháy, thu hẹp phạm vi đám lửa lại được chừng nào càng hay. Tình trạng tâm lý của Hiểu hiện nay không khác nào đã cháy lại có chất rơm thêm ở chung quanh. Vừa đúng lúc bệnh sắp phát nặng thì hình như anh ấy có gặp một chuyện gì buồn lắm. Chính anh Hiểu cũng có chủ tâm không muốn khỏi, chữa bệnh như là ép uổng, thật khó quá…” (Siu cô nương, trang 255)
Hiểu phẫn chí vì sự thất bại của Hiểu và các đồng chí là một sự thất bại đau xót đã phải trả bằng xương máu:
"[…] Cái hồi bọn này thất bại, rút qua biên giới. Sau ba ngày lặn lội, không có lấy một miếng cơm, mưa tầm tã, lạnh thấu xương sống, trước khi leo qua đợt núi cuối cùng cao ngất trước mặt, già nửa anh em trong bọn đã ngồi vật xuống, không còn tinh thần để cố gắng nữa. Thằng Hải –cậu biết nó, phải không? – một tên được tiếng can trường trong bọn, ngước nhìn vách đá sừng sững rồi lắc đầu nói: “Lẽ sống của tao không ở bên kia vách đá, gia đình tao, vợ con tao còn ở Hà Nội cả. Cực khổ thêm một ngày nữa, để cũng chẳng tìm thấy một cái gì cụ thể, thật vô ích.” Già nửa số anh em đã cùng với thằng Hải ở lại với một mục đích cụ thể là tìm về với gia đình. Chúng nó đã sa hết vào tay Vẹm, không một thằng nào sống sót và gặp gia đình. Được cái đáng mừng là không thằng nào đầu hàng cả, dù có thằng mới cưới vợ được vài ba tháng trước khi đi với anh em. Còn bọn này cố leo qua mỏm núi, lần mò tới Côn Minh, với hi vọng tìm tới những gì cao xa lắm, nghĩa là cao hơn thứ gia đình, vợ con một bậc! Kết cục, trở về Hà Nội được, tìm lại được gia đình, sau hơn bốn năm lưu lạc bên Tàu. Để bây giờ chưa biết sẽ đi đâu. Bế tắc hoàn toàn bế tắc… (Mặc Đỗ, Siu cô nương) (3)
Đó cũng là một cách tự vẫn nhưng trong bối cảnh chiến tranh, càng đau xót phi lý hơn khi người ta đáng lẽ phải chiến đấu mạnh mẽ hơn cho niềm tin của mình:
-"Nhận định sự phi lý của kiếp người ở ngay bản thân mình, lối thoát độc nhất tưởng không ngoài việc tự tay chặt đứt dòng sống vô nghĩa và vô ích." Chỉ có một vấn đề triết học đích đáng là tự tử’. Điều đó dễ hiểu đối với một thế hệ đã sống giữa cuộc khủng hoảng kinh tế năm hai mươi tuổi và giữa chiến tranh khi vừa ba mươi tuổi. Sự tàn nhẫn của hiện tại đó đã thấp thoáng trong văn chương từ nhiều năm trước và thật tình rõ rệt đối với thế hệ Camus trong chiến tranh. Cuộc hành trình tinh thần được thể hiện trong văn chương không khởi điểm từ những gía trị sẵn có mà nhân những phiêu lưu của những con người bị ném vào cuộc đời với hai bàn tay trắng […] Nhưng tới Le Mythe de Sisyphe bắt đầu có một nhãn hiệu rõ rệt: ‘Sự tuyệt duyên giữa con người và cuộc đời, giữa kịch sĩ và bối cảnh, đích thực là ý thức phi lý’. Con người cảm thấy mất la bàn giữa một cuộc đời khách- lạ. Những ảo ảnh thần kinh không thề là một nguồn an ủi, nhưng càng vì sáng suốt mà từ chối những liều thuốc lú cổ điển, nông nổi khắc khoải càng tăng bội. Camus đã mượn một nhân vật trong kịch Caligula để nói lên: ‘Bỏ mất cuộc sống là chuyện không đáng kể, lúc cần đến tôi sẵn sàng đủ can đảm. Nhưng trông thấy tan biến cái ý nghĩa của cuộc đời này, tan biến đi cái lý do của sự hiện hữu đó mới là điều không thể chịu nổi…” (Mặc Đỗ, "Albert Camus và đạo sống,” Hiện Đại số 5 – Chủ đề "Những tác giả được giải thưởng Nobel Văn chương, trang 20, tháng 8.1960, Chủ nhiệm & Chủ bút: nhà thơ Nguyên Sa-Tài liệu của Thành viên Diễn đàn Sách xưa)
Nhưng cũng chính từ sự bế tắc rất phi lý đó mà Camus đề nghị một giải pháp thực tiễn:
-"[…] Phải bấu víu vào đâu để tìm thấy ý nghĩa cuộc đời?[…] Một khi đã ý thức được sự day dứt giữa nỗi thắc mắc của con người và tư bề lặng lẽ ở chung quanh, thái độ xứng đáng nhất là phải lao mình vào, dù biết rằng tuyệt vọng. Phải chọn một cuộc sống với một ý thức sáng suốt nhất, gạt sang bên những chuyện ưa may, từ chối hết thảy mọi ảo tưởng. Chọn cuộc sống dù nghĩ rằng cuộc sống phi lý, xã hội bất công và không mong đợi được chút gì ở những đấng thiêng liêng. Chính ở giữa nỗi cùng cực tuyệt vọng, sau khi đã nhận được tinh tế những giới hạn, sự thống khổ và những bất công ở cõi đời này, lòng yêu sự sống mới nổi dậy với những màu sắc chiêu dụ…” (Mặc Đỗ, sđd, trang 19-20)
Trong Siu cô nương, không chịu thua, nghĩ là tự tin vào sức mình để không chấp nhận một sự bỏ cuộc vô điều kiện, nhóm bạn Thái, Mộ và Lũy cùng anh em dựng vở kịch Những người có mặt công chiếu tại Nhà Hát Hà Nội trước khi bỏ Miền Bắc vào Miền Nam tiếp tục cuộc đấu tranh bằng văn nghệ. Họ vào Nam cùng ba tổn thương nhân mạng lớn Hiểu, Siu cô nương và Loan nghĩa là cũng đem theo sự mất mát của tình bạn và tình yêu vốn là cốt tủy của những người tranh đấu nhưng có tâm hồn rất nghệ sĩ này:
-"Thưa các bạn khán giả, vòm Nhà Hát Hà Nội hôm nay, lần cuối cùng, lại vang ngân tiếng nói của chúng tôi, của những người đã nhiều lần có mặt trên sân khấu này. Sân khấu nhà hát Hà Nội có thể coi như tượng trưng cho những hoạt động về kịch từ xưa tới nay, những hoạt động sẽ tạm chấm dứt kể từ sau hôm nay. Chúng tôi coi sự có mặt của anh em chúng tôi tại đây, đêm nay, như một dịp giã từ sân khấu Nhà Hát Hà Nội, giã từ cả thành phố Hà Nội mà chúng tôi đã để nhiều kỷ niệm. Vở kịch chính chúng tôi chọn để trình diễn đêm nay, do một sự tình cờ, mang tên Những người có mặt. Tác giả khi viết đã không định dành vở kịch cho một đêm như đêm nay. Chúng tôi đã chọn trình diễn vở kịch này vì thấy có một sự phù hợp đặc biệt với hoàn cảnh của chúng tôi và các bạn khán giả đêm nay. Không khí hậu trường của một ban hát trình diễn đêm cuối cùng trước khi đối phương tràn tới cũng giống như không khí của hậu trường Nhà Hát Hà Nội đêm nay. Ban hát trong kịch có mặt ở tiền tuyến đến phút cuối cùng cũng ôm ấp những tâm trạng không khác tâm trạng của anh em trong ban kịch chúng tôi. Sự có mặt của chúng tôi gửi hết ý nghĩa vào sự giã từ của chúng tôi với khán giả Hà Nội, với Nhà Hát Hà Nội và với cả thành phố Hà Nội.” (Mặc Đỗ, sđd trang 307)
Đoạn trên của Siu cô nương đã đạt được sức thuyết phục đến nỗi Cao Huy Khanh tin là phải có thực, đã xảy ra tại Nhà Hát Hà Nội, khiến ông ghi lại trong bài phê bình khi đưa ra trích dẫn:
-"Nếu cái sự kiện đó quả thật đã diễn ra ngoài đời dù chỉ đúng một phân nửa thì cũng xin mạn phép tác giả để trích lại ở đây như một chứng liệu lịch sử và văn nghệ đã xẩy ra của toàn thể dân tộc…” (Cao Huy Khanh, "Mặc Đỗ: Tiểu thuyết tiểu tư sản,” Khởi Hành số 77, trang 7, ngày 29.10.1970 – Chủ nhiệm & chủ bút Trần Văn Trọng, Thư ký tòa soạn: Viên Linh – Tài liệu của Lưu Đức).
"Lòng yêu sự sống" ấy sẽ thấy đậm đà hơn và hầu như bao chiếm từ truyện dài Bốn mươi cho tới một số truyện ngắn khác và nhất là trong các bài tiểu luận văn nghệ, đánh dấu giai đoạn Mặc Đỗ di xuống Miền Nam, tạm quên Hà nội để nhập vào "Sài gòn của tôi,” hòa với một môi trường sáng tác khác. Mặc Đỗ chính thức rời Miền Bắc, rời Tạp chí Phổ Thông – Cơ quan văn hóa của hội Ái hữu Cựu sinh viên Trường Luật, rời nơi ông xuất hiện đầu tiên với bút danh Mặc Đỗ.
II- Từ Bốn mươi tới Tân truyện
1-Bốn mươi
Bốn mươi xuất bản vào tháng 10. 1957. Mặc Đỗ có kèm hai trang Bạt, dưới hình thức một lá thư trả lời người độc giả đầu tiên, bày tỏ tâm nguyện của ông khi viết về một nhóm người "tiểu tư sản" khác. Quả vậy, các nhân vật trong truyện– nhất là Lê, nhân vật nam chính, tốt nghiệp tiến sĩ luật ở ngoại quốc nhưng không hành nghề mà chọn nghề văn, rồi Jacqueline Bùi, nhân vật nữ chính, cũng tốt nghiệp tiến sĩ luật ở ngoại quốc, bạn đồng song với Lê, về nước hành nghề luật – thuộc giới cực-thượng-lưu mà đa số độc giả không thể nào có dịp tham dự chung được. Tuy quả là có một giới như thế nhưng những tên Charles, Rosa, Jacqueline và cách xưng hô "toa toa moa moa.”... có làm người đọc khựng lại. Nói theo kiểu thời thượng bây giờ, các nhân vật trong Bốn mươi – bác sĩ, luật sư, thương gia, lái xe hơi, uống rượu mạnh – có lẽ gần với giới một-phần-trăm (The One Percent) hơn là đại đa số dân chúng trong xã hội này. Mặc Đỗ có lẽ đã đoán được sự dị ứng của giới chín-chín-phần-trăm (We are the 99 percent)" với Bốn Mươi nên mới có lời bạt đó:
-"[…] Tôi viết văn, tầm mắt dường như bao dung hơn, tôi đặt ranh giới quá rộng, và sẵn-sàng đồng minh với hết thảy những ai có ít nhiều cảm-tình. Trong dự-định rộng-rãi của tôi – đưa những người tiểu-tư-sản Việt Nam vào trong truyện – mẻ lưới đầu tiên tôi dành để chụp lấy những người đứng xa mực trung nhất, ở tận cùng cánh hữu. Tôi không thấy một lý-do gì để gạt họ ra khỏi hàng ngũ, nhất là tôi đã có nhiều cơ-hội để nhận thấy họ cũng ôm những thắc mắc như chúng ta. Rủ nhau cùng đi một đường vẫn hơn là đẩy họ đi theo những ngưởi khác.
Anh cũng trách tôi tại sao lại chịu khó gần “những con người như vậy.” Ở trên, tôi đã trả lời anh về điểm này được phần nào. Tôi cũng cần nói thêm: Quả tình tôi thích thú bước lại gần cái xã hội mà anh gọi là đang đi xuống đó. Tôi mắc cái tật ưa đằm mình trong những cái vô lý của thế hệ hiện tại. Vô lý là điểm đặc sắc nhất của xã hội đang thời, theo ý tôi. Những nhân vật trong truyện của tôi nhiều ít đểu biểu minh cho cái vô lý đang mang mang. Tôi vuốt ve họ là vì thế….” (Mặc Đỗ, sđd)
A! Nếu đề cập tới "cái vô lý của thế hệ hiện tại" hay "cái vô lý đang mang mang" thì cả giới "một-phần-trăm" lẫn giới "chín-chín-phần-trăm" sẽ có thể ngồi chung để bàn luận về nhiều sự phi lý của cuộc đời mà, như Mặc Đỗ sẽ chứng minh, không giới nào thoát khỏi.
Chu vi của nội dung Bốn mươi hẹp hơn Siu cô nương tuy trọng tâm của truyện vẫn là sự so găng giữa bên cộng sản (nằm vùng) và bên quốc gia-tiểu tư sản. Hiện tượng một số sinh viên thiên tả du học trở về, lẳng lặng tiếp tục công cuộc phá hoại của họ ngay trong Miền Nam là một thực tế hồi đó. Cho nên, các nhân vật trong truyện – tốt nghiệp khoa bảng từ ngoại quốc, có ảnh hưởng thực sự trên chính trường hay hậu trường Miền Nam – là nhân tố cho một cuộc thử sức mới với người cộng sản. Nhóm thân Cộng như Liêu, Biểu, sau khi nhận ra Lê và Jacqueline không còn mặn mòi với chủ nghĩa Cộng sản như hồi còn ở Pháp nữa, dùng bàn tay vô tình của Jacqueline phá tan một vụ làm ăn lớn của cụ Nghị đại tư sản, thân phụ của Lê. Hành động của họ hóa ra làm Jacqueline càng sáng mắt và giải thoát cho gia đình Lê khỏi bị trói buộc vào con đường làm giàu mãi mãi. Mặc Đỗ sử dụng mối tình giữa Lê và Jacqueline để dựng một câu chuyện có thắt mở hào hứng – người đọc có cảm tưởng đang ngồi bên cánh gà quan sát các diễn viên – nhưng, tuy không khác gì Siu cô nương, trọng tâm của truyện vẫn là mối băn khoăn về một phương cách chống Cộng hữu hiệu và một thực tế rút kinh nghiệm từ những bước vấp trong quá khứ:
– "Việt nói với Lê :
"-Hồi tôi ở Côn Lôn mới về, hỏi thăm tin các anh em cũ thấy nói anh ở Pháp và… liên lạc mật thiết với bên kia lắm?
"-Đúng. Nhưng thật ra có liên lạc mật thiết với một số người thì đúng hơn. Từ ngày về tới đây, tôi mới gỡ được cái mặc cảm phạm tội. Hồi ở bên ấy, tôi bị day dứt quá, trông trước trông sau có thấy ai ngoài bọn họ. Tôi còn bị mê hoặc sẽ một công đôi việc: sau khi thoát được ách thống trị của thực dân sẽ thực hiện ngay được một chế độ xã hội công bằng. Thú thực với anh, trước kia tôi không tin những người quốc gia vì họ thiếu hẳn một chủ trương xây dựng ở sau cuộc giải phóng dân tộc. Danh hiệu dân chủ suông không đủ để tin theo […] Đi với tụi bên kia tôi vẫn đinh ninh là sẽ làm một cuộc thí nghiệm, vì quả thực đứng gần họ tôi vẫn thấy có gì gai gai trong người. Thí nghiệm xong tôi có đủ can đảm để nhìn nhận sự sai lầm của mình ban đầu. Bây giờ tôi đã thấy tôi sáng ra nhiều lắm rồi, đã chọn được con đường nhất định…” (Mặc Đỗ, sđd, trang 81-82)
Có điều hết sức đáng chú ý là quan điểm của Mặc Đỗ về sự liên đới giữa kinh doanh và giới "sĩ phu.” Qua lời phát biểu của Lê, không chỉ giới tiểu tư sản mà một thế hệ sĩ phu mới được nuôi dưỡng bởi các thế hệ trước bằng bất cứ ngành nghề nào cũng sẽ giúp phần cho xã hội, một xã hội chống Cộng:
-"Lê vội nắm lấy câu nói của cha: ‘Con cũng đồng ý như cha vậy […] Chính nhờ sự hy sinh của Ba đến đời con lại nối tiếp được những hoài bão của đẳng cấp sĩ phu trước. Những trách nhiệm mà tổ tiên ta gửi lại, sau vài thế hệ bị hi sinh, bây giờ đã có những lớp người sẵn sàng nhận lấy. Con tin chắc Ba không nề hà gì mà không cho con được cái vinh dự đó.’
"Ông Nghị yên lặng nhìn con, lát sau cụ mới nói:
"-Tao đã mấy lần mắng mày điên. Mắng như vậy nhưng rồi cũng hối tiếc ngay. Tao nghĩ lại thì thấy rằng một đời tao hy sinh đã đủ lắm. Nói thế không phải là cho rằng đến đời mày cứ ngồi đó mà hưởng. Tao không nhìn thấy rõ nhưng tao có linh tính rằng đến đời mày, trong hoàn cảnh hiện tại, những trách nhiệm đã đổi khác đi, nó không còn là nhắm mắt làm giàu và cố nuôi con ăn học như tao đã làm. Ở đời tao chỉ thù nhất những người cứ bình thản để mặc cho đời trôi qua, tìm những việc dễ dàng , qua ngày đoạn tháng rồi lại đổ tại hoàn cảnh. Mày đã biết ý thức được trách nhiệm, biết mê say với trách nhiệm đã nhận, tao còn lo ngại gì. Làm giàu mãi, để rồi bị cuốn vào guồng máy, quên mất thực trạng của mình, đuổi theo những huyễn tượng, tao có muốn như vậy đâu…” (Mặc Đỗ, trang 205-207)
Cũng như trong Siu cô nương, Mặc Đỗ đã cho các nhân vật (thường là đàn ông) trong Bốn mươi đối thoại nhiều về tình thế chính trị và mối nguy cộng sản lúc nào cũng ám ảnh trên một xã hội mới dựng. Nhưng qua đến các truyện ngắn, độc giả sẽ gặp một Mặc Đỗ hơi khác. Các truyện ngắn này chú tâm về đời sống và tâm ý của phụ nữ nhiều hơn chút nữa mà "Tình thương trong ngoặc kép" hay "Trăng đỏ" là những truyện biểu diễn hoàn hảo được kỹ thuật sáng tác của ông. Nếu người đọc biết rằng ông sinh năm 1917 và so sánh văn phong ông với Nhất Linh (1906-1963) rồi Võ Phiến (1925-) hay Thanh Tâm Tuyền (1936-2006) là có thể tưởng tượng ngay được kỹ thuật ông đi trước và đi xa hơn đến thế nào. Hơn thế nữa, tuy dùng kỹ thuật Tây phương nhưng văn ông có đủ từ ngữ Hán việt khiến tăng thêm chất xúc tích và chuyên chở được sức nặng trong các tình huống bắt buộc. Là một dịch giả nổi tiếng, vốn xuất thân từ một nền văn chương ngoại quốc song song với văn chương Việt, ông lại càng tự làm giầu cho sáng tác của mình bằng vốn ngữ vựng và các tư tưởng dồi dào của nền văn chương ngoại quốc đó.
Riêng trong trường hợp này, có một sự tương quan đặc biệt giữa một vài truyện ngắn với truyện dài của ông: người đọc có cảm tưởng một số nhân vật trong Siu cô nương đã lẽo đẽo lẳng lặng lên tầu xuôi Nam cùng với Thái, Mộ và Lũy. Nhất là anh chàng Thái, nay hóa thân thêm thành vài anh chàng khác. Những thảo luận về chính trị, về xã hội từng chiếm đặc nhiều trang trong Siu cô nương và Bốn mươi sẽ lại tái hiện trong các truyện ngắn có trùng tên nhân vật Thái này. Mặc Đỗ không thể không biết có sự trùng hợp đó.
2- Tân truyện và Tân truyện, II
Sau hai tập truyện dài Siu cô nương và Bốn mươi (Đứng ngồi không yên, bản thảo đã hoàn thành của một truyện dài khác, hoàn tất sau Siu cô nương, đã bị tiêu hủy trong chiến tranh), Mặc Đỗ cho xuất bản hai tập Tân Truyện. Ông giải thích thể "tân truyện" như sau:
-"Danh từ tân truyện không do nơi sáng kiến của tôi […] Tân truyện gói trọn vẹn tinh thần của danh từ Pháp nouvelle (danh từ novel trong Anh văn tương đương với danh từ Pháp roman - tiểu thuyết trong khi tân truyện trong Anh văn lại mang tên short story - truyện ngắn) và chỉ loại truyện mà cái gút chính nằm trong một quãng thời gian ngắn và tình tiết không đòi hỏi phải cần thiết trở ngược lại dĩ vãng xa hơn việc giới thiêu nhân vật…” (Mặc Đỗ, Tân truyện, "Lời ghi chú của tác giả")
Tân truyện (Nhà xuất bản Quan Điểm, 1967) có cả thảy 11 truyện ngắn: Sợ (trang 11-27), Hai con mắt (trang 28-49), Sầu riêng (trang 50-66), Khung cửa mở (trang 67-79), Nhìn nhau (trang 80-99), Bốn người không ngủ (trang 100-118), Bát phở (trang 119-126), Một người muốn trốn (trang 127-144), Con muỗi (trang 145-173), Một cuộc phá hủy công phu (trang 174-203), Thày giáo (trang 204-225).
Tân truyện, II (Nhà xuất bản Văn, 1973) gồm 6 truyện ngắn: Bài thơ đánh mất (trang 5-26), Người đàn bà tìm lại được mùa xuân (trang 27-43), Thư của một người lối xóm nhiễu sự (trang 45-58),Trương Chi con gái (trang 59-76), Người đồng chí gánh cát (trang 77- 98), Tình thương trong ngoặc kép (trang 99-121)
A- Một ngụ ngôn trong truyện ngắn Mặc Đỗ
Chỉ một năm trước khi Miền Nam mất, Mặc Đỗ có một cuốn sách xuất bản mà rất ít người biết. Đó là cuốn Thần nhân và Thần thoại Tây phương (Cơ sở xuất bản Trương Vĩnh Ký, ngày 15.5.1974, Sài Gòn) nhắm giải đáp những điển tích xuất phát từ thần nhân và thần thoại Tây phương xuất hiện trong văn chương Tây phương. Về Sisyphe mà Camus đã dùng như một thí dụ để thuyết về vấn nạn "phi lý,” ông soạn như sau:
-"Theo thuyết thứ nhất hay thuyết thứ hai thì Sisyphe sau khi xuống Địa phủ đều phải chịu một cực hình. Vì cái tật gian giảo, Sisyphe phải lăn một phiến đá từ dưới chân núi lên ngọn một quả núi cao, khi lên tới ngọn núi lại thả cho phiến đá lăn xuống vực ở phía bên kia núi. Sisyphe ngày đêm ra sức lăn phiến đá lên cho tới đỉnh núi. Mồ hôi bốc ra trên đầu Sisyphe làm thành một đám mây bao quanh ngọn núi, Sisyphe lên tới đâu thì đám mây lên tới đó. Khi đem phiến đá lên tới đỉnh núi và sau khi ra sức đẩy qua mỏm núi cho rơi qua sườn núi bên kia thì Sisyphe lại bị một sức mạnh vô hình đẩy té lăn xuống chân núi. Mãi mãi không thôi, Sisyphe phải tiếp tục làm công việc cũ cứ lăn được phiến đá lên đến đỉnh núi lại bị té trở xuống và tiếp tục trở lại..” (Mặc Đỗ, sđd, trang 146-147)
Mặc Đỗ đã áp dụng thần thoại này vào truyện ngắn Bốn người không ngủ:
"[…] Tiếng động kéo dài: quẹt! quẹt! phá tan cái nhịp gióng một đang quen. Tôi đứng sững lại trước một ngõ hẻm. Tiếng bước chân không còn, nhưng tiếng quẹt! quẹt! vẫn tiếp. Tôi nhận thấy quẹt! quẹt! phát động từ một cái bóng lênh khênh tay cầm một cây chổi. […] Một tiếng cười gằn, nghe vui vẻ mà không ác. Tiếp theo là tiếng nói, cái bóng ấy nói: “Đây rồi!” và gọi tên tôi. […] Tôi theo chân hắn, cũng chẳng buồn tự hỏi tại sao Khả lại rỗi hơi đi tranh công việc của những ông quét đường chuyên nghiệp. […] Tôi theo sát sau lưng Khả, vừa toan bước qua ngưỡng cửa thì Khả vội la lên: “Ông ơi! Bỏ giày ra, bụi ở ngoài đời không vào được trong nhà này đâu.” […] Tôi ngạc nhiên thêm một lần nữa: người đứng trước mặt tôi cũng là một anh bạn cũ, đồng thời và đồng cảnh với Khả. Bách chỉ tay xuống sàn: "– Tên Thụy vừa mới lau xong đấy. Cậu tháo giày ra đi, bao nhiêu công phu của nó, bóng như thế kia ai lại nỡ giẫm giầy bụi lên? " […] Tôi ngủ gục trên ghế một lúc lâu. […]Trong số có mấy người đã chết, chết ngay trước mắt chúng tôi. Hôm nay bỗng nhiên không hẹn mà tụ họp tại đây đông đủ những người còn sống, làm sao tôi không khỏi kinh ngạc và mừng rỡ […] Khó mà quên được những ngày lẩn khuất trong những khu rừng ẩm ướt của miền Tây Bắc, gần biên giới Trung Hoa sau cuộc thất bại vì bị phản bội. Bọn chúng tôi còn lại bảy người. […] Chúng tôi còn phải thắng một trở lực ghê gớm hơn nhiều là cái bụng đói. Cái đói quy định tốc độ của cuộc lủi trốn trong rừng sâu. Ba người trong bọn đã nằm lại, không còn sức để đeo theo cuộc lữ hành xuyên sơn. […] Đó lại là những người lanh lẹ, tháo vát nhất trong bọn, những người đã chiến đấu hăng hái nhất nhưng không phải chiến đấu với cái bụng đói…” (Mặc Đỗ, Bốn người không ngủ).
Bốn người này, như Sisyphe, không ngủ cả đêm, một quét đường, một chùi sàn nhà, một đánh bóng giầy và một lo giữ sáng ngọn đèn dầu lạc.. Họ không sao mang được ba người đồng chí từ địa phủ kia trở về dương thế dù họ có quét, có chùi, có đánh bóng, có thắp ngọn đèn dầu suốt đêm này qua đêm khác. Và những cái chết kia? Cuộc sống cả là một sự phi lý: cái chết bị lãng quên hoàn toàn, chỉ còn trong một trí nhớ cũng đã muốn chết theo.
B- Cơn giông thời đại vần vũ – "Thái" trong truyện ngắn Mặc Đỗ
Nhân vật Thái, xuất hiện trong nhiều truyện nhưng hầu như trong cùng một tình cảnh và trưng bày cùng cá tính:
–Sợ: Thái là chồng của Loan, hoạt động chính trị bị bắt giam, vợ tên Loan
–Nhìn nhau: Thái là bạn của nhân vật chính Nguyên vốn định ở lại Pháp. Thái viết thư cho Nguyên có câu "Anh em hồi ấy, nay vỏn vẹn còn lại có mấy người, nhiều lúc cứ ngồi mà nhìn nhau..” (trang 86, sđd) khiến Nguyên quyết định hồi hương.
– Một người muốn trốn: Thái từ Miền Trung vào Sài Gòn làm báo, lâu ngày muốn trốn luôn họ hàng.
– Người đồng chí gánh cát: Thái thất vọng vì các bạn đồng chí cũ, bỏ đi sống bằng nghề gánh cát.
Qua bốn-mà-hầu-như-một chân dung của Thái này, Mặc Đỗ tạo ra một Thái khác, nhân vật chính trong Người đồng chí gánh cát. Đây là một trong những truyện ngắn hay nhất của ông mà kết cục dữ dội đáng mang nó lên hàng thế giới. Thái đây cũng là một bản sao của Hiểu (tác giả vở kịch) trong Siu cô nương, người phẫn uất đã chọn sự tự vẫn bằng cách không uống thuốc trừ lao, nằm đợi chết ở một nơi mờ mịt. Trái với Hiểu, tự hủy vì cảm thấy bất lực trước bước tiến của người Cộng sản vào Hà nội, Thái lánh xa anh em đồng chí (trí thức) vì thất vọng trước sự thay đổi của họ. Họ đã biến thành những kẻ vinh thân phì gia trong cộng đồng quan quyền mới. Thái ẩn mặt, trở về sống cùng với đám đông lao động- cái lý do chính và từ đầu của cuộc nhập thế của Thái và đám bạn hữu trí thức kia.
Không phải những người như Thái không lường trước được hậu quả bị kẻ trục lợi chiếm hữu ngay cuộc vận động có khi xương máu để thủ lợi. Một trong những vấn đề lớn nhất của người chống Cộng là không đủ thủ đoạn để bảo vệ kết quả có khi quá mong manh trước những kẻ đầu cơ chính trị. Vừa phải đỡ mặt trước trong khi ngoái che sau lưng, khó đoàn thể nào sống sót nổi:
-"[…] Thái đáp:
"Cậu hiểu lầm tôi, tôi không khoe khoang cái muốn chết của tôi, lẩn tránh tất cả đâu có phải là muốn khoe, sở dĩ tôi trốn, đóng vai xác chết, cũng bởi tôi còn ý thức trách nhiệm. Nhận rõ trách nhiệm của mình và biết sẽ không làm trọn cho nên phải trốn. Tôi không muốn dự một vai trong màn kịch phân hóa, tôi không muốn đang tay cầm dao cắt cái quả mà trước kia chúng ta ao ước được nâng niu, tôn thờ, cho nên phải trốn. Không trốn tất nhiên phải có ý kiến, có ý kiến thì tránh sao khỏi tham dự cuộc phân hóa. Biết rằng thân mình vô phương, tôi trốn với một hi vọng anh em sẽ đặt cái quả quý báu đã có lên ngai thờ, rồi quay ra làm việc khác, kiến tạo cái mới bằng yếu tố mới. Nhưng tôi thấy anh em cứ khư khư ôm lấy cái quả sẵn có. Tôi càng muốn trốn, muốn chết.
"Một lần nữa Giang biểu tỏ bực mình bằng một câu nói gắt
"– Một lần nữa tôi mong cậu gác cái vụ muốn chết sang một bên. Nếu ai cũng muốn chết như cậu thì lấy ai dìu dắt bọn tuổi trẻ.
"Thái chồm lên như vồ được món gì đang chờ đợi:
– Tôi sắp muốn đi tới đó thì cậu đã mở đường cho tôi. Điều mà tôi suy nghĩ nhiều nhất đúng như cậu nói. Nhưng tôi đã tìm ra chân lý. Những người lớn bây giờ đừng thắc mắc vì tuổi trẻ. Càng cố giữ vai trò người lớn chúng ta chỉ làm khổ thêm tuổi trẻ. Tại sao không để cho tuổi trẻ tự nó vươn lên? Bài học kéo dài đã bao chục năm chưa đủ mở mắt cho tuổi trẻ hay sao? Hay tuổi trẻ của chúng ta bây giờ cũng chỉ là thứ cây leo, cần có cái cọc mới leo lên nổi? Nguyễn Thái Học ngày xưa bao nhiêu tuổi mà tạo nổi cái nhân trong một hoàn cảnh eo hẹp gấp một trăm lần bây giờ. Những người lớn bây giờ cứ chết hết đi không chừng tuổi trẻ đỡ trông cậy, đỡ thành rặt một thứ cây leo! Đóng vai thủ chỉ để tranh nhau cái phao câu trong mâm cỗ việc làng thì người lớn chỉ dạy được cho tuổi trẻ những kinh nghiệm để trở thành thủ chỉ tranh ăn phao câu mà thôi.
"Nói xong Thái cầm lấy ly rượu tợp một ngụm lớn rồi quay mặt ngó mông ra xa. Giang đáp lại một câu, Thái cứ lặng yên không bắt lời. Hải nói một lời dàn hòa, Thái cũng không đáp. Dưới gốc cây bã đậu lặng lẽ đến nhiều phút dài. Hải chợt vỗ hai tay lên đùi, la lớn:’-Nguy hiểm, nguy hiểm, anh em mình tranh luận mãi bỏ nguội mất hết bao nhiêu công lao của chị Thái.’
"Nghe nhắc tới vợ, Thái quay lại ngó vợ từ nãy vẫn đứng đó, chẳng hiểu gì cả. Thái bèn đứng lên, đi thẳng ra phía đống cát trên bãi đất trống ở trước nhà. Thái cúi xuống vục đầy một thúng cát, lẳng lặng bưng tới dưới cây bã đậu, giơ cao thúng cát trên mặt chiếc bàn có bày những món nhậu khi nãy khói bốc thơm phức, và lật úp chiếc thúng. Cả một bữa tiệc chờ đợi bị chôn kín dưới đống cát. Thiếu phụ la lên một tiếng. Thái lặng lẽ liệng cái thúng không bên gốc cây, rồi đi vô nhà. Giang và Hải chỉ còn một nước là ngả đầu chào thiếu phụ vợ người bạn ngày xưa và kéo nhau ra đi trên con đường đất.” (Mặc Đỗ, Người đồng chí gánh cát)
Có thể nói mà có lẽ không nhầm rằng trong Văn học Miền Nam, không có tác giả nào, ngoài ông, trở đi trở lại thăm viếng một nhóm bạn cùng hoạt động và mặc niệm cái chết của những chiến sĩ chống Cộng đổ xuống trong một khu rừng hiu hắt nào đó bên này hay bên kia biên giới giáp Trung Hoa trong những truyện ngắn ác liệt như vậy. Điều đó có nghĩa quá khứ và cả hiện tại chống Cộng là một sự quan tâm rất đỗi nặng nề của ông. Hơn thế nữa, sự tranh đấu sao cho xứng với "vinh dự làm người" luôn ám ảnh ông. Chúng trào lên ở truyện dài và rồi tuôn qua truyện ngắn. Ngoài các ám ảnh đó, ra khỏi ảm đạm của sự chết và nỗi phi lý theo cùng sự chết; về phương diện văn chương, Mặc Đỗ xứng đáng được coi là một tiểu thuyết gia tâm lý – thay vì tiểu thuyết gia tiểu-tư-sản như một số người không đọc đủ vẫn gán cho ông, như Cao Huy Khanh đã bình phẩm – đã đưa nghệ thuật viết truyện ngắn lên rất cao trong khi ông không hề tự giới hạn vào một giới nào đó trong xã hội.
C- Gút mắt cuộc đời và Những cái chết của nhân vật nữ trong truyện ngắn Mặc Đỗ
Một trong những thành công trội nhất của Mặc Đỗ là sự linh động, sành sỏi và chính xác khi diễn tả tâm trạng những nhân vật nữ, nhất là khi các nhân vật này không chỉ thuộc một giai cấp nào đó mà thôi. Từ một cô vũ nữ vô duyên cho tới một bà nội trợ, từ một bà nạ dòng cho tới một cô "văn võ toàn tài" có thể uống rượu và đấu trí ngầm với một người đàn ông có vợ, từ một cô người làm xấu như Trương Chi tới một cô luật sư giàu sang tuyệt sắc từng du học bên Pháp, từ một cô dọn quán biết đọc Sartre tới cô biết đặt mìn phá hoại, v.v. …Mặc Đỗ đều đủ quan sát và suy luận để cống hiến những chân dung rất khó quên, kể cả chân dung về cái chết của họ. Mà không chỉ chân dung của riêng họ. Phía sau chân dung đó là cái xã hội hỉ nộ ái ố mà họ sống và chết. Và cả những người đàn ông dẫn đến cái chết của họ.
Những cái chết này có thể được ca ngợi (tác giả muốn phái nữ nhìn vào đó mà cảnh giác) hay cũng có thể để chỉ trích (tác giả quá coi thường sức sống nội tâm của phụ nữ) nhưng không thể từ chối rằng, trong truyện Mặc Đỗ, đã có những cái chết mãnh liệt và kinh động dù người chết là nạn nhân của hoàn cảnh như Vân, cô tớ gái nhảy lầu tự vẫn trong Tình thương trong ngoặc kép, hay một sự tình nguyện kết thúc cuộc đời mình khi nhận ra tình yêu đặt lầm chỗ vào một người đàn ông ươn hèn như Sương trong Sợ.
Trước khi bàn sâu xa hơn về các nhân vật nữ đó thì người viết muốn đưa ra một nhận xét đã luôn luôn đọng lại trong đầu mỗi khi gấp Siu cô nương, Bốn mươi hay các tuyển tập truyện ngắn của ông lại: Mặc Đỗ, dịch giả của rất nhiều truyện dài ngắn Âu Mỹ và bởi thế quen thuộc với nhiều trào lưu ngoại quốc, là một người hết sức chừng mực trong quan điểm văn chương cũng như trong quan niệm sáng tác. Ở ông, không có sự "đập phá,” không có chuyện "chủ nghĩa cá nhân" theo cái nghĩa người ta có thể sống bất cần nhân quần, gia đình và xã hội. Ở ông là một sự làm việc miệt mài và một tình thương rộng lớn đoàn kết con người trong nỗi khổ ải và bất lực chung. Bởi thế, ông gần Camus hơn trong ý nghĩ này:
-" Để kết luận, tưởng nên mượn một vài nét đè chừng của một người bạn, Jean Daniel, khi nói về Camus […] Đó là một thái độ của con người phản ứng lại hoàn cảnh bằng cách khôi phục những đặc tính của phẩm cách con người…” (Mặc Đỗ, "Albert Camus và đạo sống,” sđd, trang 23)
Chính vì thế, khi nhớ tới các "chủ nghĩa cá nhân,” "trường phái tự do đập phá" hay "hiện sinh" vv và vv mà người Sài gòn và tác giả Sài Gòn hay bị lôi vào, thú thật đôi khi người viết bật lên cười. "Bật lên cười" vì người viết không khỏi hình dung một Mặc Đỗ-nhân vật cũng đồng thời là hiện thân của một Mặc Đỗ-tác giả (dù biết đó là một sự liên tưởng tối kỵ) khi đọc tới vài câu hiếm hoi do các nhân vật nam nói với người yêu hay bạn hữu của mình về vấn đề hôn nhân trong sáng tác của ông. Mộ, một luật sư chính khách 40 tuổi, nhưng vẫn giữ tâm lý của một cậu nhỏ 18 tuổi, rón rén ra khỏi nhà đi chơi với bạn, sợ mẹ bắt gặp. Và khi Mộ trả lời Siu cô nương "Đi với em sao được, về mẹ đánh chết!" thì hình như đó không phải là một câu nói đùa. Lê, nhân vật chính trong Bốn Mươi, rất "tự do" trong việc sống chung với Jacqueline (không cần cưới hỏi), nhưng khi đối diện với cái mối nguy bị-bắt-lấy-vợ vì một lý do gần giống như Loan trong Đoạn Tuyệt thì lại rất bối rối: "Nhưng trong thâm tâm chàng cũng đành nhận thấy vô phương nếu cụ Nghị dùng tới đòn quyết liệt, đem tình thương của mẹ chàng ra để đánh giá sự lựa chọn của chàng. Đồng thời chàng cũng nhận thấy sót sa biết chừng nào nếu phải xa lìa Jacqueline. Chàng muốn điên lên[…] Và chàng cũng không thể chịu được nếu bà mẹ đau yếu phải buồn khổ vì mình…” (Mặc Đỗ, Bốn mươi, trang 55)
Thánh thần thiên địa ơi, chỉ biết ngồi đó "sót sa" và "điên lên" vì "vô phương" rồi tính bỏ người ta sao cho đặng?! Các cô "nữ quyền" đọc đoạn trên không khỏi dậm chân bứt tóc và muốn thò tay viết lại để cho Jacqueline, một trạng sư xinh đẹp từng chê dài cô chị dâu có bằng cấp của mình là chỉ biết ngồi nhà bận rộn với chồng con, khỏi mất mặt. Té ra tác giả đã quên còn có giới "We are the fifty percent,” là nữ giới nữa, ngoài cái "We are the ninety-nine percent" nữa sao?! Nhưng đây thuộc loại câu hỏi và phản ứng của những độc giả như anh chàng Việt khiến báo hại tác giả phải có lời biện luận ngay từ đầu. Nay xin trở lại phần nhận xét của một độc giả-tuyền-độc giả, dù là thuộc giới 50-phần trăm, chín-chín-phần trăm hay một-phần trăm.
a- Gút mắt cuộc đời – gút mắt kỹ thuật
Mặc Đỗ rất thành công trong thể truyện ngắn khi ông nhận ra và theo đúng nguyên tắc mà chính ông tuân theo: "Cái gút chính nằm trong một quãng thời gian ngắn và tình tiết không đòi hỏi phải cần thiết trở ngược lại dĩ vãng xa hơn việc giới thiệu nhân vật.” Cái "gút chính" này thường được mở ra chỉ trong một đoạn ngắn ở kết cục sau khi sự mô tả tâm lý các nhân vật một cách tài tình qua sự thể dần dần mở ra trước mắt người đọc. Nó là cú đấm "knocked out" khiến người đọc nhận ra nhân vật nào vẫn đứng vững trên võ đài bối cảnh. Nó giải thích chủ ý của tác giả và/hay chủ đích nguyên cả truyện.
Nhưng có khi nó trình bày một câu hỏi mà không giải thích: đó là truyện Trăng đỏ. Trăng đỏ chính ra là một ngoại lệ. Theo tác giả, ông đã định là một truyện dài nhưng viết được chừng 3 chương, 100 trang, thì bận công việc, phải gác lại. Khi quay lại, ông mất đà, chưa thể viết tiếp được nữa. Sau đó, một ngày kia, Mai Thảo muốn có một truyện ngắn, ông đưa cho Mai Thảo chương 1 đăng trên Văn, Sài gòn. Người viết cũng sẽ kèm Trăng đỏ trong phần nhận xét này vì dù không có trong hai tập Tân Truyện, chính Mặc Đỗ đã xem nó là một truyện ngắn, từng cho đăng lại trong tuyển tập Truyện ngắn mà ông mới xuất bản đây (Tủ sách Quan Điểm xuất bản, Hoa Kỳ, 2014).
Sau đây là vài thí dụ tiêu biểu:
Ở Sợ, Sương để lại một bức thư tuyệt mạng sau khi chứng kiến người chồng yêu của mình hất hủi vợ một người bạn tranh đấu cũ vừa bị bắt giam: "Cho nên đến lượt em, em cũng sợ. Em sợ anh, sợ cái vung chật hẹp đè nặng trên cuộc đời nhỏ bé của chúng ta…"
Ở Hai con mắt, Phan – một thanh niên đang cần "đứng đầu ngọn gió để làm một cuộc lựa chọn, để quyết tuyển" một chương trình hành động trong dao động lịch sử, cho mình và cho người– sẽ luôn luôn phải nhớ đến "hai con mắt" của một người đàn bà quê mùa Việt Nam, vì hoàn cảnh, lưu lạc sang chôn đời ở đảo Corse, nơi Phan đến du lịch: "Phan không bao giờ hết ăn năn khi nghĩ nhớ tới người đàn bà gặp ở bên đường trên bờ vụng Porto. Trời! Hai con mắt!"
-Ở Một cuộc phá hủy công phu, Thủy (trước đó được ông chủ hãng lớn tuổi đề nghị lấy làm vợ) thất vọng người yêu không muốn xây dựng với mình, đi lang thang trong đêm, hai lần tự nguyện làm điếm không công mà không ai nhận vì tưởng Thúy điên: "Sáng thứ hai, ông Vĩnh Phương là người ngạc nhiên trước nhất khi Thủy trả lời rất gọn rằng ưng thuận. Ông Vĩnh Phương không biết rằng hai lần phá hủy không đắt, đối với Thủy đã đủ giảm giá Thủy tới mức tương xứng với cái giá của ông ta rồi.”
-Ở Người đồng chí gánh cát, Thái, khinh rẻ đám bạn đồng chí cũ nay vinh thân phì da trên tiền của đồng bào: "Thái cúi xuống vục đầy một thúng cát, lẳng lặng bưng tới dưới cây bã đậu, giơ cao thúng cát trên mặt chiếc bàn có bày những món nhậu khi nãy khói bốc thơm phức, và lật úp chiếc thúng. Cả một bữa tiệc chờ đợi bị chôn kín dưới đống cát.”
-Ở Trương Chi con gái, Túy, một cô làm công yêu ông con trai bác sĩ của chủ nhà, trầm mình tự vẫn vào dịp cưới của ông ta: "Cả nhà chẳng ai buồn đọc báo, không ai biết báo có đăng tin vớt được trên sông Đồng Nai một cái xác thiếu nữ chết đuối trôi dạt vào bờ. Tin trong báo có ghi rõ không tìm thấy giấy tờ trên người tử nạn, chỉ ghi được đặc điểm người con gái chết đuối tuổi chừng mười tám với gương mặt rỗ hoa.”
-Ở Tình thương trong ngoặc kép, Vân, một cô tớ gái, nhẩy lầu tự vẫn sau khi nhận ra nơi cô đến làm công cũng là nhà của người yêu cô trước khi cô bị lừa gạt, bị hãm hiếp, bị trấn lột đến mang bệnh nặng cả về tâm thần lẫn thế xác. Cha của người yêu cô, chủ nhà, chính là vị bác sĩ đã hiểu hết sự tình, ráng sức cứu cô mà không ngờ vợ mình sau này sẽ mướn cô làm công ngay trong nhà. Cô càng không ngờ đứa em trai cô lại là người yêu của cô con gái chủ nhà. Hắn là đứa con hoang đàng đã dẫn cô đến số phần hôm nay: vì ăn chơi trác táng, hắn làm người mẹ góa của cô sạt nghiệp khiến cô phải bán thân để cứu đám ruộng vườn rồi sa vào tay một bọn bất lương. Cô dấu mẹ, dấu em, trốn biệt người yêu nhưng hôm nay tất cả mọi người đều có mặt ở căn nhà này và cô không còn cách nào trốn được nữa. Trước đó, vị bác sĩ và viên biện lý cũng muốn mang vụ cưỡng bức cô ra pháp luật nhưng không ai đủ biết hết nỗi khổ đau, nhất là nỗi đau thầm kín của cô mà giúp cô cho có hiệu quả: "Tất cả những người có liên quan tới cô gáỉ trong vụ này đều có biểu tỏ tình thương với cô gái. Nhưng bấy nhiêu tình thương đã không kéo được cô gái ra khỏi hoàn cảnh khốn khổ. Đặt bên thân phận cô gái, tình thương giống như một món trang sức đáng bày giữa hai ngoặc kép…”
-Ở Con muỗi, Thiện – bạn của Loan, linh mục, trước đó có yêu Loan– trở lại thăm có ý làm thuyết khách để hàn gắn cuộc li dị của hai vợ chồng Loan nhưng bất ngờ đụng đầu với một "con muỗi," là hiện thân cho một trái cấm quá rực rỡ và sống động đang nằm trước mắt chàng: "Thiện bất chợt chăm chú ngó một con muỗi khá to đậu từ lúc nào trên cánh tay của Loan để trần, duỗi dài trên mép giường. Cánh tay của Loan nây nả như nặn bằng mỡ sữa, con muỗi thì no tròn mà còn cố cong cái đít mọng lên, chúi đầu xuống hút máu. Thiện giơ tay đập mạnh con muỗi trên cánh tay Loan. Độ nóng của cơn sốt của Loan qua lòng bàn tay Thiện như một luồng điện mạnh. Con muỗi chết bẹp còn dính trên tay Thiện với một vệt máu đỏ tươi. Vệt máu đỏ gây một xúc động mãnh liệt trong đầu vị tu sĩ trẻ tuổi. Thiện vụt xô ghế đứng lên, chẳng kịp chào hỏi Loan, hớt hải chạy ra cửa. Ra tới sân, Thiện đưa bàn tay có dính con muỗi và vệt máu chùi vào vạt áo. Nghĩ sao Thiện lại vội túm lấy một chùm lá ở gốc cây trứng cá bên cổng hốt hoảng chùi tay. Rồi Thiện đi miết ra tận đầu phố, một tay cứ phủi mãi vạt áo không biết có dính chút máu nào không.”
Còn đây là trường hợp Trăng đỏ, một trường hợp ngoại lệ vì người đọc chưa thấy kết cục rõ ràng ngoài kết cục là có một vấn vương nào đã bắt đầu rất mơ hồ:
Ở Trăng đỏ, người đàn ông (nhân vật chính), suy ngẫm sau cuộc gặp gỡ với một phụ nữ trẻ xem ra có đủ bản lãnh, kể cả bản lãnh uống rượu mạnh và hút thuốc "bạc ngàn một điếu": "Biết đâu chỉ riêng mình thấy trăng đỏ, trăng đỏ là của riêng ta tại sao còn phải lôi thôi đi hỏi người khác? Hoặc giả, nếu vợ cũng nhìn thấy trăng đỏ thật, và hỏi tại sao. Tại sao? Biết trả lời thế nào?"
Nhưng chính vì kết cục này, truyện mở ra một cảm tưởng khác của độc giả không có cùng cảm tưởng trên: "Hoặc giả, nếu vợ cũng nhìn thấy trăng đỏ thật, và hỏi tại sao…” Người đọc có linh tính người vợ này hứa hẹn cũng là tay bản lãnh dù có thể không biết uống rượu mạnh hay hút thuốc "bạc ngàn một điếu": chữ "nếu" này hàm một ý hết sức quan trọng. Sự toan tính "dấu biến" của người đàn ông này dựa trên một thực tế cũng không nói ra ở đây: người vợ sẽ cũng nhìn thấy trăng đỏ chứ không có "hoặc giả" gì. (Ôi! nếu độc giả luôn luôn được viết đoạn kết thay cho tác giả!)
Ngoài kỹ thuật theo đúng nguyên tắc và tài tình mô tả tâm lý nhân vật như nhất quán từ đầu đến cuối– không có cô tớ gái nào lại bàn chuyện hiện sinh phi lý với một cô tớ gái khác hay không có cô trạng sư nào lại lo chạy vạy ra chợ mua rau, đến nỗi bị một con cá lóc nhằm ngày mưa vuột xạp bán cá văng xuống đường quẫy bùn vào chân…–, một yếu tố đặc sắc khác mà Mặc Đỗ hay sử dụng để tăng phần khích động cảm xúc nơi người đọc là hai thái cực trong một tình huống. Ở Trương Chi con gái, Túy chết vì quá đau khổ nhưng cái chết của cô không ai thương tiếc. Sự lưu luyến của cô với người con trai chủ nhà thậm tương phản với thái độ lãnh đạm của anh ta. Ở Tình thương trong ngoặc kép, một xã hội vô hồn, kim tiền đã trấn lột Vân, cô gái đáng thương nghèo khổ này đến tận cùng xương tủy đúng nghĩa đen. Ở Người đồng chí gánh cát, thái độ quyết liệt của Thái–chẳng thà về làm việc lao động để giữ sự trong sạch–kình địch với sự hèn hạ của những kẻ trí thức lợi dụng thời cơ.
Trong văn chương Mặc Đỗ, đó là những lúc ông bày tỏ được tinh thần nhân ái và có lẽ, mục đích viết của ông rõ ràng hơn hết. Ông viết không để bênh ai hay một giai cấp nào:
-"Khởi đầu nhất định chuyên về viết tôi đã có ý niệm rõ ràng về lựa chọn đó: tôi viết cho tôi trước hết, và để nói với độc giả nhiệt tình của người viết gửi trong chữ nghĩa viết ra. Lớn lên giữa những biến cố cuối thập niên 20 và dài sau năm đầu thập niên 30 tôi chịu ảnh hưởng nặng từ thời thế bên ngoài nên viết không để mua vui (hồi nhỏ tôi cứ tưởng viết truyện là để mua vui) cũng không chiều theo thị hiếu của độc giả. Tôi viết cho tôi vì cảm thấy viết được xuống giấy như giải thoát được điều gì đang dồn nén trên tâm tư…” (Nguyễn Tà Cúc phỏng vấn Mặc Đỗ, 1999).
Nhưng theo chính lời ông trả lời phỏng vấn và hiển hiện qua các sáng tác của ông. Mặc Đỗ cũng là người hết sức chú trọng tới tình cảnh phụ nữ.
b- Những cái chết của nhân vật nữ trong truyện ngắn Mặc Đỗ
Dĩ nhiên, các tác giả khác cũng tạo ra rất nhiều cái chết cho nhân vật nữ của họ. Nhưng ở đây, người viết muốn đưa ra hai cái chết của Sương, Túy cộng thêm ba cái chết tượng trưng khác của Siu cô nương, Loan và Thủy. Những cái chết này có thể được ca ngợi (tác giả muốn phái nữ nhìn đó mà cảnh giác) hay cũng có thể bị chỉ trích (tác giả quá coi thường sức sống nội tâm của phụ nữ khiến dễ dàng cho họ hủy mình trong bất kỳ hoàn cảnh nào.) Người viết bỏ qua những phê bình đó, chỉ đưa ra một nhận xét dựa trên một chi tiết cụ thể: Năm cái chết này đều xuất phát từ phản ứng của nhân vật nữ sau khi hoàn toàn thất vọng vì người yêu của mình. Nói một cách khác, đời sống của các nhân vật nữ này đặt trọn hết vào tay người yêu (hay chồng) của họ. Một khi mất chỗ tựa đó, đương nhiên họ không còn cách nào khác là tự vẫn. Vì sống làm gì nữa? Phi lý quá.
Phần Sương, trong thư tuyệt mạng để lại cho chồng, nàng tâm sự: "Khi anh đọc những hàng chữ cuối cùng này của em thì chắc chắn em không còn sống nữa. Sở dĩ em chọn sự kết thúc quyết liệt này vì em thấy em còn yêu anh quá, yêu như ngày nào chúng mình mới bắt đầu yêu nhau […] Em vẫn luôn luôn hân hoan rằng cuộc đời nhỏ hẹp hạnh phúc của chính mình thỉnh thoảng có đôi khi lộng gió, vì chúng mình có những người bạn như anh Thái. Không dè khi gió đến chính anh lại là người vội vàng lo đóng cửa cho chặt. Cho nên đến lượt em, em cũng sợ. Em sợ anh, sợ cái vung chật hẹp đè nặng trên cuộc đời nhỏ bé của chúng ta…"
Phần Túy, cảm giác xấu, bị bỏ rơi, chỉ ào ạt đến sau khi đám cưới của cậu con trai chủ nhà xảy ra: "Hòa trình luận án xong, tiếp theo là đám cưới, lấy cô Bích dược sĩ […] Trong khi ở nhà trên đông đảo ồn ào những khách khứa, Túy ngồi lặng lẽ một mình ở trong góc gara, bên đống sách báo chờ bán cho ve chai […] Bữa tối hôm đó chị bếp có chia cho Túy mấy miếng bánh ngọt và nguyên một chai nước cam đã mở nút nhưng không dùng đến, Túy nhận nhưng để y nguyên ở góc chiếc bàn mộc trong bếp. Chị bếp bận rộn cũng chẳng hỏi Túy tại sao chưa ăn….”
Phần Thủy, nàng quyết định lấy ông chủ hãng sau khi nhận ra Đạo không yêu nàng đủ để cùng nàng thoát ra cảnh ngộ lúc ấy: "Thủy vẫn không tha, còn cố nói:’ Không lo được chỗ ở, không chừng Thủy phải về dưới tỉnh với bà cô. Trước khi xa Đạo, Thủy muốn… muốn ở lại đêm nay với Đạo… Đạo cho phép nhé?’ Câu nói của Thủy có hiệu lực đem lại sức khỏe rất nhiều cho Đạo. […] Xa khỏi tầm tay của Thủy, Đạo mới đứng lại, hớt hải: ‘Không được đâu, Thủy ơi ! Đừng làm vậy, […] Không thể được… Với lại, tối nay Đạo mắc bận, phải đi bây giờ đây. Thủy dậy bận áo lại đi. Sáng mai tới chơi với Đạo thì hơn. Không kiếm được chỗ ở thì đành về tỉnh vậy. Bỏ sở làm cũng buồn quá nhỉ?’ Thủy không còn can đảm để nghe Đạo nói nữa, lẳng lặng ngồi dậy, mặc áo rất mau và đi ra cửa, không kịp chào hỏi Đạo một câu….”
Phần Siu cô nương, nàng ném cuộc đời vào tay Wồ sau thái độ dứt khoát của Mộ. Phần Loan, nàng gia nhập đám cộng sản chỉ vì yêu Siêu rồi sau này từ lỗi lầm này đến lỗi lầm khác, nàng tuy được tự do nhưng vì Thái đã có vợ, nàng tuyệt vọng ở lại phiêu lưu lần nữa.
Nếu quan niệm rằng viết tiểu thuyết để người đọc chia sẻ cảnh khổ với nhân vật và phóng tầm mắt ra ngoài truyện thì qua năm cái "chết" này, Mặc Đỗ đã thành công rồi.
Thứ nhất, ông đã diễn tả tâm lý các nhân vật nữ rất khéo, mà chính xác nữa – dù có khi làm độc giả, kể cả người viết, tức anh ách về tình yêu rất tai hại của họ – để người đọc cảm thương số phận phụ nữ trong thời loạn cũng như trong thời bình. Dù sang cả, trí thức hay nghèo hèn, vô học; phụ nữ không thoát khỏi lưỡi gươm thời thế, mối luyến ái sâu đậm với người mình yêu hay sự thiếu trắc ẩn của thế giới chung quanh khiến họ có những quyết định hầu như đi ngược lai sự suy nghĩ thông thường và nhất là đánh mất bản năng yêu sự sống vốn vẫn là bản năng vượt trên hết mọi bản năng khác.
Thứ hai, khi gây được phản ứng từ độc giả, ông gợi cho họ nghĩ đến hoàn cảnh và tâm nguyện của chính họ rồi cho chị em chung quanh. Ngay trong chị em chúng ta đây, có bao nhiêu chị em có lúc quẫn bách đến nỗi không có được 5 mĩ kim đổ xăng đi làm? Có bao nhiêu chị em từng làm nghề lao động khuân vác? Có bao nhiêu chị em ngồi luông từng chiếc áo dài sau khi đã cả ngày mỏi mệt làm kế toán tại một hãng tư? Chỉ mới nói tới chừng đó thôi chứ chưa nói tới việc nuôi con và việc lo cho gia đình. Suy ngẫm từ những câu hỏi đó, có thể chúng ta sẽ thấy việc một số phụ nữ lệ thuộc vào tình yêu (và sự tương trợ) của một người đàn ông đến nỗi phải tự tử sẽ không có gì đáng ngạc nhiên hết. Vì tuy vậy mà không phải họ chỉ mất tình yêu. Họ mất những gì còn quý báu hơn nữa: lòng tin vào nhân quần xã hội và một lý tưởng cao trọng qua hình ảnh người đàn ông đó.
Cho nên, khi đứng trước những phi lý của cuộc đời như cái chết của những nhân vật nữ đó, điều người viết – như một độc giả – rút ra là cái "đạo sống" (chữ Mặc Đỗ – Trần Hồng Châu gọi là "đạo hạnh phúc") của Camus. Cái "đạo sống" ấy khiến nhà văn trở thành một người hành động. Đây là lời của chính Camus:
-Kể từ khi sự không tham dự cũng bị coi là một cách lựa chọn, đáng bị trừng trị hoặc đáng khen ngợi vì vì chính bản chất lựa chọn của nó thì văn nghệ sĩ dù muốn dù không, cũng bị "đẩy xuống tàu.” Theo tôi tưởng, danh từ đẩy xuống tàu ở đây đúng hơn danh từ "đầu thế" (engagé). Bởi vì thật ra, đối với văn nghệ sĩ, đó không phải là một sự tình nguyện nhập ngũ, mà là một thứ dịch vụ quân sự. Ngày nay, mọi văn nghệ sĩ đều bị đầy xuống con thuyền thời đại của họ. Họ phải bấm bụng mà chịu vậy, dù họ có cho rằng con thuyền ấy có tanh ngòm mùi cá, rằng bọn cai tù ở trên thuyền nhiều quá và, tệ hơn nữa, rằng con thuyền đi lạc hướng. Chúng ta đang ở giữa đại dương. Văn nghệ sĩ, cũng như mọi người phải bắt tay vào mái chèo, khi đến lượt họ, chèo mà rán đừng chết gục, nghĩa là có thể tiếp tục sống mà sáng tác…” (Albert Camus, Văn nghệ sĩ với hiện đại, diễn thuyết tại Viện Đại học Upsal, Thụy Điển, ngày 14 tháng chạp, 1957 – Trần Phong Giao chuyển ngữ, Văn nghệ hiện đại, trang 36, Giao điểm tái bản lần thứ nhất, tháng chạp 1963, Sài Gòn)
Mặc Đỗ không bao giờ nhầm sáng tác và đời thật nhưng những bài viết và cả sáng tác sau khi ông rời Việt Nam năm 1975 sẽ chứng minh ông là nhà văn đúng cái nghĩa của Camus trên đây. Ông đã ở giữa đại dương và đã tiếp tục sáng tác. Trong kỳ tới, người viết sẽ bàn tới sáng tác của ông, sau khi ra khỏi nước, từ 1975 tới nay [NTC]
Chú thích
(1) "The most expensive medicine in Vietnam last August were pills for seasickness […] collaborators of the old regime and the bourgeoisie that had lost its privileges through social change wanted nothing but to escape at any price. Only those with a well-tested political conscience, and there weren’t many in a city that had been perverted by long years of American occupation, were prepared to stay. The rest, the immense majority, were ready to leave without even wondering what their fate would be[…]The people with the best political and professional training had been systematically murdered by the previous regime during Operation Phoenix, […] The exodus of refugees began in April 1975 […] Former army and police officers, known spies and torturers, as well as murderers in the pay of Operation Phoenix, fled the country […] The most serious problem that faced Vietnam after liberation, however, was not that of war criminals, but of the bourgeoisie of the South, who were almost all Hoa […] Under Yankee occupation, the city had completely lost its cultural identity, becoming an artificial paradise […] The cost of this delirium was stupefying: 360,000 people mutilated, a million widows, 500,000 prostitutes, 500,000 drug addicts, a million tuberculars and more than a million soldiers of the old regime, impossible to completely rehabilitate into a new society. Ten percent of the population of Ho Chi Minh City was suffering from serious venereal diseases when the war ended, and there were 4 million illiterates throughout the South…’.”..” (Gabriel García Márquez, "Vietnam Wars – Fighting to reclaim its devastated country, Vietnam faces a hostile China and the threat of a defeated enemy within its borders")
(2) "Trần Hồng Châu" là bút hiệu của giáo sư Nguyễn Khắc Hoạch, Khoa trưởng Phân khoa Văn khoa, Viện Đại học Sài Gòn. Ông cộng tác với các tạp chí Gió Mới và Tiền Phong (1945-1946) tại Hà Nội; chủ trương tạp chí văn nghệ Thế Kỷ 20 tại Sàigòn, 1960. Ông sử dụng bút hiệu Trần Hồng Châu trên Văn, Vấn Đề, Thế Kỷ 20 trước 1975 và trên Văn, Văn Học, Thế Kỷ 21, Khởi Hành sau 1975, tại hải ngoại.
(3) Côn Minh là một địa danh thuộc Trung Hoa, nơi mà đảng viên Quốc Dân Đảng phải lánh tại đó một thời gian. Nhất Linh Nguyễn Tường Tam và một số đảng viên đã từng sống tại đây. Theo hồi ký của bà Nguyễn Tường Bách (nhũ danh Hứa Bảo Liên) thì Côn Minh cũng là nơi đặt trụ sở của Việt Nam Quốc dân đảng: "Tới Côn Minh, sau một thời gian ổn định, tôi tìm đến trụ sở của VNQDĐ. Ở đó, tôi gặp ngay anh Tam[…]các anh phần nhiều làm thợ cắt tóc, bồi bàn hay khuân vác trên con đường xe lửa Côn Minh - Mông Tự để kiếm sống…” (Hứa Bảo Liên, Nguyễn Tường Bách và tôi – Hồi ký gia đình, trang 89, 92, tác giả tự xuất bản, 2005, Hoa Kỳ)
(4) "[…] Au milieu de ce vacarme, l’écrivain ne peut plus espérer se tenir à l’écart pour poursuivre les réflexions et les images qui lui [26] sont chères. Jusqu’à présent, et tant bien que mal, l’abstention a toujours été possible dans l’histoire. Celui qui n’approuvait pas, il pouvait souvent se taire, ou parler d’autre chose. Aujourd’hui, tout est changé, le silence même prend un sens redoutable. À partir du moment où l’abstention elle-même est considérée comme un choix, puni ou loué comme tel, l’artiste, qu’il le veuille ou non, est embarqué. Embarqué me paraît ici plus juste qu’engagé. Il ne s’agit pas en effet pour l’artiste d’un engagement volontaire, mais plutôt d’un service militaire obligatoire. Tout artiste aujourd’hui est embarqué dans la galère de son temps. Il doit s’y résigner, même s’il juge que cette galère sent le hareng, que les gardes-chiourme y sont vraiment trop nombreux et que, de surcroît, le cap est mal pris. Nous sommes en pleine mer. L’artiste, comme les autres, doit ramer à son tour, sans mourir, s’il le peut, c’est-à-dire en continuant de vivre et de créer….” (Albert Camus, Discours de suède, trang 15, http://classiques.uqac.ca/classiques/camus_albert/discours_de_suede/discours_de_suede.html