Danh ngôn

Trong mọi cộng đồng, chúng ta cần một nhóm thiên thần gây rối.

We need, in every community, a group of angelic troublemakers.

(Bayard Rustin – trích bài phát biểu tại New York City 1963)

Trong mọi trường hợp, chắc chắn rằng sự thiếu hiểu biết, đi kèm với quyền lực, là kẻ thù tàn bạo nhất có thể có của công lý.

It is certain, in any case, that ignorance, allied with power, is the most ferocious enemy justice can have.

(James Baldwin - No Name in the Street 1972)

Các cuộc cách mạng và các cá nhân có thể bị giết hại, nhưng bạn không thể giết chết các ý tưởng.

While revolutionaries and individuals can be murdered, you cannot kill ideas.

(Thomas Sankara, một tuần trước khi bị ám sát, 1987)

Không có cảm giác nào cô đơn hơn việc bị chính đất nước mình trục xuất.

There's not a more lonely feeling than to be banished by my own country.

(Kiyo Sato – Kiyo’s Story 2009)

Ban Biên tập

Địa chỉ liên lạc:

1. Thơ

tho.vanviet.vd@gmail.com

2. Văn

vanviet.van14@gmail.com

3. Nghiên cứu Phê Bình

vanviet.ncpb@gmail.com

4. Vấn đề hôm nay

vanviet.vdhn1@gmail.com

5. Thư bạn đọc

vanviet.tbd14@gmail.com

6. Tư liệu

vanviet.tulieu@gmail.com

7. Văn học Miền Nam 54-75

vanhocmiennam5475@gmail.com

Tra cứu theo tên tác giả

Thứ Bảy, 16 tháng 9, 2017

Từ điển tiếng Việt của GS Nguyễn Lân – Phê bình và khảo cứu (kỳ 6)

Hoàng Tuấn Công


○ “thịt thối hơn muối bùi Ý nói: Ăn cơm có thịt vẫn hơn là không có (Nhưng thịt thối thì rất hại vệ sinh)”.

○ “vảy cá còn hơn lá rau Ý nói: Vật có chất lượng dù ít cũng hơn vật không có chất lượng (Thực ra rau lại rất cần cho sự dinh dưỡng)”.

Không biết phương pháp sáng tác của dân gian, làm sao bình xét được ý nghĩa lời ăn tiếng nói dân gian? Ngày trước, thực phẩm cá thịt rất khan hiếm. Cơm chủ yếu là rau, muối, nên dân gian có những cách nói thậm xưng: Thịt thối hơn muối bùi”, hoặc Cứt cá hơn lá rau [dị bản: Nước cá hơn lá rau, Vảy cá hơn lá rau], nhằm đề cao chất lượng bữa ăn có thịt cá. Nhưng do không hiểu cách nói của dân gian, GS Nguyễn Lân nhầm tưởng dân gian coi món “thịt thối” hơn “muối bùi” thật, nên lo lắng cảnh báo: “thịt thối thì rất hại vệ sinh”(!).

Ở câu thứ hai: Vảy cá còn hơn lá rau”, GS Nguyễn Lân vẫn tiếp tục đứng trên quan điểm về chế độ dinh dưỡng khoa học ngày nay để bẻ lại dân gian: “Thực ra rau lại rất cần cho sự dinh dưỡng”. Nhưng, như chúng tôi đã nói, xưa kia lương thực, thực phẩm thiếu thốn, “ăn rau xanh ruột” là chuyện thường ngày của người nghèo. Thế nên, Nguyễn Công Trứ mới có câu thơ tự trào về cảnh ăn rau trừ bữa của kẻ “hàn Nho”: “Ngày ba bữa vỗ bụng rau bình bịch, Người quân tử ăn chẳng cầu no”. Thử hỏi một khi thực phẩm thịt cá khan hiếm, chỉ triền miên ăn rau, thì lúc này rau có còn “rất cần cho sự dinh dưỡng” nữa hay không?

○ “to như hộ pháp (Hộ pháp là bức tượng rất to đặt ở trước bàn thờ Phật trong chùa) Tả người to lớn khác thường”.

Đúng là trong chùa có tượng Hộ Pháp (hộ vệ phật pháp, bảo vệ phật pháp, Tam Bảo) rất to, nhưng không phải “đặt ở trước bàn thờ Phật”. Viết như GS Nguyễn Lân là không hiểu nơi chùa chiền thế nào. Thực tế, tượng Hộ Pháp thường đặt hai bên gian tiền đường, ở giữa là ban thờ Phật. Cũng có khi tượng Hộ Pháp đặt ở ngay hai bên mái hiên Phật điện, hoặc trước cửa Phật điện. Nhưng chẳng có tượng Hộ Pháp nào lại được “đặt ở trước bàn thờ Phật” (tức đứng quay lưng lại trước mặt bàn thờ Phật) như cách tưởng tượng của GS Nguyễn Lân.

○ “người trần mắt thịt Lời người mê tín cho rằng người thường không linh thiêng như thần thánh”.

Không phải “người thường không linh thiêng như thần thánh”, mà “mắt thịt” của người phàm trần không phải là mắt thần, nên không thể nhìn thấy thần thánh, không hiểu hết ý của thần thánh, dễ phạm sai lầm, tội lỗi với các ngài. Bởi thế, khi khấn khứa, người ta thường nói: chúng con người trần mắt thịt, có điều gì sất sá (tức sai sót, không hiểu hết được ý tứ của thần thánh) cúi xin các ngài đánh hai chữ đại xá là vậy. Tục ngữ Hán: “Mắt thường khó biết - Nhục nhãn nan tri - 肉眼難知 - Kẻ tầm thường thì khó hiểu nổi những điều sâu xa, cao siêu của các bậc thần thánh”; Việt Nam tự điển: “nhục-nhãn Mắt thịt, tức là mắt của người trần không trông thấy sự huyền-bí của tạo-hoá <> Nhục-nhãn vô-tri”; Từ điển Bửu Kế giảng: Mắt tục: Do chữ “tục-nhãn”, mắt của kẻ trần tục. Nghĩa bóng: mắt của kẻ tầm thường, không biết xét đoán người, không trông thấy xa rộng. Tập di ký: Tục nhãn bất thức thần tiên (Mắt tục không biết thần tiên) Đỗ-Phủ thi: Đồ cùng phản tạo tục-nhãn bạch (Đường cùng lại gặp nhãn tục trắng)”, đều gần nghĩa với “Người trần mắt thịt” cả.

○ “tiếc thay hạt gạo tám xoan, thổi nồi đồng điếu lại chan nước cà (Đồng điếu là đồng nguyên chất, màu đỏ)”.

Không đúng. “Đồng điếu” không phải “đồng nguyên chất”. Đồng điếu được xem là một trong những phát minh về hợp kim sớm nhất của nhân loại (khoảng 3000 năm trước Công nguyên). Từ điển bách khoa Britannitca cho biết: “đồng điếu còn gọi đồng đỏ, đồng thanh: Hợp kim theo truyền thống gồm đồng và thiếc (...). Đồng điếu cứng hơn đồng nguyên chất, dễ nóng chảy hơn và dễ đúc. Nó cũng cứng hơn sắt và chịu ăn mòn tốt hơn nhiều. Kim loại đúc chuông (tạo ra âm thanh êm tai khi gõ) là đồng điếu với hàm lượng 20-25% thiếc. Đồng đúc tượng với dưới 10% thiếc và hỗn hợp kẽm và chì, về mặt kỹ thuật là đồng thau...”. Thế nên dân gian mới có câu: Chuông già đồng điếu chuông kêu, Anh già anh nói em xiêu tấm lòng (Ca dao). Cơm nấu đồng điếu hấp thu nhiệt tốt, đủ hơi, chín kỹ mà không bén cháy nên ngon cơm. Kinh nghiệm dân gian, nếu nồi đồng pha nhiều thiếc, khi đun nấu đít nồi sáng loé lên ngọn lửa xanh lè. Còn đồng nguyên chất tuy rất quý, nhưng không ai dùng để đúc nồi nấu cơm như GS Nguyễn Lân lầm tưởng, bởi đồng nguyên chất mềm, dễ méo.

○ “chó già, gà non Ý nói: Thịt chó già không tanh, thịt gà non mới mềm”.

Sai! Câu này không có ý khen hai món ăn đều ngon như cách hiểu của GS Nguyễn Lân. Ngược lại, chó già, gà non đều là hai thứ không ngon. Chỉ cần xem các quán thịt chó trương tấm biển Cầy tơ bảy món cũng đủ hiểu. Cầy tơ chính là thịt con chó tơ. Thịt chó già dai nhách, ăn làm sao ngon được? Còn gà non chỉ phù hợp để nấu cháo. Nếu dùng để ăn thịt (luộc, rang), ít nhất gà cũng phải ở tuổi trưởng thành. Theo kinh nghiệm dân gian, ngon nhất là gà mái tơ trưởng thành, bắt đầu có trứng và nhảy ổ đẻ, tức chưa đẻ, hay đang đẻ. Thịt gà thời kỳ này ngon mềm, trong thịt chứa nhiều chất bổ dưỡng nhất. Bởi thế nên mới có câu Cải ngồng (vồng, vòng) non, gái một con, gà nhảy ổ đẻ. Gà nhảy ổ đẻ là con gà đã trưởng thành, đến kỳ sinh đẻ. Hoặc Gà lấm lưng, chó sưng đồ. Gà lấm lưng là con gà đã chịu trống (chịu để con trống nhảy lên lưng đạp mái), chuẩn bị đẻ; chó sưng đồ là con chó tơ đã ở độ tuổi thuần thục (đồ ở đây là bộ phận sinh dục của nó), sẵn sàng phối giống thì thịt mới ngon.

Câu “Chó già, gà non” là dị bản rút gọn của câu Chó thiến già, gà thiến non hoặc Chó hoạn già, gà hoạn non, nói về kinh nghiệm chăn nuôi, sản xuất chứ không phải lựa chọn món ăn ngon. Cách rút gọn này ngắn gọn đến nỗi chỉ còn tính quy ước. [Giống như câu Khôn chi khôn trẻ, khoẻ chi khoẻ già được rút gọn thành Khôn trẻ, khoẻ già, nếu không tìm hiểu kỹ rất dễ sai lầm].

○ “ăn một bát cháo, chạy ba quãng đồng Ý nói: Phải đi xa ăn cơm, ăn tiệc thì ngại lắm”.

Thoạt nghe cũng được. Nhưng thực chất, GS Nguyễn Lân chưa giải thích, mà mới nói nôm na về cách dùng với nghĩa hẹp. Hơn nữa, dân gian nói ăn “cháo”, soạn giả lại giải nghĩa thành “ăn cơm, ăn tiệc”, khiến bản chất vấn đề thay đổi. Nếu được “ăn cơm, ăn tiệc thì cũng bõ công, có gì đáng phàn nàn? Ở đây, là ăn “cháo” kia mà? Lại chỉ có “một bát cháo”! Cháo là đồ ăn nhanh đói, ngày xưa xem là món ăn tầm thường (bát cháo cầm hơi) của nhà thiếu gạo, đói ăn. Cháo lá đa là thứ bố thí cho “ma đói, ma khát” không người thờ cúng. Người ta chửi kẻ lười biếng: Làm như vậy thì cháo cũng không có mà ăn. Ngay như câu Ăn cháo đái bát, thì cháo ở đây cũng được hiểu là bát cháo bố thí, cứu giúp kẻ đói lòng. Nay phải vượt “ba quãng đồng” (ý nói lặn lội hiểu theo cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng) để ăn một bát cháo, bụng chẳng no thêm mà còn đói mệt hơn. Thế nên dân gian rất hữu ý khi dùng phép so sánh: một với ba; bát cháo với quãng đồng; ăn với chạy (hoặc “lội”). [dị bản Ăn một bát cháo lội ba quãng đồng]. Câu tục ngữ GS Nguyễn Lân giải thích, dân gian hiểu theo nghĩa rộng hơn nên có nhiều cách nói khi vận dụng vào thực tế: Phải bỏ nhiều công sức chỉ để hưởng điều quá tầm thường, không xứng đáng.

○ “đầu đàn quan mốt, rốt đàn quan hai Ý nói: Trong một đàn súc vật thì những con đi sau cùng bán đắt hơn, vì nặng cân hơn”.

Tại sao “con đi sau cùng” lại “nặng cân hơn” con đi trước? Phải chăng vì nó “nặng cân” nên đi chậm lại sau cùng? Nhưng có ai cho súc vật xếp thành hàng lối rồi bán tuần tự từ con đi đầu đến “con đi sau cùng” như cách hiểu của GS không? Về nghĩa đen: “Đầu đàn” không phải là con đi đầu tiên trong đàn, mà là con vật đẹp nhất trong đàn, cũng là con được người mua lựa chọn trước, nên bán trước; “rốt đàn” (hay gọi là con chẹt) không phải là “con đi sau cùng” mà là con nhỏ nhất, xấu nhất trong đàn còn lại, bán sau cùng. Do bán chạy, nên càng về sau người bán càng nâng giá, ép giá, thành thử con to bán rẻ, con nhỏ bán đắt. Nghĩa bóng: Giá cả lộn xộn, càng về sau càng bị ép giá, do hàng ít, khan hiếm.

Nhìn chung, những sai sót na ná như trên xuất hiện rất nhiều trongTừ điển thành ngữ và tục ngữ Việt Nam của GS Nguyễn Lân. Bạn đọc còn thấy nó được copy lại để sử dụng vào sáchTừ điển từ và ngữ Việt Nam xuất bản sau đó hơn 10 năm, tiếp tục nối dài hành trình dĩ hư truyền hư”.