Danh ngôn

Trong mọi cộng đồng, chúng ta cần một nhóm thiên thần gây rối.

We need, in every community, a group of angelic troublemakers.

(Bayard Rustin – trích bài phát biểu tại New York City 1963)

Trong mọi trường hợp, chắc chắn rằng sự thiếu hiểu biết, đi kèm với quyền lực, là kẻ thù tàn bạo nhất có thể có của công lý.

It is certain, in any case, that ignorance, allied with power, is the most ferocious enemy justice can have.

(James Baldwin - No Name in the Street 1972)

Các cuộc cách mạng và các cá nhân có thể bị giết hại, nhưng bạn không thể giết chết các ý tưởng.

While revolutionaries and individuals can be murdered, you cannot kill ideas.

(Thomas Sankara, một tuần trước khi bị ám sát, 1987)

Không có cảm giác nào cô đơn hơn việc bị chính đất nước mình trục xuất.

There's not a more lonely feeling than to be banished by my own country.

(Kiyo Sato – Kiyo’s Story 2009)

Ban Biên tập

Địa chỉ liên lạc:

1. Thơ

tho.vanviet.vd@gmail.com

2. Văn

vanviet.van14@gmail.com

3. Nghiên cứu Phê Bình

vanviet.ncpb@gmail.com

4. Vấn đề hôm nay

vanviet.vdhn1@gmail.com

5. Thư bạn đọc

vanviet.tbd14@gmail.com

6. Tư liệu

vanviet.tulieu@gmail.com

7. Văn học Miền Nam 54-75

vanhocmiennam5475@gmail.com

Tra cứu theo tên tác giả

Thứ Tư, 30 tháng 1, 2019

Núi đổ trong lòng

Hà Thúc Sinh

image

Hà Thúc Sinh (bên phải) trong một đêm nhạc với Hoàng Ngọc Tuấn tại Australia 2018


Ông Lộc là một nhà thơ đã ngoài sáu mươi, sống khá bình thản tuy cũng có lúc hơi chúi chúi xuống phía nỗi buồn. Giá như ông đang sống giữa một gia đình đông đủ mà có lúc buồn xa vắng cũng là chuyện thường, huống hồ ông sống có mỗi mình. Nghe nói ông đã có thơ đăng báo từ Hà Nội, Sài Gòn sang đến Mỹ, tính ra bốn mươi năm có thừa, thế mà tên tuổi ông xem ra không có quá nhiều người biết đến. Điều này có thể là mối quan tâm của ông hai mươi năm trước, chứ giờ thì chẳng còn nghĩa lý gì. Ra đời dính một sinh thú lắm khi tình cờ như dính một cái nghề, lâu dần nó bén rễ tựa cây cối, không dễ mà nhổ, dù có lúc người ta tự biết cái cây chẳng sinh hoa kết trái như ý. Nay thì thứ cảm giác khó chịu như thế cũng không còn, thành thói mất rồi, do đó chẳng tuần nào bưu điện không nuốt của ông vài đồng bạc tem. Vâng, ông thả thơ đi khắp thế giới – nơi đâu có báo tị nạn là có thơ ông tìm đến – những vần cổ thi toát lên cái thanh khí của một ngọn núi cao, nhìn xuống mà thương cho cái cõi thế gian nhầy nhụa những luỵ tình. Nhưng sáng nay, một sáng cuối năm ngọn núi lòng ông cứ vi vu gió thổi một điệu nhớ nhung cái cõi đầm lầy xa như từ nhiều năm trước, chỗ mà ông còn là một ngọn đồi xoàng xĩnh lẩn khuất giữa muôn triệu ngọn đồi xoàng xĩnh khác.

Ông nhìn lên bàn thờ vợ. Nhanh quá, mới đó đã non mười bốn năm trời. Bất giác sự liên tưởng dẫn ông xa hơn. Mười bốn năm sau di cư 54 mình làm gì nhỉ? Hồn ông cộm lên nỗi bồi hồi. Lúc ấy ông sắp bốn mươi, thủ một ghế chủ sự phòng trong bộ Tư Pháp, vừa cưới được bà vợ thua ông gần chục tuổi, chưa kịp trăng mật thì trận Mậu Thân xảy ra. Thật là một mùa tao loạn rối ren. Nhưng với riêng ông cái bóng tối ấy lại như tấm màn che lại nhiều dấu ấn lãng mạn khó quên. Hai người đã giấm giúi yêu nhau trong cả những phen chạy loạn, tá túc nơi các sân trường.

Ông châm thêm nước nóng, hy vọng tách trà giữ cho ông sự thận trọng dù ngay trong cơn hồi tưởng rộn ràng. Ông nghĩ ông nên đứng dậy dọn dẹp căn phòng.

*

Gia đình ông Lộc thuộc những nhóm thuyền nhân đầu tiên vượt biển và được định cư tại Mỹ. Ông đi cùng vợ hai con, nhưng một cơn bão đã loại khỏi tổ ấm người quan trọng nhất: vợ ông. Thật trời mà có vợ đã chắc gì đau nỗi đau giống ông nếu vợ trời không là người đàn bà đảm. Từ buổi chế độ mới biến ông thành kẻ vô dụng, vợ ông, một bà giáo mà lương tháng không đủ mua hai lon bia Nhật, đành bỏ trường hùng hổ lao ra lề đường, đầu tắt mặt tối kiếm cơm áo nuôi gia đình, rồi xoay xở đem được cả nhà ra đi trót lọt. Cái chết của vợ như sợi thừng trói vo ông lại với lắm đam mê vốn có của người nghệ sĩ. Nghề giáo không có nghĩa là bà phải thận trọng cả trong cơn ghen. Vâng, xưa vợ ông ghen rùng rợn. Đã không thiếu phen bà xông cả vào sở thanh tra ông tại chỗ. Có lần ông đang đọc lá thư của một cô thư ký cũ gửi về thăm hỏi, chẳng có gì là tình ái trầm trọng, nhưng ông đã phải vo tròn bỏ miệng nuốt trửng. Gì chứ bà vớ được một nét chữ đàn bà trên tay ông thì đến khốn khổ cả phòng. Bà sẽ đóng ngay vai chánh án mà can phạm sẽ không chỉ riêng ông, cả chục nhân viên dưới quyền cầm chắc nguy cơ lãnh án tòng phạm tuốt luốt. Cái nghi của người đàn bà ghen to hơn khối óc là vậy. Có lần bà giận, mỉa mai, “Lấy anh thợ thuyền chân chất mà lại yên bụng hơn lấy anh khoá băm nhăm!”

Tự dưng ông cười ngặt nghẽo, không vì nhớ lại mà cười vợ, nhưng vì ông nghĩ nếu bà còn sống hẳn bà sẽ thấy lấy anh thợ thuyền đã chắc gì hạnh phúc. Vâng, đời sống mới đã đủn ông vào một chương trình CETA, và cuộc đổi đời đã biến anh khoá thành anh thợ thuyền. Không thiếu lúc ông kinh ngạc tự hỏi động lực nào khiến được ông có thể kiên nhẫn cày nghề thợ tiện trong từng đó tháng ngày. Nhưng giờ đã hết. Đại hạn mười năm đã hết. Ông không còn là thợ thuyền nữa. Ông đã được trở về với con người cũ của ông. Cũng may, ông tự an ủi, rằng trời cho ông còn bàn tay phải để làm thơ, để lâu lâu pha mực Tàu viết vài chữ đại tự tặng những thân hữu còn sót cái tâm của lão ngục quan trong Chữ Người Tử Tù. Ông tự biết nét tài hoa trên bàn tay phải dù đã chịu nhiều thử thách gian nan nhưng còn đáng đồng tiền bát gạo lắm lắm. Và như thế ông cố lấy những gì ông có mà đổ vào những hang động núi đá, chỗ không ít lúc bày ra lắm khoảng trống vắng bâng khuâng. Mà những thứ ông có cũng chẳng nhiều nhặn chi. Một căn nhà ba phòng ở phố Pasadena trong thung lũng San Gabriel. Nơi đây sau nhà thấy núi. Những chiều thu mây trắng sà thấp, biến những đỉnh núi nhấp nhô ra lũ đầu bạc ngó xuống rừng phong rặt một màu quan san. Sang đông núi biến thành những bệt đen dài huyền bí, cho đến một ngày tự dưng có mưa, những vầng mây ô nhiễm biến đi, núi như hiện ngay trước mặt, mở các hang động thả ra rừng hoa đào đỏ au trộn với rừng hoa lê trắng ngần. Có những chiều gió núi thổi tốc xuống rừng cây. Ôi chao, hoa lê bay trắng trời. Ông bước đi mà tưởng như chính ông không còn trông thấy ông nữa.

Hơn hai năm qua các con đi học xa ông luôn giữ cho ông hai phòng. Một phòng ngủ; một phòng được trang trí để vừa làm chỗ viết lách, luyện thiền, tập taichi, vừa đặt bàn thờ vợ; và phòng còn lại tính kiếm người cho thuê, nhưng chần chừ mãi vẫn để trống. Khi mua nhà ông cọc một số tiền khá lớn, mức trả hàng tháng nhờ đó không quá nặng. Nay với số tiền cấp dưỡng tàn tật quả ông có cần thêm một khoản tiền nhỏ chi dụng.

*

Ông Lộc có vài người bạn trà rượu, đều chỗ quen biết cũ, không lối xóm cũng là người đồng sự từ quê nhà. Họ đi lại với ông đều, và ông cũng thích duy trì sự đều đặn đó. Trước nhất họ là những kẻ không thể phủ nhận sự nho nhã có truyền thống của gia đình ông, kế nữa hai thằng giặc nhà này đến lúc cũng phải kiếm vợ cho chúng nó chứ. Đám bạn người nào cũng có tí con gái. Ông đến chơi, thấy tính ăn nết ở lắm đứa được quá, chọn làm dâu con không lấy gì chênh lệch.

Riêng khoản ẩm thực ông Lộc là tay khá bảnh. Chẳng những biết ăn ông còn biết nấu. Thuở mới sang phải cày cuốc ông hay đi ăn tiệm, sau bị chứng máu cao, sợ bột ngọt ông bớt chuyện đi ăn tiệm. Từ tai nạn đến nay, nằm nhà, ông thừa thì giờ làm sống lại cái thú nấu ăn có từ trẻ. Vùng này gần nhiều nông trại. Gà tươi, vịt tươi, heo tươi, dê tươi… Gì chứ chuyện phanh ngưu tể dương muôn đời tạo sự gắn bó. Có tốn kém chút đỉnh, có vất vả chút đỉnh nhưng ông vui. Ít ra quanh ông còn có tiếng nói, tiếng cười thân mật của con người.

*

Một chiều thu lạnh. Cây trên sườn núi liên miên trút phẩm đỏ xuống vườn nhà. Gió luồn lách như thổi vào lòng. Ông Lộc xốn xang nghe thiếu một điều gì không thể thiếu nữa. Nhưng giống ông lang không nghe mạch được cho chính mình, ông chịu, bỏ lửng ngọn núi lòng ông cho nỗi xốn xang hành hình. Lại chén rượu thôi, ông nghĩ. Thế là ông sửa soạn một nồi giả cầy, mời ba ông bạn cố cựu tới phụ tay mà giết cái vạn cổ sầu. Ba ông bạn là ông Hoành trong Việt Mỹ Tin Lành Hội, ông Lâm hội Cao Niên và ông Tánh có chân trong ban cố vấn hội Cựu Quân Nhân. Ông Lộc biết rõ ưu khuyết điểm từng người như biết hai bàn tay mất còn của mình. Nhưng điều ông biết rõ hơn là họ chịu tài nấu của ông. Chẳng món gì ông nấu mà lại không gợi hứng cho đám bạn hân hoan tán tụng. Ông biết họ thành thật. Do đâu? Trời, họ không đều là bọn đàn ông khốn khổ ráo trọi đấy sao? Họ làm chủ những người đàn bà đã ngoài sáu mươi cả, nhưng vì cái nhà, cái xe, cái tủ chè, bộ sa-lông… các bà vẫn phải ngày ngày tự giam mình trong những công tư xưởng, để bếp núc biến thành thứ trò chơi lúng túng cho lũ chồng tự âm thầm biết mình là kẻ bạc phước. Vậy thì ông tiếc chi tí công tí của để lâu lâu cả lũ bạc phước có được với nhau một buổi chiều ấm cúng? Cứ xem, còn gì thú vị cho bằng chỉ với một nồi giả cầy đã đủ đẻ ra một bầy chó tơ bên quê nhà sủa vang ngõ nhỏ? Bầy chó sẽ đuổi cả đám chạy tứ tán khắp mọi ngả đường quê hương. Kẻ sẽ sa vào sức cám dỗ không thể chống cự của món đầu cá hấp Biên Hoà, kẻ ngã sấp ngã ngửa vào lòng mấy cô em bán nem Thủ Đức, kẻ trốn lủi vào rặng dừa Bến Tre có những đĩa đuông lăn bột chiên bơ béo ngậy, thậm chí có kẻ còn trượt chân rơi sâu xuống mấy tỉnh hạ phần thân thể đất nước. Chà, rùa rắn chuột miệt dưới! Ông không rõ mấy cái thứ đó đã biến bao nhiêu thế hệ sớm thành những tiên ông tiên cậu.

Bữa ăn vui vẻ diễn ra non hai tiếng mới tới màn trà đàm. Họ kéo nhau ra phòng khách. Ông Lộc lấy hộp trà móc câu mới nhận được từ Việt Nam pha đãi bạn, giữa khi giọng ông Tánh “lính” oang oang:

“Thú thật với các bác tôi loại lông nách một nạm trà Tàu một hơi, đến nay vẫn cứ tự hỏi vì đâu lại có cái thú uống trà.”

Ông Lộc thận trọng kê vòi ấm lên miệng chén tống. Ông không nhìn bạn mà nhìn vào dòng trà thơm xanh nhẹ chảy, giọng hài hoà:

“Người ta chỉ có thể om sòm khi uống rượu thôi bác ạ, còn bên khay trà mọi chuyện đều phải thu nhỏ lại cho vừa với không khí ấm cúng. Vung chân vung tay thế nào được nữa. Đấy bác xem, nâng cái chung téo tẹo nóng hổi thế này lên hỏi ai mà không phải thận trọng. Tôi thì tôi nghĩ con người luôn bị xâu xé giữa mộng và thực nên người ta có méo mó đi, đôi khi bị trương nở, đôi khi bị teo tóp; tách trà nóng quân bình được hết.”

Ông Lâm “hội già” không hơn chủ nhà mấy tuổi, quãng sáu lăm sáu bảy chi đó, nhưng có lẽ cái mác bô lão buộc ông phải có những phù phép riêng. Ông nuôi râu dài trước ngực, ăn nói nhất nhất cái chi cũng đều trịnh trọng. Ông nhìn quanh, bắt gặp giữa những tấm liễn tấm hoành quen thuộc có treo mấy câu thơ Hán tự. Ông vui vui nghĩ mình đã tìm ra được cái cớ mà cảm tạ chủ nhà về bữa ăn ngon.

Ông nói:

“Thế ra uống trà là một ngụ ngôn thâm thuý các cụ để lại đấy,” Ông gật gù. “Có thể thế lắm. Ồ mà cái kia chắc là ông anh mới viết, chà, nét chữ!”

Ông Lộc nhìn lên vách chỗ treo một bài thơ viết thảo thật lớn, giọng nhỏ nhẹ:

“Không phải thơ tôi đâu. Chẳng là mấy hôm trước nhân thấy cảnh thu tàn tạ quá, buồn giở sách cũ đọc trúng ngay bài ‘Kim Lũ Y’ của Đỗ Thu Nương, cảm quá mà viết treo chơi đó thôi. Vâng, đó là hai câu cuối của bài tứ tuyệt:

Khuyến quân mạc tích kim lũ y,

khuyến quân tích thủ thiếu niên thì;

hoa khai kham chiết trực tu chiết,

mạc đãi vô hoa không chiết chi.

Đại khái nàng khuyên chàng giữ chi cái áo tơ vàng, có giữ là giữ lấy những ngày xanh; và giục chàng hoa đến mùa thì cứ việc hái, đừng chờ lúc hoa héo chỉ còn cành không.”

Thật thì ông Lộc có nói dối. Ông đã viết mấy câu thơ đó ra trong một phút nhớ người bạn đời của ông quá. Xưa bà là giáo sư Việt văn. Hai người thương nhau vì cùng gặp nhau ở cái lòng ưu ái cổ thi. Của đáng tội xem ra bà thân với cổ nhân còn hơn cả ông; và há những ngày còn soan, bà đã không lãng mạn gửi cho ông bốn câu thơ khéo nhắc khéo giục đấy sao! Mở sách gặp lại thơ xưa như gặp người cũ, ông ngậm ngùi viết treo trên vách dù chẳng hiểu rồi để làm gì.

Ông Tánh vốn máu lính, nổi tiếng ăn nói ba gai, chen vào:

“Ghê nhẩy, người xưa mà đã cấp tiến vậy đấy.”

Ông Hoành “tin lành” rất cừ Anh ngữ, thấy đã đến lúc cần tí đóng góp, ông nói:

“Tôi cũng dốt chữ lắm. Thơ Tàu chỉ đọc bản dịch. Mới đây tôi có đọc một bài tựa là Lover – Người tình – đăng trên một tạp chí Mỹ. Tác giả là một nữ sĩ vô danh nhưng bài thơ đã có đâu từ thế kỷ thứ mười. Nó thế này,” Ông hơi lúng túng biện bác. “Thôi thì xin các bác cứ cho phép tôi đọc nguyên văn bản Anh dịch đã nhá:

I know what it means, that damn dog barking

at a man half slumped against my door

A stockingless scamper down the stairs

to my worthless lover, drunk once more.

He needs to be helped to my silk hung bed

Can he get his clothes off on his own?

Of course he can’t. He’s as drunk as a badger,

but I guess its better than to sleep alone.”

Nhìn một vòng thấy các bạn đều bối rối, ông Hoành lại lúng túng. Ông bảo, “Xin tạm dịch hầu các bác luôn vậy,

Em biết chó em sủa cái gì

Sủa chàng lảo đảo trước hiên khuya

Thềm hoa lướt xuống chân không vớ

Em đỡ chàng lên say bét be

Đẩy giúp chàng lên giữa gấm sàng

Áo quần chàng tự cởi được chăng?

Vô phương! Chàng gục như con gấu

Thà thế còn hơn phải ngủ không.”

Đọc xong ông Hoành tin lành nhìn ông Tánh lính:

“Xứ cụ Khổng, thế kỷ thứ mười, chưa là vợ chồng thế mà bác thấy. Trai gái ngày nay buông thả cũng đến thế thôi chứ!”

Bài thơ không ngờ gây kích thích giữa mấy ông đã vào tuổi cụ. Ông Lâm hội già có hao đi tí đạo mạo ngày thường. Ông cười:

“Thú đấy. Gớm, thật là cái câu! Áo quần chàng tự cởi được chăng.” Ông đột ngột nhìn chủ nhà, hỏi bâng quơ, “Mà hỏi thật từ sang đây bác Lộc đã say lần nào chưa nhỉ?”

“Tôi ạ?” Ông Lộc có vẻ chột dạ, gãi nhẹ một chân mày, “Mà sao bác lại hỏi chuyện say?”

Ông Lâm hội già càng hứng khởi:

“Trong hội tôi lắm cụ ông vẫn tìm cớ say hoài đấy. Dĩ nhiên thế nào mà chả có lúc ta cần say, tôi biết. Này bác ạ, ý tôi không nên không phải bác bỏ qua cho, chứ tôi cứ thắc mắc cô quạnh như bác sao không sớm vào hội với chúng tôi. Có tí bác gái mới cũng vui đấy chứ. Đồng đất nước người, lỡ khi ta say còn có kẻ thương cảm, còn hỏi hộ cho mình ‘áo quần chàng tự cởi được chăng’ mà không lý thú lắm sao?”

Ông Lộc cười nhỏ nhẹ:

“Tôi vốn nghĩ tuổi mình đi tới bước nữa là sự liều lĩnh tiêu sớm hơn những điều kỳ thú còn sót lại ở cuối đường, thành ra tôi dừng lại đấy bác ơi.”

Không ai trong bọn nghĩ họ tin ông Lộc.

Kệ họ, ông Lộc cứ điềm nhiên pha thêm một ấm trà. Không nhìn mà ông biết mấy ly rượu khởi ngấm trong người ông Tánh lính. Ông e ngại rồi ra thế nào ông ta cũng kết thúc tuần trà với một câu bậm trợn bất ngờ. Mà thế thật, ông ta đã đứng lên, cười hê hê:

“Mình gặp nhau nói cho ấm chân răng vậy thôi, hữu sự ly kỳ ấy có mà vái cả tơi lẫn nón. Tôi là thằng lính già, ẩu tả quá trời, bê bối quá trời còn phải chịu cái luật đào thải, chưa phải của trời đất chi, mà của ngay cái dục trong tâm can mình đây này; nói chi con người nho nhã, mực thước như cái nhà bác Lộc. Nói các bác bỏ qua cho, hăng như tôi mà giờ cả năm chầy cối trong nhà cũng chẳng còn dịp tưởng nhớ đến nhau, thay thảy cứ lạnh như đít bụt cả.”

Ông Hoành tin lành lướt vào, sợ rồi ra ông bạn nhà binh sẽ đi xa quá. Ông nói:

“À này, từ dạo hai cháu nó đi học xa, nhà trống, sao bác…”

“Vâng, của đáng tội tôi cũng đang có ý tìm một người cho trọ, miễn tử tế, đừng ồn ào.”

“Thôi thế này thì con cháu tôi đúng là buồn ngủ lại gặp chiếu manh. Phải đấy, nhà thì rộng, cảnh lại đơn, tôi không bù khú đâu, nhưng nếu không có tí hơi người trong nhà, tôi sợ ngay cái tâm già ấm cúng của mình rồi ra cũng có ngày nó lạnh như đít bụt thật. Bác ưng, tôi báo tin cho cháu nó mừng.”

Ông Tánh cười hê hê:

“Nhưng nên xâu xấu một tí.”

Ông Lộc nghiêm trang:

“Cháu nó đi làm hay đi học?”

Ông Hoành tin lành đáp:

“Nó học hết năm đầu y khoa. USC. Khổ quá, nhập học đến nơi mà vẫn chưa tìm ra chỗ trọ gần trường.”

Ông Tánh lính ngả người ra ghế, lại cười:

“Thế là được. Bác Hoành bỏ lỗi cho. Gái y dược, hê hê, tôi tin cô cháu đã hội đủ điều kiện để không được đẹp lắm.”

*

Ông Lộc hài lòng về tính nết của Mai. Sự lặng lẽ ấy vừa đủ để không quấy rối ông một ý thơ dang dở, và sự cư xử cho thấy cô gái chắc đã có một bà mẹ nồng nàn. Mai là một đoá hoa cắm vào chiếc bình trống ở nhà này. Trong dòng nhạc đời vốn đều đều của ông Lộc quả có nhờ đó mà trổi lên hơi hướm một cảm âm lạ, không đê mê, chỉ gần với sự rung động héo hon, bàng bạc chút mặc cảm không lời của một đoá hoa kém tươi. Một cái bớt đỏ như chiếc lá phong bám một bên má, chạy xuống tới cổ, xoá đi phân nửa vẻ đẹp một chân dung bình thường. Nền giải phẫu thẩm mỹ Hoa Kỳ liệu có khả năng trả lại cho cô gái chút vốn đời khiêm tốn? Ông Lộc không biết, nhưng điều ông biết chắc Mai có đôi mắt thật lạ, đôi mắt buồn xa vắng như bài thơ đẹp, thường bị những lọn tóc rối mỏng như khói xoà xuống che khuất phân nửa, khiến người ta chỉ còn cảm mà khó đọc ra được từng chữ từng lời. Đôi mắt giống hệt đôi mắt vợ ông.

Dù đang chúi đầu vào chồng sách dưới đèn, nhưng cứ nghe thấy tiếng xe ông đậu trước nhà là cô gái đã nhanh chân ra mở cửa. Ánh sáng sau lưng như làm nảy ra khỏi tấm thân mảnh mai sự ân cần ấm như ý nghĩa gia đình. Thế nào Mai cũng nói câu quen thuộc: “Sao bác về khuya vậy, bác dùng cơm chưa, cháu dọn nhá?” Ông không tin lắm đó là hơi lửa nóng trong tình con thương cha, và thích thú tưởng tượng giữa trời đông giá có mớ tro ủ, chỉ chịu khó khơi lên một chút dư sức hâm lại một niêu cơm. Phong thái ấy chẳng khác chi vợ ông ngày nào, có thể hừng hực lửa giận chờ cơm đấy, nhưng thấy mặt rồi giận mất đâu cả. Những bữa ông về khuya quá, lại có tí hơi men, phản ứng của Mai xem ra có chút trầm trọng. Bực trông thấy. Mai ghét ông uống rượu lái xe. Nhiều lần cô bé kể cái gương ông bố ở nhà cho ông nghe với giọng doạ dẫm, “Ba ngàn tiền phạt; mỗi tuần một thứ bảy, chẵn chòi hai năm, cứ đến nơi toà chỉ định mà xem miết những cuốn phim chết người vì uống rượu lái xe.” Thật tai quái, lâu dần ông đâm nghiện cái dáng dấp giận dỗi đó! Những ngày cuối tuần Mai hay bày ra làm những món ăn nho nhỏ, như bằng chứng hùng hồn trong nhà có một cô gái thì mọi sự phải khác, người đàn ông phải được hưởng một sự sung sướng khác: một nồi riêu cua đòi nhiều tỉ mỉ, những cặp bánh dày bánh giò, những đĩa bánh cuốn nóng… Nhìn cái lối ngồi đổ bánh cuốn, tấm lưng hơi gù vẻ nhẫn nhục, đôi bàn tay thành thạo quẹt thanh tre mỏng hớt bánh trên mặt vải bốc khói của cô gái, ký ức ông cứ như bị cái móng sắc nhẹ cào sướt qua.

Ông Lộc quý Mai lắm, nhưng thành thật mà nói nếu chọn vợ cho con chắc ông sẽ có nhiều nghĩ ngợi.

Nhưng giả dụ đùng một cái căn nhà này thiếu đi sự hiện diện kia? Không thiếu lúc ông đã tự hỏi. Ông chắc ông không rối trí lắm đâu, nhưng sẽ bâng khuâng, sẽ buồn nhè nhẹ. Khối óc thi sĩ của ông hình dung ra một nữ tu, vì nhiệm vụ phải dấn thân vào đời vốn nồng nàn sướng khổ, lúc được triệu về nhìn lại những bức tường tu viện lạnh lẽo thế nào, thì chắc nỗi bâng khuâng của ông cũng đến như của chị thôi.

Nhưng ông Lộc đã lầm. Ông không bâng khuâng. Ông chết lặng. Ông không ngờ năm nay trời lạnh đến thế. Tuyết mấy năm trước chỉ lấm đầu núi, năm nay nhiều ngọn bị nhuộm trắng non nửa. Gió cuối năm như nhất quyết không muốn rừng đào rừng lê để dành được đoá nào tới lúc ra giêng. Thế mà ông có mỗi mình. Mai đã về nghỉ lễ với gia đình mãi tận San Jose. Ông đinh ninh rồi cái hơi lạnh cuối năm sẽ khó có cơ tràn vào nhà ông vì hai thằng con cũng về nghỉ lễ kịp lúc. Chúng ồ ạt trám ngay vào tất cả mọi khoảng trống, nhưng chỉ được vài ngày, tưởng như hơi lạnh trong gia đình không đủ cho chúng bão hoà bầu nhiệt khí tuổi trẻ, hè nhau thuê xe đi chơi núi mãi tận vùng tuyết phủ Denver. Hình như chúng quên trong nhà có một ông bố còn sống.

*

Tách trà cuối vẫn không làm cho ngọn núi lòng ông Lộc ấm hơn, bình tĩnh hơn, thận trọng hơn, nên ông quyết vùng dậy. Đã tới lúc ông phải dọn dẹp căn phòng. Ông lặng lẽ gom mớ ly tách, nhặt từng mẩu bánh vụn, cố nhón khỏi khe bệ cửa sổ một mẩu thuốc lá, một bã kẹo cao su, sửa lại mấy tấm tranh ảnh lệch lạc trên vách. Loay hoay chốc lát ông đã mệt nhừ. Ông ngồi bệt xuống thảm, ngao ngán hỉnh mũi, cảm nhận được sức tàn phá ghê gớm của lũ con trai. Mới mươi ngày trước thôi ông có thể phân biệt rành rẽ cái hương ngây ngây, cái thanh khí dịu dàng đến kỳ bí khi bước vào căn phòng xinh xắn, có cửa sổ liễu rủ, nhìn xuống con đường đầy những đào lê đương độ rực rỡ. Bây giờ đã nát bét cả. Căn phòng toàn mùi pizza, khói thuốc, vớ thối và xem ra còn lẫn lộn cả mùi cơm bánh lên mẻ đâu đây.

Bất giác ông nhìn thấy một cái kẹp tóc còn dính vài sợi tóc đen mềm nổi trên mặt thảm trắng. Ông nhặt lên, rút sợi tóc, ngắm, lòng nảy bâng khuâng. Trong tủ áo lòi ra phần cuối chiếc giày nỉ màu xanh lam. Ông nhớ đến cái gót chân tròn trắng như quả trứng ngỗng và những bước đi loanh quanh êm ái. Ông bần thần đẩy cánh cửa tủ hé sang bên. Nơi góc tủ còn vắt lơ lửng chiếc áo lót mình trắng mỏng. Bóng tối như phả lên nó vài bệt mồ hôi sâm sẫm. Khi không ông đứng nhìn trân lúc lâu, rồi nửa hồi hộp, nửa dè dặt ông gỡ manh áo khỏi móc. Trong góc phòng bỗng như có một ma lực kéo ông ngồi xuống. Rõ ràng đã có đôi ba tiếng tim lỗi nhịp. Phải lúc lâu lắm ông mới có gan trải tấm áo trên hai đầu gối. Cổ tay cụt vuốt nhè nhẹ, thật nhẹ trên lớp vải mát mềm như da người ẩm. Rồi mắt ông sụp xuống, như ngấm thuốc ngủ, như đê mê. Ông nhớ có lúc ông đã cảm thấy từ một bệt mồ hôi khô thốt bốc hơi, thơm tho ngấm vào nhiều sợi gân nhạy cảm chỗ cổ tay, đến nỗi trong tiếng thở dài vô cớ sau đó như có phả ra cả cái kỳ hương ấy. Rồi ông không còn nhớ ông đang ở đâu, không nhớ đến căn nhà giá lạnh, đến núi, đến thơ, đến những gian nan đường đời.

Có cơn gió mạnh quất cành liễu vào cửa kính. Ông Lộc choàng dậy với cơn rùng mình sung sướng. Ông thấy gai ốc nổi đầy hai cánh tay. Đôi mắt đẹp buồn của cô gái từ tấm ảnh vừa trố lên. Ông cuống quýt như kẻ bị bắt quả tang đang làm một điều hết sức dị hợm, hay như người quá cao hứng đánh mất đi sự thận trọng, làm đổ toé tách trà nóng ở một chỗ trang nghiêm. Nhưng giờ thì còn gì nữa. Buông thả mất rồi. Ông lỳ lợm ôm riết tấm áo vào ngực, tiêng tiếc khép mắt tìm lại cái cảm giác mới trôi qua – ẩn mật, nôn nao, giục giã và tràn trề./.