Danh ngôn

Trong mọi cộng đồng, chúng ta cần một nhóm thiên thần gây rối.

We need, in every community, a group of angelic troublemakers.

(Bayard Rustin – trích bài phát biểu tại New York City 1963)

Trong mọi trường hợp, chắc chắn rằng sự thiếu hiểu biết, đi kèm với quyền lực, là kẻ thù tàn bạo nhất có thể có của công lý.

It is certain, in any case, that ignorance, allied with power, is the most ferocious enemy justice can have.

(James Baldwin - No Name in the Street 1972)

Các cuộc cách mạng và các cá nhân có thể bị giết hại, nhưng bạn không thể giết chết các ý tưởng.

While revolutionaries and individuals can be murdered, you cannot kill ideas.

(Thomas Sankara, một tuần trước khi bị ám sát, 1987)

Không có cảm giác nào cô đơn hơn việc bị chính đất nước mình trục xuất.

There's not a more lonely feeling than to be banished by my own country.

(Kiyo Sato – Kiyo’s Story 2009)

Ban Biên tập

Địa chỉ liên lạc:

1. Thơ

tho.vanviet.vd@gmail.com

2. Văn

vanviet.van14@gmail.com

3. Nghiên cứu Phê Bình

vanviet.ncpb@gmail.com

4. Vấn đề hôm nay

vanviet.vdhn1@gmail.com

5. Thư bạn đọc

vanviet.tbd14@gmail.com

6. Tư liệu

vanviet.tulieu@gmail.com

7. Văn học Miền Nam 54-75

vanhocmiennam5475@gmail.com

Tra cứu theo tên tác giả

Chủ Nhật, 24 tháng 9, 2023

Tim đập mạnh hồn ngây không sao hiểu

Ý Nhi

Nguyên Hồng từ Nhã Nam về, dựng chiếc xe đạp mi-ni lấm lem đất bụi vào bờ tường bên hông trái nhà 65 Nguyễn Du, Hà Nội, đặt cặp bản thảo nặng trịch xuống đất, lúi húi tháo gỡ chiếc làn sau xe… Ngẩng lên, nhìn thấy tôi, ông cười lớn: “Con đấy à. Lên đây, lên đây”. Tôi đã định ra về, lại theo ông lên gác, nơi có một căn phòng làm việc khá rộng. Vừa bảo tôi ngồi chơi ông vừa lôi từ chiếc làn ra những mùng màn đen nhẻm, ẩm ướt, giũ giũ cho thẳng thớm rồi đem phơi ra ngoài ban-công. Xong xuôi, ông lại lôi từ chiếc làn ra một nắm cơm, một khúc cá kho, vui vẻ bảo: “Con ăn với bố một miếng”. Tôi từ chối vì còn phải về thổi cơm cho cả nhà. Ông bảo: “Thế thì cầm túm nhãn này về cho trẻ con”. Ông lôi từ chiếc làn “Thạch Sanh” của mình ra một túm nhãn còn xanh, dúi vào tay tôi. Tôi nghĩ, chắc ông đã vặt vội chúng trong vườn nhà để đem về Hà Nội làm quà.

image

Nguyên Hồng yêu thương bọn trẻ chúng tôi. Tôi và Xuân Quỳnh gọi ông bằng bố. Ông gọi chúng tôi là con, là chúng mày. Có lần, gặp Xuân Quỳnh và tôi đứng trước cổng Hội Nhà văn, ông hỏi, các con đi đâu đấy. Chúng tôi thưa sắp sang Hội Văn nghệ Hà Nội có việc (Hội Văn nghệ Hà Nội đang chuẩn bị in cho hai chúng tôi một tập thơ thiếu nhi, có tên chung là Cây trong phố - Chờ trăng, do chị Minh Tâm làm biên tập). Ông cười: “Thế thì lấy nhuận bút giúp cho bố với”. Rồi ông nháy mắt: “Để mua cái thứ nước trắng trắng, cay cay ấy mà”. Ông nghèo lắm, chỉ đủ tiền uống rượu “cuốc lủi” (không hiểu pha chế từ thứ gì và pha chế như thế nào, nghe đâu người ta còn cho các thứ hóa chất độc hại vào để tăng nồng độ), giống như Hoàng Trung Thông, Nguyễn Sáng và nhiều văn nghệ sĩ thời bấy giờ.

Nguyên Hồng lúc nào cũng vội vã, tất bật. Ông thường dựng xe, quay sẵn đầu xe ra phía đường để lúc cần đi là đi ngay, không mất thì giờ. Nhưng ngoài lý do tiết kiệm thời gian, hình như còn một lý do khác nữa, liên quan đến tính lơ đãng của ông. Có người kể, lần nọ Nguyên Hồng đạp xe từ Hà Nội về Nhã Nam. Giữa đường, thấy buồn ngủ, ông tấp xe vào vệ đường, đánh một giấc ngon lành. Tỉnh dậy, ông lên xe, cắm cúi đạp, chỉ đến khi nhìn thấy cầu Long Biên, ông mới biết mình đang quay ngược về Hà Nội. Ông cho rằng vì mình vô ý, quay đầu xe về hướng Hà Nội nên mới xảy chuyện. Từ đó, Nguyên Hống có thói quen quay đầu xe ra đường. Có người đùa: “Cụ sợ đụng xe vào tường”.

Chiếc xe đạp mi-ni ấy (được ông gọi là con ngựa sắt) là một phần không thể thiếu của nhà văn. Chiếc xe cũ kỹ, phanh hỏng, chuông rè ấy thật hợp với ông lão mặc áo nâu, đi dép lê, râu tóc bơ phờ, da dẻ rám nắng, ánh mắt lấp lóa, nụ cười rộng mở. Trong bài viết cho tuyển tập Nguyên Hồng, ngoài việc nói đến sự cần cù, nghiêm cẩn, tỉ mỉ, công phu và trân trọng của Nguyên Hồng khi viết văn, Nguyễn Tuân dành một đoạn khá dài nói về cách ăn mặc của nhà văn: “Trong cư xử Nguyên Hồng xuề xòa, và càng xuềnh xoàng về ăn mặc. Một người bạn tôi, trước là chủ hiệu may và giờ là xã viên đứng đầu của hợp tác xã may mặc Hà Nội đã nói trộm với tôi về nhà văn Nguyên Hồng mà ông ta thích đọc: - Nguyên Hồng có tính lập dị không. Đi ra nước ngoài không biết mấy lần rồi mà sao giầy mũ quần áo ông ta trông cứ như là một người mu-gich Nga trước cách mạng tháng Mười ấy! Ai ở thủ đô mà cũng quần áo như thế thì chúng tôi thất nghiệp hết sao. Không phải nhà văn phải mặc theo thời trang mốt nọ mốt kia, mà ý tôi muốn là được cắt cho ông ấy một bộ quần áo gọn gàng, ông nói ông ấy cứ đưa mấy thước hàng lại, tôi không tính tiền công may đâu, chính tay tôi đo lấy, cắt lấy, may lấy, gọi là tỏ cái tình của một người độc giả cũ ngày nay vẫn còn mê văn Nguyên Hồng. - Thôi ông ạ, ông bạn đồng nghiệp của tôi không bận tâm về quần áo, mặc thế nào cũng xong, xuềnh xoàng quen đi rồi. Tính ông ta thế, ông tốt thực đấy nhưng không nên đụng vào chuyện này…”. Ở một đoạn khác, Nguyễn Tuân kể chuyện Nguyên Hồng đến khách sạn Metropole gặp một nhà báo Pháp và đã nói rất hay về Romain Roland. Nhà báo Pháp đã viết bài về cuộc gặp gỡ và có một nhận xét khá ý nhị: Nguyên Hồng đã đưa vào phòng khách sạn thành phố tất cả phù sa quý giá của đồng ruộng ven sông Hồng. Có vẻ như Nguyễn Tuân đã thực sự thấu hiểu người bạn văn có cung cách sống trái ngược hẳn với ông.[1]

Quả thật, tôi không thể hình dung ra một Nguyên Hồng quần áo chỉn chu, tóc tai gọn ghẽ, giày dép tinh tươm. Nguyên Hồng không chịu nổi sự gò bó, kiểu cách, dù chỉ là trong sự ăn, sự mặc.

Có lần tôi đi tàu chợ về Hải Phòng. Tôi vừa thu xếp được một chỗ ngồi thì nghe có tiếng người gọi tên mình. Trong đám đông chen chúc, lố nhố, tôi nhìn thấy Nguyên Hồng ở cuối toa. Ông lách qua đám người, đến chỗ tôi, hỏi thăm tôi đi đâu, có việc gì. Ông bảo, ông đưa con gái học ở Ba Lan về thăm Hải Phòng. Sau này tôi đã ghi lại hình ảnh của ông trong lần gặp gỡ tình cờ ấy vào một bài thơ có tên: Nhà văn Nguyên Hồng.[2]

Tôi từng nghe nhiều người nói rằng Nguyên Hồng rất dễ xúc động và hay khóc. Hồi tôi còn làm biên tập thơ tại nhà xuất bản Văn nghệ giải phóng đã được nghe nhạc sĩ Hoàng Hiệp kể một câu chuyện liên quan đến việc… khóc của Nguyên Hồng. Nhà xuất bản Văn nghệ giải phóng là nơi in những tác phẩm của các nhà văn, nhà thơ, nhạc sĩ, họa sĩ… ở chiến trường gửi ra. Từ Ban giám đốc đến biên tập viên đều là người miền Nam. Anh em, chú cháu sống với nhau thân ái. Anh Hoàng Hiệp lo phần âm nhạc, lúc này đã rất nổi tiếng với các ca khúc phổ thơ Chính Hữu, Phạm Tiến Duật như Ngọn đèn đứng gác, Trường Sơn Đông - Trường Sơn Tây. Anh Hoàng Hiệp không có giọng nên mỗi lần viết xong bài hát, phải nhờ Lê Duyên, một biên tập viên Ban Văn hát thử. Lê Duyên hát hay (từng đoạt huy chương vàng Tiếng hát Sinh viên) và rất tinh nghịch, lém lỉnh, đối đáp sắc sảo. Mỗi lần như vậy, anh Hoàng Hiệp đãi chúng tôi mỗi đứa một đĩa ốc luộc (dứt khoát chỉ một đĩa thôi), hình như hồi đó giá một hai hào gì đó. Một lần, sau chầu ốc luộc, mấy anh em ngồi nói chuyện phiếm, nhắc đến nhà văn này, họa sĩ nọ, Hoàng Hiệp than với đám biên tập viên trẻ chúng tôi: “Ông Nguyên Hồng là chúa mau nước mắt. Có lần ổng kể cho anh nghe câu chuyện về hai người liền anh, liền chị yêu nhau mà không lấy được nhau. Mới kể được một đoạn, ổng đã thút thít khóc, mãi mới kể tiếp được”. Chúng tôi hỏi kết cục câu chuyện. Hoàng Hiệp bảo: “Họ cứ chờ đợi để gặp nhau, hát cùng nhau, rồi lại chia tay. Cứ mãi như vậy, họ buồn lắm nhưng không có cách nào để lấy nhau vì đó là luật bất thành văn từ nhiều đời rồi, không ai dám vượt qua. Thế là… thế là”. Hoàng Hiệp dừng lại, nghẹn ngào mãi mới thốt nên lời: “Cuối cùng, họ chết”. Chúng tôi ngồi im. Lê Duyên, vốn phản ứng rất nhanh trong mọi tình huống, cũng không dám bình luận. Nguyên Hồng khóc thì chỉ mới nghe kể, còn Hoàng Hiệp khóc thì chúng tôi đã được “mục sở thị”.

Tôi đọc Những ngày thơ ấu của Nguyên Hồng từ ngày còn nhỏ, vừa đọc vừa rấm rứt khóc vì thương cậu bé Hồng côi cút, cực khổ. Lớn lên một chút, tôi dần dà đọc Bỉ vỏ, các truyện ngắn, các tiểu thuyết, các hồi ký văn học… của ông, hình dung một Nguyên Hồng khắc khổ, đa cảm, phong trần. Hồi tôi học năm thứ hai đại học, các thầy mời Nguyên Hồng lên Đại Từ, Thái Nguyên (nơi trường Đại học Tổng hợp sơ tán) nói chuyện với sinh viên, là lần đầu được nhìn thấy ông trong bộ quần áo cũ, được nhìn thấy ông trong đôi dép lê đầy bụi, hai chiếc cùng một phía (chúng tôi chỉ cho nhau nhìn chân ông dưới gầm bàn), được nghe ông với giọng nói cao, đầy xúc động. Hồi đó, thời buổi chiến tranh, mời được một nhà văn lên tận Thái Nguyên là cả một sự cố gắng của các thầy. Chúng tôi háo hức đặt ra nhiều câu hỏi và lắng nghe lời ông về nguyên mẫu của các nhân vật tiểu thuyết, về việc đưa thực tế cuộc sống vào tác phẩm, về vai trò của chi tiết điển hình, về việc xây dựng hình tượng người anh hùng… Giữa câu chuyện mang tính học thuật như vậy, một bạn nam sinh viên học lớp trên bỗng hỏi ông: Nhà văn có còn giữ “đồng xu cái” của mình không. Nguyên Hồng sững lại một chút, mặt hơi nghếch lên, vẻ nghĩ ngợi rồi chợt hiểu ra: bạn sinh viên này nhắc tới thời cậu bé Hồng đi đánh đáo kiếm tiền, quý “đồng xu cái” đến nỗi khi ngủ, vì sợ mất nên thường buộc đồng xu vào dải rút. Ông cười phá lên, chòm râu rung rung nhưng giọng lại nghèn ngẹn như có nước mắt, và đáp đại ý: ông đã có những đồng xu cái khác.

Ông để lại trong lòng tôi một ấn tượng thật lạ, thật gần, thật đẹp. Có lẽ vì vậy mà khi về làm việc tại nhà xuất bản Tác phẩm mới, được gặp ông, tôi thân với ông ngay, không chút ngại ngần. Và cũng vào lúc này tôi mới một lần nhìn thấy ông khóc. Hôm ấy tôi đi làm sớm. Ngang qua văn phòng Hội Nhà văn (Nhà xuất bản ở phía sau), thấy ông đang ngồi một mình, đầu hơi cúi xuống, vẻ tư lự. Nghe tôi chào, ông giật mình, ngẩng lên: “Con đấy à. Vào đây bố đọc cho nghe bài thơ mới”. Nếu tôi nhớ chính xác thì đó là bài thơ viết về một người phụ nữ thánh thiện, có liên quan đến nhân vật nữ trong một tiểu thuyết của ông. Ông hắng giọng, giải thích, bài thơ có ba phần. Giọng ông vóng vót, run run. Vừa đọc xong phần một, ông đã thút thít khóc như một đứa trẻ. Ông đưa tay ra dấu bảo tôi ngồi yên đợi ông. Thế nhưng ông không thể kìm cơn xúc động. Ông nói, giọng nghẹn ngào: “Hôm khác bố sẽ đọc tiếp”.

Thế rồi ông ra đi đột ngột, nghe nói trong lúc đang đắp chuồng lợn tại nhà ông ở Nhã Nam, chẳng kịp đọc cho tôi nghe hai đoạn sau của bài thơ.

Tôi đến 51 Trần Hưng Đạo dự lễ truy điệu ông. Lòng bứt rứt, khó chịu vì những nghi thức, những diễn văn, những mặt người, có cảm giác chúng chẳng ăn nhập gì với một Nguyên Hồng giản dị, nồng nhiệt, chân tình. Tôi tự hứa thế nào cũng về Nhã Nam, đến mộ ông thắp hương và nói lời vĩnh biệt ông. Mãi sau này, khi đọc Cát bụi chân ai của Tô Hoài tôi mới tỏ nguồn cơn việc Nguyên Hồng bỏ Hà Nội về Nhã Nam. Bữa đó, sau thời gian kiểm điểm, phê bình, chấn chỉnh tư tưởng trong giới văn nghệ, sau khi báo Văn của Nguyên Hồng bị đình bản, Nguyên Hồng đã quyết định rời khỏi Hà Nội. Trước khi đưa gia đình ra đi, ông mời Tô Hoài đến chơi nhà, có lẽ là để uống cùng nhau một chén rượu chia tay. Nhưng rồi sự cố bất ngờ xảy ra khi Tô Hoài đưa cho Nguyên Hồng bài Nhìn lại một số sai lầm trong bài báo và trong công tác của mình in trên báo Nhân dân. Những dòng tự kiểm điểm và nhận lỗi của Tô Hoài khiến Nguyên Hồng giận dữ:

“…Nguyên Hồng buông tờ báo xuống. Rồi Nguyên Hồng xua xua tay, nói như hét vào mặt tôi:

-Tiên sư mày, thằng Câu Tiễn. Ông thì không. Nguyên Hồng thì không.

Nguyên Hồng quỳ xuống trước tôi, rồi cứ phủ phục thế, khóc thút thít. Chị ấy bỏ chảo nem, chạy đến. Thầy nó làm sao? Lại làm sao thế? ...Chúng tôi ngồi trở lại, yên lặng như từ nãy vẫn thế. Nguyên Hồng nói khẽ:

-Tao tính cả rồi. Trông đây này.

Gian phòng vẫn bề bộn màn mùng như mọi khi. Nhưng để ý thì thấy có khác. Mọi thứ đã được gói, buộc lại như dạo trước tôi đã quen mắt thấy sáng sớm các thứ trong nhà sắp sẵn để quẳng ra bờ rào tránh máy bay. Tôi gật gù, nhưng thật cũng chưa hiểu ra như thế nào.

-Tao về Nhã Nam

-Về Nhã Nam?

-Ừ, Nhã Nam. Đủ, đủ lắm rồi. Ông đ. chơi với chúng mày nữa. Ông về Nhã Nam.

…Trở lại Nhã Nam, trong khi nhà đã yên nơi ăn chốn ở và trường lớp các cháu đi học, chị ấy đã có việc làm. Nhưng nhất định không ở nữa. Thế là bỏ hết, lại lên Nhã Nam, ấp cầu Đen, ấp đồi Cháy, lại ở đồi những năm tản cư… trên quả đồi lưa thưa tre pheo còn lại lơ thơ mấy nhà người làng, cái trường học cấp một, mái lợp nứa, tường trình ụp xụp, quạnh quẽ. Vẫn ở cái nhà như hồi chạy Tây mới tản cư… Nguyên Hồng về Nhã Nam. Chưa bao giờ nghe Nguyên Hồng trách móc, đổng giả ai… Rồi Nguyên Hồng về hưu non, ở tuổi 52, với lý do: “Cũng tiện, khỏi phải ngửa tay nhận lương tháng, chẳng phải bịa đặt báo cáo công tác, chẳng phiền ai”…Nguyên Hồng ấy, khi nào tôi cũng cứ ngờ ngợ. Nhưng tôi lại tin cái khí phách của con người cũng một mình một tính.[3]

Nhưng, dù không có những dòng văn này (những dòng văn khiến tôi ứa nước mắt khi đọc), chỉ bằng vào những gì tôi biết về ông, tôi vẫn tin rằng Nguyên Hồng sẽ làm như vậy trong một cảnh ngộ như vậy. Và chỉ duy nhất Nguyên Hồng có thể làm điều đó, một cách quả quyết, một cách ngây thơ, một cách không thèm tính toán.

Lần đầu, tôi cùng con trai lớn theo đoàn của văn phòng Hội Nhà văn, do nhà thơ Chính Hữu dẫn đầu, về viếng mộ ông. Nhưng vừa đến Bắc Giang, hai mẹ con tôi say xe đến phát ốm, không thể đi tiếp, đành ở lại thị xã, đợi đón xe về. Hai mẹ con lang thang trong chợ rồi ghé vào Hội Văn nghệ, định thăm vài người bạn quen. Nhưng vào giờ nghỉ trưa chỉ gặp một anh (tôi quên tên) chuyên nghiên cứu và sáng tác chèo, ở tại cơ quan. Nghe tôi xưng tên và nói lý do đến Bắc Giang, anh bảo anh là học trò của ba tôi ở trường Nghệ thuật ca kịch dân tộc và dứt khoát nấu cơm mời hai mẹ con, mặc cho tôi phân trần đã ăn trưa ngoài phố chợ.

Lần sau, tôi đi với Ban Nhà văn trẻ của Hội, trong đoàn có nhà văn Kim Lân. Nhà văn Kim Lân đem theo ít rượu gạo, rưới lên mộ Nguyên Hồng, nói mấy lời với giọng thống thiết, tôi chỉ nhớ mang máng: Ông Hồng ơi, tôi cùng các anh chị trong Ban Nhà văn trẻ đến viếng ông đây (ông xướng tên từng người trong đoàn). Tôi mang rượu đến cho ông đây… Rồi chắp tay vái lạy rất cung kính.

Nhìn nấm mộ xanh cỏ giữa cánh đồng quang đãng, dưới vòm trời xanh cao, tôi thầm nói với ông: Bố ơi, đây đúng là nơi yên nghỉ của bố, của một nhà thơ.

Nhắc đến Nguyên Hồng, người ta thường nói tới những tác phẩm văn xuôi nổi tiếng và đồ sộ của ông như Bỉ vỏ, Cửa biển, Sóng gầm, Cơn bão đã đến, Núi rừng Yên Thế… Riêng phần mình, tôi nhớ: Ngẫm nghĩ voi đi/ thác Khôn cười trắng xóaTa cởi áo lội dòng sông ta hát/ Mê Kông chảy:Mê Kông cũng hát/Rừng núi lùi xa/ Đất phẳng thở chan hòa. Nguyên Hồng, với tôi, trước hết là một nhà thơ, một con người suốt đời Tim đập mạnh, hồn ngây, không sao hiểu.

5/2002


[1] Nguyễn Tuân, Con người Nguyên Hồng (Tuyển tập Nguyên Hồng, tập 1 ), trang 59-60, NXB Văn học, 1983.

[2] Nhà văn Nguyên Hồng:

Năm 1976

Trên chuyến tàu Hà Nội - Hải Phòng

Tôi đã gặp nhà văn

Giữa đám đông hành khách

Ông thét gọi người quen

Tiếng vang

suốt cả toa tàu

 

Trán đẫm mồ hôi

Tay khư khư ôm chiếc túi cũ sờn

Ông giống như một viên chức bậc trung

Giữa đường công vụ

Một lão nông về quê sau chuyến đi xa

Một kẻ lang thang tìm đất mới

 

Không chống can và ngậm tẩu

Khủng khỉnh bàn đến các món ăn, rượu ngon, từ ngữ

Không chạy nhông trên các diễn đàn

Rao giảng văn chương

Không làm bộ trầm tư cao ngạo

Nhà văn Nguyên Hồng đi trên các chuyến tàu

Trán đẫm mồ hôi

Tay khư khư ôm chiếc túi cũ sờn

Như một viên chức bậc trung giữa đường công vụ

Một lão nông về quê sau chuyến đi xa

Một kẻ lang thang tìm đất mới

Với giọt lệ lớn

nằm dưới đáy đôi mắt đang nheo cười.

[3] Tô Hoài, Cát bụi chân ai, NXB Hội Nhà văn 1992, tr. 131,132, 133.