Danh ngôn

Trong mọi cộng đồng, chúng ta cần một nhóm thiên thần gây rối.

We need, in every community, a group of angelic troublemakers.

(Bayard Rustin – trích bài phát biểu tại New York City 1963)

Trong mọi trường hợp, chắc chắn rằng sự thiếu hiểu biết, đi kèm với quyền lực, là kẻ thù tàn bạo nhất có thể có của công lý.

It is certain, in any case, that ignorance, allied with power, is the most ferocious enemy justice can have.

(James Baldwin - No Name in the Street 1972)

Các cuộc cách mạng và các cá nhân có thể bị giết hại, nhưng bạn không thể giết chết các ý tưởng.

While revolutionaries and individuals can be murdered, you cannot kill ideas.

(Thomas Sankara, một tuần trước khi bị ám sát, 1987)

Không có cảm giác nào cô đơn hơn việc bị chính đất nước mình trục xuất.

There's not a more lonely feeling than to be banished by my own country.

(Kiyo Sato – Kiyo’s Story 2009)

Ban Biên tập

Địa chỉ liên lạc:

1. Thơ

tho.vanviet.vd@gmail.com

2. Văn

vanviet.van14@gmail.com

3. Nghiên cứu Phê Bình

vanviet.ncpb@gmail.com

4. Vấn đề hôm nay

vanviet.vdhn1@gmail.com

5. Thư bạn đọc

vanviet.tbd14@gmail.com

6. Tư liệu

vanviet.tulieu@gmail.com

7. Văn học Miền Nam 54-75

vanhocmiennam5475@gmail.com

Tra cứu theo tên tác giả

Thứ Năm, 20 tháng 6, 2019

Văn Hải ngoại sau 1975 (kỳ 145): Nguyên Nhi – Bão tuyết ở Literville

Trong lịch sử Literville chưa có một mùa đông nào tệ hại đến vậy.
Tuyết bay như xối, từng lớp, từng lớp, chất thành đụn ngất ngưỡng trên nóc những thư viện, giáo đường, viện bảo tàng và những kiến trúc cao tầng khác. Không còn dấu vết của những công viên, nghĩa trang và bến cảng. Cơn bão bất ngờ chụp lưới những con tàu đang chờ ra khơi, giờ chỉ còn được nhận biết qua những cột khói lười nhác và, giây lâu, một hồi còi rụt rè buồn bã. Người ta có thể lẩy bẩy đi bộ băng qua con sông cạn chia đôi thành phố. Hàng cổ thụ năm trăm năm tuổi trước tòa thị chính chỉ còn là những bụi rậm nhỏ nhoi trên nền trắng bạt ngàn.


Gió xoáy ngất ngất, bóc lớp da tuyết tung vãi bốn hướng tám phương. Gió bẻ vụn những cành khô. Literville tả tơi, kinh hoàng. Những ngày đầu cơn bão, Sở Vệ sinh còn đi thu nhặt những xác người, chó, mèo hoang khô cóng; sau đó thì người ta bó tay, bỏ mặc chúng dưới lớp tuyết mỗi lúc một dày.
Buổi sáng hắn bới đống tuyết ở cửa sổ rồi bò ra ngoài. Chân ngập tuyết đến gối, hắn loạng choạng bước đến căn nhà kho nhỏ góc sân sau, nơi người chủ đất cất giữ dụng cụ làm vườn, lúc này chỉ còn nhô lên cái chóp mái đen đủi. Mặt mũi hắn xạm cóng. Vất vả lắm hắn mới phá bung được đụn tuyết phủ lấp cửa kho. Trên nền cỏ giòn rụm hắn bắt gặp một xác ngỗng gầy đét, con chim bất hạnh của một cuộc thiên di muộn màng. Hai bàn tay tê điếc, hắn khổ nhọc mở cánh cửa kho.
Hắn rợn tóc khi nghe tiếng kẽo kẹt của chiếc bản lề rỉ sét. Tiếng rít khô sắc khi người ta mở nắp một cỗ quan tài mà hắn đã xem trong một đoạn phim nào đó. Hắn bỗng nhíu mày. Có thể nào hắn cứ đơn giản chui vào nằm trong cái hộp tối tăm lạnh lẽo này, đóng kín cửa lại để rồi khi cơn bão yên, lớp tuyết tan đi, người chủ nhà đến dọn dẹp sẽ phát hiện ra cái xác còm nhom của hắn và con chim lạc bầy của buổi thiên di trễ muộn? Không, hắn gạt bỏ ý nghĩ ấy. Trong cuộc đời bốn mươi năm hoang đàng của hắn, bao giờ hắn cũng có những cách giải quyết quyết liệt, chóng vánh. Hắn chọn một chiếc xẻng vừa tay. Hắn đào. Dưới đụn tuyết sâu là một lớp cỏ dày. Lớp cỏ khô xám lóng lánh gãy vụn dưới những nhát xẻng. Nhưng mặt đất đông cứng, hắn có cảm tưởng như chiếc xẻng va vào một khối đá. Đôi cánh tay muốn rời khỏi thân thể hắn.
Hắn thất vọng não nề. Hắn lại chợt nghĩ, bây giờ thì thỏi thép lạnh chôn vùi hằng năm ấy chắc cũng đã rỉ sét, chẳng giúp ích gì cho hắn được. “Rất nhiều lúc tao chỉ muốn xông vào đám đông nào đó, xiết cho hết đạn. Chỉ để dành một viên lại cho mình.” Hôm ấy thằng bạn hắn hươi hươi khẩu súng, đánh rơi cốc rượu xuống sàn. Hắn nhớ phải mất một thời gian khá lâu sau hắn mới tẩy sạch được vết rượu đỏ. “Điên, dạo này có viết thêm được gì không?” Hắn giằng lấy khẩu súng của thằng bạn, chùi xuống nệm ghế. “Cũng như mày, vẫn là cuộc tranh cãi lầy nhầy với bọn tiểu nông trong cái làng văn khốn khiếp ấy.” Thằng bạn hắn lảm nhảm. Mấy ngày sau hắn chôn khẩu súng góc sân sau. Hắn không muốn bọn hắn gặp rắc rối lôi thôi với cảnh sát và mớ luật lệ mà hắn vốn hiểu biết rất lờ mờ. Vả lại, hắn từng nghĩ, trong đời, chỉ cần cây bút.
Dưới ngòi bút của hắn, chẳng phải Literville chỉ còn lại là đống gạch vụn hoang tàn? Ngòi bút hắn như một ngọn kiếm thần thọc sâu vào những yếu điểm kiên cố nhất của cái thành trì tư tưởng đồ sộ Literville. Ngòi bút hắn chẻ nát những công trình sáng tạo mỹ lệ mà bao thế hệ người Literville tự hào. Literville, với hắn, chỉ là mấy lũy tre xanh và bọn hương hào dốt nát, thù tạc bầy đàn. Hắn vung tay hủy diệt và rồi trên chót đỉnh vinh quang hắn hãi hùng nhận ra nỗi cô đơn, lòng hám danh, sự dối trá và ngu ngốc của mình. Hắn cần khẩu súng ấy ngay tức thì, nhưng đôi tay rát nhừ không còn tuân phục ý chí của hắn nữa. Hắn tự an ủi, thôi, giá mà có đào lên được, thỏi thép rỉ sét ấy cũng chẳng giúp gì hắn được. Hắn ném xẻng, theo lại lối cửa sổ vào nhà.
Hắn cởi giày. Hắn sợ làm ướt sàn thảm phòng trên. Hắn bực mình với ý nghĩ, trong những giây phút trọng đại thế này, hắn vẫn còn có thể lo ngại những điều cỏn con vớ vẩn như thế. Hôm nay là ngày đầu tuần. Không có cơn bão, giờ này chắc sở hắn đang nhộn nhịp. Cái nhộn nhịp của một ngày như mọi ngày. Hắn hình dung ra được con bé nhuộm tóc đỏ, mặt đầy mụn cám đang tíu tít trò chuyện qua điện thoại với tình nhân bằng một giọng chua như giấm. Ở một góc khác, tay đồng nghiệp hói đầu đang lách tách gõ điện thư cho con mụ nạ giòng nào đó mà gã chưa gặp mặt bao giờ. Cũng có thể các cô cậu sẽ tụ tập đấu hót về khí hậu mùa màng, giá nhà cửa, thị trường chứng khoán và dè bỉu rằng hắn đến sở trễ vì một cuối tuần phóng đãng. Mọi hôm, ở đấy, giờ này, hắn ngồi vắt kiệt sự sáng suốt đầu ngày cho những bài luận văn nảy lửa, những bài bút chiến sắc sảo mà không ít người, qua đó, đánh giá hắn như một tài năng phi thường. Mỗi luận điểm hắn nêu lên ẩn tàng một trí thông minh vượt bậc và những khai phá táo bạo. Hắn tự mãn, cao ngạo, điều mà hắn cho là tối cần thiết cho phong cách luận chiến của hắn và được những kẻ theo đuôi hắn đánh giá là sang trọng, quý phái. Ôi, bây giờ hắn muốn nhổ toẹt vào cái mọi hôm đó của hắn.
Sáng này là buổi sáng thứ hai, hắn ngồi đây, giữa bốn vách kín bưng, những kệ sách bừa bãi. Trên một góc kệ, người phụ nữ tóc bạc nhếch mép cười chế nhạo hắn. Phía sau lưng bà là mờ mờ ngọn tháp Eiffel. Tôi không phải là thủ phạm trong vụ này đâu, cậu nhỏ. Hắn nghe bà ta lầu bầu. Hắn văng tục. Đầu óc hắn váng vất. Bụm thuốc ngủ tối qua còn chụp lưới quanh hắn. Ông lão xách vali trên bến cảng New York xoa xoa đầu hắn. Hãy quên chúng tôi đi, người bạn trẻ. Giọng ông ta trầm trầm, rầu rầu. Hắn nghe rần rần hai bên thái dương. Cái điệp khúc buồn buồn của ông lão cứ cắm gai vào tai hắn. Hãy quên, hãy biết quên chúng tôi đi. Ôi, giá mà có thể, tách, hắn búng tay, quên ngay được, xóa ngay được cái mớ hỗn độn ấy đi. Đơn giản, nhanh chóng như khi người ta bấm một phím nhỏ trên bàn máy vi tính. Như khi người ta nhấn nút bồn cầu. Dù hắn biết, nếu quên được đi, hắn sẽ chỉ còn là chiếc vỏ ốc vô hồn.
Hắn ngả người trên nệm ghế, nhìn lơ mơ lên trần. Dưới chiếc xà ngang giữa nhà, hắn chợt thấy lờ mờ một chiếc móc sắt. Có thể một người ở trọ nào trước hắn đã móc vào đấy một chậu hoa giả hay một giàn đèn chùm. Chiếc móc sắt trông giống một dấu hỏi treo ngược trên nền trắng ma quái. Hắn lại nhíu mày. Cuộc đời hắn là những dấu hỏi. Cuộc đời nói chung là một chuỗi dấu hỏi. Treo lên đó được chăng? Hắn tự hỏi.
Hắn kéo chiếc bàn thấp đến giữa phòng, nhón chân trên đó, lòn hai ngón tay vào chiếc móc và kéo thử. Cảm thấy hài lòng, hắn lại đi lại quanh phòng, ngó quanh quất, chợt, không một chút do dự, hắn mở toang tủ áo. Bên cạnh mớ quần áo nhầu cũ của hắn, hắn thấy chiếc áo choàng tắm màu hồng đào của người chị họ xa xôi. Hắn có thể tưởng tượng ra mùi xà phòng rẻ tiền toát ra hăng hăng từ cái thân thể đã quá thì ấy. Hắn như nghe lại tiếng kêu u u hoan lạc của chiếc máy xấy tóc từ phòng tắm lúc hắn nằm đọc sách đợi chị. Hắn thấy những giọt nước còn sót lại long lanh, long lanh trên ngấn cổ chị. “Không biết lúc nào em, cả chị nữa, sống đàng hoàng được.” “Không thể, lúc nào chị còn đến đây.” “Vậy thôi, sẽ không đến nữa.” “Cũng là lúc em sẽ chết thật đàng hoàng.” Hắn nghe tiếng cười thích thú, mãn nguyện của chị. Tiếng cười làm hắn nóng ran cả vòm ngực. Tiếng cười chị thoắt gần, thoắt biến, tan loãng trong tiếng gió gào rít ghê rợn qua Literville. Literville oằn oại trong cơn bão tuyết dị thường.
Hắn rút giải thắt lưng từ chiếc áo choàng rồi thử thắt một nút thòng lọng. Hắn nhớ lại cảm giác rạo rực êm ái mỗi bận hắn lần mở giải lụa thắt ngang vùng bụng rám nắng ấøy. Một cơn gió thốc vào phòng, hất tung mấy bức tranh tường. Hắn chợt nhớ là chưa kéo lại cánh cửa sổ. Giấy má trên bàn viết bay tung tóe. Một bàn viết bừa bãi bao giờ cũng đẹp đẽ, đáng yêu hơn một tủ áo sang trọng, ngăn nắp. Hắn nhớ có lần hắn nói với chị. Hắn đóng xập cánh cửa sổ rồi thu nhặt mớ giấy má. Rải rác là những tiểu luận, sáng tác, vài bài phỏng vấn của những tạp chí văn học, đôi bài phê bình mà hắn chưa kịp in. Hắn lật vội vài trang luận chiến cũ với phần chú thích dày cộm. Hắn não lòng nhận chân ra rằng những hàng chữ chi chít dày đặc những kiến thức giả hình và sự mất dạy. Kiến thức của hắn chỉ là sự nhai lại mê mỏi những hiểu biết của thiên hạ, nào phải là những phát hiện của riêng hắn? Hắn chỉ có thể tự hào là đã nhai lại một cách thông minh và đúng lúc. Nhưng điều nọ thay thế điều kia, kiến thức cứ thế mà lụn tàn, cũ, mất. Hắn đã kiệt não truy tìm, rượt, bắt. Chỉ có sự ngổ ngáo mất dạy của hắn là cứ ngời sáng tinh anh, mãi chẳng nhạt nhòa. Hắn xếp thành đống những bản văn một thời hắn đắc ý nhất trên chiếc bàn thấp, ngay dưới chiếc móc sắt mà bây giờ hắn thấy rõ ràng hơn đúng là một dấu hỏi treo ngược.
Hắn lại lần đến kệ sách đồ sộ của hắn. Nó đồ sộ bởi nó chiếm một khoảng không gian đáng kể trong căn phòng bé nhỏ của hắn. Nó đồ sộ bởi nó có một vị trí đáng kể trong một Literville chật hẹp. Một Literville khổ nạn đang bị nghiến thành bụi như một tờ giấy vệ sinh tự hủy trong luồng xoáy hung hãn nước bồn cầu. Hắn lần lượt xếp từng quyển, từng quyển, quyển nọ chồng lên quyển kia trên đống giấy má bừa bộn. Hắn chỉ chọn những quyển hắn cho là quan trọng nhất. Những quyển, dù chỉ được đọc lướt qua, vẫn còn đọng lại trong trí nhớ tuyệt vời của hắn những điều giật gân nhất, những lời lẽ thuộc hàng hoa thơm cỏ lạ mà hắn có thể sử dụng trong đời vừa như mộc khiên, vừa như lưỡi kiếm. Hắn chọn những tác giả lẫy lừng, tên tuổi những đồng minh đáng tin cậy nhất, những trợ thủ đắc lực nhất của hắn trong những đợt tấn công hay phòng thủ quyết liệt.
Rồi hắn cũng trụ vững được hai chân trên đống sách vở. Hắn đã yên vị trên mớ tín điều suốt chặng đời qua hắn nghĩ là lẽ sống diệu kỳ của hắn. Hắn cột đầu kia giải thắt lưng chiếc áo choàng tắm vào chiếc móc sắt và chui đầu vào vòng thòng lọng. Hắn lại nghe cảm giác mát dịu từ chất lụa mịn màng. Hắn lại nhớ mùi thân thể gây gây. Chốc nữa đây, chỉ một phút giây nữa thôi, khi hắn đạp khẽ đống sách vở, giấy má hỗn độn dưới chân kia, giải lụa sẽ thít lại, cổ hắn sẽ gãy gập xuống. Hắn sẽ trợn trừng mắt, thè lưỡi, thòng tay. Trong một giây hắn sẽ bài tiết xuống mớ tín điều một thời hắn sùng bái. Trong một giây, hắn sẽ phóng tinh xuống mớ lý luận một thời hắn tự mãn. Cũng là lúc em chết thật đàng hoàng. Hắn nghe tiếng cười ma quái mãn lòng của chị. Tiếng cười chị thoắt gần, thoắt biến, tan hút vào tiếng gió bão thét gào ghê rợn qua Literville. Hắn vẫn rỡn ngược từng ngọn tóc, chân lông theo chuỗi cười của chị.
Literville xì xụp than vãn, rền rĩ âu sầu dưới chân ngọn bão. Cả thành phố hấp hối trong màu trắng kinh dị chết chóc. Thêm một cành cây trĩu tuyết đổ ập xuống mái hiên sau, nơi hắn thường ngồi uống rượu, luận đàm với bè bạn trong những chiều đẹp trời. Giây phút này hắn kinh hoảng nhận ra rằng đó chỉ là những buổi ngồi lê đôi mách, bàn thảo vụn vặt và đám bạn văn của hắn cuối cùng chỉ là những kẻ đố kỵ, ti tiện, tiểu tâm. Literville đang trở lại thời đại băng hà.
Bỗng có tiếng chuông điện thoại. Thật là một phép lạ nếu đường giây điện thoại còn trụ vững được trong cơn bão tuyết dị kỳ này. Trong thoáng chốc hắn ý thức được rằng hắn hãy còn một sợi giây mỏng manh liên hệ với đời sống bên ngoài và điều đó làm hắn bùng giận. Hắn nghe giọng nói ồm ồm của chính hắn bảo người bên kia nhắn tin. Sao? Nghĩ được gì mới không? Dạo này không viết được gì à? Tao xem mày đã đi đứt. Tiếng thằng bạn văn, tên bạn mà hắn đã kịp giằng lấy khẩu súng và chôn góc sân sau, nghe như lời nguyền rủa của định mạng. Về, gọi ngay. Tao vừa mở một cánh cửa mới toanh. Này, hãy nghĩ về một nền văn chương liên hành tinh. Có thể gọi đó là nền văn học vũ trụ được chăng? Đi trước thời đại một ngày, xem ra chúng ta không thể. Đó là điều thiên hạ đã biết về chúng ta. Sao không đi trước thiên hạ một ngàn năm? Đấy là điều họ chỉ có thể ngờ vực.
Hắn nghe bừng bừng luồng sinh khí mới. Như nỗi hào hứng khát sống, khi hắn vừa hoàn thành bản luận văn đầu tiên. Niềm hạnh phúc ngọt ngào khi hắn khám phá ra một thế giới gọi là văn học. Lúc đó hắn nghĩ đây là sự đeo đuổi toàn đời của hắn. Lúc đó hắn nghĩ rằng thượng đế đã chia sẻ cho hắn một phần quyền lực sáng tạo và hủy diệt, ban phúc và phán xét sau cùng. Bây giờ thì, tại sao không, một nền văn học vũ trụ? Cả trái đất bây giờ cũng chỉ là một ngôi làng với những anh tiểu nông mới, lý trưởng mới, viết lách thù tạc và mang tính bầy đàn, chiếu trên chiếu dưới. Có khác gì cái Literville mà hắn từng thẳng tay hủy diệt? Toàn cầu hóa chưa phải là mục tiêu cuối cùng. Nhưng hắn sẽ đóng một vị trí nào trong nền văn học vũ trụ đó? Hắn thèm viết trở lại. Hắn sẽ là một chủ tướng mới trên một chiến trường mới lạ. Hắn thèm viết. Chiến địa do hắn chọn lựa. Hắn khát khao cầm bút trở lại. Hắn đã tưởng tượng ra được nhũng kẻ tử thù, tù binh, và chiến lợi phẩm. Hắn bước về phía chiếc điện thoại.
Trong một tích tắc hắn kinh hoàng nhận ra nguy cơ khiếp đảm của sự lú lẫn cuối cùng. Đống sách dưới chân hắn đổ chúi xuống. Giải thắt lưng lụa căng cùng tột. Hắn nảy giật người lên. Hắn cố duỗi hai bàn chân khô đét. Vô ích. Hai ngón chân cái teo tóp của hắn chỉ chạm khẽ được vào mặt bìa vô tri của quyển sách trên cùng.
Nguyên Nhi 2000

Nguồn: https://www.dutule.com/a3661/bao-tuyet-o-literville