Danh ngôn

Trong mọi cộng đồng, chúng ta cần một nhóm thiên thần gây rối.

We need, in every community, a group of angelic troublemakers.

(Bayard Rustin – trích bài phát biểu tại New York City 1963)

Trong mọi trường hợp, chắc chắn rằng sự thiếu hiểu biết, đi kèm với quyền lực, là kẻ thù tàn bạo nhất có thể có của công lý.

It is certain, in any case, that ignorance, allied with power, is the most ferocious enemy justice can have.

(James Baldwin - No Name in the Street 1972)

Các cuộc cách mạng và các cá nhân có thể bị giết hại, nhưng bạn không thể giết chết các ý tưởng.

While revolutionaries and individuals can be murdered, you cannot kill ideas.

(Thomas Sankara, một tuần trước khi bị ám sát, 1987)

Không có cảm giác nào cô đơn hơn việc bị chính đất nước mình trục xuất.

There's not a more lonely feeling than to be banished by my own country.

(Kiyo Sato – Kiyo’s Story 2009)

Ban Biên tập

Địa chỉ liên lạc:

1. Thơ

tho.vanviet.vd@gmail.com

2. Văn

vanviet.van14@gmail.com

3. Nghiên cứu Phê Bình

vanviet.ncpb@gmail.com

4. Vấn đề hôm nay

vanviet.vdhn1@gmail.com

5. Thư bạn đọc

vanviet.tbd14@gmail.com

6. Tư liệu

vanviet.tulieu@gmail.com

7. Văn học Miền Nam 54-75

vanhocmiennam5475@gmail.com

Tra cứu theo tên tác giả

Thứ Ba, 28 tháng 10, 2014

NHÀ VĂN VÀ LỊCH SỬ (1)

Đào Trung Đạo

Ðào Trung Ðạo, cựu giảng viên trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam (1968-1975).
Thơ, đoản văn (bút hiệu Thạch Trân) đăng trên Sáng Tạo 1957-1958.
Tiểu luận, truyện dịch, phê bình văn học, lý thuyết phê bình văn học,
thơ, đăng trên Văn, Văn Học, Hợp Lưu, Thế Kỷ 21.
Từ 2005 phụ trách mục Điểm Sách của Ban Việt ngữ Ðài Tiếng Nói Hoa Kỳ (VOA).

(theo Gio.O)

clip_image001Trong giáo trình La Préparation du roman/Chuẩn bị của tiểu thuyết (2) bài giảng ở Collège de France của Roland Barthes trong hai niên khóa 1978-1979 và 1979-1980 – đây cũng là tác phẩm cuối cùng của Roland Barthes (1915-1980) nhà lý luận và phê bình văn chương hàng đầu của Pháp cuối thế kỷ 20 đã giành những giờ giảng cuối cùng để đề cập nan đề mối tương quan giữa nhà văn và lịch sử. Những suy tưởng của Barthes rất đáng xem xét đứng ở vị thế của nhà văn Việt Nam hôm nay.

Về quan hệ của nhà văn với lịch sử: Barthes cho rằng có hai vấn đề. Vấn đề thứ nhất: Nhà văn hình dung, mô tả lịch sử như thế nào? Vì đó là một vấn đề mỹ học (problème esthétique) thuộc về lý thuyết lịch sử văn chương chứ không thuộc về giáo trình này nên Barthes không đề cập mà chỉ đưa ra cảnh báo về ý kiến cho rằng những Tác phẩm Lớn mô tả Lịch sử Lớn ở những khía cạnh, sự kiện lớn. Điều này đôi khi đúng (như quyển Chiến tranh và Hòa bình của Tolstoï chẳng hạn) nhưng thường không nhất thiết phải là như vậy. Vấn đề thứ hai: sự gần gũi với cuộc sống, hiện sinh tính (existentialité) của nhà văn trực tiếp gắn liền với lịch sử được đặt ra trong câu hỏi: “Cái gì, trong Lịch sử, trong Lịch sử của tôi, thúc đẩy tôi hành động? Sự hiện hữu của tôi cấu trúc, biểu đạt Lịch sử của tôi như thế nào, làm sao cho sự biểu đạt này chuyển hướng Tác phẩm của tôi, hay đúng hơn, quan hệ của tôi với Tác phẩm?”(3). Barthes lấy thí dụ điển hình nhất là Chateaubriand tác giả Mémoires d’outre-tombe nhà văn “dấn thân” mãnh liệt vào lịch sử (Barthes đùa cợt: plus que Sartre et Malraux réunis/hơn cả Sartre và Malraux nhập chung lại). Mối liên hệ giữa nhà văn và Lịch sử dao động giữa hai giả định: hoặc 1) vì bị (hay tự) loại bỏ mình tận tuyệt khỏi hiện tại, bị/tự ném ra ngoài Lịch sử đang diễn ra, và rồi tự mình ném mình trở lại cái Lịch sử đã bị xóa bỏ, trở về Quá khứ một cách đam mê và tuyệt vọng, và không yêu mến cũng như không muốn biết bất cứ điều gì hiện thời đang xảy ra. Đó là “Quá khứ chủ nghĩa/Passéisme) hay Hoài niệm (Nostalgie); hoặc 2) Thái độ cứng đầu, say mê khi tuyên bố rằng mình không có mặt ở đó [lịch sử hiện thời] cũng dẫn đến việc nhân hai hiệu ứng này nên nhà văn sẽ có cảm thức bén nhậy “vừa có mặt vừa không có mặt ở đó/ est à la fois là et pas là” nghĩa là đứng ngay giữa chỗ nối (jointure) của thế giới mới, khúc nối của thế giới khuất dạng, đã qua, với thế giới hiện tại đanh hình thành, và chỗ nối này được nhà văn nghĩ rằng đó là cái để viết (la chose à écrire). Nhưng vấn đề ở đây là phải chỉ ra, biết rõ và quyết định về sự Đứt lìa (Rupture) của thế giới và của Lịch sử mình đã trải nghiệm một cách sâu xa. Tuy nhiên, có phải cuộc đời nhà văn nào cũng chứa đựng đứt lìa Lịch sử không? Barthes cho rằng tuy câu trả lời có thể là không, nhưng cảnh giác đừng nên chỉ đánh giá Sự kiện Đứt lìa (Fait de Rupture) qua những thay đổi chính trị. Riêng với Barthes biến cố Tháng Năm năm 1968 [cuộc nổi dậy của sinh viên Pháp] là rất quan trọng về mặt sáng tạo vì hậu quả của biến cố Lịch sữ này làm nổi lên sự cần thiết, nỗi âu lo (angoisse) và cả việc tự thích nghi vì dù cho sự liên tục của biến cố này có kéo dài hay ngưng lại hay không nhưng vì Lịch sử là sự thích nghi không ngừng, nên “nếu ta nối kết nhiệm vụ này với nhiệm vụ viết, tôi tin rằng bạn sẽ tìm thấy một công thức hóa học nào đó của Tác phẩm như một cái phải làm: một công thức khó khăn, chóng mặt, bởi chính hắn [người viết] là một chủ thể đang thay đổi phải tự thích nghi với sự thay đổi: vấn đề của học thuyết Einstein: thế giới và tôi đồng thời thay đổi nhưng lại không có một điểm chuẩn, điểm chuẩn này trên nguyên tắc hay từ bản chất, lảm cho chuẩn xác tính chính đáng của sự thay đổi→ “Điều đó chẳng làm tôi hài lòng”: nhưng phải chăng thế giới hay chính tôi đã thay đổi? Tôi biết đổ lỗi cho ai đây? Cho thế giới hay cho chính mình?”(4)

Vấn đề Barthes đặt ra ở trên thật đáng suy ngẫm đối người viết/nhà văn Việt trong hoàn cảnh không thể tránh khỏi việc đối diện biến cố lịch sử tháng Tư, 1975, một Đứt lìa trong cuộc đời nhà văn. Đứt lìa này cũng có khả năng là một đoạn tuyệt vì đó là thảm họa chụp xuống văn chương. Thanh Tâm Tuyền sau khi ra tù đã tự vấn: “Có thể nào viết như không có gì xảy ra?” Vấn đề đặt ra ở đây, theo chiều hướng suy tưởng của Barthes, là cần xét đến tính chính đáng (lời cảnh báo của Barthes: không chỉ đánh giá biến cố lịch sử này qua những thay đồi chính trị) nhưng là sự thay đổi ở cả hai phía lịch sử và nhà văn để có giải pháp thích đáng cho thái độ thích nghi với sự thay đổi này. Cách Thanh Tâm Tuyền đặt câu hỏi trên ngầm chứa câu trả lời “không”dẫn tới sự thay đổi viết/văn tự. Việc tìm ra ra giải pháp cho chính mình là một tra vấn và thách thức đối với người viết. Dù cho đó có là “một công thức khó khăn, chóng mặt” như Barthes nhận định. Nhưng có điều chắc chắn cuộc đời người viết đã mang mặng một Đứt lìa Lịch sử như vết thương khó lành. Đứt lìa này là một sự cố văn chương: Đứt lìa để lại Dấu vạch/vết không bao giờ phai nhòa, không thể hàn gắn vì chứa đựng độc dược hủy tạo – độc dược hiểu theo nghĩa pharmakon của Derrida – nhưng nhiệm vụ và văn tự/bản viết của nhà văn hôm nay phải thích nghi với độc dược này ra sao? Con đường hủy tạo của biệt phân mở ra trong Văn tự thảm họa.

Hắn rũ bỏ ký ức, và đi
Trong bóng tối ruỗng im quái gở
Lúc dứt lặng trận chiến man rợ
Hắn rũ bỏ ký ức, và đi
Trong rừng sâu thẳm cây trút lá
Ngọn gió mông muội thổi tràn trề
Bấy giờ hồi trằn trọc lịch sử
Lịm từng cơn ảm đạm ê chề
Sớm hay khuya không biết đâu nữa
Thời khắc tự hủy hoại vắng tanh

……….

Hắn đưa chân theo bước khôn cầm
Trên lối u mê mờ hoặc
Mọi nỗi niềm đều giấu mặt
Mọi sự thực đều lang thang
Hắn đi như thế, không thể khác

Thanh Tâm Tuyền, Prélude cho Những Chuyến Đi, Về (1982)

Vết nứt rạn lịch sử này không những đẩy người viết ra khỏi xã hội mà còn ra khỏi quê nhà: thảm họa văn tự tẩm độc đánh dấu khởi đầu cho văn phong xuyên thủng diễn ngôn quá khứ trên lộ trình cõi ngoài tìm kiếm cái Cùng Một Khác Trung Tính của Văn chương Vô xứ hôm nay:

Mai tôi đi, tôi đi vào sương đêm,
Sương rất độc tẩm vào người nỗi chết.

Thanh Tâm Tuyền (chép lại theo trí nhớ)

_____________________________

(1) Muốn xem trọn loạt bài về Roland Barthes của Đào Trung Đạo xin truy cập trang mạng văn chương Gio-O.com/ Đào Trung Đạo, 3-ZERO, ± triết học ± lý thuyết văn chương ± phê bình văn chương <cùng một khác.

(2) Roland Barthes, La Préparation du roman I & II, Cours et Séminaires au Collège de France, Edition du Seuil, Paris 2013.

(3) La Préparation, trang 360: Le second problème, plus proche d’une existentialité de l’écrivain (et non d’une technique esthétique) = qu’est-ce qui, dans l’Histoire, dans mon Histoire, vient me mobiliser? Comment est-ce que mon existence structure mon Histoire, l’articule, de telle sorte que cette articulation infléchisse mon Œuvre, ou mieux encore, mon rapport à l’ Œuvre.

(4) La Préparation, trang 362: … si l’on joint cette tâche à celle d’écrire, vous trouvez, je crois, une certain formule chimique de l’Œuvre comme chose à faire: formule difficile, vertigieuse, car c’est un sujet lui-même changeant qui doit s’adapter au changement; problème einsteinien: le monde et moi changeons en même temps mais sans qu’il y ait un repère qui, de droit, ou de nature, étalonne la justesse du changement → “Ceci ne me plait pas”: mais est-ce le monde ou moi qui a change? De qui me plaindre? Du monde ou de moi?