Danh ngôn

Trong mọi cộng đồng, chúng ta cần một nhóm thiên thần gây rối.

We need, in every community, a group of angelic troublemakers.

(Bayard Rustin – trích bài phát biểu tại New York City 1963)

Trong mọi trường hợp, chắc chắn rằng sự thiếu hiểu biết, đi kèm với quyền lực, là kẻ thù tàn bạo nhất có thể có của công lý.

It is certain, in any case, that ignorance, allied with power, is the most ferocious enemy justice can have.

(James Baldwin - No Name in the Street 1972)

Các cuộc cách mạng và các cá nhân có thể bị giết hại, nhưng bạn không thể giết chết các ý tưởng.

While revolutionaries and individuals can be murdered, you cannot kill ideas.

(Thomas Sankara, một tuần trước khi bị ám sát, 1987)

Không có cảm giác nào cô đơn hơn việc bị chính đất nước mình trục xuất.

There's not a more lonely feeling than to be banished by my own country.

(Kiyo Sato – Kiyo’s Story 2009)

Ban Biên tập

Địa chỉ liên lạc:

1. Thơ

tho.vanviet.vd@gmail.com

2. Văn

vanviet.van14@gmail.com

3. Nghiên cứu Phê Bình

vanviet.ncpb@gmail.com

4. Vấn đề hôm nay

vanviet.vdhn1@gmail.com

5. Thư bạn đọc

vanviet.tbd14@gmail.com

6. Tư liệu

vanviet.tulieu@gmail.com

7. Văn học Miền Nam 54-75

vanhocmiennam5475@gmail.com

Tra cứu theo tên tác giả

Thứ Tư, 27 tháng 9, 2017

‘từ khi tôi đốt thuyền’

Vĩnh Quyền

image

Zac Herman

Tác phẩm văn học song ngữ là phân khúc khiêm tốn nhất trong thị trường sách Việt Nam. Dù văn nhân Việt trong quá khứ có truyền thống sử dụng đồng thời hai văn tự Hán, Nôm – và thêm văn tự thứ ba ‘quốc ngữ la-tinh’ từ cuối thế kỷ 18 – nhưng hiện nay sáng tác song ngữ là công việc không tưởng ở Việt Nam, có chăng chỉ là hiện tượng lẻ loi.

Từ lâu trên thế giới đã vang dội những cái tên sáng tác bằng ngôn ngữ ngoài tiếng mẹ như Vladimir Nabokov (Nga) Joseph Conrad (Ba Lan), André Brink (Nam Phi), Elif Safak (Thổ) Jack Kerouac (Pháp-Canada) Samuel Beckett (Ai-len), Agota Kristof (Hungary) Rolando Hinojosa-Smith (Mỹ), Anna-Kazumi Stahl (Mỹ-Nhật)… Ngôn ngữ thứ hai họ sử dụng là những ngôn ngữ phổ biến nhất trên trái đất: Anh, Pháp và Tây Ban Nha.

Trong bối cảnh như vậy càng thấy rõ Zac Herman là trường hợp khác, cá biệt, thậm chí chưa từng có trước đây: một nhà văn người Mỹ viết truyện, làm thơ song ngữ, mà ngôn ngữ thứ hai là tiếng Việt, đăng trên báo Việt (Tuổi Trẻ, Thanh Niên, Lao Động), xuất bản tại các nhà xuất bản Việt Nam.

Zac hướng đến tiếng Việt trong môi trường văn chương. Nhìn vào mối quan tâm và hoạt động của anh đối với tiếng Việt chắc nhiều người Việt sẽ thấy quý mến anh và không khỏi băn khoăn về bản thân: Dịch 10/16 truyện ngắn trong tập The Dusk Wolf/ Sói Hoàng Hôn của Vĩnh Quyền (NXN Hội Nhà văn, 2015) – sáng tác tập truyện song ngữ Who Can Fly?/ Ai Biết Bay? (NXN Hội Nhà văn, 2016) – ba năm đọc và dịch bộ truyện cổ Việt Nam sang tiếng Anh (NXB Thế Giới, tập I, 2017) – gần bốn năm đọc và dịch Thi Nhân Việt Nam, công trình nghiên cứu-phê bình xuất sắc của Hoài Thanh-Hoài Chân xuất bản từ 1942 – sáng tác tập thơ song ngữ Dragon Beach/ Bãi Biển Rồng (NXB Hội Nhà văn, 2017) – đang nghĩ đến việc đọc tiếng Việt cổ trong Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi và dịch sang tiếng Anh…

Đôi khi tôi không biết rồi Zac sẽ chuyên tâm dịch văn học Việt-Anh hay sáng tác song ngữ Anh-Việt, hoặc song song. Nhưng tôi biết chắc một điều: những gì Zac dành cho tiếng Việt khởi từ tình yêu và niềm vui sáng tạo.

Thơ giới thiệu trong tập Bãi Biển Rồng được sáng tác những năm gần đây, là những năm Zac Herman chọn Việt Nam làm nơi sống và yêu thương. Chúng đứng cạnh nhau mà khác đến mức đối lập về cấu tứ cũng như hình thức thơ.

Đôi khi giản dị như ghi chép một mẩu chuyện ngày thường gặp tình cờ trên đường phố.

Người bán vé số, bố trẻ

Có con gái nhỏ hơn tuổi.

Bố đưa xấp vé số

Thả bé yêu như cún

Vào quán cà phê ngoài trời.

Bé ngây thơ đến bên khách

Lẽ tự nhiên, khách mua vé

(Người bán vé số)

Đôi khi như tường thuật một chuyến đi đáng nhớ với những con người cụ thể trong không gian thời gian cụ thể.

Bắt xe đi Ninh Bình; bầu trời mù xám

Thuyền chèo lắc lư, trôi vào động Tam Cốc

Chùa Bái Đính khôi nguyên, Hoa Lư đổ nát

Cúc Phương lặng xanh. Quay về phố lạnh

Ăn tôm và dứa, uống trà gừng nóng

Cà phê ngoài trời. Cô chủ lúc đầu e dè

Mở lòng ra khi tôi nói tiếng Việt

(Một chuyến đi, một bạn cũ)

Và nếu ta chưa biết nhà thơ người Mỹ đã và đang dành nhiều thời gian đọc Thơ mới Việt Nam (1932-1945) hẳn sẽ ngỡ ngàng khi gặp dòng ghi chú phong cách ‘cổ điển’ ngay dưới tựa đề bài thơ trên.

Cảm hứng bài Gửi Trương Tửu của Nguyễn Vỹ.

Thậm chí trong Bãi Biển Rồng ta còn gặp Zac Herman như một trong những kẻ hát đồng dao cuối cùng với cái nhìn trẻ thơ trong veo và nhân ái trước thế giới chung quanh.

Voi sở thú

Già cằn cỗi

Da khô nẻ

Bụi phủ đầy

Gầy trơ xương

(Voi sở thú)

Thật ra cái mà ta thoáng tưởng gần gũi, thậm chí ‘cổ điển’ kia là một trong hình thức mở của thơ hiện đại, hướng đến nghệ thuật tối giản. Cảm giác đó càng rõ khi đọc những bài thơ không có câu chuyện nào của Zac.

Một giọng nói

Đầy căn phòng

Không biết chắc

Có hay không

(Giọng nói)

Không bất kỳ không gian, thời gian.

Một nơi nào không tên

Không thể gọi tên, tồn tại

Trong đầu

(Trong đầu)

Nhân vật ngôi thứ nhất cũng không hẳn là cái tôi tác giả.

Một giọng nói

Đầy căn phòng

Tôi biến mất

Có đôi lần

Tôi là tường

Có đôi lần

Tôi khoảng không

(Giọng nói)

Thơ Zac thuần túy sinh ra từ suy tư hay cảm giác.

Ngón tay vô dụng

Cảm giác

Không còn liên lạc

Bàn tay bẻ vụn

Những thỏi đất

(Quay về)

Từ cơn mê sảng.

Mê sảng trên sàn tôi tự hỏi

Cơ may nào tôi hiện hữu lúc này

(Bóng ma)

Và cả từ nỗi ám ảnh cái chết.

Người ta sẽ đến mang ghế đi

Buông rèm, lần nữa phòng lại tối

Mấy trang ghi chép, xâu chìa khóa

Và ví da sờn trên bàn viết

Là những gì còn lại của tôi

(Còn lại)

Có thể nhận ra thơ Zac hầu hết là kết quả của quá trình khép kín giữa quan sát suy ngẫm – thăng hoa cảm xúc – và hội nhập chủ thể với khách thể. Nhà thơ được đánh thức bởi khoảnh khắc diệu kỳ, hoặc đắm chìm vào chi tiết nhỏ nhặt, quen thuộc đến mức ta thường trượt qua trong đời sống. Chẳng hạn ba ô cửa sổ trên bờ tường một ngôi nhà cao tầng.

Ba ô cửa trên góc tường

Vài chậu kiểng héo tô điểm

Bồ câu trắng, hồng bay đến

Tìm chỗ trú vào ban mai

Rồi đến một lúc chính người quan sát-nhà thơ biến thành ô cửa thứ tư trong toàn cảnh.

Ba ô cửa trên góc tường

Từ ô cửa nhà tôi ngắm

(Ba ô cửa)

Thơ Zac lắm khi như lạc vào cõi giới tịch mịch Đông phương, cả tứ lẫn lời, nhưng cuối cùng vẫn là một căn cước thơ hiện đại Mỹ, khác chăng là một người Mỹ tha hương – American expatriate, rong ruổi khám phá cái tôi trong một nền văn hóa dị biệt. Và ta lạnh người khi nhà thơ dự cảm nơi ban đầu chọn làm điểm dừng sẽ là miền an nghỉ vĩnh cửu.

Trên bãi biển rồng, tôi cắm trại

Tự nhủ ‘từ hôm nay

Mình sống giữa các con rồng’

Lặng yên, trong những hàm rồng, lìa đời

(Bãi biển rồng)

Lựa chọn này không là thoáng chốc mà được nuôi dưỡng, lớn dần một quyết định, bình thản và giản dị dẫu vẫn có nước mắt trong lòng kẻ đốt thuyền, ở lại.

Giản dị. Như tôi đã muốn

Phải nhắc mình khi đứng dậy bước đi

Rằng tôi chẳng thể rời xa bãi biển

Là điều tôi biết

Từ khi đốt thuyền

Và khóc thầm lặng

(Giản dị)

Một lựa chọn vừa hạnh phúc vừa mất mát hệ quả như vậy hẳn lời nói ngày thường sẽ không diễn đủ, nên phải nương đến đôi cánh mỏng của thơ. Nhưng nếu thơ cũng bất lực, thì sao hở Zac?

Bản Anh ngữ

When I burned the boat

VINH QUYEN

Works of bilingual literature comprise the smallest share of the Vietnamese book market. While scholars of the past had a tradition of using both Chinese and Nôm scripts – including the romanized ‘national script’ since the late 18th century – presently, however, bilingual creation is not being considered in Vietnam, or at most, it is a solitary phenomenon.

For long, we have been familiar with writers who create in a language not their first. These include Vladimir Nabokov (Russia) Joseph Conrad (Poland), André Brink (S. Africa), Elif Safak (Turkey) Jack Kerouac (Canada) Samuel Beckett (Ireland), Agota Kristof (Hungary), Rolando Hinojosa-Smith (U.S.), Anna-Kazumi Stahl (U.S.-Japan). The languages they use are some of the most popular on earth: English, French and Spanish.

In this context, it is even more clear that Zac Herman is different, particular, even unprecedented: an American writer who creates bilingual stories and poems in his second language of Vietnamese, published by Vietnamese newspapers (Tuổi Trẻ, Thanh Niên, Lao Động) and publishing houses.

Examining Zac’s focus and actions, surely this country’s speakers will both appreciate and be surprised by him: Co-translator of the short story collection The Dusk Wolf - Sói Hoàng Hôn by Vĩnh Quyền (Writers Assoc. Pub., 2015); Translator of The Moon Bamboo and Other Stories: Vietnamese Tales and Legends, Vol. 1 (World Pub., 2017); author of the bilingual collection Who Can Fly? - Ai Biết Bay? (Writers Assoc. Pub., 2016); and now author of this short bilingual poetry collection. I do not know whether Zac plans to devote himself to literary translation, bilingual writing, or both at the same time. However, of this I am sure: That which Zac reserves for the Vietnamese language comes from a love and a joy to create.

The poems contained in Dragon Beach were written in the years following Zac’s decision to make Vietnam the land where he would live and love. They stand beside one another, and yet are different to the point of contrary in terms of idea and structure.

At times they are simple like notes describing an everyday scene come across on the street.

The lottery man is a young father,

Daughter smaller than her age.

He hands her a booklet of tickets

Releasing her lovingly, like a puppy,

Into the open air café.

...

The girl glides naively among patrons

Naturally, the tickets are bought

(The lottery man)

At times they recount memories shared with real people in concrete time and space.

Took a car to Ninh Binh; the sky misty grey

The rowboat swayed, slipping beneath Tam Coc caves

Bai Dinh Pagoda, grand and pristine, Hoa Lu decayed,

Cuc Phuong silent and green. In town we ate

Fresh shrimp and pineapple, hot ginger tea

At an outdoor café. The owner, at first reserved,

Opened up when I spoke Vietnamese

(A trip, an old friend)

And if we did not know this American poet read extensively Vietnamese New Poetry (1932-1945), we might be puzzled to see this classical-style dedication beneath the title of the aforementioned poem.

Inspired by For Trương Tửu by Nguyễn Vỹ.

In Dragon Beach we even meet Zac Herman as one of the last Đồng dao artists (The Vietnamese oral tradition of children’s poems and songs since long ago), with the pure and compassionate eyes of a child before the world around him.

Elephant in the zoo

Old and thin

Sun chapped and

Dust covered skin

Revealing rib bones.

(Elephant in the zoo)

But in fact, that which could for a moment be seen as familiar, even classical, is rather of the open form found in modern poetry, approaching reductivism. This sense is most apparent in poems altogether absent of a narrative.

A voice

Fills the room

Without certainty

Whether or not

...

I’ll hear it again

(A voice)

And without time or space.

Somewhere nameless

That cannot be named, it exists

In my head

(In my head)

The central character is not always completely the author.

A voice

Fills the room

I disappear

At times

I am the walls

At times

I am the air.

(A voice)

Zac’s poems are born purely from meditation, from feeling;

Loss of fingers,

Feeling

Loss of touch.

Hands crumble,

Earthen clods.

(Return)

From delirium;

And I wonder, delirious on the floor

Whether there is a chance I am real now

(Ghost)

And from an obsession with death.

Someone will come and take out the chair

Close the curtain making the room dark again

A few handwritten notes, ring of keys,

And an old wallet on the table is

What’s left of me

(What’s left)

It can be said that Zac’s poems are the result of a self-contained process between thoughtful observation, emotional sublimation, and integration of subject and object. The poet is awakened by (and subsequently immersed in) what are to him marvelous moments, and what may be to us details overlooked in everyday life. Take, for instance, three windows on the wall of a building.

Three windows on the corner

Wilted potted plants adorn them

White and rose doves swarm in

Finding shelter in the morning.

Until the time comes when the observer-poet himself becomes the fourth window of the scene.

Three windows on the corner

From my own window, adore them

(Three windows)

Zac’s poems often wander in the peaceful world of the East, both by ideas and language, though in the end they still identify as modern American, despite the fact this uprooted expatriate is on a journey to explore the self in a foreign culture. And then, a startling moment when the poet predicts that the first stop on this journey is also the place he will be laid to rest.

On Dragon Beach I staked my tent

And told myself, “From today

You live among the dragons”

Quietly, cradled in their jaws, I died

(Dragon Beach)

The choice is not an impulsive one, but has been nurtured and raised into a cool and simple resolve, though not without tears for this burner of boats.

Simple. Like I wanted to be

I reminded myself as I stood up to go

Since I could no longer exit the beach

I had made sure of that

When I burned the boat

And wept quietly.

(Simple)

A choice both of happiness and of loss. Such a consequence surely cannot be fully expressed in normal words, so we must rely on those of poetry. But, if poetry also fails us, what then, Zac?

_________

THREE POEMS FROM

DRAGON BEACH

DRAGON BEACH

On Dragon Beach I staked my tent

And told myself, ‘From today

You live among the dragons.’

The dragons slept beneath the sand

During the day.

At night, when it was cool–

When it was calm, they would appear.

‘Are you not scared?’ They said to me,

Gathered round my tent. They breathed

Heavy bellowed breaths that kept me warm;

I answered softly, almost like a sigh.

Quietly, cradled in their jaws, I died.

BÃI BIỂN RỒNG

Trên bãi biển rồng, tôi cắm trại

Tự nhủ ‘từ hôm nay

Mình sống giữa các con rồng’.

Rồng ngủ ở dưới cát

Vào ban ngày.

Đêm, khi trời dịu mát –

Khi trời êm đềm, chúng hiện ra.

‘Mày không sợ bọn tao sao?’ Chúng nói,

Xúm quanh lều, chúng thở

Hơi thở gầm gừ sưởi ấm người tôi;

Tôi trả lời khẽ như một thở dài.

Lặng yên, trong những hàm rồng, lìa đời.

CÒN LẠI

Chiều muộn ngày nắng hanh tháng Sáu

Đong đưa vàng hoa thêu mẫu đơn

Tán cọ bồng lên cơn gió cuốn

Sàn trống, ghế anh đào ngập sáng

Tầng hai biệt thự một thư phòng.

Tôi đã rời đi trong phút giây

Áo choàng lưng ghế vẫn còn đấy

Như thể một mai tôi sẽ về.

Người ta sẽ đến mang ghế đi,

Buông rèm, lần nữa phòng lại tối

Mấy trang ghi chép, xâu chìa khóa

Ví da đã cũ để trên bàn

Chỉ có thế còn lại của tôi.

WHAT’S LEFT

The late afternoon on a sunny June day

Sways in the embroidered gold peonies

A gust heaves the palm canopy

Light floods the bare floor and cherrywood chair

In the second floor workspace of the villa.

I am gone from the chair, gone recently

Since the striped collared shirt is

Still draped on its back, as if I’d return.

Someone will come and take out the chair,

Close the curtain making the room dark again

A few handwritten notes, ring of keys,

And an old wallet on the table is

What’s left of me.

SIMPLE

Simple. Gulls dart over cold land

Where I slept last night

Beyond the reach of the sea

A touch I sought in the dark

Sand between my teeth

I drank a palm of salt water

Swallowed it gratefully.

Simple. Like I wanted to be

I reminded myself as I stood up to go

Since I could no longer exit the beach

I had made sure of that

When I burned the boat

And wept quietly.

GIẢN DỊ

Giản dị. Hải âu bay vút miền lạnh

Nơi tôi ngủ đêm qua

Ngoài tầm đầu ngọn triều

Chờ cái chạm của biển

Hạt cát trôi vào miệng

Vốc nước mặn, uống

Với lòng biết ơn.

Giản dị. Như tôi đã muốn

Phải nhắc mình khi đứng dậy bước đi

Rằng tôi chẳng thể rời xa bãi biển

Là điều tôi biết

Từ khi đốt thuyền

Và khóc thầm lặng.