Danh ngôn

Trong mọi cộng đồng, chúng ta cần một nhóm thiên thần gây rối.

We need, in every community, a group of angelic troublemakers.

(Bayard Rustin – trích bài phát biểu tại New York City 1963)

Trong mọi trường hợp, chắc chắn rằng sự thiếu hiểu biết, đi kèm với quyền lực, là kẻ thù tàn bạo nhất có thể có của công lý.

It is certain, in any case, that ignorance, allied with power, is the most ferocious enemy justice can have.

(James Baldwin - No Name in the Street 1972)

Các cuộc cách mạng và các cá nhân có thể bị giết hại, nhưng bạn không thể giết chết các ý tưởng.

While revolutionaries and individuals can be murdered, you cannot kill ideas.

(Thomas Sankara, một tuần trước khi bị ám sát, 1987)

Không có cảm giác nào cô đơn hơn việc bị chính đất nước mình trục xuất.

There's not a more lonely feeling than to be banished by my own country.

(Kiyo Sato – Kiyo’s Story 2009)

Ban Biên tập

Địa chỉ liên lạc:

1. Thơ

tho.vanviet.vd@gmail.com

2. Văn

vanviet.van14@gmail.com

3. Nghiên cứu Phê Bình

vanviet.ncpb@gmail.com

4. Vấn đề hôm nay

vanviet.vdhn1@gmail.com

5. Thư bạn đọc

vanviet.tbd14@gmail.com

6. Tư liệu

vanviet.tulieu@gmail.com

7. Văn học Miền Nam 54-75

vanhocmiennam5475@gmail.com

Tra cứu theo tên tác giả

Thứ Ba, 6 tháng 10, 2015

TỪ ĐIỂN TIẾNG VIỆT MỞ: Bài 1 (Pháp quyền/ Pháp trị)

Văn Việt: Lâu nay, trên các phương tiện truyền thông và cả các văn bản hành chính, thậm chí các văn bản nghiên cứu của chuyên gia được công bố rộng rãi, không ít từ ngữ bị dùng sai hoặc được hiểu khác nhau, nhất là những từ ngữ dịch từ tiếng nước ngoài. Việc thống nhất, chuẩn hóa từ ngữ trong cộng đồng dân tộc là yếu tố rất quan trọng để phát triển đất nước. Trong hiện tình gần như thả nổi cách dùng từ trong xã hội Việt Nam, Văn Việt muốn có một đóng góp nhỏ vào việc chuẩn hóa từ ngữ tiếng Việt qua chuyên đề Thảo luận mang tên “Từ điển tiếng Việt mở”. Chuyên đề này sẽ đưa ra những từ ngữ thường bị dùng sai hoặc chưa thống nhất về nghĩa, về cách dùng, để mời các nhà ngữ học, các dịch giả, các nhà sư phạm, các biên tập viên sách báo, và tất cả những ai quan tâm đến sự trong sáng của tiếng Việt tham gia phát hiện và góp ý kiến. Những từ ngữ đưa ra thảo luận sẽ do mọi người quan tâm đề xuất, Văn Việt xin tiếp nhận và đưa lên.

Mở đầu chuyên đề này là cách dịch và hiểu thuật ngữ “rule of law” và “état de droit” do tác giả Trương Nhân Tuấn đề ra và phân tích trong bài viết mới đây của ông. (Văn Việt xin phép thay đổi tựa đề bản gốc để phù hợp với mục tiêu của chuyên đề thảo luận).

“Nhà nước pháp quyền” hay “Nhà nước pháp trị”?

Trương Nhân Tuấn

Từ cuối thập niên 90 của thế kỷ trước ta thấy giới học giả VN sử dụng thuật  từ « nhà nước pháp quyền ». Thuật từ này được các học giả giải thích ý nghĩa như là « rule of law » và « état de droit ».

Nhà nước VN hiện thời chắc chắn không phải là « nhà nước pháp quyền », nếu chấp nhận thuật từ này mang nội hàm của các khái niệm « rule of law » (của Anh) hay « état de droit » (của Pháp). Trên thực tế ở VN hiện nay, các chức vụ, từ cao đến thấp trong bộ máy nhà nước, đều được bổ nhiệm theo một « qui định bất thành văn » của đảng CSVN chứ không theo luật lệ quốc gia. Việc hành sử quyền lực cũng vậy, cán bộ các cấp sử dụng quyền hành một cách bất cập, không hề tuân thủ những qui định của pháp luật.

Lý ra, theo tinh thần của « rule of law » và « état de droit », quyền lực của mọi cán bộ, công chức điều hành bộ máy nhà nước đều bắt nguồn từ quyền chủ tể của nhân dân. Trong các nước dân chủ, thể thức trao quyền lực được thể hiện qua các cuộc bầu cử. Trường hợp công chức chuyên môn, việc bổ nhiệm phải tuân thủ các qui tắc luật lệ đã được quốc hội soạn thảo và thông qua. Tức là các công chức này cũng được nhân dân trao phó quyền lực một cách gián tiếp, bởi vì quốc hội là cơ quan đại diện của nhân dân.  

Một cách đơn giản, theo tinh thần của « rule of law » và « état de droit », mọi cách thức phân bổ quyền hành trong bộ máy nhà nước, hay mọi hình thức sử dụng quyền lực quốc gia, đều phải tuân thủ luật lệ. Từ cấp cao tổng thống, chủ tịch nước hay thủ tướng… cho đến cấp thấp tỉnh trưởng, huyện, xã trưởng… đều phải tuân thủ qui tắc này. Đó là « nền tảng » chính trị của các quốc gia gọi là « rule of law » hay « état de droit ».

Nhìn về VN hiện nay, nhà nước « pháp quyền xã hội chủ nghĩa » hiển nhiên không hề có nội hàm của « rule of law » hay « état de droit ». Việc bổ nhiệm nhân sự nhà nước và cách thức sử dụng quyền lực của cán bộ nhà nước cho ta thấy điều này.

Nhà nước VN đã, đang, và sẽ hướng đến một nhà nước mà trong đó cán bộ nhà nước cậy quyền cậy thế, sử dụng quyền lực (mà họ nghĩ là do đảng giao phó) để mưu đồ cho quyền lợi cá nhân và dòng tộc.

Một số điều cần bàn thêm về cách sử dụng từ ngữ và ý nghĩa của « nhà nước pháp quyền ». Điều này cần thiết nếu mọi người muốn xây dựng một VN tương lai  tốt đẹp hơn. Một VN dân chủ hóa, nếu thiếu vắng tinh thần trọng luật, từ trí thức, người dân cho đến cán bộ nhà nước, chắc chắn sẽ dễ sa vào hỗn loạn.

Tinh thần của « Rule of law » hay « état de droit », đơn giản chỉ là tinh thần thượng tôn pháp luật. Pháp luật ngự trị, phân bổ, chi phối, kiểm soát mọi quyền lực trong bộ máy nhà nước. Pháp luật bàng bạc trong không gian, trên mọi nẽo đường đi… Thuợng tôn pháp luật là tôn trọng những phép tắc để quốc gia, xã hội vận hành tốt đẹp, sự giao tiếp giữa người với người trong xã hội được hài hòa.

1. Về cách dịch thuật từ (thuộc về khái niệm) « rule of law » hay « etat de droit » thành « pháp quyền » và « nhà nước pháp quyền ».

Dịch « rule of law » hay « etat de droit » thành ra « pháp quyền » hay « nhà nước pháp quyền » là sai, về hai mặt ngữ và nghĩa.

Về mặt ngữ, đến nay không thấy học giả VN nào có thể giải thích một cách rành mạch chữ « quyền » trong từ « pháp quyền » là gì ? đến từ đâu ?

Chữ « quyền 權» trong tiếng Hán chỉ có một cách viết duy nhứt, vừa chỉ cho quyền (droit, right) trong quyền lợi, hay quyền (pouvoir, power) trong quyền lực. Ý nghĩa chữ « quyền » trong quyền lực khác hẵn với ý nghĩa chữ « quyền » trong quyền lợi. Chữ « quyền » cũng được sử dụng ở các thuật từ luật học như chính quyền, nhân quyền, tam quyền phân lập… mà ý nghĩa cũng như phạm trù chuyên môn của các thuật từ này hoàn toàn không dính dáng gì với nhau.

Chữ « quyền » trong « pháp quyền » là « quyền lực – power (Anh), pouvoir (Pháp) » hay là « quyền lợi – right (Anh), droit (Pháp) » ?

Không thấy học giả VN nào có thể xác định được việc này.

Chữ « quyền » bắt nguồn từ Mạnh Tử. Ông này có nói: « Nam nữ thụ thụ bất thân, lễ dã, tẩu nịch viên chi dĩ thủ, quyền dã ». Nam nữ trao và nhận không được trực tiếp gần gũi với nhau, đó là lễ; chị dâu bị đắm chìm đưa tay ra vớt, đó là « quyền ».

Chữ  « quyền » như thế bắt nguồn từ « lễ » của Khổng giáo.

Sử dụng một từ có nguồn gốc « lễ » cho một khái niệm về pháp luật (rule of law hay état de droit) là không hợp cách.

Trong khi các nước Á đông như Trung Hoa, Nhật, Nam Hàn… đều dịch « rule of law » hay « etat de droit » là « pháp trị » hay « nhà nước pháp trị ».

Ở Trung Quốc, từ « pháp trị » bắt đầu được sử dụng năm 1997.

Đại hội đảng CSTQ năm 1997 Giang Trạch Dân quyết định xây dựng một « nhà nước pháp trị xã hội chủ nghĩa ». Ý nghĩa của « pháp trị » của ông Giang là « dĩ pháp trị quốc », « kiến thiết xã hội chủ nghĩa pháp trị quốc gia » (hiểu theo tiếng Việt là xây dựng nhà nước pháp trị xã hội chủ nghĩa).  Các thuật ngữ khác như « pháp trị văn học », « pháp trị hóa »… cũng xuất hiện từ thời này. Đến thời Hồ Cẩm Đào thì có chủ trương « Xã hội hài hòa », nhưng không đi ra ngoài tư tưởng « nhà nước pháp trị xã hội chủ nghĩa » :  « hài hòa xã hội tựu thị pháp trị xã hội », có nghĩa là « xã hội hài hòa tức là xã hội pháp trị ». Sang thời Tập Cận Bình, mục tiêu « pháp trị » vẫn không thay đổi. Hội nghị Trung ương đảng Cộng Sản TQ năm 2014 nói về các mục tiêu : « ỷ pháp trị quốc », « kiến thiết trung quốc đặc sắc xã hội chủ nghĩa pháp trị », « kiến thiết xã hội chủ nghĩa pháp trị quốc gia »…

Trước đó từ « pháp trị » chỉ phía Đài Loan sử dụng.

Văn hóa VN, cũng như các nước Nhật, Đại Hàn… ảnh hưởng sâu đậm TQ. Nhứt là về chữ viết. Chữ Việt hiện tại chỉ mới « phát minh » chỉ sau khi trở thành thuộc địa của Pháp. Nhưng về phương diện từ ngữ chuyên môn, các nước này thường có sự đồng thuận với nhau, lấy từ nguyên là chữ Hán. Tương tự các nước Âu Mỹ, nơi đây các thuật từ chuyên môn đa số lấy nguồn từ Latin, Hy Lạp…

Trước 1975, VNCH cũng như các nước Nhật, Đại Hàn, Đài loan… sử dụng từ « pháp trị » và « nhà nước pháp trị » để dịch « rule of law » và « état de droit ».

2. Về ý nghĩa của từ « quyền » trong « pháp quyền ».

Một số học giả, nhà báo và nhà hoạt động nhân quyền VN gán cho chữ « quyền » ý nghĩa về « nhân quyền ». Số khác lại gắn chữ « quyền » vào quyền lực của nhà nước. Có người lại gán cho chữ « quyền » trong « pháp quyền » cả hai ý nghĩa quyền của « quyền lực » và quyền của « quyền tự do » :

« pháp quyền là những nguyên tắc và phương thức tổ chức quyền lực sao cho lạm quyền không thể xảy ra và quyền tự do, dân chủ của nhân dân được bảo vệ. “

Chữ « quyền » (nhân quyền và quyền lực) cách viết thì giống nhưng ý nghĩa thì hoàn toàn khác.

Điều này cho thấy học giả cũng như giới làm báo VN chưa có sự thống nhứt về ý nghĩa (của chữ quyền).

Sự lúng túng về ý nghĩa của chữ quyền đương nhiên phải xảy ra. Nếu ta tìm hiểu sâu xa, người khởi xướng việc « xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa » là ông Đổ Mười, vào cuối thập niên 90. Nghe nói ông Đổ Mười xuất thân từ nghề thiến heo. Trong khi từ « pháp quyền » lần đầu tiên sử dụng (trong lịch sử đảng cộng sản) là vè lục bát « Việt Nam yêu cầu ca », bản dịch « nôm na » của bản yêu sách 9 điểm « Revendications du peuple Annamite – Yêu sách của nhân dân An Nam ». Bài vè có câu :

« Bảy xin Hiến pháp ban hành
Trăm điều phải có thần linh pháp quyền »

Bản yêu sách « Revendications du peuple Annamite », do Nguyễn Ái Quấc ký tên, được gởi lãnh đạo các đại cường thắng trận trong Thế chiến I nhân hội nghị tại Versaille năm 1919.

Nguyên văn yêu sách số 7, bản tiếng Pháp : « 7/ Remplacement du régime des décrets par les régimes des lois. » (Nguồn : Les décolonisations au XXe siècle: La fin des empires européens et japonais, Par Pierre Brocheux, Annex 1.)

Tạm dịch ra tiếng Việt là : thay thế chế độ pháp lệnh bằng chế độ luật lệ.

Theo tài liệu của CSVN thì bản « yêu sách » này là của ông Hồ. Điều này không có gì chứng minh, ngoài tên « Nguyễn Ái Quấc », mà cái tên này chỉ là « bút hiệu » chung của một nhóm người VN yêu nước thời đó. Nội dung văn bản tiếng Pháp cho thấy tác giả là người rất am tường về pháp luật cũng như sử dụng thành thạo Pháp ngữ, mà điều này bản thân ông Hồ không có. Có thể ông Hồ là tác giả bài vè « Việt Nam yêu cầu ca » dịch một cách rất nôm na (phong cách của ông Hồ) bản yêu sách.

Từ « pháp quyền » ở đây có ý nghĩa gần gũi với « juridiction », tức là quyền được xét xử, hoặc là « législation – pháp chế », tức là tập hợp những bộ luật trong một quốc gia.

Người ta không thể lấy ý nghĩa của « pháp quyền » trong bài vè nôm na này để dịch « rule of law » hay « etat de droit ».

« Rule of law » và « etat de droit » là các khái niệm về luật học, theo đó quốc gia được thành lập và vận hành theo các nguyên tắc của luật lệ.

« Pháp quyền », nếu hiểu theo « juridiction », thì nó mang ý nghĩa « quyền » của « droit, right ». Nếu hiểu theo « législation – pháp chế », thì nó là các nguyên tắc về luật (trong quốc gia).

Các học giả VN cho rằng pháp trị là « rule by law », cai trị bằng pháp luật.

Nếu dịch « mot pour mot – word by word », “the rule of law” có thể dịch là sự thống trị của pháp luật. Ý nghĩa tiếng Pháp của từ « rule » trong « rule of law » là “règne”, tức là sự thống trị (ưu việt) chứ không phải là “cai trị”.

Như vậy, nếu theo tinh thần “trọng pháp” của các quốc gia dân chủ tự do, dịch « rule of law » thành « pháp quyền » là sai. Về ngữ cũng như về nghĩa. Dịch đúng phải là pháp trị. « Etat de droit » dịch là « nhà nước pháp trị ».

Nguồn: http://nhantuantruong.blogspot.com/2015/09/nhan-cac-vu-bo-nhiem-nhan-su-lanh-ao.html\