Danh ngôn

Trong mọi cộng đồng, chúng ta cần một nhóm thiên thần gây rối.

We need, in every community, a group of angelic troublemakers.

(Bayard Rustin – trích bài phát biểu tại New York City 1963)

Trong mọi trường hợp, chắc chắn rằng sự thiếu hiểu biết, đi kèm với quyền lực, là kẻ thù tàn bạo nhất có thể có của công lý.

It is certain, in any case, that ignorance, allied with power, is the most ferocious enemy justice can have.

(James Baldwin - No Name in the Street 1972)

Các cuộc cách mạng và các cá nhân có thể bị giết hại, nhưng bạn không thể giết chết các ý tưởng.

While revolutionaries and individuals can be murdered, you cannot kill ideas.

(Thomas Sankara, một tuần trước khi bị ám sát, 1987)

Không có cảm giác nào cô đơn hơn việc bị chính đất nước mình trục xuất.

There's not a more lonely feeling than to be banished by my own country.

(Kiyo Sato – Kiyo’s Story 2009)

Ban Biên tập

Địa chỉ liên lạc:

1. Thơ

tho.vanviet.vd@gmail.com

2. Văn

vanviet.van14@gmail.com

3. Nghiên cứu Phê Bình

vanviet.ncpb@gmail.com

4. Vấn đề hôm nay

vanviet.vdhn1@gmail.com

5. Thư bạn đọc

vanviet.tbd14@gmail.com

6. Tư liệu

vanviet.tulieu@gmail.com

7. Văn học Miền Nam 54-75

vanhocmiennam5475@gmail.com

Tra cứu theo tên tác giả

Thứ Ba, 1 tháng 3, 2022

Hiện đại hóa, sự Thay đổi Văn hóa, và Dân chủ: Trình tự Phát triển Con Người (kỳ 13)

Donald InglehartChristian Welzel

Nguyễn Quang A dịch

NXB Dân Khí – 2022

Nguyên bản: Modernization, Cultural Change, and Democracy: The Human Development Sequence. Cambridge University Press, 2005.

undefined

9. Các Lực Xã hội, Hành động Tập thể, và các Sự kiện Quốc tế

Chúng ta vừa thấy bằng chứng mạnh rằng các giá trị tự-thể hiện quần chúng thúc đẩy sự nổi lên và tính hiệu quả của dân chủ. Nhưng các sự thay đổi văn hóa bản thân chúng không phải là toàn bộ câu chuyện. Thí dụ, ta có thể cho một cách hợp lý rằng làn Sóng dân chủ hóa thứ Ba chẳng bao giờ xảy ra, nếu Mikhail Gorbachev đã không từ bỏ học thuyết Brezhnev, và trừ phi Hoa Kỳ đã ủng hộ dân chủ hóa trong các nước như Philippines và Hàn Quốc. Vì dân chủ hóa không được gây ra bởi các xu hướng quần chúng vô nhân xưng, như các giá trị tự-thể hiện, mà bởi các hành động tập thể trong đó các diễn viên cụ thể, kể cả các elite và các phản-elite, đóng các vai trò then chốt.

Sẽ là phi lý để cho rằng các sự thay đổi văn hóa tự động tạo ra các thay đổi thể chế như dân chủ hóa, nhưng chúng có vẻ là một nhân tố đóng góp quan trọng. Câu hỏi là, các giá trị tự-thể hiện tăng lên tương tác Thế nào với các sự kiện mức-elite, như quyết định của Gorbachev không can thiệp quân sự vào Đông Âu để yểm trợ cho các chế độ cộng sản lung lay, trong việc gây ra và củng cố các nền dân chủ? Để trả lời câu hỏi này, chúng ta phải giải quyết ba kiểu nhân tố nhân quả (xem Tilly, 1984).

Thứ nhất, hoàn cảnh quốc tế thay đổi, được minh họa bằng thí dụ bởi các sự kiện như sự đồng thuận Washington hay sự chấm dứt của học thuyết Brezhnev, đóng các vai trò then chốt trong việc khởi động các làn sóng quốc tế về dân chủ hóa (Pridham, 1991; L. Diamond, 1993a; W. I. Robinson, 1996; Markoff, 1996; Whitehead, 1996). Tác động của các sự kiện quốc tế này là hiển nhiên đối với bất kể ai quan tâm đến các vấn đề dân chủ hóa, nhưng chúng chỉ là phần của câu chuyện. Vì cần các điều kiện xã hội phù hợp cho dân chủ để bén rễ trong bất kể nước cho trước nào. Hoa Kỳ đã cung cấp sự hỗ trợ cho các phong trào ủng hộ dân chủ ở Philippines và Hàn Quốc và cũng cho các phong trào ở cả Iran và Pakistan nữa. Nhưng một lượng hỗ trợ cho trước đã thành công trong một số nước hơn ở những nước khác rất nhiều, vì các lý do phản ánh các điều kiện bên trong. Tương tự, Liên Xô từ bỏ sự ủng hộ quân sự cho các chế độ cộng sản ở Trung Đông Âu trong cuối các năm 1980 đã mở ra một cơ hội làm cho dân chủ hóa là có thể. Nhưng cơ hội này đã gây ra các kết cục rất khác nhau trong các xã hội khác nhau. Sự chấm dứt của học thuyết Brezhnev áp dụng đều nhau cho Ba Lan và Romania, nhưng các điều kiện bên trong khác nhau đã dẫn tới các kết cục khác nhau: Ba Lan đã di chuyển nhanh chóng tới dân chủ được củng cố hoàn toàn và hiệu quả vừa phải, trong khi Romania vẫn phải vật lộn hướng tới một thành tựu như vậy.

Các điều kiện nội bộ của một nước có thể phát triển đến một điểm nơi xã hội là chín muồi cho dân chủ hóa, nhưng các elite độc đoán có thể cản trở quá trình này, đặc biệt nếu họ được các cường quốc bên ngoài hỗ trợ. Một khi sự ủng hộ bên ngoài này phai mờ, các elite độc đoán sẽ bị phơi ra cho các lực dân chủ hóa bên trong các xã hội của họ – nếu các lực như vậy đã nổi lên. Các sự kiện quốc tế có thể hoặc ngăn cản hay huy động các lực dân chủ hóa bên trong một xã hội. Tuy vậy, chúng chỉ có thể huy động các lực dân chủ hóa tồn tại rồi; chúng không thể tạo ra chúng. Nếu các lực này không có hay vẫn chưa đủ mạnh (như có vẻ thế ở Trung Quốc, Việt Nam, Saudi Arabia, và các xã hội độc đoán khác đang tìm cách để sống sót trong môi trường quốc tế ngày càng chống-độc đoán), các điều kiện quốc tế thuận lợi sẽ không có tác động nào.

Bất chấp cái gì xảy ra trên sân khấu quốc tế, dân chủ hóa xảy ra qua hành động tập thể, như các cuộc biểu tình quần chúng, các cuộc vận động giải phóng, và các quá trình mặc cả ở mức elite, nơi các nhà cầm quyền và các đối thủ chế độ thương lượng các chi tiết của một quá trình chuyển đổi (giữa các tác phẩm khác, xem O’Donnell and Schmitter, 1986; Karl and Schmitter, 1991; Higley and Gunther, 1992; Bernhard, 1993; Casper and Taylor, 1996; Foweraker and Landman, 1997). Nhưng các mô tả về các trình tự hành động tập thể có sức mạnh giải thích hạn chế, cho dù chúng được xây dựng lại thành các phân loại học tổng quát hơn. Vì các hành động tập thể là phần không thể tách rời của bản thân các quá trình chuyển đổi. Chúng mô tả các cuộc chuyển đổi diễn tiến như thế nào, nhưng chúng không giải thích vì sao chúng xảy ra.

Dân chủ hóa luôn luôn xảy ra qua các hành động tập thể, dù quá trình được định hình bởi sự huy động quần chúng hay bởi sự mặc cả elite. Những người đưa ra các quyết định quan trọng được định nghĩa như các elite, như thế theo định nghĩa các hành động elite luôn luôn là nhân tố gần nhất trong việc mang lại dân chủ – nhưng điều này không có nghĩa rằng các elite hoạt động trong chân không. Hoàn toàn ngược lại, các hành động của họ thường bị điều kiện hóa bởi các lực xã hội có gốc rễ sâu hơn như các lực được các giá trị tự-thể hiện quần chúng đề cập đến: các lực này định hình các hành động tập thể, hướng chúng vào các hành lang tạo ra một số kết cục – như dân chủ hiệu quả – có nhiều khả năng hơn các hành động khác. Chúng tôi xem các lực xã hội như các xu hướng quần chúng thúc đẩy các hành động tập thể, hướng dẫn chúng tới các kết cục cá biệt, như các cấu hình thể chế khác nhau trong đó dân chủ hiệu quả có thể được thực hiện. Các hành động tập thể dẫn các sự chuyển đổi. Nhưng các lực xã hội hướng các hành động tập thể theo một hướng cụ thể.

Quan niệm này về các lực xã hội là nhất quán với cái được bày tỏ trong các lý thuyết về các phong trào xã hội và sự huy động quần chúng. Lý thuyết huy động các nguồn lực của Tilly (1978) cho rằng cần các nguồn lực để huy động các lực xã hội. Và hiện đại hóa cung cấp cho mọi người các nguồn lực kinh tế, nhận thức, và xã hội cần để tạo thành các lực xã hội. Nhưng một mình các nguồn lực không xác định hướng theo đó các lực xã hội sẽ di chuyển và các mục đích chúng sẽ theo đuổi. Các xu hướng thái độ quần chúng cũng đóng một vai trò cốt yếu, làm cho mọi người thích một số mục tiêu hơn các mục tiêu khác. McAdam (1986), chẳng hạn, đã chứng minh rằng sự huy động trong Mùa Hè Tự do Mississippi trong 1964 không chỉ gồm sự huy động nguồn lực mà đã phụ thuộc vào sự huy động thúc đẩy cái ông gọi là “các sự đồng cảm thái độ (attitudinal affinities).” Các nhà hoạt động phong trào giúp định khung các mục tiêu mà huy động mọi người (Benford and Snow, 1988). Nhưng các mục tiêu chính trị nào có khả năng nhất để thu hút nhân dân lại phụ thuộc vào các sự đồng cảm thái độ của McAdam, mà làm cho nhân dân dễ tiếp thu một số mục tiêu hơn các mục tiêu khác. Như thế, những người nhấn mạnh các giá trị tự-thể hiện sẽ dễ tiếp thu các biểu hiện của các quyền dân sự hơn các biểu hiện của nhà lãnh đạo mạnh, còn những người với các giá trị sinh tồn chắc có khả năng hơn để phản ứng theo cách ngược lại.

Các giá trị tự-thể hiện là các xu hướng thái độ quần chúng nhấn mạnh đến các quyền tự do dân sự và chính trị và đến dân chủ hiệu quả đích thực. Bản thân các giá trị này không lắp đặt các định chế dân chủ hay làm cho chúng có hiệu quả. Nhưng chúng chuyển các hành động tập thể vào các hướng làm cho các kết cục dân chủ ngày càng có khả năng hơn. Tác động mạnh của các giá trị tự-thể hiện lên dân chủ hiệu quả tồn tại bởi vì các giá trị này giúp gây ra các hành động tập thể tạo ra và duy trì dân chủ. Kết luận này là không thể tránh khỏi bởi vì dân chủ luôn luôn được tạo ra và được duy trì bởi các hành động tập thể. Nếu các giá trị tự-thể hiện không giúp gây ra các hành động tập thể mà cuối cùng thiết lập và làm sâu sắc dân chủ, thì các giá trị này không thể có tác động đáng kể nào lên sự nổi lên và tính hiệu quả của dân chủ.

Bất cứ cuộc chuyển đổi dân chủ nào đều phản ánh sự tương tác của ba loại nhân tố nhân quả: các sự kiện quốc tế kích thích các lực xã hội cho trước bên trong các xã hội; các lực xã hội hướng các hành động tập thể theo hướng các kết cục chính trị nào đó; và các hành động tập thể thực hiện các quá trình tạo ra các kết cục này. Như thế, có một sự tương tác của các nhân tố kích thích (các sự kiện quốc tế), các nhân tố hướng (các lực xã hội), và các nhân tố thực hiện (các hành động tập thể). Trong tương tác này, các lực xã hội tạo thành nhân tố cơ bản nhất. Chúng cung cấp nguyên ngân gốc rễ của các quá trình như dân chủ hóa, còn các hành động tập thể cung cấp nguyên nhân gần nhất. Để đạt một sự hiểu sâu về dân chủ hóa, chúng ta không được chỉ ngó tới các nguyên nhân gần nhất; chúng ta cũng phải xem xét nguyên nhân gốc rễ của nó: các lực xã hội. Các lực này được phản ánh trong các xu hướng thái độ quần chúng, như các giá trị tự-thể hiện.

Nhịp độ Thay đổi

Như Chương 8 đã chứng minh, các mức của dân chủ và các giá trị tự-thể hiện cho thấy các mức độ tương phản sắc nét về sự ổn định. Các giá trị tự-thể hiện có khuynh hướng tích tụ chậm, cho thấy chỉ những thay đổi nhỏ bên trong các khoảng cách thời gian ngắn. Vì thế, các giá trị tự-thể hiện tại một điểm thời gian cung cấp một sự tiên đoán khá chính xác về các giá trị tự-thể hiện tại một điểm thời gian muộn hơn một chút. Ngược lại, các mức dân chủ thay đổi mạnh mẽ trong nhiều xã hội trong làn Sóng thứ Ba: sự tự tương quan của dân chủ theo thời gian là yếu hơn đáng kể, mà có nghĩa rằng chúng ta phải quay sang các nhân tố khác (như các giá trị tự-thể hiện) để giải thích các sự dịch chuyển tới dân chủ. Các sự khác biệt này về sự ổn định theo thời gian ngụ ý các logic khác nhau của sự thay đổi, mà phải được tính đến trong việc diễn giải các mối quan hệ nhân quả.

Hình mẫu về các sự thay đổi chế độ đột ngột biểu thị trong làn Sóng thứ Ba tương phản với sức ỳ của sự thay đổi kinh tế xã hội và văn hóa, cả hai đều có khuynh hướng chuyển động liên tục nhưng chậm. Các chế độ chính trị có thể thay đổi từ chế độ chuyên quyền sang dân chủ một sớm một chiều, nhưng các xã hội cần hàng thập niên để chuyển từ nghèo sang thịnh vượng, hay từ một văn hóa nhấn mạnh các giá trị sinh tồn sang một văn hóa nhấn mạnh các giá trị tự-thể hiện.

Các biến thay đổi từ từ, như sự phát triển kinh tế xã hội, cho thấy một quán tính rất lớn. Những sự tăng thêm hay tổn thất trong bất cứ năm nào là nhỏ so với các lượng đã được tích tụ đến thời điểm đó. Sự tăng lên hàng năm về GDP của một xã hội là một tỷ lệ phần trăm nhỏ của GDP của xã hội đó. Các biến thay đổi từ từ như các biến này cho thấy sự thay đổi đáng kể chỉ trong dài hạn. Chúng tôi nhắc đến các biến như vậy như “các biến tích lũy.” Ngược lại, các biến thay đổi đột ngột, như dân chủ hóa và các sự thay đổi thể chế khác, cho thấy các thời kỳ dài không đổi nhưng có thể đi những bước đầy kịch tính làm thay đổi hoàn toàn tình hình, mang lại các sự đột phá lịch sử. Chúng tôi nhắc đến các biến này như “các biến gãy (break variable).” Sự khác biệt trong động học thay đổi giữa các biến tích lũy và các biến gãy tác động đến sự diễn giải về mối quan hệ nhân quả của chúng theo hai cách.

Thứ nhất, mối quan hệ nhân quả giữa một biến tích lũy và một biến gãy là không liên tục: nó bộc lộ chỉ tại thời khắc khi biến gãy đột ngột làm một bước nhảy lớn. Ngoại trừ các sự nhảy này, người ta hiếm khi thấy bất kể thay đổi nào trong một biến gãy. Để phân tích các thay đổi như vậy, ta phải tập trung sự phân tích vào thời gian cá biệt trong đó biến gãy đột ngột có thay đổi to lớn. Việc này làm cho các kỹ thuật chuỗi thời gian không thích hợp bởi vì chúng xử trí mỗi đoạn thời gian ngang nhau, trộn các bước nhảy trong biến gãy xuất hiện tại một điểm thời gian với các giai đoạn kéo dài không đổi trong đó chẳng gì xảy ra cả. Đặc trưng theo hồi của các sự thay đổi trong một biến gãy phải được xử lý bằng việc tập trung vào các giai đoạn thay đổi cụ thể, thay cho việc lấy trung bình chúng ngang nhiều năm trong đó một biến gãy ở các mức không thay đổi. Các phân tích của chúng tôi trong Chương 8 phản ánh chiến lược này. Thay cho việc phân tích dân chủ trên một cơ sở hàng năm, chúng tôi đã tập trung vào làn sóng lớn của các sự thay đổi tách biệt sắc nét thời kỳ trước 1987 khỏi thời kỳ tiếp sau 1996.

Thứ hai, các bước nhảy đột ngột mà một biến gãy cho thấy trong một thời kỳ cụ thể không phản ánh các sự nhảy tương ứng trong một biến tích lũy, vì các biến tích lũy không nhảy. Dù nền kinh tế của một nước gần đây đã tăng 1 hay 3 phần trăm sẽ không quyết định liệu đất nước có đột ngột nhảy vào dân chủ. Nhưng liệu thu nhập trung bình trên đầu người của một nước đã tích lũy đến 500$ hay đến 10.000$ trước sự nhảy có thể đóng một vai trò quyết định về liệu nước đó dịch chuyển đến dân chủ hay không. Như các phân tích gần đây cho thấy (Boix and Stokes, 2003), hầu như không nước thu nhập thấp nào đã dịch chuyển sang dân chủ trong làn Sóng thứ Ba cả – nhưng một số lớn các nước thu nhập trung bình đã chuyển sang: Chile đã có khả năng nhảy sang dân chủ hơn Benin rất nhiều. Các biến tích lũy, như sự phát triển kinh tế xã hội và sự thay đổi văn hóa, có sức ỳ, không nhất thiết cho thấy bất kể sự thay đổi nào trong thời kỳ ngắn trong đó một biến gãy thay đổi mạnh mẽ.

Do hình mẫu thay đổi từ từ nhưng liên tục của chúng, các biến tích lũy cho thấy sự biến thiên lớn về các mức đã được tích lũy cho đến bất kể điểm thời gian cho trước nào. Các sự khác biệt về các tỷ lệ tăng trưởng hiện hành là tương đối nhỏ so với các sự khác biệt về các mức thu nhập trên đầu người, nơi quốc gia giàu nhất trong mẫu của chúng tôi giàu hơn quốc gia nghèo nhất 200 lần.

Vài thí dụ về các biến tích lũy versus các biến gãy được thảo luận trong Chương 1, nơi chúng ta đã thấy rằng các sự thay đổi văn hóa giữa thế hệ xảy ra trong nhiều thập niên đột nhiên lên đỉnh điểm trong một đột phá thể chế, như sự hợp pháp hóa ly dị ở Tây Ban Nha, Italy, và Ireland, hay sự hợp pháp hóa hôn nhân đồng giới ở Hà Lan, Đức, và Canada. Trong các trường hợp như vậy, bất kể cố gắng nào để giải thích sự đột phá thể chế về mặt các thay đổi thái độ gần đây sẽ là vô nghĩa. Các sự thay đổi thái độ gần đây liên quan đến sự đồng tính dục đã thực sự lớn ở Nigeria hơn ở Hà Lan; nhưng ở Nigeria chỉ 8 phần trăm công chúng có thái độ khoan dung với đồng tính dục, còn ở Hà Lan là 78 phần trăm công chúng – cho nên Hà Lan đã là nơi sự đột phá thể chế xảy ra. Một phân tích về các thay đổi thái độ gần đây sẽ không chỉ cho thấy các tác động yếu, nó thưởng chỉ ra hướng sai.

Các sự thay đổi ngắn hạn trong các biến tích lũy, như các giá trị tự-thể hiện, là khiêm tốn và sẽ không có một tác động quan trọng lên các sự thay đổi mạnh mẽ trong các biến gãy. Khi các sự thay đổi chế độ mang tính quyết định xảy ra, các thăng giáng nhỏ gần đây trong các giá trị tự-thể hiện của mọi người là không thích hợp. Cái quan trọng là liệu các giá trị tự-thể hiện đã đạt một mức mà tại đó chúng là tương đối phổ biến, bởi vì chính mức độ mà một công chúng nhấn mạnh các giá trị tự-thể hiện là cái xác định cường độ cầu của công chúng cho tự do. Điều này cũng được phản ánh trong các phân tích của chúng tôi: chúng tôi giải thích sự thay đổi về mức dân chủ bằng mức của các giá trị tự-thể hiện, không phải bằng các thay đổi về mức của các giá trị tự-thể hiện.

Tóm lại, sự phân tích về các thay đổi tới các mức cao hơn hay thấp hơn của dân chủ phải nhận ra 3 điểm chính. Thứ nhất, các sự thay đổi chế độ là các sự kiện độc nhất, thiết lập các sự đột phá lịch sử lớn. Chúng không nổi lên từ từ trong nhiều năm mà nổi lên bên trong các giai đoạn được tập trung sắc nét, đôi khi xảy ra chỉ một lần trong lịch sử của một nước. Vì thế, bất cứ phân tích quy mô lớn nào về các sự thay đổi chế độ phải tập trung vào các giai đoạn khi các làn sóng lớn của các sự thay đổi chế độ xảy ra. Thứ hai, nếu ta muốn giải thích tác động của một biến tích lũy, như các giá trị tự-thể hiện, lên các sự thay đổi chế độ, các thăng giáng gần đây trong các biến tích lũy là không thích hợp; cái quan trọng là các mức của các biến tích lũy. Các thay đổi ngắn hạn trong các biến tích lũy nói chung là không đáng kể, so với các mức đã được tích lũy tại một điểm thời gian cho trước. Thứ ba, ta phải nhận ra rằng tác động của một biến tích lũy lên các sự thay đổi chế độ thường là có điều kiện, tương tác với các điều kiện bên ngoài mà kích hoạt tác động của chúng. Vì các lý do này, kiểu tiêu chuẩn của phân tích chuỗi thời gian là không thích hợp cho việc phân tích các sự thay đổi chế độ, mà là vì sao chúng tôi đã sử dụng một cách tiếp cận khác trong các phân tích nhân quả ở chương này và chương trước.

Các nhân tố Kích thích bên Ngoài

Một mình các biến tích lũy không giải thích các sự nhảy đột ngột trong một biến gãy; chúng tương tác với các sự kiện bên ngoài liên quan. Với dân chủ hóa ở Đông Âu, sự kiện bên ngoài liên quan là sự hủy bỏ học thuyết Brezhnev. Chừng nào các chế độ cộng sản được hậu thuẫn bởi Hồng Quân,[1] không sự thay đổi chế độ nào đã có thể – không quan trọng mọi người đặt bao nhiêu sự nhấn mạnh lên sự tự-thể hiện. Nhưng một khi Gorbachev tuyên bố rằng Hồng Quân sẽ không còn can thiệp nữa để ủng hộ các chế độ cộng sản trong năm 1988, các lực bên trong, như sự nhấn mạnh của quần chúng lên các giá trị tự-thể hiện, có một tác động ngay lập tức, gây ra các sự dịch chuyển lớn và lâu dài tới dân chủ nơi các giá trị này đã phổ biến (thí dụ, Ba Lan, Cộng hòa Czech, Slovenia) nhưng các thay đổi nhỏ hơn và ít thành công hơn ở nơi các giá trị này đã không phổ biến (thí dụ, Belarus, Nga, Serbia). Các sự thay đổi chế độ đã đột ngột. Các sự thay đổi xã hội và văn hóa mà điều kiện hóa chúng đã phản ánh các thời kỳ dài của sự phát triển từ từ.

Các giá trị tự-thể hiện tương đối phổ biến ở các nước như Chile, Hàn Quốc, và Hungary đã không thể khởi động các sự thay đổi chế độ tới dân chủ hơn chừng nào các chế độ độc đoán của các nước này nhận được sự ủng hộ tài chính, quân sự, và chính trị từ một trong hai siêu cường. Nhưng một khi sự ủng hộ này được rút lại, các giá trị tự-thể hiện đã không còn là không thích đáng nữa và đã có thể tác động đến các chế độ chính trị của các xã hội này, mà nhường đường cho dân chủ chẳng bao lâu sau khi các điều kiện bên ngoài đã thay đổi. Các chế độ độc đoán cánh hữu ở Nam Á, Mỹ Latin, và châu Phi mà trước đây được Hoa Kỳ ủng hộ đã mất sự ủng hộ này sau đồng thuận Washington trong giữa-các năm 1980 (xem Pridham, 1991; Gills and Rocamora, 1992; Pridham and Vanhanen, 1995; W. I. Robinson, 1996; Whitehead, 1996; Randall and Theobald, 1998). Từ đó trở đi, Hoa Kỳ đã bắt đầu ủng hộ các phong trào các quyền dân sự trên khắp thế giới, và World Bank bắt đầu ràng buộc các điều kiện “cai quản tốt.” Tại thời điểm này, các chế độ độc đoán đã mất sự ủng hộ Tây phương (với ngoại lệ của vài nước xuất khẩu dầu, như Saudi Arabia). Vì thế, hầu hết các sự dịch chuyển chế độ tới dân chủ ở Đông Á (Philippines, Hàn Quốc, Đài Loan, Thái Lan, Indonesia), Mỹ Latin (Chile, Panama, Guyana, Paraguay, Suriname), và châu Phi (Benin, Ghana, Mali, Nam Phi, Zambia) đã bắt đầu sau cuối các năm 1980 và không sớm hơn (Diamond, 1993b).

Các thành viên của Hiệp ước Warsaw đã mất sự bảo đảm bên ngoài của họ còn đột ngột hơn trong 1988, khi Gorbachev tuyên bố rằng Hồng Quân sẽ không còn can thiệp để ủng hộ các chế độ cộng sản ở Trung và Đông Âu nữa (Diamond, 1993b; W. I. Robinson, 1996). Sự sụp đổ tiếp sau của chủ nghĩa cộng sản và sự tan rã của Liên Xô đã đột ngột, nhưng đã có một dải rộng của các kết cục. Trong một số trường hợp, kết quả đã là sự cai trị độc đoán được phục hồi lại, như ở Belarus và Trung Á; trong những trường hợp khác, nó đã dẫn đến “các nền dân chủ độc đoán,” như ở Nga và Serbia; và trong các trường hợp khác, nó đã dẫn tới các nền dân chủ đích thực, như ở Slovenia, Cộng hòa Czech, và các nhà nước Baltic. Như chúng tôi đã chứng minh, các kết cục này phần lớn phản ánh mức của các giá trị tự-thể hiện đã có mặt ở một xã hội cho trước tại lúc khởi động chuyển đổi.

Sự tương tác này giữa các điều kiện bên ngoài và các điều kiện bên trong đã được Huntington hiểu thấu nhiều năm trước sự sụp đổ của chủ nghĩa cộng sản (1984: 211) khi ông kết luận rằng “về mặt truyền thống văn hóa, sự phát triển kinh tế và cấu trúc xã hội, Tiệp Khắc chắc sẽ là một nền dân chủ ngày nay (và có lẽ Hungary và Ba Lan) nếu giả như không có sự phủ quyết áp đảo của sự hiện diện Soviet.” Sự chẩn đoán này đã trúng mục tiêu. Nó ngụ ý rằng không có mối đe dọa về sự can thiệp Soviet, các lực xã hội nội bộ trong các nước này sẽ tác động đến các định chế hiện tồn của chúng, mà chính xác là cái đã xảy ra. Sự ủng hộ bên ngoài cho các chế độ chuyên chế đã kết thúc đột ngột sau 1988, dẹp bỏ một nhân tố ngăn cản mà đã cản trở các chuyển đổi sang dân chủ trong các xã hội nơi các điều kiện bên trong đã chín muồi rồi. Một khi nhân tố ngăn cản này biến mất, các sự khác biệt trong các định hướng giá trị mà có vẻ không thích hợp trong hàng thập niên đã đột ngột đóng một vai trò quyết định trong các chuyển đổi sang dân chủ.

Lập luận của chúng tôi tương thích với lý thuyết kỳ vọng giá trị trong nghiên cứu huy động (Klandermans, 1984). Lý thuyết kỳ vọng giá trị cho rằng các hoạt động phong trào huy động phản ánh sự tương tác giữa kỳ vọng của mọi người rằng các hành động này có một cơ hội hợp lý để thành công và mức độ mà mọi người quý trọng các mục tiêu của phong trào. Mọi người sẽ không tham gia vào các phong trào xã hội nếu họ kỳ vọng rằng các hành động của họ không có cơ hội thành công nào, cho dù họ hoàn toàn ủng hộ các mục tiêu của phong trào. Nhưng họ cũng sẽ không tham gia nếu họ không quý trọng các mục tiêu đó, bất chấp các kỳ vọng thành công của họ.

Sự tương tác giữa các sự kiện quốc tế, như sự hủy bỏ học thuyết Brezhnev, và các mức cho trước của các giá trị tự-thể hiện phản ánh cùng logic này. Để cho mọi người tham gia trong một phong trào ủng hộ dân chủ, họ phải kỳ vọng rằng các hành động của họ có một cơ hội hợp lý để đạt một chế độ dân chủ. Nếu thiếu vắng kỳ vọng này, họ sẽ không tham gia, cho dù họ ủng hộ mục tiêu của dân chủ hóa. Điều này giải thích vì sao các giá trị tự-thể hiện đã vẫn không có hiệu quả chừng nào học thuyết Brezhnev vẫn có hiệu lực: các kỳ vọng của quần chúng rằng các cuộc phản kháng của họ chống lại các xe tank Soviet sẽ thành công là gần với zero. Nhưng các khát vọng quần chúng cho dân chủ, bén rễ trong các giá trị tự-thể hiện, trở nên có hiệu quả ngay lập tức sau khi mối đe dọa của sự can thiệp quân sự Soviet được rút lại. Sự thay đổi đột ngột trong các điều kiện bên ngoài kích hoạt các giá trị tự-thể hiện đã có mặt rồi, nhưng nó không thể tạo ra chúng. Bởi vì các giá trị này đã nổi lên theo các mức độ khác nhau trong các xã hội khác nhau, cùng các sự thay đổi bên ngoài đã tạo ra các mức độ rất khác nhau của sự huy động dân chủ.

Tích số của các giá trị nhân với các kỳ vọng là gần zero khi các kỳ vọng là gần với zero, làm cho số hạng giá trị không thích đáng. Đấy đã là tình hình trước 1988. Nhưng khi các kỳ vọng thay đổi, tích số của các kỳ vọng và các giá trị trở nên phụ thuộc vào số hạng giá trị, cho nên sau 1988, các sự khác biệt về các giá trị tự-thể hiện giải thích các sự khác biệt về sự huy động quần chúng trong các phong trào dân chủ và các kết cục dân chủ.

Các sự thay đổi chế độ có thể được hiểu như sự tương tác giữa các điều kiện bên trong và các sự kiện bên ngoài liên quan, với các nhân tố bên ngoài thường có khả năng ngăn cản hay kích thích tác động của các điều kiện bên trong. Do đó, các phân tích của chúng tôi tập trung vào các thay đổi từ trước đến sau làn Sóng thứ Ba, khi các sự kiện bên ngoài làm cho các nhân tố bên trong xác đáng. Các phân tích của chúng tôi đã nhận ra tầm quan trọng của các nhân tố quốc tế bên ngoài theo hai cách: bằng việc phân tích các sự thay đổi chế độ khi các thay đổi quốc tế cho phép chúng xảy ra; và bằng việc tính đến sự khuếch tán không gian, trong việc xem xét mức độ mà sự thay đổi chế độ của một nước cho trước phản ánh các thay đổi trong vùng lân cận của nó.

Các chế độ phi dân chủ không nhất thiết cần sự ủng hộ quốc tế để sống sót. Các chế độ phi dân chủ tiếp tục sống sót mà không có sự ủng hộ bên ngoài trong các nước như Trung Quốc và Belarus, nơi các lực xã hội ủng hộ dân chủ vẫn tương đối yếu. Cũng đúng thế về các chế độ mà là dân chủ hình thức nhưng thiếu sót nghiêm trọng về các tiêu chuẩn dân chủ, như thành tích các quyền dân sự của chúng. Nhưng như chúng tôi đã chứng minh, trong các nước nơi các chế độ phi dân chủ và các nền dân chủ không hiệu quả vẫn dai dẳng mà không có sự ủng hộ bên ngoài, văn hóa quần chúng đặt sự nhấn mạnh tương đối yếu lên các giá trị tự-thể hiện. Theo cùng cách, như chúng ta đã thấy, các chế độ phi dân chủ và các nền dân chủ không hiệu quả không chắc có khả năng vẫn kéo dài mà không có sự ủng hộ bên ngoài ngày nay, một khi các giá trị tự-thể hiện đã trở nên phổ biến trong xã hội.

Văn hóa Quần chúng và Hành vi Elite

Các giá trị tự-thể hiện điều kiện hóa như thế nào các hành động tập thể mang lại dân chủ hóa? Từ công trình có ảnh hưởng sâu rộng của O’Donnell and Schmitter (1986) trở đi, nhiều nhà nghiên cứu đã cho rằng các hành động tập thể do elite-quản lý luôn luôn là nguyên nhân trực tiếp của các chuyển đổi chế độ sang dân chủ (Karl and Schmitter, 1991; Higley and Gunther, 1992; Marks, 1992; Przeworski, 1992; Linz and Stepan, 1996). Do đó, các chuyển đổi sang dân chủ có thể được xem như kết quả của “các trò chơi người bảo vệ-người thách thức” (Casper and Taylor, 1996) giữa các elite đương chức và các phản elite thách thức họ. Cho dù các sự huy động quần chúng quy mô lớn kéo theo các mảng rộng hơn của dân cư, một số tương đối nhỏ của các elite chính trị và các nhà hoạt động đóng các vai trò then chốt. Cùng lý lẽ được đưa ra cho sự ổn định chế độ: các chế độ dân chủ là ổn định nếu các elite cho rằng dân chủ “là trò chơi duy nhất trong thành phố” (Linz and Stepan, 1996: 4).

Sự thấu hiểu rằng sự ổn định chế độ và sự thay đổi chế độ nảy sinh từ các hành động tập thể trong đó các elite chính trị và các phản-elite đóng các vai trò chủ yếu tập trung hạn hẹp vào các nguyên nhân gần nhất của dân chủ hóa, bỏ qua các lực xã hội rộng hơn mà hướng các hành động của họ vào các hướng cụ thể. Nó thậm chí gần sự lặp thừa (tautology) để cho rằng một sự chuyển đổi từ một chế độ chuyên quyền sang một chế độ dân chủ thành công bởi vì các nhà thách thức ủng hộ dân chủ đã chơi bài của họ giỏi hơn các nhà bảo vệ chống-dân chủ. Là đúng rằng hành vi elite luôn luôn là nhân tố gần nhất trong việc mang lại sự thay đổi chế độ, nhưng việc này không cho sự thấu hiểu nào liên quan đến các lực xã hội rộng hơn khiến các elite hành động như họ đã hành động (Huntington, 1991: 36). Sự thực là số phận của các chế độ chính trị “là một kết cục của các hành động, không chỉ của các điều kiện” (Przeworski and Limongi, 1997: 176) không có nghĩa rằng các hành động này không được định hình bởi các lực xã hội rộng hơn, như các giá trị tự-thể hiện quần chúng.

Là đúng bởi định nghĩa rằng việc tạo ra, việc thực hiện, và việc soạn thảo các định chế dân chủ là cái gì đó do các elite làm. Nhưng điều này có nghĩa rằng có một cách duy nhất trong đó các giá trị tự-thể hiện có thể có tác động mạnh lên dân chủ mà các phân tích trước cho thấy chúng có: các sở thích quần chúng phải ảnh hưởng đến hành vi elite. Bởi vì hành vi elite là nguyên nhân gần nhất của dân chủ hóa, tác động của các giá trị tự-thể hiện lên dân chủ cho biết rằng văn hóa quần chúng ảnh hưởng đến hành vi elite. Câu hỏi là, ảnh hưởng Thế nào?

Có hai cách khả dĩ theo đó các lực xã hội giải phóng được các giá trị tự-thể hiện đề cập đến có thể thúc đẩy hành vi elite thuận lợi cho dân chủ. Khả năng thứ nhất có xuất xứ từ các tính chất của một xã hội trong đó các giá trị tự-thể hiện là phổ biến. Theo định nghĩa, một xã hội như vậy chứa một phần lớn những người coi trọng sự giải phóng con người và có thiên hướng tích cực phản đối hành động elite không thể chấp nhận được. Trong một xã hội với các giá trị tự-thể hiện phổ biến, mọi người chắc có khả năng gia nhập các phong trào xã hội quần chúng và ủng hộ các cuộc vận động công chúng gây áp lực lên các elite để đáp ứng với các đòi hỏi của họ và tôn trọng các quyền của họ. Hơn nữa, bởi vì các giá trị tự-thể hiện có khuynh hướng nổi lên với các mức phát triển kinh tế xã hội cao, một công chúng nhấn mạnh các giá trị này có khuynh hướng có các nguồn lực cần thiết để giúp làm cho các đòi hỏi của họ có hiệu quả. Vì thế, một cách mà theo đó các giá trị tự-thể hiện mức-quần chúng tác động lên hành vi elite là các giá trị này tạo ra áp lực quần chúng lên các elite. Áp lực như vậy có thể có hình thức của các phong trào quần chúng, các cuộc vận động công chúng, và các hoạt động phản kháng – tất cả đều đặt áp lực hiệu quả lên các elite neo-vào nhà nước (xem L. Diamond, 1993b; Markoff, 1996; Paxton, 2002: 256).

Các elite độc đoán thường có đủ sức mạnh để đàn áp các đòi hỏi quần chúng, chừng nào họ kiểm soát quân đội và sẵn sàng sử dụng sự ép buộc. Nhưng các nguồn lực mà nhân dân đầu tư, và quyết tâm mà họ đầu tư chúng vào các cuộc vận động tự do và các phong trào giải phóng, có thể bù cho sức mạnh cưỡng ép của chế độ (Dahl, 1973; Markoff, 1996; Tilly, 1997). Các phong trào tự do to lớn và mạnh bày tỏ quyền lực dân-sự chống lại một nhà nước áp bức, ngụ ý rằng chế độ sẽ bị đối mặt với các chi phí đàn áp cao nếu các elite của nó chọn dùng các phương tiện quân sự. Việc bị đối mặt với các chi phí đàn áp cao hơn sẽ tác động đến sự tính toán rủi ro về phần các elite, làm tăng khả năng rằng họ sẽ lưỡng lự để chọn đàn áp (Marks, 1992: 50–55; Karklins and Petersen, 1993; Gibson, 2001). Nếu giả như các cuộc biểu tình quần chúng cho dân chủ ở Trung Quốc 1989 đã lan ra khắp các thành phố lớn và đã kéo theo tất cả các nhóm dân cư, chắc có ít khả năng rằng các lãnh đạo Đảng Cộng sản đã có khả năng đàn áp phong trào. Ngược lại, nếu giả như các cuộc biểu tình cho dân chủ ở Tiệp Khắc và Cộng hòa Dân chủ Đức 1989 đã tập trung chỉ ở Prague và Đông Berlin và chỉ được số sinh viên mỏng ủng hộ, thì các lãnh đạo Đảng Cộng sản đối mặt với các rủi ro thấp hơn khi thử phái binh lính chống lại những người biểu tình.

Người ta không thể đơn giản kết luận rằng các elite chỉ cần ý chí để bám lấy quyền lực và để bảo vệ vị trí của họ bằng mọi phương tiện, nhằm để bảo đảm sự sống sót của một chế độ độc đoán. Các elite độc đoán thường thường muốn giữ quyền lực; câu hỏi là liệu họ có thể hay không. Sức mạnh của sự phản đối quần chúng là một nhân tố cốt yếu trong khía cạnh này, và bằng chứng gợi ý rằng các giá trị tự-thể hiện phổ biến nuôi dưỡng đối lập quần chúng dân chủ chống lại các chế độ độc đoán, còn các giá trị tự-thể hiện yếu thì hạn chế nó. Điều này giúp giải thích vì sao Phong trào Dân chủ đã thất bại ở Trung Quốc trong 1989 nhưng đã thành công ở Tiệp Khắc trong 1989.

Một lý do khác vì sao các giá trị tự-thể hiện tăng lên hoạt đông chống lại các chế độ độc đoán là các sự thay đổi giá trị thế hệ xảy ra không chỉ giữa quần chúng mà cả giữa các elite nữa. Nếu các nhóm tuổi elite trẻ hơn nhấn mạnh các giá trị tự-thể hiện, bản chất giải phóng của các giá trị này làm xói mòn niềm tin của họ vào tính chính đáng của việc sử dụng vũ lực chống lại các phong trào các quyền dân sự ôn hòa. Các elite hầu như luôn luôn muốn giữ quyền lực nhưng không nhất thiết với bất cứ giá nào. Các chuẩn mực giải phóng có khuynh hướng hạ thấp giá mà các elite sẵn sàng trả để giữ quyền lực, loại bỏ lực lượng quân sự chống lại một đối lập dân sự như một lựa chọn hợp pháp. Hãy xem xét lại lần nữa các thách thức chế độ ở Trung Quốc và Tiệp Khắc trong 1989: các elite Trung quốc phái binh lính chống lại những người biểu tình ôn hòa, còn các elite Czech thì không. Như chúng tôi đã chỉ ra, các cuộc biểu tình vì dân chủ đã phổ biến hơn và mạnh hơn ở Tiệp Khắc so với ở Trung Quốc cho nên bất cứ cố gắng nào để đàn áp các cuộc biểu tình bằng vũ lực đã có nghĩa là một rủi ro lớn hơn nhiều ở Tiệp Khắc so với ở Trung Quốc. Nhưng cũng chắc có khả năng rằng các elite ở Tiệp Khắc đã chọn chống lại việc sử dụng vũ lực bởi vì các chuẩn mực giải phóng mạnh hơn (mà chắc chắn đã hiện diện trong xã hội như một toàn thể) khiến họ ít sẵn sàng để sử dụng đàn áp hơn các elite Trung quốc. Hơn nữa, họ có thể đã cảm thấy rằng các elite mức thấp hơn có thể không tuân lệnh để bắn những người biểu tình nếu họ xem hành động là bất hợp pháp (mà chính xác là cái đã xảy ra ở Cộng hòa Dân chủ Đức trong 1989; xem Friedheim, 1993). Nhưng vì sao các elite ở Tiệp Khắc đã có các giá trị giải phóng mạnh hơn các elite Trung quốc?

Các elite và quần chúng khác nhau theo nhiều cách. Các nghiên cứu trước cho thấy rằng các định hướng của các elite khác một cách có hệ thống với các định hướng của công chúng nói chung (Dalton, 1985; Iversen, 1994). Nhưng khung cảnh quốc gia tác động lên cả các elite và quần chúng, với sự thịnh vượng tăng lên biến đổi cả các giá trị elite và quần chúng. Điều này được phản ánh trong sự thực rằng các sự khác biệt giá trị giữa các elite và quần chúng bên trong các quốc gia là nhỏ hơn các sự khác biệt giá trị ngang các quốc gia rất nhiều, như chúng tôi sẽ chứng minh. Các giá trị tự-thể hiện có khuynh hướng được nhấn mạnh bởi các elite của một xã hội cho trước còn mạnh hơn bởi công chúng nói chung. Bởi vì các giá trị này liên kết với các mức cao của an toàn kinh tế và giáo dục đặc trưng cho các elite, kết cục này là không ngạc nhiên – nhưng nó có các hệ lụy quan trọng. Nó gợi ý rằng khi các giá trị tự-thể hiện nổi lên giữa quần chúng, chúng cũng có khuynh hướng nổi lên giữa các elite của xã hội đó. Điều này có nghĩa rằng văn hóa quần chúng của một xã hội trở nên thù nghịch hơn với sự thiên vị, tham nhũng, chủ nghĩa độc đoán, elite văn hóa chắc có khả năng cũng làm thế.

Chúng tôi không có các mẫu của các elite từ hơn tám mươi xã hội được bao gồm trong Khảo sát Giá trị, nhưng trong hầu như mọi xã hội các elite chính trị chủ yếu được tuyển mộ từ những người với giáo dục cao hơn. Vì thế, chúng tôi xử trí các định hướng giá trị của những người có giáo dục đại học như một chỉ báo thô của các định hướng giá trị của các elite, kỳ vọng những người có giáo dục đại học đặt sự nhấn mạnh hơn lên các giá trị tự-thể hiện so với công chúng nói chung trong xã hội của họ.

image

HÌNH 9.1. Các giá trị tự-thể hiện giữa những người có giáo dục đại học và giữa phần còn lại của công chúng.

Bằng chứng trong Hình 9.1 ủng hộ mạnh mẽ sự kỳ vọng này. Trục ngang của hình này cho thấy tỷ lệ phần trăm của các công dân bình thường nhấn mạnh các giá trị tự-thể hiện cho mỗi nước. Trục dọc cho thấy tỷ lệ phần trăm nhấn mạnh các giá trị tự-thể hiện giữa những người với ít nhất sự giáo dục đại học nào đó.[2] “Đường đồng mức (isoline)” đánh dấu các vị trí mà trên đó mỗi công chúng sẽ rơi vào nếu giả như các giá trị tự-thể hiện là phổ biến ngang nhau giữa những người có giáo dục đại học và các công dân thường. Các độ lệch khỏi “đường đồng mức” cho biết sự chênh lệch mà theo đó các giá trị tự-thể hiện là phổ biến hơn giữa những người có giáo dục so với các công dân bình thường. Các độ lệch đi xuống từ “đường đồng mức” cho biết các giá trị tự-thể hiện giữa những người có giáo dục đại học phổ biến ít hơn công chúng nói chung của nước họ bao nhiêu; các độ lệch lên trên cho biết các giá trị này phổ biến nhiều hơn giữa các tầng lớp có giáo dục.

Như Hình 9.1 cho thấy, hầu như tất cả các công chúng quốc gia rơi bên trên “đường đồng mức,” mà có nghĩa rằng những người có giáo dục đại học đặt sự nhấn mạnh nhiều hơn lên các giá trị tự-thể hiện so với công dân trung bình. Ta có thể diễn giải phát hiện này như sự cho biết rằng giáo dục đại học có khuynh hướng thúc đẩy một định hướng giải phóng, được phản ánh trong sự nhấn mạnh nhiều hơn đến sự tự-thể hiện con người. Hay điều này đơn giản phản ánh sự thực rằng những người có giáo dục đại học đã lớn lên với các mức an toàn an toàn sinh tồn cao hơn công chúng số đông như một toàn thể.

Trong mọi trường hợp, các sự chênh lệch theo đó những người có giáo dục lệch khỏi dân cư (được phản ánh trong độ dài của khoảng cách từ “isoline”) là tương đối nhỏ và ít nhiều không đổi, tính trung bình khoảng 7 điểm phần trăm. Dải các sự khác biệt ngang-quốc gia là khoảng mười lần lớn như thế này. Không khoảng cách nào từ “isoline” thậm chí tiến gần đến các sự khác biệt ngang-quốc gia khổng lồ trải từ Tanzania ở góc trái bên dưới của phân bố toàn thể đến Thụy Điển ở góc phải bên trên. Các sự khác biệt về sự nhấn mạnh đến các giá trị tự-thể hiện giữa các quốc gia là lớn hơn nhiều các sự khác biệt giữa những người có giáo dục và không được giáo dục bên trong các quốc gia. Thực ra, toàn bộ 92 phần trăm của biến thiên ngang-quốc gia trong các giá trị tự-thể hiện giữa những người có giáo dục đại học có thể được giải thích bởi các giá trị mức-quần chúng tương ứng trong cùng nước. Mặc dù có một xu hướng gần như phổ quát cho những người có giáo dục để đặt nhiều sự nhấn mạnh lên các giá trị tự-thể hiện hơn công chúng nói chung, tác động này bị ràng buộc bởi một xu hướng mạnh cho các giá trị elite để tương ứng với các giá trị của công chúng rộng hơn bên trong một xã hội cho trước. Các elite có khuynh hướng phản ánh các giá trị thịnh hành trong xã hội của họ.

Nhìn chung, các giá trị của công chúng rộng hơn có một tác động mạnh hơn nhiều lên các giá trị tự-thể hiện của những người có giáo dục hơn là mức giáo dục cao hơn của họ. Nói cách khác, những người có giáo dục không đơn giản áp đặt các giá trị của họ lên các công chúng: các giá trị này phản ánh mức phát triển kinh tế xã hội của xã hội. Elite của mỗi xã hội được tuyển mộ từ xã hội riêng của nó và hiếm khi chạy trước (hay tụt hậu) rất xa các giá trị thịnh hành của xã hội đó.

Các phát hiện này gợi ý rằng văn hóa quần chúng và văn hóa elite có khuynh hướng trùng nhau trong các giá trị cơ bản nhất của họ, mà có các hệ lụy quan trọng, Trong chừng mực nào đó, dân cư thậm chí không cần đẩy các elite để chấp nhận hành vi phản ứng nhanh-với-quần chúng và tuân thủ pháp luật; cùng các nhân tố mà có khuynh hướng phát triển các giá trị tự-thể hiện giữa quần chúng có khuynh hướng truyền các giá trị này vào các nhóm tuổi elite kế tiếp.

Ta có thể giải thích các lựa chọn elite bằng sự tính toán rủi ro duy lý trong chừng mực nào đó, nhưng ta không được quên rằng nhận thức elite về các lựa chọn là ràng buộc-văn hóa. Các chuẩn mực văn hóa và các giá trị được tiếp thu rõ ràng hạn chế phạm vi của các lựa chọn mà được đưa vào sự tính toán duy lý. Nói cách khác, các chuẩn mực văn hóa và các giá trị được tiếp thu định hình tỷ lệ chi phí-lợi ích liên quan đến các lựa chọn cá biệt (Lal, 1998). Các lựa chọn vi phạm các chuẩn mực được tiếp thu của người ta gây ra các chi phí thêm mà làm cho việc chọn các sự lựa chọn này ít có khả năng hơn. Các chi phí này là các chi phí tâm lý và được biểu lộ trong sự đau xúc cảm mà người ta trải nghiệm khi hành động chống lại các giá trị được tiếp thu của mình. Phụ thuộc vào cường độ của giá trị được tiếp thu, các chi phí tâm lý mà một sự vi phạm như vậy gây ra có thể nặng hơn các lợi ích vật chất gắn với sự vi phạm này. Thí dụ, trong một số xã hội giá trị của sự trinh tiết trước hôn nhân có thể được tiếp thu mạnh đến mức một cô gái thà hy sinh đời mình hơn là để mất trinh của mình. Tương tự, giá trị của sự khoan dung có thể được tiếp thu sâu đến mức người ta từ chối phân biệt chống lại các kẻ thù đáng ghét nhất của mình, cho dù người ta có thể được lợi trực tiếp từ việc làm thế. Như thế, chính phủ Anh không xem xét việc sử dụng binh lính để đàn áp đối lập, cho dù nó đã là khả thi. Điều này không phải là kết quả của một tính toán có cân nhắc. Thủ tướng và nội các của ông không quyết định chống lại việc sử dụng binh lính bởi vì họ đã xem xét sự lựa chọn này và đã tính toán rằng nó sẽ không có kết quả; họ thậm chí không đưa sự lựa chọn đó vào việc xem xét. Sự lựa chọn này – một sự lựa chọn rất phổ biến trong phần lớn thế giới – là hoàn toàn bên ngoài vũ trụ của họ về các sự lựa chọn chính đáng về mặt văn hóa. Đấy là vì sao có vẻ phi lý để thảo luận liệu thủ tướng Anh sẽ thậm chí nghĩ về việc dùng binh lính để đàn áp đối lập. Nó nằm ngoài sự cân nhắc. Vào năm 1989 điều này có vẻ cũng trở nên đúng ở Tiệp Khắc – nhưng không phải ở Trung Quốc.

Phân tích con Đường

Trong đoạn trước, chúng tôi cho rằng các giá trị quần chúng tác động đến dân chủ qua tác động của chúng lên hành vi elite. Các giá trị tự-thể hiện, nói cách khác, có một tác động lên dân chủ hiệu quả bởi vì chúng thúc đẩy tính liêm chính elite mà làm cho dân chủ hình thức có hiệu quả. Điều này bây giờ có thể được kiểm định theo hai cách. Nếu chúng tôi đúng, các giá trị tự-thể hiện phải có một tác động còn mạnh lên dân chủ hiệu quả hơn lên dân chủ hình thức bởi vì dân chủ hiệu quả bao gồm tính liêm chính elite. Mặt khác, nếu chúng ta phân rã dân chủ hiệu quả thành hai thành phần của nó – dân chủ hình thức và tính liêm chính elite – các giá trị tự-thể hiện phải chỉ có một tác động gián tiếp lên dân chủ hình thức, hoạt động chủ yếu qua tác động của chúng lên tính liêm chính elite, mà đến lượt phải là nguyên nhân gần nhất của dân chủ hình thức.

Phân tích con đường trong Hình 9.2 xác nhận các giả thiết này. Như là rõ ràng, tác động của các giá trị tự-thể hiện lên dân chủ hình thức trở nên không có ý nghĩa khi chúng tôi kiểm soát cho tính liêm chính elite. Phù hợp với các kỳ vọng của các nhà lý thuyết elite, tính liêm chính elite hóa ra có tác động có ý nghĩa chỉ lên dân chủ hình thức; tuy vậy, bản thân tính liêm chính elite không là một nhân tố độc lập, như các nhà lý thuyết elite có khuynh hướng giả thiết. Thay vào đó, tính liêm chính elite bị ảnh hưởng mạnh bởi các giá trị tự-thể hiện quần chúng. Trong phân tích đa biến, sự phát triển kinh tế xã hội có một tác động thêm, bởi vì một mức cho trước của các giá trị tự-thể hiện sẽ tạo ra các áp lực mạnh hơn đối với tính liêm chính elite nếu người dân có nhiều nguồn lực hơn. Nhưng độ dài của truyền thống dân chủ của một xã hội không có tác động có ý nghĩa nào: không lên các giá trị tự-thể hiện, không lên tính liêm chính elite, và không lên dân chủ hình thức. Lý thuyết quen (habituation) về một văn hóa dân chủ nổi lên như thế nào không tìm thấy bất kể sự ủng hộ kinh nghiệm nào. Thay vào đó, mô hình con đường được mô tả trong Hình 9.2 cho thấy một trình tự mà bắt đầu với sự phát triển kinh tế xã hội, chuyển tới các giá trị tự-thể hiện và sau đó đến tính liêm chính elite, và kết thúc trong dân chủ hiệu quả – xác nhận sơ đồ chúng tôi mô tả ở cuối Chương 7 và xác nhận trình tự phát triển con người được thấy trong Bảng I.1.

clip_image005

HÌNH 9.2. Trình tự phát triển con người: Một phân tích con đường. Các hệ số là các hệ số con đường được chuẩn hóa. Các mũi tên đậm cho biết tác động mạnh nhất lên biến phụ thuộc tương ứng. Các mũi tên đứt cho thấy các tác động không có ý nghĩa. Không có sự khớp toàn bộ nào cho mô hình được nhận diện toàn bộ này. Việc bỏ các tác động của “số Năm Dân chủ,” Chỉ số Mức độ Phù hợp được Hiệu chỉnh (AGFI- Adjusted Goodness of Fit Index) là 0,88, cho thấy tác động của truyền thống dân chủ là không đáng kể. Số trường hợp: N = 68

Sẽ là phi logic trong sự cực đoan để diễn giải sự liên kết mạnh chúng tôi tìm thấy giữa các giá trị tự-thể hiện quần chúng và tính liêm chính elite như có nghĩa rằng tính liêm chính elite tạo ra một văn hóa quần chúng về khoan dung, các khát vọng tự do, sự nhấn mạnh đến sự an lạc chủ quan, sự tin cậy, và một quan điểm thách thức-elite – không chỉ bởi vì tính liêm chính elite được đo gần mười năm sau các giá trị tự-thể hiện, mà bởi vì các giá trị rộng và bén rễ sâu như vậy như các giá trị này phản ánh các quá trình dài hạn của sự thay đổi giữa thế hệ. Các elite có thể hấp dẫn với các giá trị như vậy nhưng không tạo ra chúng. Cho dù họ có thể, là khó để hình dung vì sao các elite lại muốn tạo ra một công chúng tự khẳng định, đòi hỏi, và thách đố đối với uy quyền elite – tất cả các thứ đó là các đặc trưng xác định của các giá trị tự-thể hiện. Tư lợi duy lý của các elite là để có một công chúng tuân thủ, chiều theo uy quyền được thể chế hóa, hơn là chỉ trích nó. Vì thế, không có lý do nào để cho rằng sự liên kết mạnh giữa các giá trị tự-thể hiện và tính liêm chính elite tồn tại bởi vì tính liêm chính elite tạo ra các giá trị quần chúng nhấn mạnh sự khoan dung, tự do, và thách thức-hành vi elite. Các giá trị tự-thể hiện tạo thành một lực mạnh mẽ thúc ép cho tính liêm chính elite – hoặc bằng việc truyền các giá trị này vào bản thân các elite hay bằng việc phơi các elite ra cho các áp lực như vậy từ công chúng rộng hơn. Chúng tôi nghi rằng cả hai nhân tố đang hoạt động. Diễn giải có logic duy nhất về bằng chứng là các giá trị tự-thể hiện hoạt động để tối đa hóa tính liêm chính elite.

Sự thay đổi văn hóa và Hành động tập thể

Những người ủng hộ cách tiếp cận lấy diễn viên-làm trung tâm (actor-centered) cho rằng ta không thể giải thích sự thực hiện và sự củng cố dân chủ bằng các nhân tố ngoại sinh với các hành động tập thể qua đó các quá trình này diễn tiến (O’Donnell and Schmitter, 1986: 16; Karl and Schmitter, 1991: 270). Họ khẳng định rằng các quá trình do hành động tập thể dẫn dắt chỉ có thể được giải thích bằng việc tái dựng lại các hành động đó. Cho nên, Przeworski and Limongi (1997: 176) cho rằng tất cả các quá trình tác động đến sự ổn định của các chế độ chính trị là “về các hành động, không chỉ các điều kiện.” Điều này là đúng nhưng thiển cận: nó bỏ qua sự thực rằng các hành động có các điều kiện trước. Chắc chắn, để mô tả một quá trình ta phải tái dựng lại trình tự hành động gây ra nó, nhưng ta không thể giải thích một quá trình bằng các hành động mà là nội sinh đối với bản thân quá trình. Bất kể sự giải thích nào như vậy không thể tránh khỏi trở thành vòng quanh. Và quả thực, sự thấu hiểu trung tâm của phần lớn nghiên cứu lấy diễn viên-làm trung tâm về dân chủ hóa được tóm tắt trong lời xác nhận rằng “sự thực hiện và sự ổn định hóa của các nền dân chủ phụ thuộc vào tính hơn hẳn của các diễn viên với các lợi ích ủng hộ dân chủ trên các diễn viên với các lợi ích chống-dân chủ” (Rössel, 2000: 629). Sự thấu hiểu này là đúng nhưng tầm thường. Nhìn lại, luôn luôn là rõ rằng những kẻ thắng là mạnh hơn những người thua, nhưng điều này không cho sự thấu hiểu nào vào các lực xã hội rộng hơn giúp giải thích vì sao những kẻ thắng lại đã mạnh hơn. Các hành động tập thể cần được xem xét trong khung cảnh với các lực xã hội rộng hơn giúp định hình chúng. Sự liên kết mạnh giữa các giá trị tự-thể hiện quần chúng và sự nổi lên và sự tăng cường của các nền dân chủ giúp giải thích vì sao các diễn viên ủng hộ dân chủ trở nên ngày càng chắc có khả năng là những kẻ thắng.

Nghiên cứu này không được thiết kế để điều tra nghiên cứu các quá trình cụ thể của hành động tập thể qua đó các giá trị tự-thể hiện tác động lên các định chế dân chủ trong mỗi xã hội. Thay vào đó, chúng tôi đã xem xét các kết cục của các hành động tập thể – một cách cụ thể, những thay đổi về các mức của dân chủ hình thức và các mức độ thay đổi của dân chủ hiệu quả. Nếu các giá trị tự-thể hiện tác động đến các kết cục này, nó có thể chỉ xảy ra bởi vì các giá trị này gây ra các hành động tập thể mà cuối cùng tạo ra các kết cục này. Bởi vì các hành động tập thể luôn luôn là nguyên nhân trực tiếp của việc thay đổi các định chế chính trị, giả thuyết này không phải được kiểm định: chúng ta có thể an toàn cho rằng nó đúng.

Chính xác các giá trị tự-thể hiện gây ra như thế nào các hành động tập thể mà tạo ra và duy trì dân chủ hiệu quả trong bất kể trường hợp cho trước nào giỏi nhất có thể được xem xét bởi các nghiên cứu trường hợp như các nghiên cứu trường hợp được Rueschemeyer et al. (1992), Casper and Taylor (1996), hay Foweraker and Landman (1997) thực hiện. Các nghiên cứu trường hợp về các hành động tập thể trong các xã hội cho trước là cần nếu chúng ta muốn hiểu toàn bộ quá trình. Chúng tạo thành một nhiệm vụ quan trọng, một nhiệm vụ khổng lồ mà có thể không hợp vào cuốn sách này, tập trung vào sự liên kết hệ thống-dân cư rộng hơn mà bên trong đó các hành động tập thể hoạt động. Tuy nhiên, chúng tôi phác họa vài cách tổng quát theo đó các giá trị tự-thể hiện giúp định hình sự nổi lên của của các diễn viên tập thể thúc ép cho dân chủ. Bởi vì lực đẩy giải phóng của các giá trị tự-thể hiện tạo ra các đòi hỏi (cầu) cho các quyền dân sự và chính trị định nghĩa dân chủ tự do, các giá trị tự-thể hiện có khuynh hướng chuyển các hành động tập thể ủng hộ dân chủ hóa theo những cách như sau.

Thứ nhất, cường độ của các giá trị tự-thể hiện giữa dân cư xác định kích thước của tập hợp người mà từ đó các nhà hoạt động chính trị ủng hộ dân chủ nổi lên, với các giá trị tự-thể hiện ngày càng phổ biến làm tăng tập hợp của các nhà hoạt động tiềm năng. Trong các chế độ phi dân chủ, các nhà hoạt động chính trị này tạo thành một phản-elite (counterelite), tạo thành các mạng lưới bất đồng chính kiến tạo nên lõi của một xã hội dân sự mà sự tồn tại thuần túy của nó làm xói mòn các sự kiểm soát độc đoán (Bernhard, 1993; Markoff, 1996; Paxton, 2002). Các mạng lưới xã hội dân sự được tạo thành bởi các giới những người bất đồng chính kiến dân chủ đóng một vai trò cốt yếu trong nhiều quá trình làn Sóng dân chủ hóa thứ Ba, và các quá trình này có khuynh hướng thành công hơn nơi các giới bất đồng chính kiến tương đối rộng về quy mô và đông về các thành viên (L. Diamond, 1993b; Joppke, 1994; Foweraker and Landman, 1997).

Các giá trị tự-thể hiện tương đối phổ biến giữa dân cư cũng làm tăng các cơ hội mà các nhà bất đồng chính kiến có thể huy động các mảng lớn của công chúng cho các cuộc vận động lớn đòi các quyền dân sự và chính trị và các cuộc bầu cử dân chủ. Các sự huy động quần chúng như vậy đã là một nhân tố cốt yếu trong nhiều cuộc chuyển đổi chế độ gần đây, đặc biệt ở Argentina, Philippines, Hàn Quốc, các nước Baltic, Tiệp Khắc, Đông Đức, Hungary, Nga, và Indonesia, nơi các phần lớn của dân cư đã xuống đường, biểu tình đòi quyền tự do biểu đạt và đòi các cuộc bầu cử dân chủ. Tại Trung Quốc 1989, ngược lại, các cuộc biểu tình vì dân chủ đã chủ yếu tập trung ở một chỗ (Quảng trường Thiên An Môn) và chủ yếu được ủng hộ bởi số sinh viên tương đối nhỏ. Lúc đó, Phong trào Dân chủ đã có một cơ sở quần chúng tiềm tàng tương đối nhỏ trong nước như một toàn thể, phản ánh sự thực rằng các giá trị tự-thể hiện đã vẫn chưa phổ biến ở Trung Quốc, như khảo sát 1990 của chúng tôi chứng minh.

Các cuộc vận động quần chúng rộng rãi cho dân chủ là đặc biệt quan trọng nếu elite chính trị đương chức thống nhất trong ý chí của nó để bám lấy quyền lực, như đã là thế ở Trung Quốc, Tiệp Khắc, và Đông Đức. Các cuộc vận động rộng rãi hơn và mạnh mẽ hơn ngụ ý rằng chế độ đối mặt với các chi phí đàn áp cao nếu các elite chọn để sử dụng các phương tiện quân sự. Việc này tác động đến các tính toán rủi ro của các elite. Nó cũng ngụ ý một rủi ro cao hơn rằng các quan chức địa phương và các chỉ huy binh lính sẽ không tuân lệnh để bắn (Marks, 1992). Bị ra lệnh để bắn vào những người biểu tình ôn hòa có thể đặt sự căng thẳng tâm lý lớn lên những kẻ bắn; và một lệnh để bắn thậm chí còn ít có khả năng để được tuân theo nếu nó có nghĩa là sự giết nhiều ngàn người phản kháng ở nhiều nơi khắp đất nước. Như thế, các cuộc vận động quần chúng rộng rãi có thể xui khiến các nhà cầm quyền độc đoán để nhường đường cho các cuộc bầu cử tự do, hoặc bởi vì họ dè trước một cách đúng đắn rằng họ không còn có thể huy động đủ lực lượng để đàn áp đối lập, như đã xảy ra ở Philippines, Hàn Quốc, và Tiệp Khắc; hay bởi vì họ thử làm vậy nhưng thất bại, như đã xảy ra ở Đông Đức, nơi nhà độc tài cộng sản Erich Honecker đã ra lệnh cho quân đội bắn những người biểu tình, nhưng lệnh đã bị các elite địa phương (Friedheim, 1993) không tuân theo. Tóm lại, sự truyền bá của các giá trị tự-thể hiện giữa dân cư ảnh hưởng đến độ lớn của cơ sở quần chúng của đối lập dân chủ và các chi phí và các rủi ro của sự đàn áp, làm tăng xác suất của sự chuyển đổi thành công sang dân chủ.

Đôi khi elite cai trị bị chia rẽ thành phe của những người bảo thủ bảo vệ hiện trạng (status quo) và một phe khác của các nhà cải cách tự do (liberal reformer) những người cho thấy sự sẵn sàng nào đó để đưa ra các sự nhượng bộ cho đối lập dân chủ (Przeworski, 1992; Marks, 1992). Cả ở đây nữa, cường độ của các giá trị tự-thể hiện và sức mạnh là hậu quả của cơ sở quần chúng của đối lập dân chủ tạo ra một sự khác biệt, bởi vì một đối lập dân chủ có cơ sở rộng cho các nhà cải cách một lựa chọn liên minh khả thi, tăng cường vị thế mặc cả của họ và làm cho chắc có khả năng hơn rằng phe bảo thủ sẽ đưa ra các nhượng bộ – như đã xảy ra ở Tây Ban Nha, Ba Lan, Chile, và Nam Phi (Casper and Taylor, 1996).

Các giá trị tự-thể hiện phổ biến giữa dân cư cũng làm cho chắc có khả năng hơn rằng một phe cải cách tự do sẽ tự xác lập mình giữa các elite cai trị. Vì nếu các giá trị tự-thể hiện là tương đối phổ biến trong xã hội, chắc có khả năng hơn rằng bản thân thế hệ trẻ hơn của elite cai trị sẽ bị ảnh hưởng bởi các giá trị này, làm xói mòn niềm tin của họ vào tính chính đáng của các phương pháp cưỡng chế và làm cho có khả năng hơn rằng họ sẽ tách ra như các nhà cải cách tự do. Đấy là cái đã xảy ra ở Hungary, Mexico, và Đài Loan, nơi đã trở nên hiển nhiên rằng thế hệ elite kế vị đã có nhiều ý tưởng tự do hơn các nhà sáng lập của chế độ xã hội chủ nghĩa, PRI (Đảng Cách mạng Thể chế của Mexico), và của chế độ Quốc dân Đảng, một cách tương ứng, rất nhiều (L. Diamond, 1993b). Một khi các elite cải cách giữ số chức vụ chóp bu tăng lên, các lãnh đạo của nó bắt đầu khởi động các cải cách dân chủ. Trong trường hợp này đã không cần một đối lập dân chủ mạnh trên đường phố bởi vì các giá trị đang thay đổi đã thấm vào bản thân các elite. Điều này có khả năng nhất để xảy ra trong các chế độ độc đoán đã thử đương đầu với thách thức của xã hội tri thức bằng việc mở rộng giáo dục đại học và bằng việc tuyển mộ thế hệ elite tiếp theo trên cơ sở phẩm chất chuyên môn thay cho sự trung thành ý thức hệ, như đã xảy ra ở Hungary và Đài Loan (về Hungary, xem Konrad and Szelenyi, 1991; về Đài Loan, xem Domes, 1990).

Để kết luận, không chỉ sự hình thành của một đối lập dân chủ mạnh mà cả sự nổi lên của các nhà cải cách tự do giữa elite cai trị có vẻ ngày càng trở nên có khả năng hơn khi các giá trị tự-thể hiện trở nên ngày càng phổ biến giữa dân cư.

Trong các chế độ mà là dân chủ rồi (chí ít về mặt hình thức), các giá trị tự-thể hiện cũng đóng một vai trò quan trọng. Khi các giá trị tự-thể hiện là tương đối phổ biến, người dân có thiên hướng hơn để phản đối chống lại các hành động elite không được lòng dân và để thực hành các quyền tự do mà họ có quyền hình thức. Mọi người với các giá trị tự-thể hiện mạnh cũng có khuynh hướng có các phương tiện để làm cho các cuộc phản kháng của họ có hiệu quả, bởi vì các giá trị này có khả năng nhất để nổi lên trong các xã hội với các nguồn lực kinh tế xã hội phong phú. Hơn nữa, khi các giá trị tự-thể hiện lan ra giữa công chúng rộng hơn, chúng có khuynh hướng thấm vào các phương tiện truyền thông đại chúng, làm cho các nhóm tuổi kế vị của các nhà báo phê phán hơn và có khả năng hơn để xem xét kỹ lưỡng tham nhũng elite và sự thất bại nhà nước kỹ hơn. Các giá trị tự-thể hiện tạo ra một lực xã hội gây áp lực lên các elite dân chủ để phản ứng nhanh nhạy hơn và chịu trách nhiệm hơn, tăng cường dân chủ và làm cho nó hiệu quả hơn. Bảng 9.1 tóm tắt các đề xuất của chúng tôi về các giá trị tự-thể hiện điều kiện hóa như thế nào các hình trạng diễn viên tập thể mà là xác đáng cho dân chủ và dân chủ hóa.

BẢNG 9.1. Các Giá trị Tự-thể hiện Hướng Hành động Tập thể và Năng lực Hành động tới Dân chủ Thế nào

image

Hình 9.3 chứng minh rằng các giá trị tự-thể hiện quả thực có giúp định hình năng lực của một xã hội cho hành động tập thể. Trục dọc trong hình này là một index đo sức mạnh của xã hội dân sự, dựa vào dữ liệu từ dự án Xã hội Dân sự Toàn cầu (Anheier, Glasius, and Kaldor, 2001).[3] Là rõ rằng các công chúng đặt sự nhấn mạnh tương đối mạnh lên các giá trị tự-thể hiện có khuynh hướng có các xã hội dân sự mạnh hơn. Bằng chứng này ủng hộ lời xác nhận của chúng tôi rằng các giá trị tự-thể hiện tăng lên liên kết tích cực với năng lực của một công chúng để thực hiện hành động tập thể.

Nếu ta xem xét các hệ lụy của phát hiện này cho các chế độ độc đoán, nó gợi ý rằng các giá trị tự-thể hiện tăng lên đóng góp cho sự tăng nhanh của các giới bất đồng chính kiến, các phong trào các quyền dân sự, và các sự biểu hiện công khai của sức mạnh nhân dân chống lại chính phủ độc đoán. Khi các chế độ độc đoán đối mặt với một thách thức chế độ, các cuộc chuyển đổi dân chủ thành công có nhiều khả năng hơn để xảy ra nếu các giá trị tự-thể hiện tương đối phổ biến nuôi các phong trào các quyền dân sự và các cuộc vận động tự do. Cách tiếp cận do Casper and Taylor (1996) sử dụng trong các nghiên cứu trường hợp của họ xác nhận các kỳ vọng này. Casper và Taylor đã phân tích 24 chế độ độc đoán ban đầu trong đó vấn đề thay đổi chế độ đã ở trên chương trình nghị sự vào lúc nào đó giữa đầu các năm 1980 và giữa các năm 1990, và kết cục đã tạo ra một trong ba kết quả: (1) chủ nghĩa độc đoán tiếp tục, trong đó chế độ độc đoán đương nhiệm đã sống sót hay một chế độ độc đoán mới được dựng lên; (2) dân chủ hóa thiếu sót, trong đó dân chủ bầu cử được chấp nhận nhưng các hạn chế lên các quyền tự do của nhân dân đã tiếp tục; và (3) dân chủ hóa hoàn thành, trong đó dân chủ bàu cử đã nổi lên, được đỡ bởi một bộ đầy đủ của các quyền dân sự và chính trị như được Freedom House đo (Casper and Taylor, 1996: 41). Loại trừ tất cả các nền dân chủ được thiết lập lâu đời, chúng tôi sử dụng các tiêu chuẩn của Casper và Taylor để phân loại các xã hội được bao gồm trong mẫu Khảo sát Giá trị vào một trong ba loại này.[4]

image

HÌNH 9.3. Các giá trị tự-thể hiện và sức mạnh của xã hội dân sự.

Ba loại này của các xã hội khác nhau một cách đáng kể về mức độ mà các giá trị tự-thể hiện được nhấn mạnh: (1) mười tám xã hội trong hạng “chủ nghĩa độc đoán tiếp tục” rơi trung bình vào bách phân vị thứ 21 trên các giá trị tự-thể hiện; (2) mười sáu xã hội mà đã trải nghiệm “dân chủ hóa thiếu sót” rơi vào bách phân vị thứ 27 trên các giá trị tự-thể hiện; và (3) mười chín xã hội đạt “dân chủ hóa hoàn tất” rơi trung bình vào bách phân vị thứ 34. Dân chủ hóa thiếu sót tỏ ra là một vùng trung gian giữa hai thái cực, mà cho thấy hầu như không sự chồng gối nào: hầu hết các xã hội dưới chủ nghĩa độc đoán tiếp tục có số điểm giữa bách phân vị thứ 14 và 25 trong các giá trị tự-thể hiện, còn hầu hết các xã hội với dân chủ hóa hoàn tất có số điểm bách phân vị thứ 29 và 38 trên các giá trị tự-thể hiện. Các phát hiện này cho biết rằng các sự khác biệt trong sự nhấn mạnh quần chúng về các giá trị tự-thể hiện có khuynh hướng chuyển các hành động tập thể tới các mức độ khác nhau của dân chủ, như lý thuyết về sự phát triển con người gợi ý.

Kết luận

Sự tập trung của chúng tôi vào hướng và cường độ của sự liên kết giữa các giá trị tự-thể hiện và các định chế dân chủ không loại trừ các cách tiếp cận thay thế, như những cách tiếp cận nhấn mạnh sự mặc cả elite và các liên minh giai cấp. Hoàn toàn ngược lại, mô hình của chúng tôi bổ sung cho các cách tiếp cận này, mà thăm dò các nhân tố làm trung gian gắn các đặc trưng xã hội cho các xu hướng quần chúng. Các phần dư của các mô hình của chúng tôi cung cấp một chỉ báo thô về tác động của các nhân tố làm trung gian này. Nếu thế, ta có thể kết luận rằng các nhân tố này giải thích cho khoảng 25 đến 30 phần trăm của biến thiên trong dân chủ hóa và dân chủ hiệu quả. Đây là một phần đáng kể của câu chuyện, nhưng ít hơn mức được giải thích bởi các giá trị quần chúng.

Dân chủ, và đặc biệt dân chủ hiệu quả, là một hiện tượng xã hội bén rễ quá sâu để đơn giản là sản phẩm của các lựa chọn elite được khai sáng và các dàn xếp thể chế thông minh. Dân chủ không chỉ là một vấn đề của sự đồng thuận elite hay tính duy lý thể chế. Nó được neo chặt vào một hội chứng rộng của sự phát triển con người mà liên kết hiện đại hóa với sự nhấn mạnh quần chúng tăng lên đến sự tự-thể hiện, và các giá trị tự-thể hiện với dân chủ.


[1] Tương tự, trong Chiến tranh Lạnh Hoa Kỳ đã ủng hộ một số chế độ độc đoán chống cộng.

[2] Các Khảo sát Giá trị yêu cầu những người trả lời cho biết mức giáo dục chính thức của họ (V227) trên một thang từ 1 đến 9 trong đó 8 có nghĩa “sự giáo dục đại học nào đó” và 9 có nghĩa “có một bằng đại học.” Chúng tô lấy tổng hai hạng này để nhận diện những người có giáo dục đại học.

[3] Index tóm tắt dữ liệu về tư cách thành viên trong các hiệp hội tự nguyện, mật độ tổ chức của các tổ chức phi-chính phủ, các thái độ khoan dung với những người nhập cư, và giáo dục trẻ em, cũng như sự tham gia vào các hoạt động phản kháng, tạo thành một index tổng thể của xã hội dân sự (về sự xây dựng index và các nguồn dữ liệu, xem website: http://www.lse.ac.uk/depts/global/yearbook). Số đo này chồng gối một phần với số đo của chúng tôi về các giá trị tự-thể hiện bởi vì cả hai bao gồm sự tham gia vào ký các kiến nghị. Để tránh việc mô tả một mối quan hệ một phần lặp thừa trong Hình 9.3, chúng tôi đã tính toán lại các giá trị tự-thể hiện dưới sự loại trừ việc ký kiến nghị. Xem cả Phụ lục Internet, #24 dưới Varianles. Về các dẫn chiếu đến Phụ lục Internet, xem http://www.worldvaluessurvey.org/publications/humandevelopment.html.

[4] Như “chủ nghĩa độc đoán tiếp tục,” chúng tôi phân loại tất cả các xã hội có số điểm dưới bách phân vị thứ 50 trong dân chủ hình thức trong 2000–2. Các xã hội ở tại hay trên bách phân vị thứ 50 nhưng dưới bách phân vị thứ 75 được phân loại như “dân chủ hóa thiếu sót.” Các xã hội có số điểm trên bách phân vị thứ 75 được phân loại như “dân chủ hóa đã hoàn thành.” Lưu ý rằng các nền dân chủ được thiết lập lâu đời được loại trừ khỏi sự phân loại về các kết cục chuyển đổi này. Về các nước thuộc về các hạng này, xem Phụ lục Internet, #68 dưới Variables.