Danh ngôn

Trong mọi cộng đồng, chúng ta cần một nhóm thiên thần gây rối.

We need, in every community, a group of angelic troublemakers.

(Bayard Rustin – trích bài phát biểu tại New York City 1963)

Trong mọi trường hợp, chắc chắn rằng sự thiếu hiểu biết, đi kèm với quyền lực, là kẻ thù tàn bạo nhất có thể có của công lý.

It is certain, in any case, that ignorance, allied with power, is the most ferocious enemy justice can have.

(James Baldwin - No Name in the Street 1972)

Các cuộc cách mạng và các cá nhân có thể bị giết hại, nhưng bạn không thể giết chết các ý tưởng.

While revolutionaries and individuals can be murdered, you cannot kill ideas.

(Thomas Sankara, một tuần trước khi bị ám sát, 1987)

Không có cảm giác nào cô đơn hơn việc bị chính đất nước mình trục xuất.

There's not a more lonely feeling than to be banished by my own country.

(Kiyo Sato – Kiyo’s Story 2009)

Ban Biên tập

Địa chỉ liên lạc:

1. Thơ

tho.vanviet.vd@gmail.com

2. Văn

vanviet.van14@gmail.com

3. Nghiên cứu Phê Bình

vanviet.ncpb@gmail.com

4. Vấn đề hôm nay

vanviet.vdhn1@gmail.com

5. Thư bạn đọc

vanviet.tbd14@gmail.com

6. Tư liệu

vanviet.tulieu@gmail.com

7. Văn học Miền Nam 54-75

vanhocmiennam5475@gmail.com

Tra cứu theo tên tác giả

Thứ Tư, 10 tháng 12, 2014

TOMAS GOSTA TRANSTROMER

Giải Nobel Văn Chương 2011

Cao Thu Cúc dịch và giới thiệu. 

 

clip_image002[4]

 Tomas Gosta Transtromer sinh ngày 15-4-1931 là một nhà văn nhà thơ và là dịch giả người Thuỵ Điển. Thơ của ông đã được dịch ra hơn 60 thứ tiếng. Transtromer được công nhận là một trong những nhà văn Bắc Âu quan trọng nhất kể từ sau Thế Chiến II. Giới phê bình văn học ca ngợi thơ ông “... đã ghi lại cảnh sắc những mùa đông dài của Thuỵ Điển, sự chuyển đổi bốn mùa và vẻ đẹp của thiên nhiên... cũng như sự bí ẩn và kỳ diệu ẩn dưới vẻ đơn điệu của cuộc sống thường nhật.”

 

Ông tốt nghiệp ngành tâm lý học tại trường Đại Học Stokholm, ngoài ra, ông còn học thêm lịch sử, tôn giáo và văn chương. Ông làm thơ rất sớm, từ hồi còn học trung học, năm 1954 ông  xuất bản tập thơ đầu tiên gồm 17 bài.

Năm 1960- 1966, ông là một nhà tâm lý học đáng kính, ông thường làm việc tại  trung tâm thiếu niên phạm pháp, những người phạm tội tàng tật, và những người nghiện ma tuý. Trong thời gian đó, ông vẫn tiếp tục làm thơ.

Năm 1990 ông bị đột quỵ, bị liệt nửa người và không nói được. Tuy nhiên ông vẫn tiếp tục viết và xuất bản thơ . Năm 2004 ông xuất bản tập The great Enigma.

Ngoài việc viết văn, làm thơ. ông còn chơi dương cầm và ông vẫn tiếp tục đàn sau khi bị đột quỵ mặc dầu chỉ với một tay trái, dù vậy, ông vẫn đi trình diễn độc tấu dương cầm khắp Châu Âu.

 

Ông đã nhận được nhiều giải thưởng quốc tế như :

1966 Giải Bellmanpriset ( Thuỵ Điển)

1990 Giải Quốc Tế Neustadt dành cho Văn Học ( Mỹ)

1992 Giải Horst Bienek dành cho Thơ ca ( Đức )

2007 Giải Thành Tựu Trọn Đời dành cho Thơ Ca của Griffin Trust ( Canada)…

2011 Giải thưởng cao quý nhất: Giải Nobel về Văn Học.

 

Uỷ Ban Giải Nobel nhận định: Transtromer nhận được giải thưởng vì”… qua những

hình ảnh cô đọng và trong mờ, tác giả đem đến cho chúng ta một cách tiếp cận mới mẻ

về hiện thực “.

Thư ký Thường Trực của viện hàn Lâm Thuỵ Sĩ Peter Englund nói: “…Ông viết về

những vấn đề lớn… về cái chết, về lịch sử, về ký ức, về thiên nhiên… bạn sẽ không cảm

thấy mình bé nhỏ sau khi đọc thơ của Tomas Transtromer.”

Transtromer còn đi đọc thơ tại nhiều trường đại học ở Mỹ, ông thường đi với nhà thơ vừa

 là bạn lâu năm của ông là Robert Bly.

Ông đã xuất bản 15 tác phẩm, những tác phẩm chính của ông là: The Half- Finished

Heaven( 1962) ,Windows and Stones(1966),The Wild Market Square ( 1983) The Sorrow

 Gondola ( 1996), The Great Enigma ( 2004)

Tất cả sự nghiệp của ông chỉ vỏn vẹn hơn 250 trang giấy nhưng kèm theo đó, ông đã để

lại một tấm lòng nhân bản, một sự cống hiến và một sức sống mạnh mẽ làm cho chúng ta

 phải khâm phục.

 

Sau đây xin giới thiệu một số bài thơ của Tomas Transtromer.

                                                           

 

MỘT TRANG TỪ QUYỂN SÁCH ĐÊM

 

Vào một đêm tháng năm tôi thả bước trên bờ biển

dưới ánh trăng mát mẻ

nơi đó cỏ và bông hoa đều màu xám

nhưng thoảng hương thơm màu xanh lá cây.

 

Tôi đi thơ thẩn trên sườn đồi

vào một đêm không màu

trong khi những phiến đá màu trắng

ra dấu hiệu cho mặt trăng.

 

Trong một khoảng thời gian

chỉ dài vài phút

và rộng năm mươi tám năm.

 

Và phía sau tôi

bên trên mặt nước lấp lánh màu chì

trải dài một bờ bến khác

và những kẻ thống trị ở đó.

 

Những con người có một tương lai

thay vì có những khuôn mặt.

 

 

THÁNG TƯ VÀ IM LẶNG

 

Mùa xuân trải dài hoang vắng

Một cái hào màu thẫm như nhung

trườn bên cạnh tôi không có hình phản chiếu.

Tất cả những gì chiếu sáng

là những đoá hoa màu vàng.

Tôi được mang đi trong chiếc bóng của tôi

như chiếc vĩ cầm trong chiếc hộp đen của nó.

Điều duy nhất tôi muốn nói

sáng loáng bên ngoài tầm tay

giống như đồ bạc

trong tiệm cầm đồ cắt cổ.

 

 

CẢNH QUANG VỚI NHỮNG MẶT TRỜI

 

Mặt trời nhô lên từ phía sau ngôi nhà

đứng im ở giữa con lộ

và thở trên chúng ta

với ngọn gió đỏ của nó.

*Innbruck ta phải rời xa ngươi .

Nhưng ngày mai

sẽ có một mặt trời rực rỡ

trong khu rừng xám đang lụi tàn

nơi chúng ta phải làm việc và sống.                                       

 

*(Innbruck: Thủ phủ của bang Tyrol miền Tây nước Áo - ND)

 

 

GIỮA MÙA ĐÔNG

 

Ánh sáng màu xanh lơ

phát sáng từ y phục của tôi.

Giữa mùa đông.

Những mặt trống bằng băng kêu lanh canh.

Tôi nhắm mắt lại.

Có một thế giới yên tĩnh

có một khe hở

ở đó những người chết

đang được lén lút đưa qua biên giới.

 

  • Bốn bài thơ trên đây của Tomas Transtromer, trích trong tập The Sorrow Gondola (Chiếc Thuyền Sầu Muộn), bản dịch tiếng Anh của Michael McGriff và Mikaela Grassl.

 

 

SAU MỘT CÁI CHẾT  - 

                                               

Có một lần, có một va chạm mạnh

đã để lại sau đó một vệt đuôi sao chổi lấp lánh và dài.

Nó giam giữ chúng ta ở bên trong. Nó làm cho những hình ảnh của đài truyền hình như có tuyết phủ.

Nó đọng lại thành những giọt lạnh lẽo trên những đường dây điện thoại.

 

Người ta vẫn có thể đi trượt tuyết chầm chậm dưới ánh nắng mùa đông

xuyên qua những bụi rậm nơi đó vài chiếc lá ít ỏi còn treo lơ lửng.

Chúng giống như những trang giấy được xé ra từ quyển hướng dẫn điện thoại đã cũ.

Tên tuổi đã bị nuốt trửng bởi giá lạnh.

 

Vẫn còn đẹp khi cảm thấy nhịp đập của trái tim

Nhưng thường khi cái bóng dường như còn thật hơn cả thể xác.

Người võ sĩ Samurai trông thật vô nghĩa

bên cạnh chiếc áo giáp với những vảy rồng màu đen.

 

(Bài thơ trên trích trong tập 20 Bài Thơ của Tomas Transtromer, bản dịch tiếng Anh của Robert Bly, Seventies Press 1970)

 

 

SỰ MẤT AN NINH QUỐC GIA

 

Vị thứ trưởng nghiêng người về phía trước và đánh dấu một chữ x

và đôi hoa tai của bà đong đưa như những lưởi kiếm của Damocles*.

 

Như một con bướm sặc sỡ là không nhìn thấy được trên mặt đất

thì con quỹ cũng hoà nhập vào trong trang báo đang mở.

 

Một chiếc mũ bảo hộ không được ai đội đã lên nắm quyền lực.

Con rùa mẹ đã chạy trốn bằng cách bay đi dưới làn nước.

 

*Lưỡi kiếm của Damocles:  Theo huyền thoại Hy Lạp, một nịnh thần của bạo chúa Dionysius II ở Syracuse (nước Ý) sống vào thế kỷ IV BC là Damocles thường xuyên tán tụng cuộc sống giàu sang và xa hoa của Dionysius. Một ngày kia, Dionysius để cho Damocles ngồi vào vị trí của mình và được hưởng mọi thứ. Damocles rất sung sướng…cho đến một hôm ông ta nhìn thấy một thanh kiếm bén đang treo lơ lửng trên đầu ông chỉ với một sợi lông ngựa. Vô cùng sợ hãi, Damocles vội từ bỏ tất cả và xin được trở về cuộc sống nghèo nhưng an toàn của ông ta trước kia.

Từ đó “ Lưỡi kiếm của Damocles” thường được dùng để chỉ sự nguy hiểm thường trực mà những kẻ nắm quyền lực phải đối đầu. (Chú thích của người dịch)

 

Bài thơ được trích trong tập New and collected Poems của Tomas Transtromer, bản dich tiếng Anh của Robin Fulton, xb năm 1997, nxb Bloodaxe Books.