Danh ngôn

Trong mọi cộng đồng, chúng ta cần một nhóm thiên thần gây rối.

We need, in every community, a group of angelic troublemakers.

(Bayard Rustin – trích bài phát biểu tại New York City 1963)

Trong mọi trường hợp, chắc chắn rằng sự thiếu hiểu biết, đi kèm với quyền lực, là kẻ thù tàn bạo nhất có thể có của công lý.

It is certain, in any case, that ignorance, allied with power, is the most ferocious enemy justice can have.

(James Baldwin - No Name in the Street 1972)

Các cuộc cách mạng và các cá nhân có thể bị giết hại, nhưng bạn không thể giết chết các ý tưởng.

While revolutionaries and individuals can be murdered, you cannot kill ideas.

(Thomas Sankara, một tuần trước khi bị ám sát, 1987)

Không có cảm giác nào cô đơn hơn việc bị chính đất nước mình trục xuất.

There's not a more lonely feeling than to be banished by my own country.

(Kiyo Sato – Kiyo’s Story 2009)

Ban Biên tập

Địa chỉ liên lạc:

1. Thơ

tho.vanviet.vd@gmail.com

2. Văn

vanviet.van14@gmail.com

3. Nghiên cứu Phê Bình

vanviet.ncpb@gmail.com

4. Vấn đề hôm nay

vanviet.vdhn1@gmail.com

5. Thư bạn đọc

vanviet.tbd14@gmail.com

6. Tư liệu

vanviet.tulieu@gmail.com

7. Văn học Miền Nam 54-75

vanhocmiennam5475@gmail.com

Tra cứu theo tên tác giả

Thứ Tư, 29 tháng 4, 2015

LANG THANG QUA CHIẾN TRANH (2)

Thanh Thảo

Nhân đây cũng nói, lúc ở chiến trường Mỹ Tho, đội công tác Binh vận đã có ý định “bồi dưỡng” để kết nạp tôi vào Đảng. Nói thật, nếu thời điểm đang ở chiến trường, chứ không phải ở chiến khu, mà người ta kết nạp tôi vào Đảng, tôi đồng ý vào ngay. Bởi lúc đó, tinh thần là “’đảng viên đi trước”. Đi trước là chấp nhận tới chỗ ác liệt hơn, nguy hiểm hơn, chứ không phải “đi trước” để “ăn cỗ” hay ăn cái gì. Nhưng rồi, chắc cũng do số phận, người ta thấy tôi sống hơi tự do quá, hơi lông bông quá, lại ăn nhậu với anh em hơi bị nhiều, nợ nần cũng lắm, nên việc kết nạp Đảng gác lại. Dù sao, đó là một thiện chí của chi bộ hay đảng bộ ở chiến trường, và tôi cảm ơn vì điều ấy. Không vào Đảng, tôi vẫn sống và làm việc như vậy, lang thang như vậy, chẳng có gì thay đổi.

Khi trở về chiến khu, nhờ được ở cùng những người tốt như Năm Chiêu, Hai Hoàng, Tư Xuân…( và một số anh em nữa, tôi sẽ kể sau) mà tôi vẫn giữ được bình tĩnh để sống và làm việc trong hoàn cảnh thực sự khó khăn. Sau vụ “án thơ”, rất nhiều tin đồn bậy bạ về tôi, không hiểu bằng cách nào mà lan truyền ra tận Hà Nội, trong đó có cả tin tôi đi chiêu hồi(sic!). Đó là những tin đồn rất độc ác, nếu nó đến tai thầy má tôi, các cụ sẽ sống như thế nào ? Ngay ở hai Đài tại Hà Nội, người ta cũng có vẻ ngại khi dùng bài của tôi. Cảm thấy không ổn nếu cứ gửi các bài viết với tên Thanh Thảo, tôi đã lấy lại bút danh từ hồi còn học đại học là Thanh Nam để khỏi gây vướng mắc cho những nơi sử dụng bài vở của mình. Tôi đã làm đúng. Bài viết của tôi dưới tên “mới” đã tiếp tục được phát trên cả hai Đài một cách bình thường. Thậm chí trong thời gian “thọ nạn” ấy, tôi còn viết nhiều hơn, bài vở chất lượng hơn. Các công tác khác trong cơ quan tôi vẫn tham gia rất tích cực. Chỉ riêng khoản sinh hoạt Đoàn. Tôi đề nghị chi đoàn làm lễ cho tôi ra Đoàn do đã hết tuổi. Thực ra lúc bấy giờ tôi 28 tuổi, chắc cũng còn vài năm nữa mới đến tuổi ra Đoàn. Nhưng tôi chán. Chi đoàn đã nhiệt tình tổ chức lễ ra Đoàn cho tôi một cách hết sức vui vẻ. Và ngay thời gian đó, tôi bắt đầu viết vài chương thơ chuẩn bị cho một trường ca sẽ được hoàn thành sau giải phóng với tên “Những người đi tới biển”. Đó là tất cả những gì tôi có thể trả lời, một cách lặng lẽ, đối với những kẻ vu cáo và những thông tin ác ý về mình.
Nhưng, khi gặp nạn, lại gặp bạn. Bạn hiền, bạn tốt. Đời tôi luôn quí bạn, quí tình bạn. Trong khoản này, tôi đã được. Được bạn. Còn nhớ, trong lúc tôi buồn bã nhất bên sông Vàm Cỏ Đông, thì nhà thơ Chim Trắng đi bộ ngót một ngày trời đến với tôi. Trước đó, tôi chỉ biết tên và đọc thơ chứ chưa gặp và quen anh Chim Trắng. Dĩ nhiên, anh Ba (gọi theo thứ) càng chưa một lần gặp tôi. Vậy mà anh Ba Chim Trắng đi bộ cả ngày từ “cứ” Văn nghệ sang thăm tôi. Chỉ để anh em ăn với nhau một chén canh rau tàu bay, mắc võng nằm bên nhau chuyện trò suốt đêm. Suốt đêm ấy, chúng tôi nói chuyện về thơ, nói về người lãnh đạo đã “đánh” bài thơ tôi. Anh Chim Trắng là người ngay thẳng, và không biết sợ. Tôi để ý, khi nhận xét về ông Trần Bạch Đằng, anh Chim Trắng phê ông này thẳng thừng, không tỏ gì ngán ngại cả. Như anh Chim Trắng kể với tôi chuyện ông Tư Ánh phải hành quân trong lúc gian nan nhất, thì vẫn có những cận vệ đi trước rũ lá trên cành cây lúc hừng đông cho…sương rơi, khỏi ướt mình thủ trưởng. Có thể ông Tư Ánh không chủ trương làm thế, nhưng khi lính mình “sáng kiến” chuyện kỳ quặc như vậy, ông phải can ngăn chứ! Khi kể chuyện này, có thể vì anh Chim Trắng là một người hoạt động cách mạng đã từng vào tù ra khám, nhưng cái đó chỉ một phần, vì tôi thấy khối người cũng từng hoạt động, từng ở tù nhưng vẫn…sợ cấp trên ghê lắm. Anh Chim Trắng thì không. Đó là tính cách của anh, nhân cách của anh, chứ không chỉ vì anh đã từng trải.
Tôi bảo đảm, các nhà thơ trẻ bây giờ không thể nào có được cảm giác kỳ lạ đó, khi hai nhà thơ chưa từng gặp nhau lại mắc võng nằm bên nhau trắng đêm trong rừng, chỉ để nói chuyện thơ. Với chúng tôi hồi ấy, thơ thiêng liêng lắm. Sáng hôm sau, tôi với anh Ba lại ăn với nhau mỗi người một chén cơm rang, rồi tôi tiễn anh lên đường. Lại đi bộ một ngày trời về “cứ” Văn nghệ. Tôi nhớ hình ảnh nhà thơ Chim Trắng với dáng đi hơi chúi về phía trước, mất hút trong khoảng rừng già bên sông Vàm Cỏ. Chúng tôi đã trợ giúp cho nhau để cùng trụ lại trong những tháng năm khốc liệt cuối cùng. Chúng tôi đã biết vì nhau, và đó là điều đáng kể nhất.
Vừa tạm biệt nhà thơ Chim Trắng, thì ít bữa sau, nhà thơ Hữu Đạo lại tới thăm. Hữu Đạo là nhà thơ tranh đấu nổi tiếng trong phong trào học sinh-sinh viên Sài Gòn những năm cuổi 60 đầu 70 của thế kỷ hai mươi. Tôi đã đọc thơ Hữu Đạo in trên một số tạp chí văn nghệ thiên tả ở Sài Gòn, nhưng đây là lần đầu tiên tôi gặp anh. Hữu Đạo cùng một số anh chị em khác trong phong trào đô thị lên R dự một lớp tập huấn gì đó, rồi biết chuyện bài thơ của tôi bị “đánh”. Sau khi tới nhà in xin bài thơ bị xé khỏi cuốn tạp chí Văn nghệ, Hữu Đạo đã quyết định đi bộ một ngày tới thăm tôi. Chỉ để chia sẻ. Là một thủ lĩnh trong phong trào học sinh-sinh viên Sài Gòn, thơ rất dữ dội, nhưng Hữu Đạo( tên thật: Nguyễn Sĩ Hiền-quê Đồng Tháp) lại là người cực hiền. Anh nói năng nhỏ nhẹ, nhưng dứt khoát. Cái cách anh chia sẻ và ủng hộ bài thơ tôi, cũng ấm áp và dứt khoát, không đao to búa lớn. Mới gặp Hữu Đạo, nhưng tôi có cảm giác chúng tôi đã thân thiết với nhau từ lâu lắm. Có một sợi dây linh cảm giữa hai người bạn khiến chúng tôi mới gặp đã thân nhau, bất chấp những bài thơ gặp nạn, bất chấp các thủ trưởng quyền uy và những gì khác. Lại một đêm thức trắng bên sông Vàm Cỏ cùng Hữu Đạo. Lại một “bữa tiệc” canh rau tàu bay, như đã cùng với nhà thơ Chim Trắng. Cả Chim Trắng, Hữu Đạo và tôi, chúng tôi là những người tự do từ trong bản thể, và chỉ đơn giản như vậy. Thơ chúng tôi, yêu nước thương dân trong tình yêu tự do, và không chấp nhận đánh đổi tự do với bất cứ thứ gì. “Ta đã lớn ở bên này châu Á” là một câu thơ và cũng là tên một tập thơ của Hữu Đạo xuất bản nửa công khai ở Sài gòn ngày chống Mỹ. Tôi đã được đọc một số bài trong tập thơ này và càng yêu quí Hữu Đạo hơn.
Sau giải phóng, một hôm đạp chiếc xe đạp cà tàng không chắn bùn chắn xích không chuông không phanh từ chiến khu mang về (loại xe đạp khiến người dân Sài Gòn hồi đó rất…ngưỡng mộ, có lẽ vì nó lạ, nó “không giống ai”) đi nghêu ngao giữa Sài Gòn, tôi tình cờ gặp lại Hữu Đạo. Giữa Sài Gòn, hai anh em ôm nhau, rồi lập tức dìu nhau vào một quán cóc bên vỉa hè làm mấy chai bia “con Cọp” mừng hội ngộ. Hữu Đạo nói với tôi là anh đang làm công tác Đoàn, hay một cái gì tương tự như vậy, ở một quận Sài Gòn. Tôi cũng vô tâm tới mức không hỏi lúc này anh sống như thế nào, đã lập gia đình chưa. Tôi đâu có ngờ, đó là lần cuối cùng tôi gặp Hữu Đạo. Vì ít lâu sau, tôi lại lang thang qua nhiều tỉnh thành ở miền Nam, trước khi trở ra Hà Nội. Khoảng tháng 8 năm 1975, từ Hà Nội tôi nhận được điện tín, hình như của Tám Nhân, báo tin Hữu Đạo đang nằm bệnh viện Sài Gòn vì bị bệnh tim rất nặng. Tôi đã viết bài thơ này, như một mong ước, như lời cầu nguyện, rằng tôi sẽ còn gặp lại người bạn mà tôi yêu quí. Nhưng điều đó đã không xảy ra. Hữu Đạo đã mất, còn tôi lại phải xuống tận Hải Dương, ở một trung tâm an dưỡng dành cho lính từ chiến trường B ra Bắc.
Sau này, khi gặp và chơi thân với Nguyễn Công Khế, tôi lại nghe Khế kể về thời gian Hữu Đạo và Khế ở trong tù. Nghĩ thương bạn mình hơn. Theo lời Khế, thì thời gian ở tù, Hữu Đạo đã có người yêu tên là chị Hương. Nhưng sau giải phóng, anh chị chưa kịp làm lễ cưới thì Hữu Đạo mất. Khi những người tài năng và tốt lành như Hữu Đạo lại phải chết trẻ, khiến bạn bè nhiều lúc cảm thấy xót xa. 40 năm đã trôi qua từ ngày Hữu Đạo vĩnh biệt bạn bè, đọc lại những bài thơ của anh được nhà báo Lê Văn Nuôi-bạn tranh đấu của Hữu Đạo-giới thiệu, càng hiểu thêm về phong trào đấu tranh ở đô thị miền Nam thuở ấy, cũng như những đóng góp không hề nhỏ của lớp trẻ học sinh, sinh viên Sài Gòn-trong đó có những nhà thơ trẻ, những nhạc sĩ trẻ- cho ngày Thống Nhất.
Nhân đây cũng xin nói, chính vào năm 1974, khi tôi phải “xơi quả đắng” vì bài thơ “Một người lính nói về thế hệ mình”, thì lời giới thiệu đầy tình cảm ngọt mát của nhà thơ Chế Lan Viên cộng với 13 bài thơ trong tập “Dấu chân qua trảng cỏ” mà ông chọn đăng trên tạp chí Tác Phẩm Mới-hình như là số tháng 4/1974- đã góp phần cứu gỡ cho tôi khỏi một cái “án văn” tào lao. Tào lao với bây giờ, nhưng hồi đó là có thể chết người. Dù Chế Lan Viên đã rất cẩn thận, không cho in hai bài thơ “Thử nói…” và “Một người lính…”, thì 13 bài thơ in trên Tác Phẩm Mới vẫn gây được ấn tượng với Hà Nội. Nhuận bút 13 bài thơ là 120 đồng( bằng hai tháng lương thiếu úy của tôi). Thầy tôi nhận, và sau giải phóng khi tôi trở ra Hà Nội, ông đã giao lại hết cho tôi để…uống bia hơi với bạn bè. Tất cả những thông tin ấy, sau ngày giải phóng tôi mới biết. Còn lúc ở R, thì chỉ nhận được những ánh mắt cảnh giác của các thủ trưởng, sự ái ngại của bạn bè, cùng một cái “thư ngỏ” tố cáo dài cả chục trang của một “chiến sĩ giải phóng quân” nào đó, kết án gay gắt bài thơ “Một người lính nói về thế hệ mình”. Bức thư này được Ban Văn nghệ R. gửi cho tôi qua bản đánh máy 8 trang, kèm bức thư viết tay khá nhẹ nhàng của nhà văn Lý Văn Sâm-trưởng Tiểu ban Văn nghệ. Do có nhiều bạn thân ở Tiểu ban này, nên tôi biết ông Hai Lý( Lý Văn Sâm) là một người rất hiền. Đây cũng là chuyện “chẳng đặng đừng” mà ông buộc phải làm, chứ thâm tâm ông đâu có thù oán ghét bỏ gì một cây bút trẻ như tôi. Tất nhiên, chả phải ông Hai Lý sợ ngài “chiến sĩ giải phóng quân” viết thư ngỏ tố cáo kia, người mà ông sợ là ông Tư Ánh( Trần Bạch Đằng). Mà ông Tư Ánh thì…đáng sợ thật đấy! Không chỉ là nhà cách mạng chuyên nghiệp, nhà lãnh đạo chuyên nghiệp, ông Tư Ánh (Trần Bạch Đằng) còn là nhà thơ, nhà văn, nhà phê bình, nhà viết kịch, nhà tuyên huấn, nhà…Ông có tới hơn mười cái “nhà”, mà nhà nào cũng cỡ “biệt thự” cả! Vì thế, nên khi ông Tư Ánh-mới chuyển từ T4( Sài Gòn-Gia Định) về làm phó ban trực Ban tuyên huấn R, thì vô phúc cho tôi, bài thơ “Một người lính nói về thế hệ mình” của tôi được chọn in trên tạp chí Văn nghệ giải phóng. Đây là tờ báo chính thống của Văn nghệ Cách mạng miền Nam, nhưng từ 1970, do mải chạy càn sang Cămpuchia, nên tờ báo này phải tạm đình bản, không in được. Cho tới năm 1973, sau Hiệp định Paris, hơi yên yên một chút, bên Văn nghệ R mới rục rịch in tạp chí trở lại. Số đầu tiên “chào bàn…lại” ấy, nghe nói Tổng biên tập là nhà văn Anh Đức, còn biên tập thơ là nhà thơ-nhạc sĩ Diệp Minh Tuyền. Thì vừa lúc tôi lớ ngớ gửi bản thảo cả tập thơ “Dấu chân qua trảng cỏ” sang Văn nghệ R. nhờ các anh đọc giúp. Nghe nói, cả Anh Đức và Diệp Minh Tuyền đều rất thích bài thơ “Một người lính…” trong tập bản thảo, và các anh đã quyết định dùng nó. In nguyên văn, không sửa chữa gì hết. Đó là niềm hạnh phúc lớn cho tôi, một người viết trẻ. Tôi mừng lắm, tính lúc nào tạp chí ra, sẽ đi cùng Tư Xuân sang “cứ” Văn nghệ cảm ơn các anh. Không ngờ…Nghe nói, lúc tạp chí còn ở nhà in, thì bài thơ của tôi đã đến tay ông Trần Bạch Đằng. Ông đùng đùng nổi giận. Thực ra, bây giờ bình tĩnh đọc lại, tôi vẫn không hiểu hồi ấy ông Tư Ánh giận bài thơ ở điểm nào. Có gì đáng giận cơ chứ ? Mà ông giận thật, hay ông giận…chính trị ? Ông Trần Bạch Đằng mất rồi, nên cũng chẳng biết hỏi ai. Chỉ biết, hồi ấy, tôi cũng nghe bạn bè nói lại, ông Tư Ánh đã viết một bản báo cáo dài tới… 8 trang( số 8-số “phát”) gửi Trung ương Cục(Cục R) về “hiện tượng” bài thơ của tôi. Tất nhiên là phê phán rất nặng nề. Kịp thời hưởng ứng báo cáo mang tính chỉ đạo của ông Tư Ánh là bức “thư ngỏ” dài 8 trang đánh máy( lại số 8 ) của một “chiến sĩ giải phóng quân” - dĩ nhiên là thư nặc danh. Về mặt “lên đời lập trường” thì có lẽ bức thư ngỏ này còn đáng bậc… ông nội so với báo cáo của ông Tư Ánh, dù ông Tư là lãnh đạo, còn tác giả thư nặc danh này chỉ là… chiến sĩ giải phóng quân(?)
Nghĩ lại còn thấy kinh!
Sau giải phóng rất lâu, một lần ngồi uống rượu với nhà văn Thái Vượng ở nhà dịch giả Nguyễn Trung Đức, anh Vượng đã kể tôi nghe “vụ án thơ” của tôi hồi ấy, và nói đích danh ông bạn “chiến sĩ giải phóng quân” viết thư tố cáo kia là ai luôn. Nhà văn Thái Vượng khi đó là cây bút trẻ của Văn nghệ quân Giải phóng, ở cùng với ông “chiến sĩ giải phóng quân” kia, về sau là một nhà thơ khá nổi tiếng. Và tôi quen. Quen nhưng không hề biết ông ta là tác giả bức “thư tình 8 trang đánh máy”. Nhà văn Thái Vượng đã mất khá lâu rồi, cũng như ông Trần Bạch Đằng đã mất, nên “hồ sơ xếp lại”… cho qua, vì thiếu nhân chứng. Bây giờ chuyện này nghe có vẻ buồn cười, nhưng hồi đó thì không phải vậy. May cho tôi, khi vụ “án thơ” xảy ra, tôi vẫn đang ở Tuyên truyền Binh vận, vẫn hàng ngày viết các bài báo về binh vận cho cả hai Đài: Giải phóng và Tiếng nói Việt Nam. Và mọi người ở Binh vận cũng chỉ biết tôi là một người làm “báo nói” như vậy. Thơ không tới được khu vực này, nên cả thư tố cáo về thơ cũng không làm mưa làm gió được. Còn nhớ, khi hay tin bên Văn nghệ R bị buộc phải xé bỏ bài thơ “Một người lính nói về thế hệ mình” khỏi tờ tạp chí Văn nghệ Giải phóng (tình cờ mà bài thơ của tôi in tròn 4 trang - gọn trong hai tờ giấy-nên xé bỏ rất dễ), nhà văn Lưu Kiểng Xuân mặt rất nghiêm trọng, đã nói với tôi: “ Rồi lịch sử sẽ viết: vào ngày đó tháng đó năm đó, ông Trần Bạch Đằng đã xé thơ ông Thanh Thảo. Tôi, Lưu Kiểng Xuân, làm chứng điều này.” Tôi nghe Tư Xuân nói, vừa cảm động, vừa buồn cười: “Gì mà ghê thế! Ông Tư Ánh xé thì thơ tôi vẫn còn đó, tôi vẫn nhớ, chép lại được, có sao đâu!” Nói vậy để tự trấn an, chứ tôi cũng cảm thấy rất buồn. Và lo ngại nữa. Rồi mọi người sẽ nghĩ về mình thế nào, và họ sẽ còn làm gì mình đây ? Thực lòng, tôi không biết đã viết sai cái gì trong bài thơ mà mình dồn tất cả tâm huyết, tình yêu và sự trải nghiệm vào đó? Một thời gian sau, ông Bảy Dự - phụ trách Ban binh vận R - cho mời tôi lên gặp. Tại ngôi nhà làm việc của ông Bảy Dự trong rừng, tôi đã nghe ông Bảy - một nhà cách mạng và nhà lãnh đạo chuyên nghiệp (sau giải phóng ông Bảy Dự là Phó bí thư thường trực Thành ủy TP Hồ Chí Minh), nhưng không rành về thơ - giảng giải cho tôi về từng đoạn thơ của tôi, rải rác trong một số bài thơ. Ông đã ghi chép rất cẩn thận (không biết ông lấy từ đâu) và đọc cho tôi nghe, sau đó… bình. Và phê phán. Tôi rất ngạc nhiên, không ngờ thơ mình lại bị hiểu một cách tù mù như thế. Tôi vốn không sợ, không ngại gì các bậc lãnh đạo, nhưng tranh cãi chuyện thơ với một người không hiểu về thơ, dù người đó là lãnh đạo, thì thật khó. Tôi biết ông Bảy Dự là người tốt, ông Bảy cũng quí khả năng làm việc và tính cách “ăn chịu” với chiến trường của tôi, nhưng phải tranh luận với nhau về... thơ thì khổ quá. Khổ cho ông, mà cũng khổ cho tôi. Thôi đành ngồi im nghe ông nói. Cũng may là sau đó, ông Bảy Dự chuyển qua đề tài khác, nên tôi và ông có thể chuyện trò với nhau thoải mái hơn. Tôi hiểu, ông Bảy rất không muốn làm lớn chuyện này, mà bản thân ông cũng thấy nó chẳng có “vấn đề” gì to tát. Nhưng, chắc chắn là ông Bảy đã bị tác động của ông Tư Ánh, và “các cụ” bên Cục R. Đây là lúc tình hình chiến sự đang rất phức tạp, và các nhà lãnh đạo VC không muốn những người trong hàng ngũ mình bị phân tâm. Bài thơ của tôi, thực chất là bài thơ chấp nhận cuộc chiến, chấp nhận hy sinh, chứ không hề là bài thơ phản chiến như có một số người cố tình hiểu sai. Nhưng nó chấp nhận cuộc chiến trong thực trạng, chứ không chấp nhận theo kiểu tuyên truyền. Mà lúc bấy giờ thì văn học cách mạng tràn ngập các tác phẩm tuyên truyền, nên có tác phẩm nào “hơi khác” một chút là người ta nhận ra ngay. Không phải tôi cố ý làm khác, mà vì tôi không thể viết khác những gì tôi đã thấy và đã trải nghiệm. Nghe nói, khi bài thơ chính thức bị “cắt bỏ” khỏi tờ tạp chí Văn nghệ giải phóng, nhiều chiến sĩ giải phóng quân (không có ông “chiến sĩ…tố cáo” kia tham gia) đã tới tận nhà in Giải phóng để…xin bài thơ. Họ xin làm gì, nếu không phải để đọc ? Hóa ra, nếu không bị xé, chắc gì bài thơ tôi đã tới được với nhiều người đọc như thế?
Ơn kẻ dữ, không ơn người lành, là vậy.



MỘT NGƯỜI LÍNH NÓI VỀ THẾ HỆ MÌNH

ngày chúng tôi đi
các toa tàu mở toang cửa
không có gì phải che dấu nữa
những thằng lính trẻ măng
tinh nghịch ló đầu qua cửa sổ
những thằng lính trẻ măng
quân phục xùng xình
chen bám ở bậc toa như chồi như nụ
con tàu nổi hiệu còi rung hết cỡ
và dài muốn đứt hơi
hệt tiếng gã con trai ồm ồm mới vỡ

thế hệ chúng tôi
hiệu còi ấy là một lời tuyên bố
*
* *

một thế hệ mỗi ngày đều đụng trận
mà trách nhiệm nặng hơn nòng cối 82
vẫn thường vác trên vai
một thế hệ thức nhiều hơn ngủ
xoay trần đào công sự
xoay trần trong ý nghĩ
đi con đường người trước đã đi
bằng rất nhiều lối mới

những cái tên trên cây rừng khắc vội
những chữ N chữ T vạch ở các bình tông
ba lô đựng một bộ áo quần
vài gói mắm cùng nắm cơm nho nhỏ
bếp dã chiến cháy dọc bờ suối đá
treo tòn ten mấy ống cóng canh chua
nấu lá giang và mắm ruốc

tất cả những gì chúng tôi có được
đều trải cho nhau
trải ra đất
thật tình
với quân thù-chi đến tối đa
với bè bạn-phái chơi hết mình

nếu chỉ nhìn da chúng tôi đen hơn
nhìn cái vóc dạn dày trước tuổi
đếm vết chai trên bàn tay, chưa đủ
cũng chưa đủ nếu chỉ tính cuộc đời bằng những chiến công

*
* *

ôi trảng dầu những chiếc lá khô cong
mỗi bước dới chân rì rầm tiếng nói
đêm hành quân qua nhiều đống lửa
bùng tự nhiên ngay giữa lối mòn

thế hệ chúng tôi bùng ngọn lửa chính mình
soi sáng đường đi tới

có những đêm mưa quất bốn bề
giữa Tháp Mười không mái lá nương che
nước đã giật phải đẩy xuồng băng trấp
lúc ấy chân trời là lưng người đi trước
vụt lóe lên qua ánh chớp màn mưa

thế hệ chúng tôi trăng từng đêm lội nước
sình bết từ chân bết đến đầu

nên giọng nói có nhiều khi ngang dọc
nên cái nhìn có lắm phen gai góc
vì ngọn lửa chịu sình là lửa thực
đã bùng lên
dám cháy tận sức mình

*
* *

nhủ điều chi ơi tiếng quốc đêm sương
kêu da diết suốt một mùa nước nổi
bông điên điển mở cánh vàng nóng hổi
là nắng chiều đẫm lại giữa lòng tay

đất nước ngấm vào ta, đơn sơ
như Tháp Mười không điểm trang
đầy im lặng
trên tất cả tình yêu
tình yêu này đi thẳng
đến mỗi đời ta
bất chấp những ngôn từ

*
* *

tôi gặp thằng bạn thân trong một chuyến bất ngờ
đêm Mỹ Long hai đứa nằm lộ đất
trải dưới trời một tấm ni-lông

nơi khi chiều B52 bừa ba đợt
nơi mấy năm rồi hố bom không đếm hết
nơi tôi chợt thốt niềm mơ giản dị của mình

“chừng nào thật hòa bình
Ra lộ Bốn trải ni-lông nằm một đêm cho thỏa thích”

thằng bạn tôi đăm đăm
nhìn một ngôi sao mọc trong hố bom nhòe nước
đôi mắt nó lạ lùng mà tôi thấy được
chứa đầy một hố bom và một ngôi sao…

*
* *

cơn lốc xoáy trên nóc rừng nguyên thủy
tiếng gió hú dài trong những bộng cây
đàn dơi chấp chới bay
trảng tranh hừng hực nắng

chúng tôi qua cái khắc nghiệt mùa khô
qua mùa mưa mùa mưa dai dẳng
võng mắc cột tràm đêm ướt sũng
xuồng vượt sông dưới pháo sáng nhạt nhòa

đôi lúc ngẩn người một ráng đỏ chiều xa
quên đời mình thêm tuổi
chân dép lốp đạp mòn trăm ngọn nui
mà không hề rợp bóng xuống tương lai

*
* *

những trận đánh ập về đầy trí nhớ
pháp chụp nổ ngang trời từng bựng khói
nhịp tim dập dồn lần xuất kích đầu tiên
bình tông cạn khô trên nóc hầm nồng khét
những vỏ đồ hộp lăn lóc
cái im lặng ù tai giữa hai đợt bom
một tiếng gà bất chợt
bên bờ kênh hoang tàn

thế hệ chúng tôi không sống bằng kỷ niệm
không dựa dẫm những hào quang có sẵn
lòng vô tư như gió chướng trong lành
như sắc trời ngày nắng tự nhiên xanh

*
* *

đoàn xuồng chuyển quân bơi rậm kênh Bằng Lăng
buổi chiều pháo bắn
những cây bình bát gục ngã
hoàng hôn đôi bờ như máu chảy
trắng dòng kênh xác xăng đặc lều bều

tôi bỗng thấy mặt mình trên mặt nước
mặt nước trôi những dề xăng đặc
mặt nước trôi những trái bình bát
mặt nước trôi quê hương không còn nguyên vẹn

và tôi thấy
trôi qua mặt mình bao nhiêu gương mặt
những bạn bè quen những bạn bè chưa gặp
trẻ măng
loang loáng theo con nước
tủa về những đồng sâu
hun hút
buổi chiều

đó là những người qua trước
không phải trước hai mươi năm
đó là những người qua sau
không phải sau hai mươi năm

mà vào buổi chiều ấy
trên những dòng kênh ấy
pháo bắn và nước chảy
thế hệ chúng tôi-
nhìn rất rõ-
mặt mình

1973
Mãi sau này, khi bài thơ đã in bình thường ở Việt Nam trong các tuyển tập thơ, rồi được nhà thơ Nguyễn Đỗ và nhà thơ Mỹ Paul Houver dịch ra tiếng Anh và xuất bản tại Mỹ trong một tuyển tập thơ Việt Nam, thì “nó” mới có thể sống đời sống bình thường của một bài thơ. Đây là bài thơ của một người lính chống Mỹ, nhưng khi in ở Mỹ lại được người Mỹ, trong đó có những cựu chiến binh Mỹ từng tham chiến ở Việt Nam… khen . Tôi nghĩ, có lẽ họ khen vì đọc thấy nó rất thật, nó không tuyên truyền, cũng chẳng “lobby” cho ai. Nó chỉ nói lên thân phận của người lính Việt cùng những khát khao quá đỗi bình thường của họ trong chiến tranh.
(còn tiếp)