Danh ngôn
Trong mọi cộng đồng, chúng ta cần một nhóm thiên thần gây rối.
We need, in every community, a group of angelic troublemakers.
(Bayard Rustin – trích bài phát biểu tại New York City 1963)
Trong mọi trường hợp, chắc chắn rằng sự thiếu hiểu biết, đi kèm với quyền lực, là kẻ thù tàn bạo nhất có thể có của công lý.
It is certain, in any case, that ignorance, allied with power, is the most ferocious enemy justice can have.
(James Baldwin - No Name in the Street 1972)
Các cuộc cách mạng và các cá nhân có thể bị giết hại, nhưng bạn không thể giết chết các ý tưởng.
While revolutionaries and individuals can be murdered, you cannot kill ideas.
(Thomas Sankara, một tuần trước khi bị ám sát, 1987)
Không có cảm giác nào cô đơn hơn việc bị chính đất nước mình trục xuất.
There's not a more lonely feeling than to be banished by my own country.
(Kiyo Sato – Kiyo’s Story 2009)
Ban Biên tập
Địa chỉ liên lạc:
1. Thơ
tho.vanviet.vd@gmail.com
2. Văn
vanviet.van14@gmail.com
3. Nghiên cứu Phê Bình
vanviet.ncpb@gmail.com
4. Vấn đề hôm nay
vanviet.vdhn1@gmail.com
5. Thư bạn đọc
vanviet.tbd14@gmail.com
6. Tư liệu
vanviet.tulieu@gmail.com
7. Văn học Miền Nam 54-75
vanhocmiennam5475@gmail.com
Tra cứu theo tên tác giả
- A. A. Fadeev
- A. Puskin
- A. T.
- Abdulrazak Gurnah
- Abraham F. Lowenthal
- Ace Le
- Ace Lê
- Adam Gopnik
- Adonis
- Adrian Horton
- Agi Mishol
- Ajar
- Akiko Miki
- Alain Guillemin
- Alan Phan
- Alăng Văn Gáo
- Alăng Văn Giáo
- Aldous Huxley
- Aleksandr Griboedov
- Alesandr Blok
- Alex Marshall
- Alex Smith
- Alex Thai
- Alex-Thái Đình Võ
- Alexander Fadeev
- Alexander Solzhenitsyn
- Alexandra Alter
- Alexandre FERON
- Alice Munro
- Alina Lesik
- Alison Flood
- Allen Ginsberg
- Amanda Gorman
- Amartya Sen
- Amelia Glaser
- Amos Oz
- An Nam
- Anatole France
- Anatoly Gavrilov
- Anders Olsson
- André Breton
- André Menras
- André Menras – Hồ Cương Quyết
- André Menras Hồ Cương Quyết
- Andrea Hoa Pham
- Andrea Kendall-Taylor
- Andreas Fulda
- Andreas Wimmer
- Andrew Postman
- Andy Cao
- Anh Anh
- Anh Hồng
- Anh Hồng (nhà thơ)
- Ánh Liên
- Anh Nhi
- Anh Văn
- Anika Zeller
- Anna Akhmatova
- Anna Maria Bracale Ceruti
- Anna Mitchell
- Anne Carson
- Anne Hébert
- Anne Henochowicz
- Annie Ernaux
- António Jacinto
- Antôn Nguyễn Trường Thăng
- Archimedes L.A. Patti
- Arlette Quỳnh Anh Trần
- Arnold Schwarzenegger
- Arthur Koestler
- Arty Abel
- Arvind Subramanian
- Augustina
- Aurélie Coulon
- Aurelien Breeden
- Ba Sàm
- Bá Thụ Đàm
- Bạch Cúc
- Bạch Hoàn
- Bách Mỵ
- Bách Thân
- Bạch X. Phẻ
- Bạch Xuân Phẻ
- Bakhtin
- Ban Mai
- Bàn Văn Thòn
- Ban Vận động Văn đoàn Độc lập Việt Nam
- Bảo Huân
- Bảo La
- Bảo Nhi Lê
- Bảo Ninh
- Bảo Phác
- Bão Vũ
- Barbara Demick
- Bashô
- Batrioldman
- Bauxite Việt Nam
- Bắc Đảo
- Bắc Phong
- Bằng Việt
- BB Ngô
- Bei Dao
- Benjamin Péret
- Benjamin Ramm
- Bertolt Brecht
- Bertrand Russell
- Bettina Rheims
- Bích Ngân
- Biếm họa
- Biên Cương
- Biệt Hiệu
- Bilahari Kausikan
- Billy Collins
- Bình Nguyên Lộc
- Brahma Chellaney
- Branko Milanovic
- Brett Reilly
- Brian Pascus
- Brian Wu
- Brice Pedroletti
- Brodsky
- Bryan
- Bùi An
- Bùi Bảo Trúc
- Bùi Bích Hà
- Bùi Chát
- Bùi Chí Trung
- Bùi Chí Vinh
- Bùi Công Thuấn
- Bùi Công Trực
- Bùi Đức Lại
- Bùi Giáng
- Bùi Hải Quảng
- Bùi Hoàng Tám
- Bùi Hoằng Vị
- Bùi Huệ Chi
- Bui Huy Hoi Bui
- Bùi Mai Hạnh
- Bùi Mạnh Hùng
- Bùi Mẫn Hân
- Bùi Minh Quốc
- Bùi Ngọc Tấn
- Bùi Quang Thắng
- Bùi Suối Hoa
- Bùi Thanh Hiếu
- Bùi Thanh Phương
- Bùi Thanh Tuấn
- Bùi Thụy Băng
- Bùi Tiến An
- Bùi Trân Phượng
- Bùi Trọng Hiền
- Bùi Văn Kha
- Bùi Văn Nam Sơn
- Bùi Việt Sỹ
- Bùi Vĩnh Phúc
- Bùi Xuân Bách
- Bùi Xuân Đính
- Bùi-Viết Văn Đức
- Bulgakov
- Bửu Chỉ
- C.D.
- Cái Lư Hương
- Cái Trọng Ty
- Cam Ly
- Cảnh Chánh
- Cao Bảo Vân
- Cao Bình Minh
- Cao Chi
- Cao Gia An
- Cao Hành Kiện
- Cao Huy Thuần
- Cao Kim Ánh
- Cao La
- Cao Quang Nghiệp
- Cao Tần
- Cao Thị Hồng
- Cao Thu Cúc
- Cao Việt Dũng
- Cao Xuân Hạo
- Cao Xuân Huy
- Carl Bildt
- Carl O. Schuster
- Carlos Assunção
- Carolyn Mary Kleefeld
- Cát Linh
- Cẩm Tú
- Cấn Thị Thêu
- Chan Phuong
- Chanh Tam
- Charles Bo
- Charles Bukowski
- Charles Simic
- Chau Doan
- Chân Minh
- Chân Pháp Xa
- Chân Phương
- Chân Xuân Tản Viên
- Châu Diên
- Châu Hải Đường
- Châu Hồng Thủy
- Châu Hữu Quang
- Chenn
- Chế Diễm Trâm
- Chế Lan Viên
- Chi Mai
- Chi Phương
- Chiêu Dương
- Chiêu Khiêm
- Chiharu Shiota
- Chim Hải
- Chim Trắng
- Chinh Ba
- Chính Tâm
- Chính Vĩ
- Chinua Achebe
- Chơn Không Cao Ngọc Phượng
- Christian Gampert
- Christian Welzel
- Christina Mary Hjortlund
- Christoph Giesen
- Christoph Sator
- Christopher Balding
- Christopher Goscha
- Christy Wampole
- Chu Dương
- Chu Hảo
- Chu Hoạch
- Chu Kim
- Chu Mộng Long
- Chu Quang Tiềm
- Chu Tử
- Chu Văn Lễ
- Chu Văn Sơn
- Chu Vĩnh Hải
- Chu Vương Miện
- Chu Xuân Diên
- Chung Le
- Claire Simon
- Clay Phạm
- Concepcion de Leon
- Connie Hoàng
- Cora Engelbrecht
- Costica Bradatan
- Cổ Ngư
- Cù An Hưng
- Cù Huy Hà Vũ
- Cù Mai Công
- Cù Tuấn
- Cung Minh Huân
- Cung Tích Biền
- Cung Trầm Tưởng
- D. S. Likhachev
- Da Màu
- Dạ Ngân
- Dạ Thảo Phương
- Dã Tượng
- DAD
- Dadolin Murak
- Damien Keown
- Dan Bilefsky
- Dan Slater
- Dana Gioia
- Danh ngôn
- Dani Rodrik
- Daniel Halpern
- Daniel Hautzinger
- Daron Accemoglu
- David Brown
- David Gascoyne
- David Marchese
- David Weinberger
- Ðặng Thơ Thơ
- Demetrio Paparoni
- DEUTSCHE WELLE
- Di
- Di Li
- Diêm Liên Khoa
- Diễm Thi
- Diễm Tường
- Diễn đàn Thế kỷ
- Diệp Duy Liêm
- Diệp Huy
- Ðinh Cường
- Dino Buzatti
- Dipanjan Roy Chaudhury
- Dmitri Prokofyev
- Dmitry Burago
- Dmitry Muratov
- Doãn Cẩm Liên
- Doãn Mạnh Dũng
- Doãn Mẫn
- Doãn Quốc Sỹ
- Dominique Lemieux
- Donald Inglehart
- Donna Ashworth
- Ðỗ Quang Nghĩa
- Ðỗ Quyên
- Du Tử Lê
- Dung Nguyễn
- Dũng Phan
- Dũng Trung Kqd
- Dũng Vũ
- Duy Lam
- Duy Tân
- Duy Thanh
- Duy Thông
- Duyên Anh
- Dư Hoa
- Dư Kiệt
- Dư Thị Hoàn
- Dư Thu Vũ
- Dương Đại Triều Lâm
- Dương Đình Giao
- Dương Khánh Phương
- Dương Kiền
- Dương Ngạn
- Dương Nghiễm Mậu
- Dương Ngọc Thái
- Dương Như Nguyện
- Dương Phương Vinh
- Dương Thắng
- Dương Thiệu Tước
- Dương Thu Hương
- Dương Thuấn
- Dương Tú
- Dương Tường
- Dương Văn Ba
- Dylan Suher
- Đà Văn
- Đàm Hà Phú
- Đàm Hách Thành
- Đào An Khánh
- Đào Anh Kha
- Đào Công Tiến
- Đào Duy Anh
- Đào Hiếu
- Đào Lê Na
- Đào Ngọc Chương
- Đào Nguyên
- Đào Nguyễn
- Đào Nguyên Phương Thảo
- Đào Như
- Đào Phương Liên
- Đào Quang Toản
- Đào Tấn Phần
- Đào Thái Tôn
- Đào Thị Hương
- Đào Tiến Thi
- Đào Trung Đạo
- Đào Trường Phúc
- Đào Tuấn
- Đào Tuấn Ảnh
- Đào Văn Thuỵ
- Đào Văn Tiến
- Đào Vũ Anh Hùng
- Đặng Anh Đào
- Đặng Bích Phượng
- Đặng Chương Ngạn
- Đặng Đình Cung
- Đặng Đình Mạnh
- Đặng Hà
- Đặng Hải Sơn
- Đặng Hoàng Giang
- Đặng Hồng Nam
- Đặng Hùng Võ
- Đặng Hương Giang
- Đặng Hữu
- Đặng Mai Lan
- Đặng Mậu Tựu
- Đăng Nguyên
- Đặng Phùng Quân
- Đặng Quốc Thông
- Đặng Sơn Duân
- Đặng Thái
- Đăng Thành
- Đặng Thân
- Đặng Thị Hảo
- Đặng Thơ Thơ
- Đặng Tiến
- Đặng Tiến (Thái Nguyên)
- Đặng Trung Nghĩa
- Đặng Túy
- Đặng Văn Dũng
- Đặng Văn Hùng
- Đặng Văn Ngữ
- Đặng Văn Sinh
- Đặng Vũ Vương
- Đặng Xuân Thảo
- Đặng Xuân Xuyến
- Đằng-Giao
- Điểm Thọ
- Đinh Bá Anh
- Đinh Cường
- Đinh Hoàng Thắng
- Đinh Hùng
- Đình Kính
- Đinh Linh
- Đinh Ngọc Thu
- Đinh Phương
- Đinh Phương Thảo
- Đinh Quang Anh Thái
- Đinh Thanh Huyền
- Đinh Thị Như Thúy
- Đinh Trường Chinh
- Đinh Từ Bích Thuý
- Đinh Từ Bích Thúy
- Đinh Văn Đức
- Đinh Vũ Hoàng Nguyên
- Đinh Ý Nhi
- Đinh Yên Thảo
- Đoàn Ánh Thuận
- Đoàn Bảo Châu
- Đoàn Cầm Thi
- Đoàn Công Lê Huy
- Đoàn Hồng Lê
- Đoàn Huy Giao
- Đoàn Huyền
- Đoàn Khắc Xuyên
- Đoàn Lê Giang
- Đoàn Nhã Văn
- Đoàn Thanh Liêm
- Đoan Trang
- Đoàn Tùng Nguyễn
- Đoàn Tử Huyến
- Đoàn Việt Hùng
- Đoàn Xuân Kiên
- Đỗ Anh Hoa
- Đỗ Anh Tuấn
- Đỗ Cao Bảo
- Đỗ Duy Ngọc
- Đỗ Đức
- Đỗ Đức Đông Ngàn
- Đỗ Đức Hiểu
- Đỗ Hòa
- Đỗ Hoàng Diệu
- Đỗ Hồng Ngọc
- Đỗ Hồng Nhung
- Đỗ Hữu Chí
- Đỗ Kh
- Đỗ Kh.
- Đỗ Khiêm
- Đỗ Kim Thêm
- Đỗ Lai Thuý
- Đỗ Lai Thúy
- Đỗ Lê Anh Đào
- Đỗ Mạnh Hoàng
- Đỗ Minh Tuấn
- Đỗ Nghê
- Đỗ Ngọc
- Đỗ Ngọc Thống
- Đỗ Quang Nghĩa
- Đỗ Quang Vinh
- Đỗ Quý Toàn
- Đỗ Quyên
- Đỗ Quỳnh Dao
- Đỗ Thắng Cảnh
- Đỗ Thị Thu Trà
- Đỗ Thiên Anh Tuấn
- Đỗ Trí Vương
- Đỗ Trọng Khơi
- Đỗ Trung Quân
- Đỗ Trường
- Đỗ Tuyết Khanh
- Đồng Chuông Tử
- Đông Hoài
- Đông Hồ
- Đông Kha
- Đông Ngàn Đỗ Đức
- Đông Nghi
- Đức Ban
- Đức Đàm
- Đức Flying Bay
- Đức Hoàng
- Đức Lê
- Đức Phổ
- Đức Tâm
- Đức Tiến
- E.E. Cummings
- E.M. Chernoivanenko
- Eamonn Butler
- Eckart Kleßmann
- Eduardo Galeano
- Edward Hirsch
- Elena Pucillo Truong
- Elias Canetti
- Ellen Bass
- Eloisa Amezcua
- Emiel Roothooft
- Emmanuelle Jardonnet
- Eric Weiner
- Erica Frantz
- Erik Harms
- Erik Korling
- Euan Ward
- Evgheni Dobrenko
- F.N.
- Federico García Lorca
- Feliks Kuznesov
- Filip Lech
- Flanny O’Connor
- Florence Noiville
- Florian Altenhöner
- Francis Fukuyama
- Francis Fukuyma
- Frank Dikötter
- Frank O'Hara
- Frankfurt
- Fred Hiatt
- Friedrich Dürrenmatt
- Friedrich Nietzsche
- Fritz J. Raddatz
- Gabriel García Márquez
- Gaither Stewart
- Gaiutra Bahadur
- Gary Leupp
- Gặp gỡ và trò chuyện
- Georg Bönisch
- Georg Trakl
- George Burchett
- George Orwell
- George Perreault
- George Siemens
- Gerhard Will
- Germain Droogenbroodt
- Giang Dang
- Giang Lại Đức
- Giang Nam
- Giáng Vân
- Giáp Văn Dương
- Gideon Rachman
- Giuse Lê Công Đức
- Goethe
- Gonçalo Fernandes
- Gottfried Benn
- Graham Allison
- Grigory Yudin
- Günter Kunert
- Gyảng Anh Iên
- Hà Duy Phương
- Hà Dương Tuấn
- Hà Dương Tường
- Hà Đình Nguyên
- Hạ Đình Nguyên
- Hà Huy Sơn
- Hà Hương
- Hà Lệ Minh
- Hà Ngọc Hòa
- Hạ Nguyên
- Hà Nguyên Du
- Hà Nhân
- Hà Nhật
- Hà Phạm Phú
- Hà Quang Vinh
- Hà Sĩ Phu
- Hà Thanh Vân
- Hà Thế
- Hà Thị Minh Đạo
- Hà Thúc Sinh
- Hà Thủy Nguyên
- Hà Tùng Long
- Hà Tùng Sơn
- Hà Văn Thịnh
- Hà Văn Thùy
- Hà Vũ Trọng
- Hagi Kenaan
- Hai An Vu
- Hải Hạc
- Hải Ngọc
- Hai Thanh
- Han Dang
- Hàn Giang
- Han Kang
- Hàn Vĩnh Diệp
- Hạnh Nguyên
- Hạnh Phước
- Hạnh Viên
- Hannah Beech
- Hào Thiện Nhân
- Haruki Murakami
- Hân Hương
- Heiko Buschke
- Heinrich Heine
- Henri Michaux
- Henry David Thoreau
- Henry Wadsworth Longfellow
- Heriberto Araújo
- Hermann Hesse
- Hiền Trang
- Hiệp Ikaria
- Hiệu Minh
- Hiếu Tân
- Ho Lai-Ming
- Hòa Bình Lê
- Hoa Níp
- Hoài Hương
- Hoài Nam
- Hoài Phương
- Hoài Thanh
- Hoài Việt
- Hoài Ziang Duy
- Hoan Doan
- Hoàn Nguyễn
- Hoàng Ánh
- Hoàng Anh Tuấn
- Hoàng Cát
- Hoàng Cầm
- Hoàng Chí Hiếu
- Hoàng Chính
- Hoàng Cường Long
- Hoàng Dũng
- Hoàng Dương Tuấn
- Hoàng Đăng Khoa
- Hoàng Đỗ
- Hoàng Đông
- Hoàng Đức Truật
- Hoàng Hà
- Hoàng Hải Thủy
- Hoàng Hải Vân
- Hoảng Hãn
- Hoàng Hưng
- Hoàng Khởi Phong
- Hoàng Kim Oanh
- Hoàng Lại Giang
- Hoàng Lan
- Hoàng Lan Anh
- Hoàng Lan Chi
- Hoàng Lê
- Hoàng Lệ
- Hoàng Linh
- Hoàng Long
- Hoàng Mai Ðạt
- Hoàng Mạnh Hải
- Hoàng Minh Trí
- Hoàng Minh Tường
- Hoàng Nam
- Hoàng Nga
- Hoàng Ngọc Biên
- Hoàng Ngọc Hiến
- Hoàng Ngọc Nguyên
- Hoàng Ngọc Tuấn
- Hoàng Nguyễn
- Hoàng Nguyên Vũ
- Hoàng Nhơn
- Hoàng Nhuận Cầm
- Hoàng Phong Tuấn
- Hoàng Phủ Ngọc Tường
- Hoàng Quân
- Hoàng Quốc Hải
- Hoàng Thị Hường
- Hoàng Thị Thu Thủy
- Hoàng Thu Phố
- Hoàng Thúy
- Hoàng Thuỵ Anh
- Hoàng Tiến
- Hoàng Trung Thông
- Hoàng Tuấn Công
- Hoàng Tuấn Phổ
- Hoàng Tùng
- Hoàng Tuỵ
- Hoàng Văn Sơn
- Hoàng Việt
- Hoàng Vũ Thuật
- Hoàng Xuân Phú
- Hoàng Xuân Sơn
- Hoàng Xuân Tuyền
- Hoàng Yến
- Horst Bienek
- Howard Gardner
- Hồ Anh Thái
- Hồ Bạch Thảo
- Hồ Bất Khuất
- Hồ Diệu Vân
- Hồ Dzếnh
- Hồ Đắc Vũ
- Hồ Đình Nghiêm
- Hồ Hải Thụy
- Hồ Hữu Tường
- Hồ Minh Tâm
- Hồ Ngọc Đại
- Hồ Như
- Hồ Phú Bông
- Hồ Tịnh Tình
- Hồ Trường An
- Hồ Tú Bảo
- Hội những người ủng hộ GS. Chu Hảo
- Hồng Anh
- Hồng Hoang
- Hồng Lê Thọ
- Hồng Phú
- Huệ Hương Hoàng
- Huguette Bertrand
- Huong Nguyen
- Huy Cận
- Huy Đức
- Huy Tưởng
- Huyền Thương
- Huỳnh Duy Lộc
- Huỳnh Hoa
- Huỳnh Hữu Uỷ
- Huỳnh Hữu Ủy
- Huỳnh Kim Báu
- Huỳnh Kim Quang
- Huỳnh Lê Nhật Tấn
- Huỳnh Liễu Ngạn
- Huỳnh Ngọc Chênh
- Huỳnh Như Phương
- Huỳnh Sơn Phước
- Huỳnh Tấn Mẫm
- Huỳnh Thế Du
- Huỳnh Thục Vy
- Huỳnh Trọng Khang
- Huỳnh Tuấn Anh
- Hứa Chương Nhuận
- Hương Lan
- Hường Thanh
- Hương Thủy
- Hữu Danh
- Hữu Đông
- Hữu Loan
- Hữu Mai
- Hữu Phương
- Ian Bui
- Ian Johnson
- Igor Poglazov
- Ilza Burchett
- Inrasara
- Iris Radisch
- Isabella Kwai
- Issa
- Issac Bashevis Singer
- Italo Calvino
- Iya Kiva
- J. M. Lotman
- J.B Nguyễn Hữu Vinh
- Jacques Attali
- Jacques Prévert
- Jake Johnson
- James Borton
- James Daniel Spears
- James G. Zumwalt
- James Grossman
- James Joyce
- James Poniewozik
- James Stavridis
- James WrightJuan Felipe Herrera
- Janos Kornai
- Jared Carters
- Jason Lopata
- Jason Morris-Jung
- Jay Nordlinger
- Jaya K.
- Jean Chesnaux
- Jean d'Ormesson
- Jean Piaget
- Jean Przyluski
- Jean Toomer
- Jean-Jacques Brochier
- Jean-Jacques Roth
- Jean-Louis Rocca
- Jean-Luc Chalumeau
- Jean-Marc Roberts
- Jean-Patrick Géraud
- Jean-Paul Sartre
- Jefferson Cowie
- Jeffrey Hanfover
- Jeffrey Nall
- Jessica Swoboda
- Jessie Yeung
- Jiayang Fan
- Jimmy Carter
- Joan Hua
- João Guimarães Rosa
- Joaquin Nguyễn Hòa
- John Barrow
- John Cheever
- John Freeman
- John Keane
- John McCain
- Jon Fosse
- Jonathan Dee
- Jonathan London
- Jörg Wischermann
- Jorge Amado
- Jorge Luis Borges
- Joschka Fischer
- Josée Lapointe
- Joseph Wong
- Joseph Wright
- Josh Rogin
- Joshua Rothman
- Juan Pablo Cardenal
- Juan Pablo Cardenal & Heriberto Araújo
- Julia Cagé
- Julio Cortázar
- Jun’ichiro Tanizaki
- Kahil Gibral
- Kai Hoàng
- Kale
- Kalynh Ngô
- Kamel Daoud
- Kao Phú
- Kap Seol
- Karel Appel
- Karen Tongson
- Kate Chopin
- Kazuo Shiraga
- Kenneth Nguyen
- Keorapetse Kgositsile
- Kerstin Holm
- Kều Jang
- Kha Lương Ngãi
- Khái Hưng
- Khaly Chàm
- Khang Quốc Ngọc
- Khánh
- Khánh Bình
- Khánh Duy
- Khánh Ly
- Khánh Mai
- Khanh Nguyen
- Khanh Pham
- Khánh Phương
- Khánh Trâm
- Khánh Trường
- Khét
- Khế Iêm
- Khiêm Nhu
- Khổng Đức Thiêm
- Khuất Đẩu
- Khuê Phạm
- Khuyết Thư
- Kiệm Hoàng
- Kiến Văn
- Kiệt Anh Hùng
- Kiệt Tấn
- Kiều Duy Vĩnh
- Kiều Loan
- Kiều Mai Sơn
- Kiều Maily
- Kiều Phong
- Kiều Thị An Giang
- Kim Ân
- Kim Chi
- Kim Dung
- Kim Hạnh
- Kim Thúy
- Kim Trần
- Kinh Bắc
- Kính Hòa
- Klaus Wiegerefe
- Kúm
- Kurt-Martin Mayer
- Kỳ Duyên
- Kyoko Numano
- L. N. Tolstoy
- L. V. H.
- La Khắc Hoà
- La Khắc Hòa
- Lã Nguyên
- Lại Nguyên Ân
- Lam Điền
- Lam Ngọc
- Lam Thái Hòa
- Lan Nguyên
- Lang Anh
- Langston Hughes
- LAP
- Larry Diamond
- Lars Vargö
- Laura Cappelle
- Laurent Sagalovitsch
- Lawrence Ferlinghetti
- Lâm Chương
- Lâm Duyên
- Lâm Hạnh
- Lâm Lê
- Lâm Ngân Mai
- Lâm Quang Mỹ
- Lâm Thị Mỹ Dạ
- Leon Trotsky
- Leonard Cohen
- Lê An Thế
- Lê Anh Hoài
- Lê Anh Hùng
- Lê Ân
- Lê Bá Đảng
- Lê Bích Vượng
- Lê Chiều Giang
- Lê Công Định
- Lê Công Giàu
- Lê Công Tư
- Lê Ðình Nhất Lang
- Lê Dũng
- Lê Duy Nam
- Lê Đạt
- Lê Đăng Doanh
- Lê Đình Cai
- Lê Đình Khẩn
- Lê Đình Thắng
- Lê Đỗ Huy
- Lê Đức Dục
- Lê Đức Thôn
- Lê Giang Trần
- Lê Hải
- Lệ Hằng
- Lê Hiệp
- Lê Hoài Nguyên
- Lê Hoàng Diễm Trang
- Lê Hoàng Lân
- Lê Học Lãnh Vân
- Lê Hồ Quang
- Lê Hồng Hà
- Lê Hồng Hiệp
- Lê Hồng Lâm
- Lê Hùng
- Lê Hùng Vọng
- Lê Huyền Ái Mỹ
- Lê Huỳnh Lâm
- Lê Hữu
- Lê Hữu Khoá
- Lê Hữu Khóa
- Lê Hữu Nam
- Lê Kế Lâm
- Lê Khải
- Lê Kim Duy
- Lê Ký Thương
- Lê Lạc Giao
- Lê Luân
- Lê Mã Lương
- Lê Mai
- Lê Mai Lĩnh
- Lê Mạnh Chiến
- Lê Mạnh Đức
- Lê Minh Chánh
- Lê Minh Hà
- Lê Minh Hiền
- Lê Minh Khuê
- Lê Minh Phong
- Lê Ngân Hằng
- Lê Ngọc Luân
- Lê Ngọc Sơn
- Lê Nguyễn
- Lê Nguyễn Duy Hậu
- Lê Nguyễn Hương Trà
- Lê Nguyên Long
- Lê Nguyên Vỹ
- Lê Như Bình
- Lê Oa Đằng
- Lê Phan
- Lê Phú Khải
- Lê Quang
- Lê Quang Đức
- Lê Quảng Hà
- Lê Quang Hợp
- Lê Quang Thành
- Lê Quân
- Lê Quốc Anh
- Lê Quỳnh
- Lê Quỳnh Mai
- Lê Sa Long
- Lê Si Na
- Lê Sơn
- Lê Tất Đạt
- Lê Tất Điều
- Lê Thanh Dũng
- Lê Thanh Hải
- Lê Thanh Phong
- Lê Thanh Trường
- Lê Thân
- lê thi diem thuý
- Lê Thị Hồng Minh
- Lê Thị Huệ
- Lê Thị Hường
- Lê Thị Oanh
- Lê Thị Thấm Vân
- Lê Thiết Cương
- Lê Thiếu Nhơn
- Lê Thọ Bình
- Lê Thời Tân
- Lê Thời Thôi
- Lê Thu Hiền
- Lê Thúy Bảo Liên
- Lê Tiên Long
- Lê Trí Tuệ
- Lê Trinh
- Lê Trọng Nghĩa
- Lê Trọng Nguyễn
- Lê Trung Tĩnh
- Lê Trường Thanh
- Lê Tuấn Huy
- Lê Tuyết Hạnh
- Lê Văn Bỉnh
- Lê Văn Hảo
- Lê Văn Hiếu
- Lê Văn Hòa
- Lê Văn Luân
- Lê Văn Sơn
- Lê Văn Trung
- Lê Văn Tùng
- Lê Vĩnh Tài
- Lê Vĩnh Triển
- Lê Vũ Trường Giang
- Lê Xuân Khoa
- Lê Xuyên
- Li Edelkoort
- Li Zhongqin
- Liêu Diệc Vũ
- Liêu Thái
- Liễu Trương
- Linh Nguyên
- Linh Văn
- Linh Vân
- Linh-Chân Brown
- LKH
- Lorca
- Louis Aragon
- Louise Glück
- Lộc Vàng
- Luân Hoán
- Ludwig von Mises
- Luke Hunt
- Luke Turner
- Lữ Kiều
- Lữ Quỳnh
- Lương Đào
- Lương Thiệu Quân
- Lương Thư Trung
- Lưu Á Châu
- Lưu Bình Nhưỡng
- Lưu Diệu Vân
- Lưu Đức Trung
- Lưu Hà
- Lưu Hiểu Ba
- Lưu Khánh Thơ
- Lưu Mê Lan
- Lưu Minh Hải
- Lưu Na
- Lưu Nhi Dũ
- Lưu Quang Vũ
- Lưu Thuỷ Hương
- Lưu Thủy Hương
- Lưu Trọng Văn
- Lưu Uyên Khôi
- Lý Đợi
- Ly Hoàng Ly
- Lý Ngang
- Ly Phạm
- Lý Quang Hoàn
- Lý Thanh
- Lý Tiến Dũng
- Lý Toàn Thắng
- Lý Trực Dũng
- Lý Xuân Hải
- Lydia Davis
- Lynh Bacardi
- LysP
- M. Gorky
- M.L. Gasparov
- Mạc Phong Tuyền
- Mạc Văn Trang
- Mạc Việt Hồng
- Mạch Nha
- Mạch Quang Thắng
- Madeleine Riffaud
- Mai An Nguyễn Anh Tuấn
- Mai Anh Tuấn
- Mai Bá Ấn
- Mai Bá Kiếm
- Mai Chanh
- Mai Hiền
- Mai Khôi
- Mai Kim Ngọc
- Mai Nhật
- Mai Ninh
- Mai Quốc Ấn
- Mai Quỳnh
- Mai Quỳnh Nam
- Mai Sơn
- Mai Thái Lĩnh
- Mai Thanh Sơn
- Mai Thảo
- Mai Tú Ân
- Mai Văn Hoan
- Mai Văn Phấn
- Mai Văn Tính
- Maki Starfield
- Mamleev
- Mạnh Kim
- Marc Andrus
- Marcel Reich-Ranicki
- Marci Shore
- Marco Ferrarese
- Margarita Lyutova
- Maria Donovan
- Maria Ressa
- Mario Vargas Llosa
- Marion Hennebert
- Mark B. Hamilton
- Mark Binelli
- Mark Frankland
- Mark Osaki
- Mark Strand
- Marta Hillers
- Martin Jankowski
- Martin Kulldorff
- Marty Robbins
- Mary Morose
- Mary Walsh
- Mathias Mayer
- Matthew Clayfield
- Matthew Crawford
- Maurice Blanchot
- Maximilian Steinbeis
- May
- Maya Angelou
- Mặc Đỗ
- Mặc Lâm
- Mân Côi
- McAmmond Nguyễn Thị Tư
- Media Văn Việt
- Michael Burawoy
- Michael Scammell
- Miêng
- Mike Ives
- Mikhail Shishkin
- Mikhail Viktorovich Zygar
- Milan Kundera
- Mimmi Diệu Hường Bergström
- MInh Anh
- Minh Huệ
- Minh Hùng
- Minh Luật
- Minh Quang – Lê Chiên
- Minh Quang Ho
- Minh Tâm
- Minh Thùy
- Minh Thư
- Minh Toàn
- Minh Tuấn
- Monica Berlin
- Mỹ Hằng
- Mỹ Lan
- N. S. Khrushchev
- Nam Dao
- Nam Dao Nguyễn Mạnh Hùng
- Nam Đan
- Nam Đông
- Nam Nguyên
- Nam Sơn
- Naowarat Pongpaiboon
- Natalia lacovelli
- Nataliya Zhynkina
- Natsume Sōseki
- Nay Aung
- ng. anhanh
- Ng.Uyển Nicole Dương
- Ngải Vị VỊ
- Ngân Xuyên
- Nghệ thuật
- Nghiêm Lương Thành
- Nghiêm Phương Mai
- Nghiêm Xuân Hồng
- Nghiên Cứu Phê Bình
- Ngo Thu
- Ngọc Anh
- Ngọc Duy Phan
- Ngoc Hien Bui
- Ngọc Linh
- Ngô Anh Tuấn
- Ngô Bảo Châu
- Ngô Đình Thẩm
- Ngô Đồng
- Ngô Hương Giang
- Ngô Khắc Tài
- Ngộ Không Phí Ngọc Hùng
- Ngô Liêm Khoan
- Ngô Minh
- Ngô Minh Khôi
- Ngô Ngọc Loan
- Ngô Ngọc Trai
- Ngô Nguyên Dũng
- Ngô Nhật Đăng
- Ngô Quốc Phương
- Ngô Quốc Thịnh
- Ngô Thế Vinh
- Ngô Thị Kim Cúc
- Ngô Thị Thanh Lịch
- Ngô Tùng Phong
- Ngô Tự Lập
- Ngô Văn
- Ngô Văn Giá
- Ngô Viết Nam Sơn
- Ngô Viết Trọng
- Ngô Vĩnh Long
- Ngô Xuân Hội
- Ngô Xuân Phúc
- Ngô Xuân Thảo
- Ngu Yên
- Nguyen Duc Thanh
- Nguyễn Hải Hoành
- Nguyễn Anh Dũng
- Nguyễn Anh Tuấn
- Nguyễn Anh Tuấn - đạo diễn
- Nguyễn Bá Chung
- Nguyễn Bách Việt
- Nguyễn Bảo Chân
- Nguyễn Bắc Sơn
- Nguyên Bình
- Nguyên Cầm
- Nguyên Cẩn
- Nguyên Chánh
- Nguyễn Chí Hoan
- Nguyễn Chí Thuật
- Nguyễn Chí Trung
- Nguyễn Chí Tuyến
- Nguyễn Chinh Trung
- Nguyễn Cung Thông
- Nguyễn Cường
- Nguyễn Danh Bằng
- Nguyễn Danh Huế
- Nguyễn Danh Lam
- Nguyễn Ðăng Thường
- Nguyễn Duy
- Nguyễn Dương Quang
- Nguyễn Đạt
- Nguyễn Đắc Kiên
- Nguyễn Đắc Xuân
- Nguyễn Đăng Điệp
- Nguyễn Đăng Hưng
- Nguyễn Đăng Khoa
- Nguyễn Đăng Mạnh
- Nguyễn Đăng Na
- Nguyễn Đăng Quang
- Nguyễn Đăng Thường
- Nguyễn Đình Ấm
- Nguyễn Đình Bin
- Nguyễn Đình Bổn
- Nguyễn Đình Chú
- Nguyễn Đình Cống
- Nguyễn Đình Đăng
- Nguyễn Đình Huỳnh
- Nguyễn Đình Thắng
- Nguyễn Đình Thi
- Nguyễn Đình Toàn
- Nguyễn Đổng Chi
- Nguyễn Đông Thức
- Nguyễn Đức
- Nguyễn Đức Dương
- Nguyễn Đức Hiệp
- Nguyễn Đức Mậu
- Nguyễn Đức Sơn
- Nguyễn Đức Thắng
- Nguyễn Đức Tiến
- Nguyễn Đức Tùng
- Nguyễn Đức Tường
- Nguyễn Gia Trí
- Nguyên Giác
- Nguyên Giác Phan Tấn Hải
- Nguyễn Hà Luân
- Nguyễn Hải Hoành
- Nguyễn Hải Yến
- Nguyễn Hàn Chung
- Nguyễn Hiến Lê
- Nguyễn Hoa Lư
- Nguyễn Hoài Nam
- Nguyễn Hoài Văn
- Nguyễn Hoài Vân
- Nguyễn Hoàn
- Nguyễn Hoàn Nguyên
- Nguyễn Hoàng Ánh
- Nguyễn Hoàng Anh Thư
- Nguyễn Hoàng Diệu Thủy
- Nguyễn Hoàng Diệu Thúy
- Nguyễn Hoàng Giao
- Nguyễn Hoàng Linh
- Nguyễn Hoàng Trung
- Nguyễn Hoàng Văn
- Nguyễn Hồng Anh
- Nguyễn Hồng Giao
- Nguyễn Hồng Hưng
- Nguyễn Hồng Lam
- Nguyễn Hồng Nhung
- Nguyễn Hồng Thục
- Nguyễn Huệ Chi
- Nguyễn Hùng
- Nguyễn Huy Hoàng
- Nguyễn Huy Thiệp
- Nguyễn Huy Vũ
- Nguyên Hưng
- Nguyễn Hưng Quốc
- Nguyễn Hương
- Nguyễn Hữu Đễ
- Nguyễn Hữu Hồng Minh
- Nguyễn Hữu Liêm
- Nguyễn Hữu Nhật
- Nguyễn Hữu Sơn
- Nguyễn Hữu Thiết
- Nguyễn Hữu Việt Hưng
- Nguyễn Hữu Vinh
- Nguyễn kc Hậu
- Nguyễn Khải
- Nguyễn Khánh Duy
- Nguyễn Khánh Trường
- Nguyễn Khắc An
- Nguyễn Khắc Bình
- Nguyễn Khắc Mai
- Nguyễn Khắc Phê
- Nguyễn Khắc Phi
- Nguyễn Khắc Phục
- Nguyễn Khiêm
- Nguyễn Khôi
- Nguyễn Kiến Phước
- Nguyễn Kiều Dung
- Nguyễn Kiều Hưng
- Nguyên Lạc
- Nguyễn Lãm Thắng
- Nguyễn Lan Phương
- Nguyễn Lân Bình
- Nguyễn Lân Thắng
- Nguyễn Lê Hồng Hưng
- Nguyễn Lệ Uyên
- Nguyễn Linh Giang
- Nguyễn Linh Quang
- Nguyễn Lộ Trạch
- Nguyễn Luận
- Nguyễn Lương Hải Khôi
- Nguyễn Lương Ngọc
- Nguyễn Lương Vỵ
- Nguyễn Mai
- Nguyễn Man Nhiên
- Nguyễn Mạnh An Dân
- Nguyễn Mạnh Côn
- Nguyễn Mạnh Đẩu
- Nguyễn Mạnh Tiến
- Nguyễn Manh Trinh
- Nguyễn Mạnh Trinh
- Nguyễn Mạnh Tuấn
- Nguyễn Mạnh Tường
- Nguyễn Minh Anh
- Nguyễn Minh Hòa
- Nguyễn Minh Kính
- Nguyễn Minh Nhị
- Nguyễn Minh Nhựt
- Nguyễn Minh Thuyết
- Nguyễn Mộng Giác
- Nguyên Ngọc
- Nguyễn Ngọc Chu
- Nguyễn Ngọc Giao
- Nguyễn Ngọc Hoa
- Nguyễn Ngọc Lanh
- Nguyễn Ngọc Liễm
- Nguyễn Ngọc Lung
- Nguyễn Ngọc Tâm
- Nguyễn Ngọc Thiện
- Nguyễn Ngọc Tú Anh
- Nguyễn Ngọc Tư
- Nguyên Nguyên
- Nguyễn Nguyên Bình
- Nguyễn Nhật Tín
- Nguyên Nhi
- Nguyễn Như Huy
- Nguyễn Phạm Hùng
- Nguyễn Phú Yên
- Nguyễn Phúc Vĩnh Ba
- Nguyễn Phượng
- Nguyễn Phương Đình
- Nguyễn Phương Mai
- Nguyễn Phương Mạnh
- Nguyễn Quang
- Nguyễn Quang A
- Nguyễn Quang Bình
- Nguyễn Quang Duy
- Nguyễn Quang Dy
- Nguyễn Quang Đồng
- Nguyễn Quang Hồng
- Nguyễn Quang Hưng
- Nguyễn Quang Lập
- Nguyễn Quang Thạch
- Nguyễn Quang Thân
- Nguyễn Quang Thiều
- Nguyễn Quang VInh
- Nguyễn Quân
- Nguyễn Quốc Lâm
- Nguyễn Quốc Thái
- Nguyễn Quốc Toàn
- Nguyễn Quốc Trụ
- Nguyễn Quốc Tuấn
- Nguyên Sa
- Nguyễn Sĩ Dũng
- Nguyễn Sơn Lâm
- Nguyễn Sỹ Phương
- Nguyễn Sỹ Tế
- Nguyễn Tà Cúc
- Nguyễn Tài Cẩn
- Nguyễn Tấn Cứ
- Nguyễn Tất Nhiên
- Nguyễn Thạch Giang
- Nguyễn Thái Hòa
- Nguyễn Thái Hợp
- Nguyễn Thái Sơn
- Nguyễn Thái Tuấn
- Nguyễn Thanh Bình
- Nguyễn Thanh Châu
- Nguyễn Thanh Giang
- Nguyễn Thanh Hiện
- Nguyễn Thanh Hùng
- Nguyễn Thanh Huy
- Nguyễn Thanh Huyền
- Nguyễn Thanh Mỹ
- Nguyễn Thành Nam
- Nguyễn Thanh Nghị
- Nguyễn Thanh Nguyệt
- Nguyễn Thành Phong
- Nguyễn Thanh Sơn
- Nguyễn Thành Sơn
- Nguyễn Thanh Tâm
- Nguyễn Thành Thi
- Nguyễn Thanh Tuyền
- Nguyễn Thanh Văn
- Nguyễn Thanh Việt
- Nguyễn Thế Hùng
- Nguyễn Thế Thanh
- Nguyễn Thị Bích Hậu
- Nguyễn Thị Bích Ngà
- Nguyễn Thị Bình
- Nguyễn thị Cỏ May
- Nguyễn Thị Dư Khánh
- Nguyễn Thị Hải
- Nguyễn Thị Hậu
- Nguyễn Thị Hiền
- Nguyễn Thị Hoàng
- Nguyễn Thị Hoàng Bắc
- Nguyễn Thị Khánh Minh
- Nguyễn Thị Khánh Trâm
- Nguyễn Thị Kim Chi
- Nguyễn Thị Kim Phụng
- Nguyễn Thị Minh Ngọc
- Nguyễn Thị Minh Thương
- Nguyễn Thị Ngọc Hải
- Nguyễn Thị Ngọc Nhung
- Nguyễn Thị Oanh
- Nguyễn Thị Phước
- Nguyễn Thị Thanh Bình
- Nguyễn Thị Thanh Hải
- Nguyễn Thị Thanh Lưu
- Nguyễn Thị Thanh Xuân
- Nguyễn Thị Thanh Yến
- Nguyễn Thị Thảo An
- Nguyễn Thị Thúy Hạnh
- Nguyễn Thị Thùy Linh
- Nguyễn Thị Thụy Vũ
- Nguyễn Thị Thuyền
- Nguyễn Thị Tịnh Thy
- Nguyễn Thị Từ Huy
- Nguyễn Thị Vinh
- Nguyễn Thiện Tống
- Nguyễn Thiện Tơ
- Nguyễn Thói Đời
- Nguyễn Thông
- Nguyễn Thu Quỳnh
- Nguyễn Thu Trang
- Nguyễn Thùy Dương
- Nguyễn Thúy Hạnh
- Nguyễn Thụy Long
- Nguyễn Thuỵ Phương
- Nguyễn Thùy Song Thanh
- Nguyễn Thỵ
- Nguyễn Thy Anh
- Nguyễn Tiến Dũng
- Nguyễn Tiến Lập
- Nguyễn Tiến Trung
- Nguyễn Tiến Văn
- Nguyễn Trần Bạt
- Nguyễn Tri Phương Đông
- Nguyễn Triệu Nam
- Nguyễn Trọng Bình
- Nguyễn Trọng Chức
- Nguyễn Trọng Huân
- Nguyễn Trọng Khôi
- Nguyễn Trọng Tạo
- Nguyễn Trung
- Nguyễn Trung Bảo
- Nguyễn Trung Dân
- Nguyễn Trung Hiếu
- Nguyễn Trung Kiên
- Nguyễn Trung Thuần
- Nguyễn Trường Giang
- Nguyễn Trường Huy
- Nguyễn Trường Uy
- Nguyễn Tuấn
- Nguyễn Tuấn Anh
- Nguyễn Tuấn Khoa
- Nguyễn Tùng
- Nguyễn Tùng Linh
- Nguyễn Tuyết Lan
- Nguyễn Tuyết Lộc
- Nguyễn Tư Nghiêm
- Nguyễn Tử Siêm
- Nguyễn Tường Bách
- Nguyễn Tường Thiết
- Nguyễn Tường Thụy
- Nguyễn Ước
- Nguyễn Vạn Phú
- Nguyễn Văn
- Nguyễn Văn Ba
- Nguyễn Văn Chính
- Nguyễn Văn Ðậu
- Nguyễn Văn Dũng
- Nguyễn Văn Đài
- Nguyễn Văn Gia
- Nguyễn Văn Hạnh
- Nguyễn Văn Hiệp
- Nguyễn Văn Hòa
- Nguyễn Văn Hùng
- Nguyễn Văn Huyên
- Nguyễn Văn Lợi
- Nguyễn Văn Lục
- Nguyễn Văn Miếng
- Nguyễn Văn Nghệ
- Nguyễn Văn Nho
- Nguyễn Văn Phong
- Nguyễn Văn Phú
- Nguyễn Văn Phước
- Nguyễn Văn Sâm
- Nguyễn Văn Sơn
- Nguyễn Văn Tao
- Nguyễn Văn Thiệu
- Nguyễn Văn Thọ
- Nguyễn Văn Trọng
- Nguyễn Văn Trung
- Nguyễn Văn Tuấn
- Nguyễn Văn Vĩnh
- Nguyễn Văn Xuân
- Nguyễn Vi Khải
- Nguyễn Vi Yên
- Nguyễn Viện
- Nguyễn Việt Anh
- Nguyễn Việt Chiến
- Nguyễn Viết Lãm
- Nguyễn Vĩnh Nguyên
- Nguyễn Vũ Hiệp
- Nguyễn Vũ Tiềm
- Nguyễn Vỹ
- Nguyễn Vy Khanh
- Nguyễn Xuân Diện
- Nguyễn Xuân Hằng
- Nguyễn Xuân Hoàng
- Nguyễn Xuân Hưng
- Nguyễn Xuân Khánh
- Nguyễn Xuân Khoát
- Nguyễn Xuân Nghĩa
- Nguyễn Xuân Nha
- Nguyễn Xuân Quang
- Nguyễn Xuân Thiệp
- Nguyễn Xuân Thọ
- Nguyễn Xuân Tiệp
- Nguyễn Xuân Tường Vy
- Nguyễn Xuân Xanh
- Nguyễn Ý Thuần
- Nguyên Yên
- Nguyễn-Chương Mt
- Nguyễn-hòa-Trước
- Nguyệt Chu
- Nguyệt Quỳnh
- Nguyệt Vi
- Ngự Thuyết
- Người Buôn Gió
- Ngyễn Trung Bảo
- Nh. Tay Ngàn
- Nhã
- Nhã Ca
- Nhã Duy
- Nhã Thuyên
- Nhan Do Thanh
- Nhân Hồng
- Nhật Chiêu
- Nhật Lệ
- Nhất Linh
- Nhật Tiến
- Nhật Tuấn
- Nhất Uyên
- Nhị Linh
- Nhị Ngã
- Nhóm Vì một Hà Nội xanh
- Như Huy
- Như Không
- Như Quỳnh
- Như Quỳnh de Prelle
- Như Ý
- Nhược Thủy
- Niall Ferguson
- Nick Hilden
- Nicolas Casey
- Nikulin
- Nina McPherson
- Ninh Dương
- Ninh Kiều
- Nobert Hummelt
- Nông Hồng Diệu
- NP Phan
- Obama
- Ocean Vương
- Octavio Paz
- Ogden Nash
- Oksana Zabuzhko
- Oleg Kashin
- Ondrej Slowik
- onggiaolang
- Orlando Figes
- Orwell
- Oscar Salemink
- Oscar Wilde
- Pablo Neruda
- Pablo Picasso
- Palmer
- Patrick Frater
- Patrick Lodge
- Paul Auster
- Paul Celan
- Paul Éluard
- Paul Hoover
- Paul Mendez
- Paul Mozur
- Paul Theroux
- Paul-François Paoli
- Paulus Lê Sơn
- Pavel Basinsky
- Pavlo Vyshebaba
- Paweł Kubiak
- Pawel Kuczynski
- Paweł Łepkowski
- Percy Mabandu
- Pervez Hoodbhoy
- Peter B. Zinoman
- Peter Hansen
- Peter Harvey
- Peter Kleiner
- Peter Singer
- Phạm Anh Tuấn
- Phạm Biểu Tâm
- Phạm Cao Hoàng
- Phạm Châu
- Phạm Chí Dũng
- Phạm Chi Lan
- Phạm Chu Sa
- Phạm Công Luận
- Phạm Công Thiện
- Phạm Công Út
- Phạm Duy
- Phạm Duy Nghĩa
- Phạm Đình Trọng
- Phạm Đình Vy
- Phạm Đoan Trang
- Phạm Hải Anh
- Phạm Hải Âu
- Phạm Hiền Mây
- Phạm Hoàng Quân
- Phạm Hồng Sơn
- Phạm Hùng Việt
- Phạm Huy Thông
- Phạm Khiêm Ích
- Phạm Kiều Tùng
- Phạm Kỳ Đăng
- Phạm Lệ Quyên
- Phạm Lê Vương Các
- Phạm Linh
- Phạm Lưu Vũ
- Phạm Minh Hoàng
- Phạm Minh Ngọc
- Phạm Minh Quân
- Phạm Minh Trung
- Phạm Ngọc Lư
- Phạm Ngọc Thái
- Phạm Ngọc Tiến
- Phạm Nguyên Trường
- Phạm Ngữ
- Phạm Phan Long
- Phạm Phú Cường
- Phạm Phú Hải
- Phạm Phú Minh
- Phạm Phú Phong
- Phạm Phú Thứ
- Phạm Phú Viết
- Phạm Phúc Thịnh
- Phạm Phương
- Phạm Quang Ái
- Phạm Quang Long
- Phạm Quang Trung
- Phạm Quang Tuấn
- Phạm Sỹ Sáu
- Phạm Tăng
- Phạm Thành
- Phạm Thành Hưng
- Phạm Thanh Nghiên
- Phạm Thảo Nguyên
- Phạm Thế Cường
- Phạm Thị
- Phạm Thị Anh Nga
- Phạm Thị Hoài
- Phạm Thị Kiều Ly
- Phạm Thị Ngọc
- Phạm Thị Phương
- Phạm Thiên Ân
- Phạm Thiên Thư
- Phạm Tín An Ninh
- Phạm Toàn
- Phạm Trần
- Phạm Trọng Chánh
- Phạm Trung Nghĩa
- Phạm Tuấn
- Phạm Tư Thanh Thiện
- Phạm Tường Vân
- Phạm Văn
- Phạm Văn Khoái
- Phạm Văn Quang
- Phạm Văn Song
- Phạm Văn Tình
- Phạm Văn Vũ
- Pham Viem Phuong
- Phạm Viêm Phương
- Phạm Viết Đào
- Phạm Việt Hưng
- Phạm Vũ Lửa Hạ
- Phạm Xuân Đài
- Phạm Xuân Hùng
- Phạm Xuân Nguyên
- Phạm Xuân Trường
- Phan An Sa
- Phan Ba
- Phan Bội Châu
- Phan Cẩm Thượng
- Phan Châu Thành
- Phan Cự Đệ
- Phan Đạo
- Phan Đắc Lữ
- Phan Đình Diệu
- Phan Độc Lập
- Phan Hải-Đăng
- Phan Hồng Giang
- Phan Huy Dũng
- Phan Huy Đường
- Phan Huy Lê
- Phan Huyền Thư
- Phan Kế Toại
- Phan Khôi
- Phan Lặng Yên
- Phan Mạnh Quỳnh
- Phan Nam Sinh
- Phan Ngọc
- Phan Nguyên
- Phan Nhật Nam
- Phan Nhiên Hạo
- Phan Ni Tấn
- Phan Phương Đạt
- Phan Quang
- Phan Tấn Hải
- Phan Tấn Uẩn
- Phan Thanh Bình
- Phan Thắng
- Phan Thế Hải
- Phan Thị Hà Dương
- Phan Thị Kim Phúc
- Phan Thị Trọng Tuyển
- Phan Thị Vàng Anh
- Phan Thu Vân
- Phan Thúy Hà
- Phan Trang Hy
- Phan Trí Đỉnh
- Phan Trọng Hoàng Linh
- Phan Văn Giưỡng
- Phan Văn Song
- Phan Văn Thắng
- Phan Vũ
- Phan Xine
- Phan Xuân Sinh
- Phannguyên Psg
- Phanxipăng
- Phaolô VI
- Pháp Hoan
- Pháp Vân
- Phapxa Chan
- Phát biểu nhận giải Văn Việt
- Phil Caputo
- Philip Larkin
- Philip Roth
- Phong Linh
- Phong Nguyen
- Phong Quang
- Phố Văn
- Phú Quang
- Phù Sa
- Phúc Lai GB
- Phúc Tiến
- Phunchok Stobdan
- Phùng Anh Kiệt
- Phùng Hi
- Phùng Hoài Ngọc
- Phùng Học Vinh
- Phùng Ngọc Kiên
- Phùng Nguyễn
- Phùng Quán
- Phùng Thành Chủng
- Phùng Thị Hạ Nguyên
- Phùng Thị Như Hà
- Phuong Ta
- Phương Hương
- Phương Phương
- Phương Thảo
- Phương Thuý
- Phương Uy
- Pierre Darriulat
- Pierre Lemieux
- Prashanth Parameswaran
- Qladimir Pyljow
- Quách Hạo Nhiên
- Quách Tấn
- Quách Thoại
- Quảng Diệu Trần Bảo Toàn
- Quang Dũng
- Quang Đức
- Quang Minh
- Quang Phan
- Quảng Tánh Trần Cầm
- Quậy Nguyễn
- Quế Hương
- Quốc Dũng
- Quốc Phương
- Quốc Toản
- Quyên Di
- Quyên Hoàng
- Quỳnh Iris de Prelle
- Quỳnh Vi
- Rabindranath Tagore
- Rainer Maria Rilke
- Ralph Chaplin
- Rebecca Mead
- Rebecca Solnit
- Reiner Traub
- Remo Verdickt
- Riccardo Gazzaniga
- Richard C. Paddock
- Richard Millet
- Richard Serra
- Robert Desnos
- Robert McCrump
- Roger Vu
- Roland Barthes
- Romain Rolland
- Ronald F. Inglehart
- Ruben David Gonzalez Gallego
- Russell Edson
- Ruth Ingram
- Ryszard Legutko
- Salman Rushdie
- Salvatore Babones
- Sam Dresser
- Sạn chữ
- Sandra Kerschbaumer
- Sara Teasdale
- Sarah Pulliam Bailey
- Sarah Thornton
- Sáu Nghệ
- Sergio Bitar
- Shakespeare
- Shannon Van Sant
- Sheikha A
- Sheila Fischman
- Sheila Ngoc Pham
- Sheri Berman
- Shigeeda Yutaka
- Shirin Ebadi
- Shukshin
- Simon Johnson
- Sire Apm Lukwesa
- Slavoj Žižek
- Sohaniim
- Son Kieu Mai
- Song Chi
- Song Hà
- Song Nguyễn
- Song Phạm
- Song Phan
- Song Thao
- Số đặc biệt
- Sơn Ca
- Sơn Hoàng Liên
- Sơn Kiều Mai
- Sơn Nam
- Stefano Harney
- Stephan Koester
- Stephen B. Young
- Steve Earle
- Susan Sontag
- Suzuki Katsuhiko
- Sương Nguyệt Minh
- Sương Quỳnh
- Svetlana Alexievich
- Svetlana Alexievitch
- Svetlana Alexiévitch
- Sylvia Plath
- T. Đ.
- T.Vấn
- Tạ Anh Thư
- Tạ Chí Đại Trường
- Tạ Duy Anh
- Tạ Tỵ
- Tạ Văn Tài
- Tạ Văn Thông
- Tạ Xuân Hải
- Tadeusz Rósewicz
- Tam Ích
- Tamarchenko
- Tàn Tuyết
- Tanaami Keiichi
- Taras Shevchenko
- Tarik Khaldi
- Tăng Quang
- Tâm An
- Tâm Chánh
- Tâm Don
- Tâm Thường Định
- Tâm Việt
- Tấn An
- Teolinda Gersão
- Teresa Mỹ Chúc
- Thạch Đạt Lang
- Thạch Quỳ
- Thạch Thảo
- Thái Bá Tân
- Thái Bá Vân
- Thái Bảo
- Thái Hà
- Thái Hạo
- Thái Kế Toại
- Thái Kim Lan
- Thái Ngọc San
- Thái Sinh
- Thái Thanh
- Thái Thăng Long
- Thái Tuấn
- Thái Văn
- Thái Văn Đào
- Thái Vũ
- Thạnh Đà
- Thanh Hằng - Anh Khoa
- Thành Lộc
- Thanh Nam
- Thanh Ngọc
- Thanh Phương
- Thanh Tâm Tuyền
- Thanh Thảo
- Thanh Thuỷ
- Thanh Trúc
- Thanh Tùng
- Thanh Xuân
- Thanhhà Lại
- Thảo Dân
- Thao Dinh
- Thảo luận
- Thảo Nguyên
- Thảo Trường
- Thảo Vy
- Thẩm Đống
- Thận Nhiên
- Thân Trọng Mẫn
- Thân Trọng Sơn
- Thế Dũng
- Thế Giang
- Thế Quân
- THẾ THANH
- Thế Uyên
- Thi Hoàng
- Thi Nguyên
- Thi sỹ ỦA
- Thi Vũ
- Thích Nhất Hạnh
- Thích Nữ Chân Không
- Thích Phước An
- Thierry Leclère
- Thierry Lentz
- Thiên Di
- Thiên Điểu
- Thiền Lâm
- Thiền Nguyễn
- Thiên Thai
- Thiện Tùng
- Thiện Ý
- Thiết Thạch
- Thiếu Khanh
- Thiều Mai Lâm
- Tho Nguyen
- Thomas A. Bass
- Thomas Bo Pedersen
- Thomas Mahler
- Thomas S. Mullaney
- Thông Đặng
- Thơ
- Thu Phong
- Thu Vàng
- Thuận
- Thuần Ngô
- Thuận Paris
- Thuận Thiên
- Thục Quyên
- Thụy An
- Thùy Dung
- Thụy Khuê
- Thùy Linh
- Thụy My
- Thủy Tiên
- Thư Bạn Đọc
- Thường Quán
- Thy An
- Tịch Ru
- Tiet Hung Thai
- Tiêu Dao Bảo Cự
- Tiêu Kiện Sinh
- Tiểu Tử
- Tillman Miller
- Timothy Brennan
- Timothy Garton Ash
- Timothy Snyder
- Tina Hà Giang
- Tomas Tranströmer
- Tô Đăng Khoa
- Tô Hải
- Tô Hoàng
- Tố Hữu
- Tô Lan Hương
- Tô Ngọc Vân
- Tô Thẩm Huy
- Tô Thùy Yên
- Tô Văn Trường
- Tôi Đây
- Tôn Thất Thông
- Tống Văn Công
- Trà Đóa
- Trà Nhiên
- Tracy K. Smith
- Tran Dinh Dung
- Tran Nam Dung
- Trang Châu
- Trang Hạ
- Trang Thanh
- Trang Thế Hy
- Trangđài Glassey Trầnguyễn
- Trangđài Glasssey-Trầnguyễn
- Trao đổi
- Trầm Tử Thiêng
- Trần Anh Hùng
- Trần Bá Đại Dương
- Trần Bang
- Trần Bình Nam
- Trần C. Trí
- Trần Cao Lĩnh
- Trần Cao Tường
- Trần Công Tâm
- Trần Công Tín
- Trần Dạ Từ
- Trần Dần
- Trần Doãn Nho
- Trần Dũng Thanh Huy
- Trần Duy
- Trần Duy Phiên
- Trần Duy Trung
- Trần Đăng Khoa
- Trần Đăng Tuấn
- Trần Đĩnh
- Trần Đình Bút
- Trần Đình Hoành
- Trần Đình Lương
- Trần Đình Sơn Cước
- Trần Đình Sử
- Trần Đình Triển
- Trần Đình Trợ
- Trần Độ
- Trần Đồng Minh
- Trần Đức Anh Sơn
- Trần Đức Thảo
- Trần Đức Tiến
- Trần Đức Tín
- Trần Đức Toản
- Trần Gia Huấn
- Trần Gia Ninh
- Trần Hà Linh
- Trần Hạ Tháp
- Trần Hạ Vi
- Trần Hải
- Trần Hạnh
- Trần Hậu
- Trần Hoài Anh
- Trần Hoài Thư
- Trần Hoàng Phố
- Trần Hoàng Trúc
- Trần Hoàng Vy
- Trần Hùng
- Trần Huy Bích
- Trần Huy Minh Phương
- Trần Huy Quang
- Trần Huỳnh Duy Thức
- Trần Hữu Dũng
- Trần Hữu Khánh
- Trần Hữu Quang
- Trần Hữu Tá
- Trần Hữu Thục
- Trần Khánh Triệu
- Trần Kiêm Đoàn
- Trần Kiêm Trinh Tiên
- Trần Kim Trắc
- Trần Kỳ Trung
- Trần Lam
- Trần Lê Sơn Ý
- Trần Lương
- Trần Lý Trí Tân
- Trần Mạnh Hảo
- Trần Mạnh Tuấn
- Trần Minh Phi
- Trần Minh Quốc
- Trần Mộng Tú
- Trần Nam Bình
- Trần Ngân Hà
- Trần Nghi Hoàng
- Trần Ngọc Cư
- Trần Ngọc Hiếu
- Trần Ngọc Tuấn
- Trần Ngọc Vương
- Trần Nguyên Đán
- Trần Nhã Thụy
- Trần Nhương
- Trần Phong Giao
- Trần Phong Vũ
- Trần Quang Đức
- Trần Quang Lộc
- Trần Quốc Nam
- Trần Quốc Thuận
- Trần Quốc Toàn
- Trần Quốc Trọng
- Trần Quốc Vượng
- Trần Quyết Thắng
- Trân Sa
- Trần Song Hào
- Trần Thành
- Trần Thanh Ái
- Trần Thanh Cảnh
- Trần Thanh Huy
- Trần Thanh Vân
- Trần Thắng
- Trần Thế Vĩnh
- Trần Thị Băng Thanh
- Trần Thị Diệu Tâm
- Trần Thị Lai Hồng
- Trần Thị Lam
- Trần Thị NgH.
- Trần Thị Nguyệt Mai
- Trần Thị Phương Phương
- Trần Thị Thanh Thoả
- Trần Thị Trường
- Trần Thiện Đạo
- Trần Thùy Mai
- Trần Tiến
- Trần Tiễn Cao Đăng
- Trần Tiến Dũng
- Trần Tiễn Khanh
- Trần Tố Nga
- Trần Trọng Dương
- Trần Trọng Thức
- Trần Trọng Vũ
- Trần Trung Chính
- Trần Trung Đạo
- Trần Tuấn
- Trần Từ Mai
- Trần Vàng Sao
- Trần Văn Chánh
- Trần Văn Đỉnh
- Trần Văn Khê
- Trần Văn Minh
- Trần Văn Nam
- Trần Văn Thọ
- Trần Văn Thủy
- Trần Văn Tý
- Trần Vấn Lệ
- Trần Việt Hà
- Trần Viết Ngạc
- Trần Vinh Dự
- Trần Vũ
- Trần Vũ Hải
- Trần Vương Thuấn
- Trần Vương Thuận
- Trần Wũ Khang
- Trần Xuân Hoài
- Trần Xuân Linh
- Trần Xuân Lĩnh
- Trần Xuân Thảo
- Trần Yên Hòa
- Trần Yên Nguyên
- Trên
- Trên Facebook
- Trên Facebook/Minds
- Trên kệ sách
- Trên trang diaCRITICS
- Trí Hiệu Dân
- Triều Anh
- Triều Hoa Đại
- Triêu Nhan
- Triều Sơn
- Triệu Tử Dương
- Trịnh Anh Tuấn
- Trịnh Bá Phương
- Trịnh Bách
- Trịnh Cao Hòa Thanh
- Trịnh Chu
- Trịnh Công Sơn
- Trịnh Cung
- Trịnh Duy Kỳ
- Trịnh Hữu Long
- Trịnh Kim Tiến
- Trịnh Lữ
- Trịnh Minh Tuấn
- Trịnh Sơn
- Trịnh Thanh Thủy
- Trịnh Thu Tuyết
- Trịnh Vĩnh Phúc
- Trịnh Xuân Thuận
- Trịnh Xuân Thủy
- Trịnh Y Thư
- Trọng Anh
- Trọng Phú
- Trọng Thành
- Tru Sa
- Trúc Giang
- Trúc Thông
- Trúc Ty
- Trump
- Trung Bảo
- Trung Dũng Kqd
- Trùng Dương
- Trung Trung Đỉnh
- Trư Sa
- Trường An
- Trương Anh Ngọc
- Trương Anh Thụy
- Trương Chính
- Trương Duy Nhất
- Trương Đăng Dung
- Trương Điện Thắng
- Trương Đình Phượng
- Trương Hồng Quang
- Trương Huy San
- Trường Minh
- Trương Ngọc Chương
- Trương Nguyên
- Trương Nguyện Thành
- Trương Nhân Tuấn
- Trương Phượng
- Trương Quang
- Trương Quang Đệ
- Trương Quang Nhuệ
- Trương Quang Vĩnh
- Trương Thị Ngọc Hân
- Trương Thiên Phàm
- Trương Thu Hiền
- Trương Tố Hoa
- Trương Trọng Nghĩa
- Trương Tửu
- Trương Văn Dân
- Trương Văn Vĩnh
- Trương Vũ
- Trương Xuân Thiên
- Tú Mỡ
- Tù Quốc Hoài
- Tù Sâm
- Tú Trung Hồ
- Tuấn Duy
- Tuấn Khanh
- Tuân Nguyễn
- Tuấn Thảo
- Tuệ Anh
- Tuệ Đăng
- Tuệ Nguyên
- Tuệ Nhân
- Tuệ Nhật
- Tuệ Sĩ
- Tuệ Sỹ
- Tùng Dương Cola
- Tung Nguyen
- Turner
- Túy Hồng
- Tuyết Nghi
- Tư
- Từ Dung
- Tư liệu
- Tử Linh
- Từ Mai Trần Huy Bích
- Từ Quốc Hoài
- Từ Sâm
- Từ Thức
- Tưởng
- Tương Lai
- Umberto Eco
- Uông Tăng Kỳ
- Uông Triều
- Uyển Ca
- Uyên Nguyễn
- Uyên Thao
- Uyên Vũ
- V. Erofiev
- Vàng A Giang
- Varlam Shalamov
- Vasco Gargalo
- Vasily Makarovich
- Văn
- Văn Biển
- Văn Cao
- Văn Chinh
- Văn Công Hùng
- Văn Giá
- Văn học
- Văn học Miền Nam 54-75
- Văn Như Cương
- Văn Quang
- Văn Tâm
- Văn Việt
- Văn.
- Vấn đề hôm nay
- Vận Động Ứng Cử Đại Biểu Quốc Hội 2016
- Vân Hạ
- Vân Phi
- Velcrow Ripper
- Veronica Melkozerova
- Vi Lãng
- Vi Trần
- Vi Yên
- Viet Thanh Nguyen
- Viên Linh
- Việt Bách
- Việt Bình
- Việt Dzũng
- Việt Khang
- Việt Lang
- Việt Phương
- Viktor Maslov
- Vinh Anh
- Vĩnh Hảo
- Vĩnh Quyền
- Virginia Heffernan
- Virginia Woolf
- Vladimir Nabokov
- Võ An Đôn
- Võ Anh Minh
- Võ Anh Thơ
- Võ Bá Cường
- Võ Đắc Danh
- Võ Định Hình
- Võ Đức Phúc
- Võ Hồng
- Võ Huy Tâm
- Võ Hương Quỳnh
- Võ Kỳ Điền
- Võ Ngàn Sông
- Võ Phiến
- Võ Thị Hảo
- Võ Thị Thu Hằng
- Võ Tiến Cường
- Võ Tòng Xuân
- Võ Trí Hảo
- Võ Văn Quản
- Võ Văn Tạo
- Võ Văn Thôn
- Võ Xuân Quế
- Võ Xuân Sơn
- Volker Weidermann
- Volodymyr Vynnychenko
- Volodymyr Zelenskyy
- Vũ Bằng
- Vũ Biện Điền
- Vũ Cao Đàm
- Vũ Cát Tường
- Vũ Đình Hòe
- Vũ Đình Huỳnh
- Vũ Đình Liên
- Vũ Đình Phòng
- Vũ Đức Khanh
- Vũ Đức Phúc
- Vũ Đức Sao Biển
- Vu Gia
- Vũ Hà Văn
- Vũ Hạnh
- Vũ Hoàng Chương
- Vũ Hoàng Thư
- Vũ Hồng Ánh
- Vũ Huy Ngọc
- Vũ Huy Quang
- Vũ Khắc Hoè
- Vũ Khắc Khoan
- Vũ Kim Hạnh
- Vũ Kim Thu
- Vũ Lâm
- Vũ Lập Nhật
- Vũ My Lan
- Vũ Ngọc Giao
- Vũ Ngọc Hoàng
- Vũ Ngọc Tâm
- Vũ Ngọc Tiến
- Vũ Nho
- Vũ Oanh
- Vũ Quang Việt
- Vũ Quí Hạo Nhiên
- Vũ Quốc Ngữ
- Vũ Quỳnh Hương
- Vũ Quỳnh Nh.
- Vũ Thành Sơn
- Vũ Thanh Tâm
- Vũ Thanh Tùng
- Vũ Thành Tự Anh
- Vũ Thế Khôi
- Vũ Thị Hải
- Vũ Thị Nhuận
- Vũ Thị Phương Anh
- Vũ Thị Phương Lan
- Vũ Thị Thanh
- Vũ Thị Thanh Mai
- Vũ Thư Hiên
- Vũ Tiến Lập
- Vũ Trọng Khải
- Vũ Tuấn Hoàng
- Vũ Từ Trang
- Vũ Tường
- Vũ Viết Tuân
- Vũ Xuân Tửu
- Vương Bích Ngọc
- Vương Đan
- Vương Huy
- Vương Ngọc Minh
- Vương Tiểu Nhị
- Vương Trí Nhàn
- Vương Trọng
- Vương Trùng Dương
- Vương Trung Hiếu
- Vy Thảo
- W. H. Auden
- Wa Praong
- Walt Whitman
- Walter Isaacson
- Wayne Karlin
- Wells
- Wendy Barker
- Wilhelm Schmid
- Will Nguyen
- William Carlos Williams
- William Nee
- William Stafford
- William Stanley Merwin
- Winston Phan Đào Nguyên
- Wislawa Szymborska
- Wolf Biermann
- Wolfgang Borchert
- Wynn Gadkar Wilcox
- Xie Tao
- Xuân Ba
- Xuân Diệu
- Xuân Dương
- Xuân Đài
- Xuân Minh
- Xuân Phượng
- Xuân Sách
- Xuân Thọ
- Xuân Vũ
- Xương Văn
- Y Chan
- Ý Nhi
- Y Uyên
- Yanis Varoufakis
- Yevgeny Yevtushenko
- Yên Ba
- Yên Khắc Chính
- Yến Năng
- Yên San
- Yên San Thụy Miên
- Yiyun Li
- Yoko Ogawa
- Yōko Ogawa
- Yoko Tawada
- Young Sang Lee
- Yuliya Ilchuk
- Yuno Bigboi
- Yves Sintomer
- Yvette Tan
- Zac Herman
Từ mở rộng biên cương trên bản đồ đến xây dựng đảo nhân tạo: Lịch sử 100 năm tranh chấp biển Đông (13)
Tác giả: Lê Oa Đằng
Việt dịch: Phạm Văn Song
從地圖開疆到人工造島:百年南海紛爭史
黎蝸藤
CÔNG TY SÁCH NGŨ NAM
ĐÀI BẮC-2017
IV.7. Phát hiện dầu khí ở biển Đông
Vào những năm 1960, tranh chấp lãnh thổ ở biển Đông tạm lắng xuống, Chiến tranh Việt Nam là một nguyên nhân quan trọng. Năm 1955, Bắc Việt quyết định thống nhất Việt Nam bằng vũ lực. Với sự ủng hộ của Bắc Việt, Đảng Cộng sản ở miền Nam thành lập Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam (Việt Cộng), tháng 1/1960 phát động vũ trang cách mạng, dùng sách lược nông thôn bao vây thành thị đọ sức với chính phủ Nam Việt. Chính phủ Ngô Đình Diệm của Nam Việt mặc dù nhận viện trợ Mĩ và có cố vấn quân sự Mĩ vẫn liên tiếp thất bại. Để chống lại chủ nghĩa cộng sản, Mĩ không thể không tăng cường giúp đỡ quân sự cho chính phủ Nam Việt. Tháng 5/1961, Phó Tổng thống Johnson trong thời gian thăm Việt Nam đã kí tuyên bố chung với Ngô Đình Diệm, phái 100 lính đặc nhiệm của quân đội Mĩ đến, mở đầu việc can thiệp quân sự chính thức. Thời gian này, do sự kiện bức tường Berlin mà Chiến tranh lạnh ngày càng leo thang. Chiến tranh Việt Nam xem như “chiến tranh nóng duy nhất trong Chiến tranh lạnh”, trở thành phương thức tốt nhất để biểu hiện quyết tâm bảo vệ thế giới tự do của Mĩ. Năm 1962, hai nước Xô, Trung ganh đua ủng hộ Bắc Việt và Việt Cộng để tranh giành địa vị lãnh đạo phe cộng sản. Trong tình hình chiến tranh Việt Nam leo thang, tầm quan trọng của biển Đông đối với Mĩ đã tăng lên. Quân đội Mĩ ngoài việc tiếp tục sự hiện diện của họ ở biển Đông từ sau Thế chiến thứ hai, còn xem biển Đông là phòng tuyến phong tỏa Bắc Việt và là chiến trường hậu thuẫn Nam Việt tấn công Bắc Việt trên biển. Năm 1965, Mĩ quyết định nâng cấp từ “Chiến tranh Đặc biệt” lên “Chiến tranh Cục bộ”. Ngày 9/5, Quân đội Mĩ định nghĩa vùng biển biển Đông bao gồm Hoàng Sa trong đó thành “khu vực chiến đấu” (Combat Zone). Thời gian này, toàn bộ vùng biển Đông đều bị quân Mĩ kiểm soát. Thực lực hải quân của Bắc Việt và Trung Quốc có hạn, chỉ có thể giới hạn ở vùng bờ biển nước mình. Để chống cộng, ba bên Đài Loan, Philippines, Việt Nam đều không muốn mở rộng tranh chấp lãnh thổ. Đến cuối thập niên 1960, “hiện trạng” của Trường Sa là Đài Loan chiếm đảo Ba Bình, Việt Nam có tuần tra Trường Sa định kì hàng năm, Philippines thì chủ yếu dựa vào “hành động cá nhân” kiểu như của Cloma ở Trường Sa.
Thời kì này, sự quan tâm của các nước vẫn là các lợi ích chiến lược và an ninh, cùng với nhân tố mang tính dân tộc như “chủ quyền lãnh thổ”. Trường Sa không hề thể hiện có lợi ích kinh tế quá lớn. Dù Trường Sa có ngư trường, và cũng có tài nguyên phốt phát nhất định trên các đảo, nhưng khoảng cách xa xôi, tiếp tế khó khăn; đảo nhỏ bé, khó để xây dựng căn cứ. Những khó khăn thực tế này đều làm giảm nhiệt tình khai thác Trường Sa của các nước. Philippines ở gần nhất, có thể vẫn có một số lợi ích ngư nghiệp nhưng cũng không phải quá quan trọng. Đài Loan tuyên bố khai thác Trường Sa nhưng dù đã thảo luận mười mấy năm vẫn dừng lại trên giấy. Vì vậy, xung đột Trường Sa luôn dừng lại trong phạm vi có thể kiểm soát. Tuy nhiên, việc phát hiện dầu khí ở biển Đông đã thay đổi triệt để tiến trình này.
Việc trắc lượng biển và nghiên cứu địa chất đáy biển ở Đông Hải (biển Hoa Đông) và biển Đông đã bắt đầu từ trước Thế chiến thứ hai, về mặt này Nhật Bản đã tích lũy không ít số liệu. Chỉ có điều vào lúc đó, việc khai thác dầu khí dưới đáy biển vẫn là chuyện ngoài tầm với, vì không có ai chuyên môn nghiên cứu lĩnh vực này. Sau Thế chiến thứ hai, việc khai thác dầu khí dưới biển trở nên khả thi, thăm dò dầu khí ở đáy biển dần trở thành điểm nóng của giới khoa học và giới công nghiệp. Ở biển Hoa Đông và biển Đông, công trình có liên quan đến dầu khí ở đáy biển sớm nhất có khả năng là “Sự phân bố của các trầm tích tầng đá lục địa ở Đông Á” do các nhà địa chất học Mĩ F. P. Shepard, K.O. Emery và H.R. Gould công bố năm 1949.[525] Tuy nhiên, trọng tâm nghiên cứu ở biển Đông của báo cáo này vẫn là tầng trầm tích đáy biển ven bờ bán đảo Đông Dương, chưa có nhiều nghiên cứu về địa chất vùng xa bờ biển Đông, công nghệ được sử dụng chưa đủ để khẳng định ở đáy biển Đông có dầu hay không. Sau đó, K.O. Emery chuyển sang nghiên cứu địa chất ở bang California của Mĩ và vịnh Ba Tư (Persian Gulf)). Đến cuối những năm 1950, ông đã trở thành giáo sư địa chất biển, Học viện Công nghệ Massachusetts, và bắt đầu quan hệ hợp tác lâu dài với giáo sư Hiroshi Niino ở Khoa Địa chất, Đại học Thuỷ sản Tokyo, cùng nhau tiến hành khảo sát địa chất đáy biển Hoa Đông và biển Đông. Ngay từ những năm 1930, Hiroshi Shinno đã tham gia nghiên cứu địa chất biển trên khắp Nhật Bản, đã tích lũy được nhiều kinh nghiệm và số liệu về địa lí địa chất khu vực này. Sự hợp tác của hai người nhanh chóng mang lại kết quả. Tháng 10/1955, họ cùng nhau nộp một bài viết có tên là “Đá trầm tích vùng biển cạn của biển Hoa Đông và biển Đông”, được công bố trên tạp chí học thuật của Mĩ là “Tập san Hội Địa lí học Hoa Kì” vào tháng 5/1961.[526] Qua nghiên cứu hơn 1 000 mẫu đất đá gần bờ của vùng bờ biển kéo dài từ Hoàng Hải đến vịnh Bắc Bộ, bài báo đã thảo luận cấu tạo địa chất của Hoàng Hải, biển Hoa Đông và biển Đông, đưa ra giả thuyết ở nơi giáp giới của Hoàng Hải và biển Hoa Đông cũng như phần trung tâm của vịnh Bắc Bộ có thể có trầm tích cacbon hữu cơ (tức dầu mỏ). Bài viết này được cho là bài viết sớm nhất cho rằng đáy biển Hoa Đông và biển Đông có dầu mỏ dựa vào số liệu thực nghiệm của khảo sát thực tế (chứ không phải là chỉ là lí luận và suy đoán).
Kết quả nghiên cứu này đã khơi ra một loạt hoạt động khảo sát tiếp sau. Năm 1958, Hội nghị hải dương thứ nhất của Liên Hợp Quốc đã lập ra 4 công ước lớn như “Công ước thềm lục địa” (xem V.2), đã thúc đẩy thêm một bước việc khảo sát tài nguyên thềm lục địa biển Đông. Ở phía biển Đông có hai lực lượng khảo sát quan trọng nhất – Cục Đo đạc biển của hải quân Mĩ và Liên Hợp Quốc.
Hải quân Mĩ chủ yếu xuất phát từ nhu cầu cuộc chiến chống tàu ngầm mà khảo sát địa hình đáy biển, đồng thời cũng mong muốn nhân tiện thu được nhiều hơn tư liệu có ích về địa chất. Trong những năm 1960, Hải quân Hoa Kì đã tiến hành nghiên cứu thường xuyên và liên tục về địa từ và sóng địa chấn ở biển Hoa Đông và biển Đông, và đã đạt được những tiến bộ đáng kể và thu được nhiều dữ liệu có ích. Hành động chủ yếu bao gồm: năm 1961, tàu khảo sát “Pioneer” được phái đi khảo sát tổng hợp về hải dương biển Đông; Năm 1966, tàu “Likhoboff” được cử đi khảo sát địa chất thuỷ văn và lực từ ở biển Đông; năm 1967, “Dự án Địa từ” được tổ chức để tiến hành đo đạc từ tính hàng hải quy mô lớn ở biển Đông và phía Bắc thềm lục địa quần đảo Sunda, mặt cắt từ tính hàng hải quần đảo Hoàng Sa, Macclesfield (Trung Sa) và Trường Sa; tháng 9/1967 đến tháng 2/1968, cùng với Việt Nam, Thái Lan, Malaysia tiến hành quan trắc hàng hải theo mặt cắt với chiều dài 20 000 km ở biển Đông.[527]
Tuy nhiên, bên thăm dò biển Đông quan trọng hơn là Liên Hợp Quốc. Liên Hợp Quốc không lâu đã thành lập Uỷ Ban Kinh tế Châu Á và Viễn Đông (Economic and Social Commission for Asia and the Far East, ECAFE), năm 1974 đổi tên là Uỷ ban Kinh tế châu Á Thái Bình Dương (Economic and Social Commission for Asia and the Pacific, ESCAP), như là tổ chức điều phối thúc đẩy sự phát triển kinh tế ở Viễn Đông. Dựa trên thành quả khảo sát của K.O. Emery cũng như một số nghiên cứu tiếp sau đó (chủ yếu là bắt nguồn từ tư liệu địa từ công khai của hải quân Mĩ), cần một tổ chức có tính khu vực để cùng khai thác. Vì vậy, vào năm 1966 Liên Hợp Quốc đã thành lập cơ quan chung CCOP (Committee for the Coordination of Join Prospecting for Mineral Resources in Asian Offshore Area: Uỷ ban điều phối các hoạt động thăm dò chung về tài nguyên khoáng sản ở khu vực ngoài khơi châu Á) để cùng chia sẻ số liệu đo đạc đáy biển, điều hợp việc khảo sát tài nguyên khoáng vật dầu mỏ ở vùng biển Đông Á. Nước thành viên ban đầu có Nhật Bản, Đài Loan, Hàn Quốc và Philippines, sau đó là Mĩ, Anh, Pháp và Tây Đức gia nhập với tư cách là nước cố vấn hoặc điều phối. Tiếp sau đó, Thái Lan, Việt Nam Cộng hòa (Nam Việt), Campuchia, Malaysia và Indonesia cũng lần lượt gia nhập. Do đó, Uỷ ban này đã trở thành cơ quan chính thức khảo sát tài nguyên dầu mỏ biển Hoa Đông và biển Đông.
Ở biển Hoa Đông, từ tháng 10 đến tháng 11/1968, CCOP tổ chức đoàn khảo sát liên hợp 4 bên Mĩ, Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan, tiến hành khảo sát quy mô lớn hơn trên biển Hoa Đông và Hoàng Hải. Báo cáo điều tra[528] chỉ ra thềm lục địa biển Hoa Đông và đáy biển Hoàng Hải có rất nhiều khả năng có dầu và khí thiên nhiên; còn khu vực giữa Nhật Bản và Đài Loan, tức vùng biển gần đảo Điếu Ngư (Senkaku) thì có tiềm năng trở thành khu vực khai thác dầu khí có trữ lượng phong phú tầm cỡ thế giới. Điều này đã gây ra tranh chấp giữa Trung Quốc và Nhật Bản đối với đảo Điếu Ngư.
Ở biển Đông, vào năm 1968 CCOP cũng nộp một báo cáo khác, chỉ ra rằng vùng ven bờ và vùng biển lân cận của Việt Nam, vùng biển phía Đông và phía Nam của quần đảo Trường Sa chứa đựng tài nguyên dầu khí phong phú.
Thời gian từ tháng 6 đến tháng 8/1969, tàu khảo sát “Hunter” của Mĩ dưới sự chỉ huy của Viện Nghiên cứu Hải dương Hoa Kì, đã tiến hành khảo sát 5 lần ở khu vực biển Đông. Báo cáo khảo sát cho thấy vùng biển này chủ yếu là các núi có đáy là đá magma, giữa các ngọn núi đều có bồn trũng do trầm tích hình thành, có khả năng chứa khối lượng lớn dầu khí.[529] Những báo cáo này, đã kích thích thêm một bước các nước tăng tốc việc kiểm soát chủ quyền đối với các đảo biển Đông.
Những hoạt động đo đạc này dường như cùng lúc với việc các nước Đông Nam Á nối tiếp nhau đưa ra yêu sách thềm lục địa và phân định vùng biển: năm 1961, Philippines công bố Luật đường cơ sở lãnh hải (xem IV.8); năm 1966, Malaysia công bố Luật thềm lục địa (xem IV.11); năm 1967, Nam Việt Nam tuyên bố thềm lục địa và tài nguyên thềm lục địa thuộc quyền quản lí riêng của Việt Nam (xem IV.9); năm 1968, Philippines tuyên bố phạm vi thềm lục địa (xem IV.8); năm 1968, Indonesia và Malaysia đạt được thỏa thuận phân định vùng biển (xem IV.11); năm 1970, Nam Việt Nam công bố “Luật dầu khí” (xem IV.9)... Cuộc tranh giành biển Đông giữa các nước bước vào giai đoạn mới.
IV.8. Philippines chiếm đóng quần đảo Trường Sa
Công bố luật lãnh hải
Philippines đi đầu trong vòng mới của cuộc chiến tranh giành các đảo với việc ban hành luật lãnh hải. Với tư cách là một quốc gia quần đảo, Philippines dốc hết sức vào cuộc tranh giành quyền lợi biển. Năm 1958 Liên Hợp Quốc tổ chức Hội nghị về Luật biển lần thứ nhất, và kí “Công ước Luật biển Geneva”, Công ước này cấu thành từ 4 hiệp ước, lần lượt là “Công ước về Lãnh hải và Vùng tiếp giáp”, “Công ước về Thềm lục địa”, “Công ước về Hải phận Quốc tế” và “Công ước về Nghề cá và Bảo tồn tài nguyên sống ở vùng biển quốc tế”. Sau khi kí, Philippines là một trong những nước phê chuẩn sớm nhất (cũng là một bên kí Công ước nhưng mãi đến sau khi xảy ra tranh chấp đảo Điếu Ngư, Đài Loan mới phê chuẩn). Ngày 17/6/1961, Tổng thống Garcia ban hành luật số 3046 “Luật xác định đường cơ sở của lãnh hải của Philippines” (Republic Act No. 3046, Act for define the baseline of the territorial sea of the Philippines, June 17, 1961), quy định vùng biển Philippines bao gồm vùng nội thuỷ và lãnh hải, và đã xác định rõ đường cơ sở lãnh hải (Hình 29):
Hình 29: Đường cơ sở lãnh hải của Philippines
Xét thấy các hiệp ước trên quy định vùng nước bên trong biên giới đều thường được xem là một bộ phận vùng biển của quần đảo Philippines;
Xét rằng tất cả vùng nước bao quanh, đan xen và liên kết giữa các đảo của quần đảo Philippines, bất kể bề rộng hoặc diện tích lớn nhỏ của chúng thường được cho là bộ phận phụ thuộc tất yếu của lãnh thổ đất liền, cấu thành một bộ phận vùng nước nội địa (inland) hoặc nội bộ (internal) của lãnh thổ Philippines;
Xét rằng vùng nước ở ngoài các đảo xa nhất của quần đảo nhưng nằm trong phạm vi biên giới mà các hiệp ước kể trên quy định tạo thành lãnh hải Philippines;
Xét rằng đường cơ sở của lãnh hải của Philippines đã được xác định là các đường thẳng nối các điểm cơ sở thích hợp của các đảo liên tiếp ngoài cùng tạo thành;
Trước khi các bên liên quan có thể có được thông tin, cái gọi là đường cơ sở nói trên cần được làm sáng tỏ, xác định và mô tả cụ thể.[530]
Philippines còn đưa ra tọa độ của các điểm cơ sở rất chi tiết. Như hình 29 cho thấy, theo luật này, bên trong đường cơ sở (đường liền nét) là nội thuỷ của Philippines, vùng biển ngoài đường cơ sở nhưng trong đường ranh giới của hiệp định (đường chấm vạch) là lãnh hải của Philippines. Đáng để chỉ ra là đường cơ sở lãnh hải của Philippines khi đó không bao gồm quần đảo Trường Sa và bãi Scarborough (đảo Hoàng Nham), chúng cũng đều ở ngoài đường giới hạn lãnh hải (tức đường phân định của hiệp ước) (một phần của một số bãi ngầm thuộc Trường Sa nằm trong đường phân định của hiệp ước, ở đây không đi sâu nghiên cứu).
Nguyên nhân khiến bãi Scarborough không được bao gồm vào có thể là do sau khi ban bố Luật này Philippines mới cắm cờ, bắt buôn lậu và tiễu phỉ ở bãi Scarborough (xem phần sau). Nguyên nhân không bao gồm quần đảo Trường Sa có thể là do chú ý đến quan hệ quốc tế. Điều này cũng lại một lần nữa cho thấy rằng Garcia tương đối biết giữ chừng mực.
Luật này có thể xem là di sản cuối cùng mà Garcia để lại cho quyền lợi biển của Philippines. Mấy tháng sau, ông ta bị thua trước Macapagal của Đảng Tự do cánh tả (Diosdado Pangan Macapagal, cha của Tổng thống Arroyo sau này) trong cuộc tổng tuyển cử. Macapagal không có nhiều hành động cho biển Đông. Nhưng 4 năm sau đó (ngày 30/12/1965) Ferdinand Marcos lên nắm quyền, tình hình biển Đông lại có sự thay đổi. Marcos và Garcia đều thuộc Đảng Quốc dân phe hữu. So với Garcia, ông ta chống cộng kiên quyết hơn.
Tháng 10/1966, để đối phó với chiến tranh Việt Nam, ông ta đã chủ trì hội nghị của Tổ chức Hiệp ước Đông Nam Á tại Manila, lấy lí do ủng hộ quân Mĩ, ông đã phái quân Philippines đến Việt Nam, khiến cho quan hệ đồng minh với Mĩ càng trở nên thân thiết hơn. Cuối nhưng năm 1960, phong trào cộng sản vũ trang trỗi dậy và phát triển, Quân đội Nhân dân Mới hình thành; học sinh phe tả cũng chịu ảnh hưởng của phong trào cánh tả, phát động Phong trào Bão tố Quý I (First Quarter Storm); các phần tử chủ nghĩa ly khai Hồi giáo ở miền Nam cũng tăng cường hoạt động vũ trang. Trong tình hình này, trong nhiệm kì thứ hai (ngày 21/9/1972), Marcos tuyên bố lệnh giới nghiêm, huỷ bỏ quy định chỉ được phục vụ hai nhiệm kì liên tiếp theo Hiến pháp ban đầu, thậm chí lấy lí do lệnh giới nghiêm để huỷ bỏ bầu cử Tổng thống, đi theo con đường độc tài. Philippines dưới sự lãnh đạo của ông, cùng với lợi ích dầu mỏ, và thêm lí do chống cộng và chủ nghĩa dân tộc, chính phủ đã bắt đầu đưa chính sách mới cho Trường Sa lên hàng đầu.
Ngày 20/3/1968, Philippines ra Tuyên cáo số 370, tuyên bố rằng tất cả khoáng vật và tài nguyên thiên nhiên khác ở đáy biển và trên tầng đất cái ở tất cả thềm lục địa giáp Philippines, bao gồm phạm vi biển từ ngoài khu vực lãnh hải Philippines đến nơi có độ sâu cho phép khảo sát những tài nguyên này, bao gồm các vùng biển lân cận có các giống sinh vật sống định cư, đều thuộc sự quản lí và kiểm soát của Philippines.[531] Thông qua lệnh này, thềm lục địa mà Philippines có thể kiểm soát hợp pháp vượt ra ngoài ranh giới của hiệp ước, đặt nền tảng pháp lí cho việc mở rộng hơn nữa các quyền ở biển Đông.
Chiếm đóng quân sự
Đồng thời, Philippines cũng bắt đầu có hoạt động mới ở Trường Sa. Ngày 5/4/1968, Philippines phái tàu chiến đến gần đảo Ba Bình, đây là lần đầu tiên trong lịch sử tàu chiến Philippines tiến vào biển Đông. Quân trú đóng Đài Loan hết sức kinh hãi, phát đèn tín hiệu tra hỏi không nhận được trả lời. Quân Đài Loan phải bắn chỉ thiên cảnh cáo thì tàu Philippines mới rời đi. Sau khi biết tin, Bộ Quốc phòng Đài Loan quyết định: (1) khi có sự kiện tương tự như vậy thì cố khuyên giải họ rời đi; (2) phải báo với Bộ Ngoại giao, nhưng tránh dùng công hàm chính thức để thông báo cho chính phủ Philippines nhằm tránh làm ảnh hưởng đến quan hệ ngoại giao giữa hai nước.[532] Theo chỉ thị này, tùy viên quân sự ở Đại sứ quán tại Philippines đã đề xuất với hải quân Philippines rằng nếu sau này tàu chiến Philippines muốn đến gần quần đảo Trường Sa thì cần phải thông báo cho phía Đài Loan trước để tránh hiểu nhầm. Phía Philippines trả lời, nói với phía Đài Loan rằng Philippines hiện đang giải quyết vấn đề Sabah, không hề để ý đến Trường Sa.[533]
Nhưng chẳng bao lâu, Philippines lại chính thức ra tay hành động. Ngày 23/8/1970, Philippines phái tàu chiến chiếm đảo Vĩnh Viễn (Mã Hoan, đặt tên là Lawak) và cử quân đóng lại trên đảo, ngày 14/4/1971 chiếm đảo Loại Ta (Nam Thược, đặt tên là Kota Island); ngày 18/4/1971 chiếm đóng đảo Thị Tứ (Trung Nghiệp, đặt tên là Pagasa Island), trên hai đảo này đều cử quân trú đóng, những hành động này đều được thực hiện lặng lẽ, Đài Loan và Bắc Kinh khi đó đều hầu như không biết gì về việc này.
Lúc này, Philippines bước vào mùa tranh cử Quốc hội, nhằm tạo cao trào trong dư luận, lãnh đạo Đảng Tự do đối lập là Ramon V. Mitra đã có bài phát biểu tại phiên họp đặc biệt của Quốc hội ngày 7/7/1971, nói rằng ông lái du thuyền đi câu cá ở vùng biển phía tây Palawan vào cuối tuần trước, và hai lần bị đại bác tầm xa từ hướng “Lãnh thổ Tự do” (tức Trường Sa) bắn tới. Ông dùng ống nhòm quan sát về phía pháo bắn, phát hiện có “quân nước ngoài” trú đóng trên một hòn đảo. Sau đó ông ta đi máy bay tư nhân quan sát, xác nhận đảo này là đảo Vĩnh Viễn, trên đảo có quân Trung Hoa Dân Quốc đóng.
Trên thực tế, nội dung phát biểu của Mitra chỉ là hư cấu, ông ta là người Palawan, khu vực tuyển cử cũng tại Palawan, có thể ông tương đối hiểu rõ việc ở Trường Sa nên đã thêu dệt ra câu chuyện “đi câu cá bị bắn pháo” để tạo ra điểm nóng. Thật ra, đóng trên đảo Vĩnh Viễn khi đó không phải quân Trung Hoa Dân Quốc mà là quân Philippines. Sau khi Bộ trưởng Quốc phòng Philippines biết tin, đã lập tức phái người đi điều tra, cũng xác nhận không có sự kiện bắn pháo nào.[534]
Nhưng sự việc này đã mang đến cho Philippines một cơ hội ngoại giao. Ngày 8/7, Ngoại trưởng Philippines Carlos P. Rómulo triệu tập Đại sứ Đài Loan tại Philippines Tôn Bích Kì, nói rằng sự kiện bắn pháo tuy là không có thật, nhưng nếu quân trú đóng của Đài Loan ở Trường Sa tùy tiện nổ súng thì không tránh khỏi bị nghi ngờ là khiêu khích; Tổng thống Marcos cho rằng Trường Sa cách Đài Loan rất xa, không ảnh hưởng an ninh Đài Loan, yêu cầu Đài Loan rút quân đóng giữ trên đảo. Tôn Bích Kì trả lời Trường Sa là lãnh thổ Trung Hoa Dân Quốc, đóng quân ở đó có lợi cho quốc phòng của Philippines.
Thái độ của Tôn Bích Kì không thể ngăn cản Philippines có thêm hành động tiếp. Ngày 10/7, Marcos tổ chức Hội nghị an ninh quốc gia, bao gồm chủ tịch hai viện, các lãnh đạo quan trọng của Bộ Quốc phòng, Bộ Ngoại giao, Bộ Tài chính và Quân đội cũng tham gia Hội nghị. Sau Hội nghị, Marcos chính thức tuyên bố rằng ông đã phê chuẩn công hàm ngày 8/7 do Bộ trưởng Bộ Ngoại giao đề xuất yêu cầu Đài Loan rút quân khỏi Trường Sa, đồng thời tuyên bố đã đóng quân ở trên 3 đảo chính của Trường Sa (tức 3 đảo nhắc đến ở trên). Hội nghị an ninh quốc gia cho rằng quần đảo Trường Sa sau Thế chiến thứ hai là đất uỷ trị của Đồng minh, tiếp giáp với lãnh thổ Philippines, nếu để mặc cho quân đội nước ngoài chiếm đóng sẽ tạo thành mối đe dọa đối với an ninh quốc gia. Marcos còn cho rằng theo luật quốc tế thì tư nhân không thể có được chủ quyền lãnh thổ một cách hợp pháp, cho nên trên thực tế Lãnh thổ Tự do của Cloma đã chuyển nhượng cho chính phủ Philippines. Ngoài ra, Luật Dầu khí của Philippines đã quy định tất cả tài nguyên thiên nhiên và tài nguyên khoáng sản phát hiện ở thềm lục địa Philippines đều thuộc chính phủ Philippines, mà quần đảo Trường Sa ở ngay trên thềm lục địa của Philippines. Sau Hội nghị an ninh, với đề xuất của nhóm Mitra, Quốc hội Philippines lập tức thông qua nghị quyết cấp 1 triệu Peso để khai thác quần đảo Trường Sa.
Ngoài việc đưa ra kháng nghị, Đài Loan không có cách ứng phó nào khác. Ngay cả trong Hội nghị Bộ trưởng lần thứ 6 Hội đồng châu Á Thái Bình Dương tổ chức từ ngày 14 đến 16/7 tại Manila, để tránh ảnh hưởng đến sự đoàn kết của các nước, Đài Loan đã chọn không đưa vấn đề này ra thảo luận trong cuộc họp. Ngay trước Hội nghị vào ngày 13, một thông cáo chung được đưa ra, tuyên bố rằng hai bên có quan điểm khác nhau về vấn đề chủ quyền đối với quần đảo Nam Sa, nhưng cả hai đều sẵn sàng giải quyết theo cách hòa bình. Cùng ngày, Nam Việt và Trung Hoa cộng sản cũng ra tuyên bố, phản đối đòi hỏi chủ quyền của Philippines đối với Trường Sa. Ngày 18/7, Marcos tuyên bố Lãnh thổ Tự do mà Philippines chiếm đóng không thuộc quần đảo “Spratly”. Rõ ràng, Philippines cũng tiếp tục giả vờ nhầm lẫn về vấn đề địa danh (xem IV.2).
Năm 1971, tình hình thế giới có nhiều biến động. Để chống lại Liên Xô, Mĩ và Trung Hoa cộng sản đã tiến hành “ngoại giao bóng bàn” vào tháng 4/1971, sau đó cố vấn an ninh quốc gia Kissinger bí mật thăm Trung Quốc làm tan băng quan hệ Trung-Mĩ.
Tháng 7/1971, Trung Hoa cộng sản tích cực tìm cách giành địa vị đại diện hợp pháp của Trung Quốc ở Liên Hợp Quốc. Ngày 15/7, tại Đại đồng Liên Hợp Quốc, Albania cùng 17 nước khác đề xuất vấn đề “khôi phục quyền lợi hợp pháp của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa tại tổ chức Liên Hợp Quốc” vào chương trình nghị sự của Đại hội Liên Hợp Quốc khóa 26.
Ngày 25/9, 23 nước đưa ra dự thảo nghị quyết, yêu cầu “thừa nhận đại diện của chính phủ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa là đại diện hợp pháp duy nhất của Trung Quốc tại tổ chức Liên Hợp Quốc, nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa là một trong 5 nước thường trực của Hội đồng Bảo an, quyết định khôi phục tất cả quyền lợi của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, thừa nhận đại diện chính phủ của họ là đại diện hợp pháp duy nhất của Trung Quốc, đồng thời trục xuất ngay đại diện của Tưởng Giới Thạch ra khỏi ghế mà họ chiếm giữ phi pháp ở tổ chức Liên Hợp Quốc và tất cả tổ chức dưới quyền”.[535] Trong cuộc biểu quyết ngày 25/10, dự thảo (sửa đổi) được thông qua với tỉ lệ lớn với 76 phiếu thuận, 35 phiếu chống và 17 phiếu trắng, thành Nghị quyết số 2758. Từ đó, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đã chính thức thay thế Trung Hoa Dân Quốc trong tư cách là đại diện của Trung Quốc..
Trong mấy tháng này, Trung Hoa Dân Quốc bị công kích nặng nề về ngoại giao, và đã cố hết sức để giải quyết vấn đề ghế tại Liên Hợp Quốc.
Philippines nhân cơ hội đưa ra vấn đề Trường Sa, ngoài việc bày tỏ kháng nghị và phản đối, thực tế Đài Loan hoàn toàn không có cách nào phản ứng mạnh hơn. Trọng điểm ngoại giao của Trung Hoa cộng sản là sự công nhận của quốc tế, nên vấn đề này cũng nằm ngoài tầm chú ý của họ.
Còn Nam Việt cũng đang có chiến tranh. Lợi dụng các bên không có thời gian chú ý đến, ngày 30/7 Philippines lại lần nữa điều tàu chiến, chiếm đóng đảo Bến Lạc (Tây Nguyệt, đặt tên là Likas) và đảo Song Tử Đông (Bắc Tử, đặt tên là Parola). Như vậy đến tháng 8/1971, Philippines đã chiếm tổng cộng 5 đảo ở Trường Sa, và đóng quân trên toàn bộ các đảo này. Theo nguồn tin của Đài Loan, ngày 29/7, chi đội hải quân (chiến đội tàu chở chiến xa đổ bộ Thái Hồ, Thái Khang và Trung Túc - đại đội tăng cường) phát hiện quân Philippines đang đổ bộ lên đảo Trung Nghiệp (Thị Tứ).
Chi đội trưởng Thượng tá Hách Đức Vân chuẩn bị tiến công giành lại nhưng nhận được mệnh lệnh không cho phép khiêu chiến.[536] Ngày 26/10, một ngày sau khi Đài Loan rời khỏi Liên Hợp Quốc, Tổng Tham mưu trưởng Philippines Manuel T. Yan thông báo rằng ngày 23/10, tàu khu trục số 25 và 34 của hải quân Đài Loan thử phái người nhái đổ bộ lên đảo Thị Tứ (Trung Nghiệp) nhưng thất bại vì bị quân trú đóng Philippines chống trả; ngày 26/10 cũng có tàu hải quân Đài Loan thử đổ bộ lên đảo Loại Ta (Nam Thược), cũng bị quân trú đóng Philippines chống lại. Ông tuyên bố, Philippines đã kiểm soát 6 đảo của Trường Sa (ngoài 5 đảo kể trên còn có đảo Song Tử Tây (Nam Tử)), đồng thời tuyên bố hễ đảo nào có quân đội Đài Loan đóng giữ, Philippines đều không đến gần, nhưng mong muốn Đài Loan cũng không tiếp cận các đảo mà quân Philippines chiếm giữ.
Sửa đổi Hiến pháp
Đồng thời với chiếm đóng quân sự, Philippines cũng tiến hành công tác pháp luật. Khi đó Philippines sử dụng Hiến pháp năm 1935.[537]
The Philippines comprises all the territory ceded to the United States by the Treaty of Paris concluded between the United States and Spain on the tenth day of December, eighteen hundred and ninety-eight, the limits which are set forth in Article III of said treaty, together with all the islands embraced in the treaty concluded at Washington between the United States and Spain on the seventh day of November, nineteen hundred, and the treaty concluded between the United States and Great Britain on the second day of January, nineteen hundred and thirty, and all territory over which the present Government of the Philippine Islands exercises jurisdiction.[538]
(Philippines bao gồm tất cả lãnh thổ được nhượng lại cho Mĩ theo Hiệp ước Paris được kí kết giữa Mĩ và Tây Ban Nha ngày 10 tháng 12 năm 1898, ranh giới được đề cập trong điều 3 của hiệp ước này cùng với tất cả các đảo được nêu ra trong hiệp ước được kí kết tại Washington giữa Mĩ và Tây Ban Nha vào ngày 7 tháng 11 năm 1900, và trong hiệp ước được kí kết giữa Mĩ và Anh ngày 2/1/1930, và tất cả lãnh thổ mà Chính phủ quần đảo Philippines hiện nay đang thực thi quyền lực pháp lí”.)
Trong điều này, lãnh thổ Philippines có phạm vi được quy định trong các hiệp ước (đều không bao gồm Trường Sa), cũng như những vùng đất mà chính phủ lúc đó (chỉ thời kì 1935) thực thi quyền tài phán (nhưng khi đó Philippines không hành xử quyền tài phán ở Trường Sa), nên trong Hiến pháp này, Trường Sa đã bị loại trừ. Vì vậy, Philippines cần phải sửa đổi Hiến Pháp mới tiện đưa Trường Sa vào.
Bắt đầu từ năm 1970 Philippines tiến hành soạn thảo Hiến pháp, dù mục đích chủ yếu nhất không phải để sửa đổi phạm vi lãnh thổ mà là thay đổi chế độ Tổng thống thành chế độ Quốc hội, nhưng họ cũng muốn nhân cơ hội này để giải quyết luôn vấn đề pháp lí của lãnh thổ.[539] Ngày 26/7/1971, dân biểu Jose de Venecia Jr. đề xuất đưa Lãnh thổ Tự do vào trong phạm vi lãnh thổ của Hiến pháp mới. Còn Chủ tịch Uỷ ban Lãnh thổ Quốc gia (Committee on National Territory) thậm chí chủ trương đưa Lãnh thổ Tự do, Sabah (Malaysia), quần đảo Mariana (Mĩ), đảo Guam (Mĩ) và đảo Bataan vào trong Hiến pháp.[540] Tuy nhiên, do cách làm thế này liên quan quá nhiều đến quan hệ ngoại giao, điều khoản sửa đổi lãnh thổ quốc gia thông qua ngày 17/2/1972, đã sử dụng hình thức diễn tả chiết trung và mơ hồ:
The national territory comprises the Philippine archipelago, with all the islands and waters embraced therein, and all the other territories belonging to the Philippines by historic or legal title, including the territorial sea, the air space, the subsoil, the sea-bed, the insular shelves, and the submarine areas over which the Philippines has sovereignty or jurisdiction. The waters around, between, and connecting the islands of the archipelago, irrespective of their breadth and dimensions, form part of the internal waters of the Philippines.
(Lãnh thổ quốc gia bao gồm quần đảo Philippines, với tất cả các đảo và vùng nước bao bọc trong đó, và tất cả các lãnh thổ khác thuộc về Philippines qua sở hữu (danh nghĩa) lịch sử hoặc pháp lí, bao gồm lãnh hải, vùng trời, đất dưới lòng đất, lòng biển, các thềm đảo và các khu vực ngầm mà Philippines có chủ quyền hoặc quyền tài phán. Vùng nước xung quanh, giữa và nối các đảo của quần đảo, bất kể bề rộng và kích thước của chúng, tạo thành một phần nội thuỷ của Philippines.)
Theo đó, lãnh thổ Philippines hoàn toàn không dùng hình thức liệt kê, nhưng cũng không giới hạn trong phạm vi mà các hiệp ước quy định. Vì vậy, chính phủ Philippines sẽ có thể tuyên bố chủ quyền đối với các vùng lãnh thổ không phải là một phần của Philippines trong hiến pháp ban đầu.
Chuyển nhượng nước Lãnh thổ Tự do (Freedomland)
Trở ngại pháp luật thứ hai là tranh chấp với nước FreedomLand của Cloma. Cho dù Marcos tuyên bố FreedomLand đã chuyển nhượng cho Philippines nhưng trên thực tế khi đó không có cái gọi là quá trình chuyển nhượng. Cloma cũng cho rằng mặc dù trước đó ông ta từng yêu cầu đặt FreedomLand dưới sự bảo hộ của Philippines, nhưng điều này không đồng nghĩa với việc chuyển nhượng, hơn nữa chính phủ Philippines cũng không bày tỏ thái độ rõ ràng. Ngày 30/9/1973, trong một buổi tọa đàm Cloma còn tuyên bố: nếu như chính phủ Philippines tôn trọng quyền tự chủ của ông ta đối với Freedomland, ví dụ treo cờ của Freedomland, lập cột mốc ranh giới, khai thác tài nguyên khoáng sản..., thì ông ta sẽ bằng lòng kí hiệp định với chính phủ Philippines, chuyển giao chủ quyền của Freedomland cho Philippines với những điều kiện nào đó. Khai thác tài nguyên khoáng sản ở đây là chỉ việc Cloma từng cấp một số “giấy phép chuyển nhượng khai thác mỏ”, cũng như việc tiếp xúc với một công ti dầu khí Mĩ về công việc có liên quan đến khai thác dầu khí dưới đáy biển theo như ông tuyên bố. Tại Quốc hội Lập hiến, Cloma tiếp tục chỉ trích chính phủ Philippines lấy danh nghĩa bảo hộ mà trên thực tế lại trợ giúp các nhân viên tiến hành thăm dò dầu khí và người “chiếm đoạt” đất đai ở khu vực này, đã xâm phạm quyền lợi của Freedomland, đồng thời ông lấy danh nghĩa “nguyên thủ của Freedomland” gửi điện cho Marcos, tố cáo “hành vi phi pháp” này.
Nhưng chính phủ Philippines không hề để ý đến yêu sách này của Cloma. Tháng 3/1972, Uỷ ban Sử dụng hòa bình đáy biển Liên Hợp Quốc (The UN Committee on the peaceful uses of the seabed and the ocean floor) tổ chức hội nghị lần thứ 72. Đại biểu Trung Quốc đề xuất rằng chủ quyền đối với quần đảo Nam Sa là thuộc về Trung Quốc, và yêu cầu Uỷ ban đưa điều này vào biên bản. Quyền Ngoại trưởng Philippines đã đưa ra tuyên bố ngay tại chỗ với các bảo lưu, và cũng yêu cầu Uỷ ban đưa vào biên bản: Philippines có chủ quyền đối với 53 đảo, đá của Freedomland, đồng thời tuyên bố những đảo, đá này đã nằm trong sự chiếm đóng và kiểm soát hiệu quả của Philippines, sự chiếm đóng này là công khai và độc quyền (which is open and adverse to all claims); ông ta đồng thời cũng công kích yêu sách chủ quyền đối với Trường Sa của Trung Quốc (chỉ Trung Quốc Cộng sản), dẫn đến sự công kích kịch liệt của Trung Quốc.
Xét thấy Philippines ngày càng có xu hướng không chú ý đến chính mình cũng như lo lắng bị Trung Quốc tấn công, Cloma quyết định chủ động giải quyết vấn đề tình trạng của Freedomland. Ngày 29/3/1972, Cloma thông qua bạn của mình – vốn là cựu quan chức ngoại giao Dr. Juan Arreglado, ra tuyên bố biểu thị rằng Cloma sẵn sàng tiến hành đàm phán về việc thiết lập quan hệ bảo hộ giữa Freedomland với chính phủ Philippines. Arreglado thì tuyên bố đã đề nghị đàm phán với Chủ tịch Quốc hội Philippines, mục đích là để cho Freedomland sớm trở thành nước được bảo hộ (protected state) của Philippines, đồng thời cho rằng điều này là để được sự công nhận của quốc tế đối với chủ quyền của Philippines ở Trường Sa, cũng như đây là cách tốt nhất để giải quyết vấn đề Trường Sa. Nhưng chính phủ Philippines không trả lời.
Trung tuần tháng 4, để kỉ niệm 16 năm chuyến thám hiểm đầu tiên đến Freedomland, Croma có kế hoạch dẫn một nhóm người đến quần đảo Trường Sa để kiểm tra và ăn mừng. Do các đảo chính đều bị phía quân đội Philippines chiếm, hành động của nhóm Cloma bị ngăn lại, cuối cùng chỉ đành mất công quay về. Ngày 24/4, Cloma thành lập Uỷ ban Cố vấn (Advisory Council) của Chính phủ Freedomland do Arreglado đảm nhận chức Chủ tịch, cựu dân biểu Quốc hội Jose C .de Venecia đảm nhận chức Chủ tịch Danh dự, Luật sư Mena D. Teganas đảm nhận chức Bí thư. De Venecia đại diện Freedomland đề xuất với chính phủ Philippines hai việc: một là ủng hộ chủ quyền của Freedomland đối với Trường Sa; hai là chính thức kí thỏa thuận, giành được chủ quyền đối với Trường Sa từ Freedomland. Ngày 21/5, Cloma chính thức lên án Marcos đã xâm lược Freedomland với giới báo chí.
Đầu năm 1974, Cloma và Uỷ ban Cố vấn (đã đổi tên là Uỷ ban Tối cao -Supreme Council) soạn thảo Hiến pháp mới của Lãnh thổ Tự do, đề xuất tình trạng của Freedomland là “Đại Công quốc” (Principality), hoan nghênh nhân dân các nơi trên thế giới đến Đại Công quốc làm ăn sinh sống. Có nhiều người từ các nước châu Á, châu Âu đã gia nhập “Đại Công quốc”. Trong đó có một người là Thân vương Mariveles (Prince John B. de Mariveles). Lúc này, Marcos đã tiến hành đảo chính, thành lập chính phủ quân sự. Cloma năm đó 71 tuổi không thể không tăng nhanh hành động. Ngày 24/8, Đại Công quốc đã chuẩn bị văn kiện kế vị. Ngày 5/11, tại Manila, Cloma đã kí văn kiện (Documents 1096, Succession, 1974), từ bỏ chức Chủ tịch Đại Công quốc, đồng thời giao vị trí này cho Thân vương Mariveles. Đồng thời kí một văn kiện khác (số 1097) đổi tên Đại Công quốc thành Vương quốc Colonia (Kingdom of Colonia), do Thân vương Mariveles đảm nhận chức Quốc vương.[541]
Sau khi biết được việc này Marcos ra lệnh bắt Cloma, đổng thời tống giam ông ta với tội danh “giả danh lừa bịp” cáo buộc ông ta từng tự xưng Đô đốc hải quân Philippines, lại mặc quân phục hải quân phi pháp. Trong ngục, Cloma bị ép buộc kí một bản chứng thư, bán Freedomland cho chính phủ Philippines với giá 1 Peso (Deed of Cession to Philippines President Marcos), chỉ sau đó mới được thả. Từ đó, Philippines đã “thanh toán” quan hệ phức tạp giữa hai bên về mặt pháp lí qua việc mua “Freedomland”. Tuy nhiên, do Văn kiện 1096 được kí trước, văn kiện mua bán được kí sau, hơn nữa Cloma kí văn kiện dưới sự cưỡng ép, văn kiện mua bán có hiệu lực hay không vẫn còn tranh cãi.
Có học giả cho rằng, sơ hở về pháp luật này có thể khiến Vương quốc Cloma đóng một vai trò nhất định trong giải quyết tranh chấp Trường Sa.[542] Nhưng với tư cách là Chủ tịch Uỷ ban Cố vấn Freedomland, Arreglado lại cho rằng sự chuyển nhượng này là có hiệu lực.[543] Tuy nhiên, thời điểm ông ta bày tỏ quan điểm này là ngay dưới chế độ độc tài của Marcos, mức độ xuất phát từ nhận thức riêng của ý kiến của ông ta vẫn đáng để khảo cứu.
“Chính phủ lưu vong” của Vương quốc Colonia lập tức dời đến đảo Labuan thuộc bang Sabah của Malaysia. Thống đốc bang Sabah đã tiếp đãi thân mật Thân vương Mariveles, đồng thời giới thiệu ông ta với chính phủ Malaysia. Chính phủ Malaysia được cho là từng mời vương quốc Colonia gia nhập Liên bang Malaysia, nhưng bị từ chối một cách lịch sự. Tuy vậy, vương quốc Colonia và chính phủ Malaysia vẫn duy trì quan hệ tốt, Malaysia cho phép chính phủ lưu vong cư trú tại Sabah, đồng thời cho phép công dân có “hộ chiếu” do chính phủ này cấp được xuất nhập cảnh.[544] Colonia thì cung cấp cho Malaysia tư liệu về tài nguyên khoáng sản có liên quan của Trường Sa. Nghe nói điều này đã khiến Malaysia quan tâm đến Trường Sa, theoheo đó đã phái quân chiếm đóng đá Hoa Lau [Đạn Hoàn, Swallow Reef] (mặc dù thuộc quần đảo Trường Sa nhưng không trong phạm vi tuyên bố của Colonia).[545] Năm 1981, Vương quốc đổi tên là Vương quốc Colonia St John (Kingdom of Colonia St John). Nghe nói sau đó còn thiết lập quan hệ lãnh sự với Costa Rica. Ở đây gác lại không trình bày thêm.
Trung Quốc ngầm đồng ý
Vấn đề thứ ba mà chính phủ Philippines gặp phải là sự ngầm thừa nhận của Trung Quốc. Liên tục trước nay Trung Quốc đều một mực cho rằng quần đảo Trường Sa là một bộ phận của Trung Quốc, đương nhiên do khoảng cách quá xa, nên nhất thời Trung Quốc khó có thể đe dọa trực tiếp quần đảo Nam Sa, nhưng sau khi Trung Quốc chiếm được toàn bộ quần đảo Hoàng Sa vào tháng 1/1974 từ Nam Việt Nam, việc Trung Quốc kéo quân thẳng xuống phía Nam đã trở thành mối đe dọa thực tế. Hơn nữa, lập trường không chịu giúp đỡ Nam Việt về quân sự của Mĩ khiến Philippines càng thêm lo lắng (xem IV.9). Ngoại trưởng Philippines Rómulo chuyển giao yêu sách đối với Trường Sa của Trung Quốc cho Đại sứ Mĩ tại Philippines William H.Sullivan. Sullivan lập tức yêu cầu Bộ Ngoại giao làm rõ cam kết quốc phòng đối với Philippines, tức là liệu phạm vi áp dụng của “Hiệp ước Phòng thủ chung Mĩ-Philippines” có bao gồm Trường Sa hay không. Sau khi bàn bạc với các phụ tá, Kissinger quyết định không chủ động đưa ra cam kết đối với việc phòng vệ quần đảo Trường Sa. Năm 1976, khi Philippines bị Trung Quốc phản đối khai thác mỏ ở bãi Cỏ Rong (Lễ Nhạc), Marcos đã chủ động yêu cầu Mĩ làm rõ liệu phạm vi sử dụng của “Hiệp ước phòng thủ chung giữa Mĩ và Philippines” có bao gồm quần đảo Nam Sa hay không. Nhưng nhiều lần cố gắng, cuối cùng phía Mĩ đồng ý đưa ra cam kết rằng “Hiệp ước Phòng thủ chung Mĩ-Philippines” chỉ áp dụng thích hợp với máy bay, tàu chiến... của Philippines hoạt động ở bãi Cỏ Rong, tiền đề của nó phù hợp với quy định “giải quyết hòa bình tranh chấp và kiềm chế sử dụng vũ lực” của Điều 1 trong “Hiệp ước Phòng thủ chung Mĩ-Philippines”.[546]
Do Mĩ không muốn giúp đỡ Philippines phòng vệ Trường Sa, với quân đội rất nhỏ yếu của mình, nếu Trung Quốc cực lực phản đối, Philippines khó duy trì sự chiếm đóng và khai thác ở quần đảo Trường Sa. Tuy nhiên, tình hình thế giới vào những năm 1970 với Trung Quốc và Đài Loan tranh giành sự công nhận của quốc tế lại đem đến cho Philippines thời cơ tốt.
Sau năm 1949, Trung Quốc đã nhiều lần triển khai tuyên truyền chống Philippines, bao gồm phát tán sản phẩm tuyên truyền và phát thanh... Cùng với sự đối đầu Trung-Xô, đặc biệt là sau khi Liên Xô xâm lược Tiệp Khắc năm 1968, và sau trận chiến đảo Trân Bảo (Damansky Island) giữa Liên Xô và Trung Quốc năm 1969, Trung Quốc càng tăng cường hơn nữa quan hệ với các nước phương Tây để phá vỡ thế cô lập ngoại giao lâu nay. Về phía Philippines, khi Philippines bị bão vào năm 1970, Trung Quốc đã tặng cho Philippines thực phẩm đồ hộp trị giá 80 000 USD, mở ra cánh cửa tiếp xúc trực tiếp giữa Trung Quốc với Philippines. Cùng với sự tan băng quan hệ Trung-Mĩ và việc Trung Quốc giành được ghế ở Liên Hợp Quốc, sự qua lại giữa Trung Quốc và Philippines được tăng cường thêm một bước. Năm 1971, trong bài phát biểu về tình hình trong nước, Marcos nhấn mạnh rằng Philippines cần tìm kiếm một lộ trình thực tế và tăng cường quan hệ buôn bán với phe Liên Xô. Ngoại trưởng Rómulo cũng mong muốn tìm kiếm việc thiết lập quan hệ với phe cộng sản. Nhưng so với các nước phương Tây, Philippines có liên hệ chặt chẽ với Đài Loan, hơn nữa trong nước có vấn đề thực tế là số lượng lớn “Hoa kiều” chưa gia nhập quốc tịch.[547] Do đó, cũng khó mà thiết lập quan hệ với Trung Quốc ngay được.
Đầu những năm 1970, Philippines đã cử mấy đoàn đại biểu thăm Trung Quốc, đều thu được nhiều kết quả, khiến Philippines phải cân nhắc kĩ hơn vấn đề thiết lập quan hệ ngoại giao với Bắc Kinh.
Nhưng trong thời gian này, Philippines vẫn duy trì cách tiếp cận “hai Trung Quốc”, tức là đồng thời thiết lập quan hệ ngoại giao với cả Bắc Kinh lẫn Đài Loan. Sau khi quan hệ Trung-Nhật tan băng năm 1972, Philippines trở thành nước bạn lớn nhất của Đài Loan ở châu Á Thái Bình Dương, trong khi quyết tâm của Trung Quốc trong việc thiết lập quan hệ ngoại giao với Philippines càng lớn hơn. Trung Quốc liên tục sử dụng “ngoại giao nụ cười”, một mặt triển khai ngoại giao bóng rổ, một mặt liên tục mời các nhân vật cấp cao Philippines đến Trung Quốc. Từ ngày 20 đến 29/9/1974, Imelda, vợ của Marcos, đi thăm Trung Quốc, đánh dấu một bước quyết định trong việc thiết lập quan hệ ngoại giao Trung Quốc-Philippines.
Trong thời gian thăm Bắc Kinh, Imelda nhận được sự tiếp đãi trọng thể nhất, không những được Chu Ân Lai, Giang Thanh... đón tiếp, thậm chí ngay cả Mao Trạch Đông cũng bất ngờ mời đến gặp. Mao Trạch Đông khi đó đang bị bệnh, đã lâu không tiếp kiến khách quốc tế. Tuy nhiên, Mao Trạch Đông đã đứng đón Imelda ở cửa phòng tiếp khách, ông ta thậm chí gây bất ngờ khi cầm và hôn vào tay Imelda, đồng thời cũng mời bà và Marcos lần sau cùng đến thăm Trung Quốc lần nữa. Ngoài việc tiếp đãi long trọng, Trung Quốc còn vung nhiều tiền cho Philippines, đồng thời mở cửa thị trường trong nước cho nông sản của Philippines, và còn cung cấp dầu thô cho Philippines với giá rất ưu đãi. Khi đó, do Philippines trấn áp người Hồi giáo ở miền Nam, nguồn cung ứng dầu thô của các nước Ả Rập cho Philippines trở nên không ổn định, và Philippines đang cần gấp dầu thô. Trung Quốc bán cho Philippines 750 000 tấn (khoảng 5,7 triệu thùng) với giá USD 7,5 /thùng, trong lúc giá bán của các nước Ả Rập là USD 11 /thùng.
Sau chuyến đi này, Imelda hoàn toàn trở thành “phe thân Trung Quốc”, và ngay lập tức ra sức thúc đẩy việc thiết lập quan hệ ngoại giao với Bắc Kinh. Dựa trên tình cảm cá nhân của Imelda (và Marcos), sự thân thiện và chính sách kinh tế của Trung Quốc, xu hướng quốc tế liên tục có nước thiết lập quan hệ ngoại giao với Trung Quốc, cùng với suy nghĩ thực tế về lãnh thổ Trường Sa, bất chấp truyền thống và ảnh hưởng mạnh mẽ của Đài Loan ở Philippines, Marcos cũng quyết tâm thiết lập quan hệ ngoại giao với Trung Quốc. Ngày 7/6/1975, Marcos và Imelda dẫn đầu một đoàn nhân sĩ quản lí cao cấp và giới công thương đến Bắc Kinh, nhận được sự tiếp đón nồng nhiệt của Đặng Tiểu Bình, Hoa Quốc Phong cùng một loạt quan chức đứng đầu chính phủ Trung Quốc... cũng như mấy ngàn người dân (khi đó Chu Ân Lai đã bệnh nặng, Đặng Tiểu Bình là Thủ tướng trên thực tế) tại sân bay. Vào ngày hôm đó, Marcos và Imelda đã được Mao Trạch Đông tiếp đón, ngay cả Chu Ân Lai vốn bệnh nằm liệt giường cũng gặp mặt Marcos ở trong bệnh viện. Sau đó, Chu Đức, Giang Thanh, Đặng Tiểu Bình, Hoa Quốc Phong... cũng lần lượt gặp Marcos. Đó có thể xuất phát từ sự thành thật mà cũng có thể là một loại sách lược, Marcos rất tôn sùng Mao Trạch Đông, trong diễn văn tại tiệc chiêu đãi ngày ông đến, ông đã nói rằng “Trung Quốc là lãnh tụ đương nhiên của Thế giới thứ ba”.[548] Được sự tôn sùng như vậy, lại có việc Philippines bày tỏ việc thừa nhận “một nước Trung Quốc, Đài Loan là một tỉnh của Trung Quốc”, Trung Quốc hoàn toàn không để tâm đến hoạt động của Philippines ở biển Đông. Ngày 9/6, hai nước ra “Tuyên bố chung Trung Quốc- Philippines”, tuyên bố chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao.
Trong cuộc đàm phán thiết lập quan hệ ngoại giao, hai nước Trung Quốc và Philippines đã thảo luận vấn đề Trường Sa, nhưng nội dung cụ thể đến nay chưa công bố. “Thông báo chung Trung Quốc- Philippines” hoàn toàn không đề cập đến tranh chấp ở quần đảo Trường Sa, chỉ tuyên bố:
Chính phủ hai nước cho rằng khác biệt về chế độ kinh tế, chính trị và xã hội giữa nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa và nước Cộng hòa Philippines sẽ không hề cản trở việc hai nước và nhân dân hai nước chung sống hòa bình cũng như xây dựng và phát triển quan hệ hữu nghị trên cơ sở tuân thủ nguyên tắc tôn trọng chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của nhau, không xâm phạm lẫn nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng và cùng có lợi. Chính phủ hai nước đồng ý nguyên tắc nêu trên, không dùng vũ lực hay đe dọa sử dụng vũ lực, giải quyết hòa bình tất cả các tranh chấp.[549]
Phía Trung Quốc miêu tả: “Khi Trung Quốc và Philippines thiết lập quan hệ ngoại giao, lãnh đạo của hai nước đã đạt được sự hiểu biết rằng các vấn đề liên quan đến các vùng lãnh thổ tranh chấp nên được giải quyết thông qua tham vấn hữu nghị khi mà hai bên cho là phù hợp.”.[550]
Mấy năm sau đó, Philippines đã lần lượt công bố các thỏa thuận lúc bấy giờ. Ví dụ trong sự kiện bãi Cỏ Rong (Lễ Nhạc) năm 1976, Rómulo xác nhận rằng khi Marcos thăm Trung Quốc đã từng thảo luận tranh chấp Trường Sa, nhưng ông tuyên bố “không có vấn đề gì với Trung Quốc trong vấn đề Spratly”.[551] Tháng 3/1978, trước lúc Phó Thủ tướng Trung Quốc Lí Tiên Niệm thăm Philippines, báo chí nước ngoài tiết lộ Philippines đã chiếm thêm một đảo ở Trường Sa (bãi Lan Can/ bãi Dương Tín/ Panata). Trong buổi họp báo sau chuyến thăm của Lí Tiên Niệm, Marcos tiết lộ trong cuộc gặp với Đặng Tiểu Bình năm 1975, hai bên có thỏa thuận rằng bất cứ xung đột trong bất cứ vấn đề nào ở Trường Sa đều phải thông qua “con đường ngoại giao thông thường thực sự để giải quyết, điều này có nghĩa là dùng biện pháp hiệp thương, trong không khí hữu nghị và hợp tác” để giải quyết vấn đề.[552]
Một bài phát biểu nội bộ của Ngoại trưởng Trung Quốc Hoàng Hoa ngày 30/7/1977 càng cho thấy rõ hơn cách nghĩ của Trung Quốc. Ông chỉ ra rằng “không có sự đồng ý của Trung Quốc thì việc tiến hành khai thác bất cứ tài nguyên nào ở quần đảo Trường Sa và đáy biển xung quanh đều là bất chính”, hiện nay “nước khác” có thể khai thác khu vực này theo ý muốn của mình, nhưng “khi thời cơ đến, chúng ta sẽ thu hồi, không cần đàm phán vì quần đảo này xưa nay thuộc về Trung Quốc”.[553] Học giả Lo cho rằng do khi đó chỉ có Philippines tiến hành khai thác ở khu vực này, vì vậy nước khác trong phát biểu của Hoàng Hoa chỉ có thể là Philippines.[554] Nhưng trên thực tế, vào lúc đó Malaysia cũng đang khai thác tài nguyên ở biển Đông, vả lại Malaysia còn thiết lập quan hệ ngoại giao với Trung Quốc sớm hơn Philippines (ngày 31/5/1974), vì vậy nước khác trong bài phát biểu này có thể chỉ cả Philippines và Malaysia.
Sau đó, cho đến trước những năm 1990, ngay cả khi Philippines có hành động ở Trường Sa, Trung Quốc vẫn giữ thái độ im lặng, đặc biệt trái ngược khi so với thái độ của họ đối với Việt Nam. Trung Quốc nhiều lần nói thu hồi lại chủ quyền ở Trường Sa nhưng không có hành động, thậm chí không có tuyên bố mạnh mẽ hơn. Ví dụ khi Philippines chiếm bãi Lan Can (Dương Tín) vào năm 1978, Lí Tiên Niệm khi đến thăm Philippines tuyên bố rằng giữa Trung Quốc và Philippines không có điều lo lắng trong vấn đề Trường Sa (no trouble would ensue over the Spratly Island between China and Philippines)[555] Năm 1980, khi Philippines chiếm đóng đá Công Đo (Tư Lệnh), Trung Quốc cũng giữ im lặng như lần trước.[556] Kiểu thái độ nhún nhường này của Trung Quốc đối với Philippines cơ bản giống thái độ đối với Malaysia (xem phần sau). Chỉ có chỗ hơi khác một chút là: so thái độ nhún nhường mà Malaysia biểu hiện ra thì thái độ của Philippines cứng rắn hơn nhiều. Nhưng Trung Quốc cũng hết sức nhẫn nhịn, điều này cho thấy rằng Trung Quốc thực sự có thỏa thuận ngầm với Philippines khi đó.
Vì vậy, chính sách không can thiệp vào việc Philippines khai thác Trường Sa khi đó, rất có khả năng là một thỏa thuận ngầm mà Trung Quốc và Philippines đã đạt được lúc này. Nếu đúng như vậy, thì sẽ có nghĩa là Trung Quốc cũng tiếp tục chính sách “gác lại tranh chấp” khi thiết lập quan hệ ngoại giao với Nhật Bản, “duy trì hiện trạng” ở quần đảo Trường Sa, thậm chí khoan dung hơn (cho phép Philippines tiến hành khai thác rầm rộ). Chính kiểu thái độ này đã đẩy nhanh tiến độ kiểm soát thực tế của Philippines ở Trường Sa, và củng cố vững chắc sự có mặt của Philippines ở Trường Sa. Sự kiểm soát thực tế của nước này bao gồm 3 khía cạnh: pháp lí, quân sự và khai thác dầu khí.
Tăng cường kiểm soát trên thực địa
Về pháp lí, ngày 11/6/1978, Marcos ban bố Sắc lệnh số 1596 của Tổng thống, chính thức sáp nhập nhóm đảo Kalayaan (Kalayaan Islands Group, tức quần đảo Trường Sa không bao gồm đảo Trường Sa Lớn và các đảo, đá ở phía Tây của nó) vào lãnh thổ Philippines (Hình 30):
Xét thấy quan hệ gần gũi của một cụm các đảo và đá của biển Đông nằm trong nhóm đảo gọi là Kalayaan (Kalayaan Islands Group) (dùng cách liệt kê kinh, vĩ tuyến để xác định phạm vi) có tầm quan trọng sống còn đối với an ninh và sự tồn tại kinh tế của Philippines;
Xét thấy phần lớn phạm vi kể trên là một bộ phận thềm lục địa của quần đảo Philippines;
Xét thấy những khu vực này về mặt pháp lí không thuộc bất cứ quốc gia hay dân tộc nào, tuy nhiên vì lí do lịch sử, nhu cầu thiết yếu, cũng như việc chiếm đóng và kiểm soát hữu hiệu được xác lập phù hợp với luật pháp quốc tế, những khu vực này hiện nay phải được xem là thuộc về và nằm dưới chủ quyền của Philippines;
Xét rằng dù có một số quốc gia tuyên bố chủ quyền tại một vài khu vực ở đây, nhưng yêu sách của họ trở nên vô hiệu do từ bỏ, họ không thể vượt trội hơn Philippines về mặt pháp lí, lịch sử hay sự hợp lí.
Vì vậy, hôm nay tôi, Tổng thống Philippines Marcos, dựa vào quyền lực mà Hiến pháp trao cho, ban hành sắc lệnh dưới đây:
Mục 1, khu vực nằm trong các giới hạn sau đây: nhóm đảo Kalayaan (dùng cách liệt kê kinh, vĩ tuyến để xác định phạm vi), bao gồm đáy biển, lòng đất dưới đáy biển, thềm lục địa và vùng trời thuộc chủ quyền và nằm dưới chủ quyền của Philippines. Khu vực này qua đó thành lập một thị trấn tự trị đặc biệt của tỉnh Palawan, gọi là “Kalayaan”.[557]
Hình 30: Sự thay đổi đường biên giới trên biển của Philippines
Cùng ngày, ông ta còn công bố Sắc lệnh 1599, thành lập vùng đặc quyền kinh tế:
Mục 1, thành lập một khu vực gọi là vùng đặc quyền kinh tế của Philippines. Vùng đặc quyền kinh tế là khu vực trong vòng 200 hải lí tính từ đường cơ sở của lãnh hải; nếu như ranh giới vùng đặc quyền kinh tế chồng lấn với vùng đặc quyền kinh tế của một nước liền kề thì ranh giới chung phải theo thỏa thuận với quốc gia liên quan hoặc theo các nguyên tắc phân giới được thừa nhận phổ quát của luật pháp quốc tế.[558]
Theo miêu tả này, vùng đặc quyền kinh tế cũng có quyền lợi giống như thềm lục địa. Nói cách khác, thềm lục địa mà Philippines yêu sách cũng kéo dài 200 hải lí tính từ đường cơ sở của lãnh hải. Ngày 7/12, Bộ trưởng Quốc phòng Philippines Enrile tuyên bố Philippines đã kiểm soát 7 đảo nhỏ ở quần đảo Kalayaan.[559]
Sau khi kí kết “Công ước Luật biển Liên Hợp Quốc” năm 1982, Philippines là một trong những nước phê chuẩn sớm nhất. Ngày 10/12/1982, khi kí Công ước, Philippines tuyên bố: “(4) Việc kí kết này sẽ không xâm hại hoặc làm tổn hại đến chủ quyền của Philippines trong việc thực hiện các quyền chủ quyền trên các lãnh thổ của mình, chẳng hạn như quần đảo Kalayaan và vùng biển phụ thuộc nó.”.[560]
Có thể thấy, sau khi ranh giới hiệp ước của Philippines được vạch ra năm 1898, nó đã trải qua nhiều giai đoạn: trước khi độc lập, biên giới hiệp ước chỉ là một đường quy thuộc các đảo; đến năm 1955, Philippines bắt đầu đề xuất vùng biển bên trong đường biên giới hiệp ước là lãnh hải Philippines; năm 1961, Philippines xác định thêm một bước đường cơ sở lãnh hải, vùng biển phía trong đường cơ sở lãnh hải là nội thuỷ của Philippines, vùng nước nằm giữa đường biên giới hiệp ước và đường cơ sở lãnh hải là lãnh hải của Philippines.
Năm 1979, Philippines đề xuất vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa kéo dài 200 hải lí tính từ đường cơ sở lãnh hải, đồng thời đưa ra chủ quyền của Kalayaan cũng như khu vực “đường ranh giới đảo Kalayaan” thuộc vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Philippines.
Về quân sự, tháng 3/1976, Philippines thành lập Quân khu miền Tây Philippines, và xây dựng căn cứ hải quân vịnh Ulugan trên đảo Palawan. Đồng thời, trên đảo Thị Tứ (Trung Nghiệp), Philippines đã xây dựng sân bay mà máy bay loại nhỏ có thể cất và hạ cánh ở đó. Philippines có máy bay chiến đấu T-28 và máy bay vận tải C-47, định kì 1 tuần 2 lần đến đảo làm nhiệm vụ. Thời gian này Philippines có ưu thế trên không, máy bay quân sự cất cánh từ đảo Palawan của Philippines đến Trường Sa vẫn có thể tác chiến 30 phút sau đó (chưa nói tới sân bay trên đảo Thị Tứ), trong khi máy bay bay từ đất liền Việt Nam chỉ có thể có thể tác chiến 10 phút sau khi đến Trường Sa. Năm 1976, quân Việt Nam đóng trên đảo Song Tử Tây (Nam Tử) nổ súng vào máy bay quân sự Philippines (đảo Song Tử Tây rất gần đảo Song Tử Đông (Bắc Tử) do Philippines chiếm). Marcos ban đầu tăng thêm binh lực ở quần đảo Trường Sa, cho đến năm 1978, tổng quân số của Philippines trên các đảo, đá gần 1 nghìn người, vượt xa quân số của Việt Nam (khoảng 350 người).[561] Ngày 25/4/1982, Thủ tướng Philippines Cesar E.A. Virata đã đi thị sát công trình quân sự trên đảo Thị Tứ (Pagasa). Thời gian này, Philippines đang có kế hoạch xây dựng bến cảng mới.[562] Theo nghiên cứu khi đó của Đài Loan, Philippines đã chiếm 7 đảo, đá gồm Loại Ta (Nam Thược), Thị Tứ (Trung Nghiệp), Bến Lạc (Tây Nguyệt), Song Tử Đông (Bắc Tử), Vĩnh Viễn (Mã Hoan), Bình Nguyên (Phí Tín) và bãi Cỏ Rong (Lễ Nhạc). Trừ đảo Bình Nguyên và bãi Cỏ Rong không rõ tình hình đóng quân, các đảo khác đều có 1 trung đội trú đóng.[563]
Năm 1978, Philippines chiếm bãi An Nhơn / Lan Can (Dương Tín, Panata, Lankiam Cay, khi đó báo chí Trung Quốc gọi là đảo Bạc Nạp Tháp [帕納塔 / Pa na ta: phiên âm của Panata - ND) ước chừng nằm giữa đảo Thị Tứ và đảo Ba Bình. Theo Thứ trưởng Quốc phòng Philippines Barbero, mục đích là “củng cố và tăng cường vị thế của Philippines tại quần đảo Spratly và biển Đông”.[564] Tháng 5/1980, Philippines phản đối Malaysia xây dựng đèn biển ở bãi Công Đo (Tư Lệnh, Commodore Reef) (sau này xác nhận chỉ là xây dựng một cột mốc). Để ngăn chặn sự mở rộng của Malaysia ở Trường Sa (xem phần sau), Philippines đã chiếm bãi Công Đo vào tháng 8.[565] Đây cũng là đảo, đá cuối cùng ở Trường Sa mà Philippines chiếm giữ trước năm 1999.
Cùng với tăng cường chiếm đóng quân sự, Philippines cũng tích cực có kế hoạch đẩy mạnh hợp tác với nước ngoài tiến hành khai thác dầu khí ở biển Đông. Để thoát khỏi khủng hoảng năng lượng, lợi ích dầu mỏ chính là một trong những động cơ để Philippines đẩy nhanh việc chiếm đóng Trường Sa. Hợp tác với các công ti nước ngoài, ngoài việc bù đắp cho sự thiếu hụt công nghệ ở Philippines, còn có thể giúp bảo hiểm thêm cho sự kiểm soát của Philippines trong khu vực khai thác thông qua lợi ích dầu mỏ của bên thứ ba: dù hầu hết các công ti dầu mỏ này là các công ti tư nhân, nhưng họ có khả năng vận động hành lang mạnh mẽ trong giới chính trị phương Tây. Không nước nào có thể làm ngơ khi lợi ích ở nước ngoài của công ti dầu mỏ nước mình bị xâm phạm. Vì thế, vào những năm 1970 Philippines đã trở thành nước ven biển tiến hành khai thác dầu khí ở biển Đông sớm nhất. Tháng 2/1976, Philippines công bố rằng công ti dầu khí của Philippines sẽ cùng Công ti Salen của Thụy Điển thăm dò dầu khí ở bãi Cỏ Rong, sau đó có thêm công ti Mĩ (bao gồm Amoco) cùng tham gia, tạo thành tập đoàn khoảng 10 công ti.
Những hành động này gặp phải sự chống đối của Trung Quốc và Việt Nam. Ví dụ ngày 14/6 Bộ Ngoại giao Trung Quốc tuyên bố: “quần đảo Nam Sa cũng như quần đảo Tây Sa, quần đảo Trung Sa quần đảo Đông Sa đều là một bộ phận lãnh thổ vốn có của Trung Quốc, tài nguyên của những đảo này và vùng phụ cận chúng đều thuộc sở hữu của Trung Quốc. Bất cứ nước nào cử quân đội đến, chiếm đóng và khai thác tài nguyên ở Nam Sa đều là không thể chấp nhận được.” Nhưng Philippines phớt lờ sự phản đối của Trung Quốc và Việt Nam. Bộ trưởng Ngoại giao Philippines Romulos cho rằng bãi Cỏ Rong nằm trong phạm vi thềm lục địa của Philippines, cũng nằm trong vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lí của Philippines dựa trên điều ước thềm lục địa có liên quan mà phân định ra; sự tham gia của công ti Mĩ và Thụy Điển có thể khiến Mĩ giúp bảo vệ quyền lợi của Philippines... Như trình bày phần trước, trong không khí thân thiện và có sự thỏa thuận ngầm lúc Trung Quốc và Philippines mới thiết lập quan hệ ngoại giao, việc tỏ thái độ của Trung Quốc chỉ có tính hình thức, thậm chí không thể không có khẩu khí nghiêm khắc do cũng có ý nhắm vào Việt Nam.[566]
Việc thăm dò của Philippines và công ti Thụy Điển cũng như công ti Mĩ hoàn toàn không gặp bất cứ trở ngại nào. Tháng 6/1976, tại bãi Cỏ Rong, Công ti Salen đã khoan thăm dò giếng Sampaguita 1. Năm 1977, Công ti Amoco đã khoan thăm dò hai giếng khác (A1, B1). Nhưng cả 3 giếng dầu khoan trong 2 năm này[567] đều không phát hiện được dầu khí. Tháng 5/1978, Công ti Salen lại khoan thăm dò giếng Sampaguita 2 tại bãi Cỏ Rong và khoan thăm dò giếng Kalamansi 1 ở bãi Templier (Trung Hiếu). Tháng 11/1981, Công ti Salen lại một lần nữa được trao quyền khoan thăm dò giếng Sampaguita 3 ở bãi Cỏ Rong, nhưng hầu như cũng không có dầu.[568] Ngoài ra, ngày 18/6/1976, Philippines phân định cụm đá Sinh Tồn (Trịnh Hòa, Union Banks), bãi Kiêu Ngựa (An Độ, Ardasier Reef) thuộc quần đảo Trường Sa và vùng biển phụ cận chúng thành “vùng đặc biệt” cho doanh nghiệp nước ngoài thăm dò.[569] Nhưng do vị trí địa lí nhạy cảm, không có công ti dầu khí nào muốn khai thác tại khu vực đó.
Kết quả khai thác dầu khí của Philippines ở vùng biển Trường Sa còn rất hạn chế, nhưng việc mời gọi công ti dầu khí phương Tây vào cùng với việc phê chuẩn quyền khai thác dầu khí, đã tăng cường quyền kiểm soát thực tế và pháp lí của Philippines đối với một bộ phận Trường Sa về mặt dân sự. Ngoài ra, Philippines đã đạt được một số kết quả nhất định trong việc khai thác dầu khí duyên hải dọc theo bờ biển phía Tây của đảo Palawan, những khu vực này tuy không thuộc quần đảo Trường Sa nhưng gần và thậm chí có bộ phận chồng lấn đường 9 đoạn, có lúc bị truyền thông và các ấn phẩm nghiên cứu của Trung Quốc xem là một trong những bằng chứng của việc “Philippines lấy cắp dầu mỏ ở Nam Hải”.[570]
Ngoài ra, trong khoảng thời gian này, do ngư dân truyền thống của Hải Nam bị cấm đến biển Đông đánh cá, ngư dân Philippines dần dần trở thành lực lượng đánh cá chính ở biển Đông. Các điểm đến của họ thậm chí vươn tới tận gần quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trung Sa.[571]
Vì vậy, thông qua một loạt các biện pháp trong những năm 1970, Philippines đã từ kiểm soát quân sự, khai thác cũng như pháp luật (trong nước) mà giành được quyền kiểm soát một số đảo của Trường Sa.
Bình luận tóm tắt về luật quốc tế
Tóm lại những điều nói trên, theo luật quốc tế, cho đến cuối những năm 1970, lí do và logic trong đòi hỏi chủ quyền đối với các đảo biển Đông của Philippines có thể tóm tắt như sau: (1) Các đảo mà Philippines chiếm không phải một bộ phận của quần đảo Trường Sa, mà là một quần đảo độc lập (Freedomland); (2) Tình trạng pháp lí của quần đảo Trường Sa sau Thế chiến thứ hai là đất uỷ trị, không thuộc về bất cứ nước nào; (3) Cloma “phát hiện” “Freedomland” sớm nhất, đồng thời đã thành lập “Lãnh thổ Tự do Freedomland”, và trở thành một bộ phận của Philippines thông qua hình thức bảo hộ hoặc chuyển nhượng; (4) Các đảo này gần Philippines, cũng nằm trên thềm lục địa và trong vùng đặc quyền kinh tế của Philippines, có tầm quan trọng không thể thay thế đối với an ninh và lợi ích của Philippines; (5) ngày 14/9/1975, Marcos khi trả lời nhà báo về Trường Sa còn nhấn mạnh quần đảo Trường Sa sau Thế chiến thứ hai là đất uỷ trị, nên do Đồng minh xử lí.[572]
Những lí do này đều là không đáng để cân nhắc. Điểm thứ nhất rõ ràng là ngụy biện, dù phạm vi cụ thể của Spratly Islands trong lịch sử đúng là có chỗ mơ hồ, thiếu rõ ràng, nhưng Spratly Islands trong “Hòa ước San Francisco” bao gồm các đảo, đá rất rõ ràng bên cạnh đảo Trường Sa Lớn, hơn nữa trong giao thiệp giữa Đài Loan, Việt Nam và Philippines, Đài Loan nhiều lần chỉ rõ rằng “Freedomland” cũng nằm trong quần đảo Trường Sa, nhưng trải qua hơn 20 năm Philippines vẫn còn vướng mắc về vấn đề này, về căn bản đó là cách làm thừa nước đục thả câu. Thứ hai, “Hòa ước San Francisco” đúng là không quy định sự quy thuộc của Trường Sa, nhưng cũng không quy định Trường Sa là đất uỷ trị. Trong hiệp ước quy định rõ đất uỷ trị chỉ có các đảo ở Bắc Thái Bình Dương mà Nhật Bản được uỷ thác quản lí trước đó cũng như quần đảo Ryukyu có thể trở thành đất uỷ trị (nhưng cuối cùng lại không). Và ngay cả khi quần đảo Trường Sa là lãnh thổ được uỷ trị, thì không có cơ sở pháp lí nào để Philippines tiếp quản quần đảo này. Thứ ba, Lãnh thổ Tự do của Cloma có thể trở thành một “quốc gia” hay không về luật quốc tế là một vấn đề rất lớn, vả lại cái gọi là Cloma “phát hiện” quần đảo Trường Sa rõ ràng không thể đứng vững. Ông ta thực hiện được các hoạt động ở quần đảo Trường Sa là nhờ vào việc Quốc Dân Đảng tạm thời rút khỏi quần đảo này sau khi thoái lui sang Đài Loan, trong khi Việt Nam và Pháp lại không có khả năng đóng quân ở đó khiến quần đảo này nhất thời trở thành không người ở. Nhưng điều này hoàn toàn không có nghĩa là Đài Loan, Việt Nam (Pháp) đã “từ bỏ” (abandon) quần đảo Trường Sa. Nói cách khác, quần đảo Trường Sa khi đó không hề là đất vô chủ, nói Cloma chiếm nó trước là không có cơ sở theo luật quốc tế. Thứ tư, sự gần gũi với Philippines hoàn toàn không là một lí do chính đáng để có được lãnh thổ. Dù các đảo ở biển Đông hoang vu nhưng các đảo do Philippines chiếm giữ hầu như đều là nổi lên mặt nước quanh năm, và theo nguyên tắc đất quyết định biển, những đảo này không thể tự động trở thành lãnh thổ của một nước nào đó chỉ vì chúng nằm trên thềm lục địa của nước đó (chỉ có bãi ngầm là có thể như vậy). Còn tính trọng yếu đối với an ninh và lợi ích cũng không phải là lí do phù hợp với nguyên tắc của luật quốc tế. Cuối cùng, mặc dù “Hòa ước San Francisco” quy định rằng Nhật Bản phải từ bỏ quần đảo Trường Sa nhưng không hề nói đến Trường Sa như là lãnh thổ uỷ trị.
Ưu thế pháp lí của Philippines đối với Trường Sa ở chỗ:
Thứ nhất, vào đầu thời kì sau Thế chiến thứ hai Philippines đã công khai yêu sách lãnh thổ của mình đối với quần đảo Trường Sa ngay sau khi giành được độc lập (1946), chỉ 13 năm sau khi Pháp công khai yêu sách lãnh thổ của họ (1933), vẫn còn trong thời hạn hiệu lực để đưa ra phản đối. Hơn nữa, khi xét đến việc Philippines là thuộc địa của Mĩ trước Thế chiến thứ hai, không có quyền tự chủ về ngoại giao, và người bản địa Philippines cũng đã đưa ra đòi hỏi lãnh thổ với Trường Sa, chỉ vì Mĩ không đồng ý nên không có cách nào đưa ra quốc tế, thì đây là lí do có thể hiểu được.
Thứ hai, Philippines (đặc biệt nước Sulu với tư cách là một bộ phận của Philippines hiện nay) có liên hệ lịch sử với quần đảo Trường Sa, nhưng trong những năm 1970, Philippines hoàn toàn không chú ý đến điểm này để lí giải thêm. Philippines cũng chưa thể đưa ra bằng chứng có sức thuyết phục cho thấy rõ ngư dân Philippines có quan hệ mật thiết với quần đảo Trường Sa.
Thứ ba, khi xét đến việc Philippines chiếm đóng một số đảo ở Trường Sa từ những năm 1970 đến nay thì việc chiếm đóng đó đã trở thành một hiện trạng. Mặc dù không thể hoàn toàn hình thành “thời hiệu” do bị các nước khác liên tục phản đối, nhưng nếu như đưa ra Tòa án Quốc tế thì “hiện trạng” này vẫn là một điểm pháp lí đáng để cân nhắc.
[525] Shepard, F.P., Emery, K.O., and Gould, H.R., 1949, Distribution of sediments on East Asiatic continental shelf: Allan Hancock Found. Occasional Paper 9, p.64.
[526] Hiroshi Niino, K.O.Emery, Sediments of Shallow Portions of East China Sea and South China Sea, Geological Society of America Bulletin, 1961, Vol.72, tr..731-762.
[527] “Đại sự kí”, tr.11-16.
[528] https://www.gjs.jp/data/ccop-bull/2-01/pdf
[529] Tiêu Hi Thanh “Lịch sử quan hệ ngoại giao Trung Quốc-Philippines”, Chính Trung thư cục, 1995, tr. 766.
[530] “Tuyển tập hiệp định pháp luật”, tr.40-61.
[531] “Tuyển tập điều ước pháp luật”, tr. 62.
[532] Mật “Về tình hình Philippines quấy nhiều quần đảo Nam Sa của ta”, Điện Bộ Ngoại giao gửi Đại sứ quán Philippines, ngày 4/5 năm Dân Quốc 57 (1968), “Tuyển tập hồ sơ Bộ Ngoại giao”, tr.962.
[533] Mật “Tàu chiến Philippines xâm nhập vùng biển Nam Sa của ta”, Điện Đại sứ quán tại Philippines gửi Bộ Ngoại giao, ngày 24/5 năm Dân Quốc 57 (1968), “Tuyển tập hồ sơ Bộ Ngoại giao”, tr.963. Vấn đề Sabah là tranh chấp lãnh thổ giữa Philippines và Malaysia, liên quan đến lãnh thổ phía Bắc Sabah.
[534] Tiêu Hi Thanh, Lịch sử quan hệ ngoại giao Trung Quốc- Philippines, Chính Trung thư cục, 1995, tr.848-849.
[535] Nghị quyết số 2758 của Đại hội Liên Hợp Quốc, https://www.un.org/chinese/ga/ares2758.html
[536] Vương Ý Huy, “Chuyện lương của Lục chiến”, Bộ tư lệnh Thuỷ quân lục chiến, năm 2005, tr.155.
[537] Hiến pháp năm 1943 ra đời trong thời kì Nhật chiếm đông, sau Thế chiến thứ hai Philippines khôi phục Hiến pháp năm 1935. Trong Hiến pháp năm 1943 quy định lãnh thổ Philippines là: “Lãnh thổ trong quy định của Hiến pháp hiện hành” (The Republic of Philippines shall exercise sovereignty over all the national territory as at present defined by law). Xem https://en.wikisource.org/wiki/Constitution_of_the_Philippines_(1935)
[538] https://en.wikisource.org/wiki/Constitution_of_the_Philippines_(1935)
[539] Một nguyên nhân khác mà Philippines sửa đổi điều luật lãnh thổ trong Hiến pháp là muốn quy định phạm vi vùng nội thuỷ.
[540] Sabah là lãnh thổ tranh chấp giữa Philippines và Malaysia. Marian là lãnh thổ uỷ trị của Liên Hợp Quốc (Mĩ quản lí). Đảo Guam là lãnh thổ hải ngoại của Mĩ. Đảo Batam thuộc về Philippines, nhưng nằm ngoài giới hạn Hiệp ước 1898.
[541] http://www.colonia.asia/hisrory%20-%20the%20history%20of%the%20kingdom%20of%20colonia%20st%20john.htm
[542] Virginia A.Greiman, A Model for Collaborative Development in the South China Sea, The Journal of Asian Finance, Economics and Business, Vol.1 No.1 pp.31-40, DOI: http://dx.doi.org/10/13106/jafeb.2014.vol1.no1.31
[543] Juan Arreglado, Kalayaan, Historical, legal, political background, Foreign Service Institute (Manila), 1982, p.14.
[544] http://www.colonia.asia/hisrory%20-%20the%20history%20of%the%20kingdom%20of%20colonia%20st%20john.htm
[545] Như trên.
[546] Quách Diệu Hổ. “Khảo sát lịch sử chính sách của Mĩ đối với tranh chấp Trung-Philippines đối với quần đảo Nam Sa - dựa vào giải thích hồ sơ ngoại giao giải mật gần đây của Mĩ”, Nghiên cứu Lịch sử Trung Quốc đương đại, số 2 năm 2013.
[547] Cho đến đầu thập niên 1970 Philippines vẫn có số lượng lớn Hoa kiều chưa gia nhập quốc tịch, một khi thiết lập quan hệ ngoại giao với Trung Quốc, những người này liền sẽ trở thành công dân của Trung Quốc (Đại lục), điều này là một đe dọa nghiêm trọng đối với Philippines, sau đó trước khi Trung Quốc và Philippines thiết lập quan hệ ngoại giao, Philippines đã áp dụng phương pháp xử lí cho toàn bộ họ gia nhập quốc tịch mới loại bỏ trở ngại này.
[548] Tiêu Hi Thanh. “Lịch sử quan hệ ngoại giao Trung Quốc- Philippines”, Chính Trung thư cục, 1995, tr.402.
[549] “Khởi nguồn và phát triển”, tr. 127.
[550] “Nhân dân nhật báo”, ngày 10/6/1975, “Đại sự kí”, tr.49.
[551] CPTTD, p.148.
[552] CPTTD, p.148.
[553] CPPTD, p.149. “Tuyển tập Việt Nam”, tr.182.
[554] CPPTD, p.149.
[555] CPPTD, p.152.
[556] CPPTD, p.152.
[557] “Tuyển tập điều ước pháp luật”, tr. 67-68.
[558] “Tuyển tập điều ước pháp luật”, tr.96.
[559] “Đại sự kí”, tr.64.
[560] “Tuyển tập điều ước pháp luật”, tr.69.
[561] Rodney Tasker, Stake-out in the Spratlys, FEER, 1978/02/24. From CPTTD, p.150.
[562] “Tình trạng chiếm đóng và xây dựng của Philippines ở cái gọi là Lãnh thổ Tự do”, Điện của Đại diện tại Philippines gửi Bộ Ngoại giao, ngày 4/5 năm Dân Quốc 71 (1982), “Tuyển tập hồ sơ Bộ Ngoại giao”, tr. 963-964.
[563] “Trả lời chất vấn có liên quan quần đảo Trường Sa của Uỷ ban Lập pháp”, Thư Viện Hành chính gửi Viện Lập pháp, ngày 18/6 năm Dân Quốc 71 (1982), “Tuyển tập Hồ sơ Bộ Ngoại giao”, tr. 964-966.
[564] “Đại sự kí”, tr.61.
[565] CPTTD, p.150.
[566] CPTTD, p. 151.
[567] “Báo cáo bằng thư tín tình hình Philippines khoan thăm dò dầu khí ở Nam Sa”, ngày 9/7 năm Dân quốc 65 (1976), Thư Bộ Ngoại giao gửi Bộ Kinh tế, “Tuyển tập Hồ sơ Bộ Ngoại giao”, tr.1334.
[568] “Khởi nguồn và phát triển”, tr.134.
[569] “Báo cáo bằng thư tín tình hình Philippines khoan thăm dò dầu khí ở Nam Sa”, ngày 9/7 năm Dân quốc 65 (1976), Thư Bộ Ngoại giao gửi Bộ Kinh tế, “Tuyển tập Hồ sơ Bộ Ngoại giao”, tr.1334.
[570] “Khởi nguồn và phát triển”, tr.134.
[571] John G.Buthcer, The closing of the frontier: a history of the marine fisheries of Southeast Asia c 1850-2000, Institute of Southeast Asian Studies, 2004, p.192.
[572] “Đại sự kí”, tr. 72-73.