Danh ngôn

Trong mọi cộng đồng, chúng ta cần một nhóm thiên thần gây rối.

We need, in every community, a group of angelic troublemakers.

(Bayard Rustin – trích bài phát biểu tại New York City 1963)

Trong mọi trường hợp, chắc chắn rằng sự thiếu hiểu biết, đi kèm với quyền lực, là kẻ thù tàn bạo nhất có thể có của công lý.

It is certain, in any case, that ignorance, allied with power, is the most ferocious enemy justice can have.

(James Baldwin - No Name in the Street 1972)

Các cuộc cách mạng và các cá nhân có thể bị giết hại, nhưng bạn không thể giết chết các ý tưởng.

While revolutionaries and individuals can be murdered, you cannot kill ideas.

(Thomas Sankara, một tuần trước khi bị ám sát, 1987)

Không có cảm giác nào cô đơn hơn việc bị chính đất nước mình trục xuất.

There's not a more lonely feeling than to be banished by my own country.

(Kiyo Sato – Kiyo’s Story 2009)

Ban Biên tập

Địa chỉ liên lạc:

1. Thơ

tho.vanviet.vd@gmail.com

2. Văn

vanviet.van14@gmail.com

3. Nghiên cứu Phê Bình

vanviet.ncpb@gmail.com

4. Vấn đề hôm nay

vanviet.vdhn1@gmail.com

5. Thư bạn đọc

vanviet.tbd14@gmail.com

6. Tư liệu

vanviet.tulieu@gmail.com

7. Văn học Miền Nam 54-75

vanhocmiennam5475@gmail.com

Tra cứu theo tên tác giả

Thứ Hai, 26 tháng 9, 2016

“NGƯỜI MAN DI HIỆN ĐẠI” Nguyễn Văn Vĩnh và tính phức tạp của công cuộc hiện đại hóa thuộc địa ở Việt Nam – Phần 2

Phần 1

Cuộc cách mạng văn hóa của Nguyễn Văn Vĩnh.

Nhà in

Cho đến cuối những năm 1920, Nguyễn Văn Vĩnh quan tâm đến canh tân văn hóa hơn là cách mạng chính trị. Từ năm 1907, ông trở nên mạnh dạn nhờ sự khám phá của ông về nước Pháp, về ngành in hiện đại, về báo chí và tác dụng cũng như sự tác động của nghệ thuật vào những đột biến trong xã hội. Ông Vĩnh đã tập trung tâm huyết vào việc xúc tiến một cuộc cách mạng văn hóa và xã hội trước một xã hội cổ truyền của người Việt Nam mà ông dựa vào các tư tưởng của người Pháp. Báo chí, dịch thuật, sân khấu và phim ảnh sẽ trở thành thứ vũ khí mới trong cuộc đấu tranh này (mà cũng là một cuộc chiến chính trị).

Nguyễn Văn Vĩnh học nghề in ấn ngay trong công việc, rõ ràng là không được đào tạo từ trước. Tình bạn lâu năm với Ernest Babut, nhất là với F.H.Schneider, một chủ nhà in nổi tiếng, người thường cộng tác với báo chí bản địa, đã giúp cho Nguyễn Văn Vĩnh sớm nắm bắt được những nguyên lý của nghề báo. Khoảng từ những năm 1910, do cộng tác với Schneider, ông lập ra Phổ thông giáo khoa thư xã. Chủ yếu là là để lập ra một bộ sưu tập, từ đó xuất bản sách in bằng chữ Quốc ngữ, nhằm nuôi dưỡng một lớp bạn đọc người Việt mới xuất hiện.

Trong những năm 1920, ông lại cộng tác với E.Vayrac để phát hành một loạt sách còn rộng rãi hơn trước với tiêu đề Âu Tây tư tưởng. Đươc trợ cấp từ Chính phủ một phần, và chính ông đã bỏ tiền túi để đầu tư vào các hạng mục thiết bị kỹ thuật in ấn hiện đại, với giấy in, mực in, hóa chất đều nhập khẩu từ Châu Âu.

Khi ông sang Pháp năm 1922, ông thường tìm cách “trốn” khỏi những điều được gọi là mới lạ của cuộc Đấu xảo thuộc địa chỉ nhằm trưng bày và trói chặt hình ảnh một Việt Nam cổ hủ mà ông rất ghét, và để chuyên tâm đi tìm mua sắm những thiết bị mới phục vụ cho kỹ nghệ in ấn. Ông lặn lội sang cả nước Đức để mò mẫm(29).

Dịch thuật

Nhờ những thiết bị ấn loát này, Nguyễn Văn Vĩnh đã chiếm được một vị trí chiến lược để lao vào một cuộc chiến đấu trong mặt trận văn hóa trọng đại. Ông dịch các tác phẩm văn học, chính trị quan trọng của Châu Âu. Nguyễn Văn Vĩnh thuộc những người đầu tiên ở Việt Nam (sau Trương Vĩnh Ký và Huỳnh Tịnh Của) đã nhận thức được cái tiềm năng hiện đại nhờ dịch thuật đem lại, và để bắc một cây cầu nối văn hóa Đông và Tây.

clip_image002

Trường học ở vùng quê Bắc Bộ

Qua việc truyền bá này, ông hy vọng với những tiểu thuyết dịch của phương Tây sẽ tác động đến sự thay đổi tâm thức của người Việt. Ông đã công bố nhiều bản dịch lỗi lạc các tác phẩm ưu tú của nền văn học Pháp, đặc biệt là Trưởng giả học làm sang, Những người đàn bà thông thái, Lão hà tiện, Người biển lận, Người Bệnh tưởng của Molière, Những kẻ khốn nạn của Victor Hugo, Truyện ngụ ngôn của La Fontaine, Ba người lính Ngự lâm pháo thủ của Alexandre Dumas, cùng với những tác phẩm của nước Anh như Qui-li-ve du ký của Jonathan Swift và nhiều cuốn sách khác[1].

Người ta biết, rằng ông có ý định giới thiệu nền văn hóa Pháp với người dân Việt khi ông bắt tay vào việc dịch các bản sách đó. Song, dưới con mắt của ông, nó còn hơn như vậy. Bản thân nghệ thuật dịch đã là điều quan trọng, bởi lẽ đó là thứ công việc chuyển tải các hệ tư tưởng từ một loại ngôn ngữ này sang một loại ngôn ngữ khác, đi xuyên qua những vùng văn hóa rộng lớn và khiến cho hệ tư tưởng này trở nên dễ hiểu đối với một hệ khác.

Nếu có một loại phương tiện làm được công việc chuyển giao văn hóa thì đó chính là dịch thuật. Đương nhiên, đã từng có những thông dịch ở đất nước Việt Nam thời “tiền thuộc địa”. Họ là những người được ủy thác việc tiếp xúc giữa số đông những nhà buôn Á và Âu, các nhà ngoại giao, giúp những người này làm quen với chữ Hán, họ thành những tác giả để các vị khách kia trở nên gần gũi với người Hoa và đạo Khổng;

Vậy là, chính công cuộc thuộc địa của người Pháp đã kết nối nước Việt với một vũ trụ văn hóa rộng lớn, không phải chỉ với Pháp, còn nước Anh, Mỹ và thậm chí còn nhiều hơn thế. Bỗng nhiên, cả một thế giới văn hóa hoàn toàn mới lạ từ đâu ập đến, mở rộng chân trời cho người Việt Nam. Không có những người đứng ra làm công việc nối liền hai thế giới đó, ắt sẽ không có chuyện thâm nhập và hiểu biết lẫn nhau. Dù cho tiếng Pháp ngày càng được dạy nhiều trong các trường học, số đông công chúng đọc chữ Quốc ngữ vẫn tiếp tục phát triển tăng lên suốt thời kỳ thuộc địa.

Nói vậy, thật khó để ước lượng được số người đã tìm đọc các tác phẩm kinh điển của phương Tây đã được Nguyễn Văn Vĩnh dịch sang tiếng Việt. Trước hết, tỷ lệ những người Việt Nam đọc thông thạo chữ Quốc ngữ đã không ngừng tăng lên sau Thế chiến thứ Nhất. Hơn nữa, cũng khó để biết một cách chính xác các bản dịch của Nguyễn Văn Vĩnh đã được phát hành với số lượng là bao nhiêu?!

Chúng ta chỉ có thể dựa vào những con số thu thập được như sau: Năm 1916, tập Truyện ngụ ngôn của La Fontaine xuất bản với số lượng là 2.000 bản, rồi năm 1928 lên đến 5.000 bản, và vẫn con số đó được lặp lại vào năm 1951. Cuốn sách Ba chàng ngự lâm pháo thủ, xuất bản năm 1927 là 2.000 bản.

Đúng, những chỉ số này không phải là ấn tượng, nhưng cần nhớ rằng, sách là thứ thường được chuyền tay giữa mọi người, bạn bè, họ hàng, hoặc láng giềng với ý thức cho mượn một cách vô tư. Vả lại, việc học chữ viết tiếng Việt lúc này không phải là điều quá khó để vượt qua với một người Việt Nam bình thường.

Những thế hệ trẻ hơn ở thành thị, họ ngày càng sử dụng thành thạo tiếng Pháp hơn, họ thích đọc các tác phẩm đó bằng nguyên văn tiếng Pháp. Vậy nhưng, theo lời một số người trong thế hệ mới đó, họ đã tìm đọc các bản dịch của Nguyễn Văn Vĩnh bằng chữ Quốc ngữ trước khi tìm đọc bản nguyên văn tiếng Pháp. Nhiều người trong số họ đã ca ngợi sự thành công của Nguyễn Văn Vĩnh khi ông cải biên hoặc chuyển đổi những nhân vật trong sách, kể cả cách suy nghĩ của nhân vật thành những sự tương đồng trong văn hóa Việt Nam. Nếu như vậy, thì đây không phải là một thành tựu nhỏ về văn hóa của Nguyễn Văn Vĩnh.

Những bản dịch của Nguyễn Văn Vĩnh còn giữ vai trò quan trọng vì những lý do khác nữa. Nếu Nhất Linh sử dụng tiểu thuyết hiện đại của phương Tây ưu tiên làm vũ khí văn học để tấn công vào những hủ tục, thì chúng ta hãy nghĩ rằng, Nguyễn Văn Vĩnh lại đặc biệt chú ý đến những thông điệp chính trị-xã hội mà ông muốn gửi đến các độc giả của mình khi chọn các vở kịch và tiểu thuyết Pháp để dịch sang Quốc ngữ.

Nếu các tác phẩm đó được dịch sang tiếng Việt một cách xuất sắc, thì hình như, ông mong muốn chuyển hóa những câu chuyện của người Pháp, cùng những khái niệm mang tính hiện đại sang tinh thần Việt Nam, thông qua cách nhấn mạnh vào tất cả những cái trào lộng, cái hài hước, cái mánh khóe mà nó chứa đựng trong câu chuyện đó. Có thể nói, bằng cách nào đó, ông đã sử dụng chính các tác giả đó để phê phán thay cho chính ông.

Ví dụ, ta thấy Nguyễn Văn Vĩnh đã đả phá gay gắt chế độ vua quan như thế nào và ai cũng biết ông chẳng hề tôn trọng cái chế độ Quân chủ Việt Nam! Phải thừa nhận rằng, không ngẫu nhiên ông chọn và dịch tập Truyện ngụ ngôn (1668) của La Fontaine, mà chúng ta đều biết La Fontaine đã lấy vai các con vật để đả kích xã hội Pháp ở thế kỷ 17, đặc biệt với nhà Vua và các cận thần. Giống như Molière, La Fontaine coi triều đình là nơi đầy rẫy những kẻ ăn bám và lừa đảo, chỉ làm tăng thêm sự bần cùng khốn quẫn của dân chúng, trong lúc họ vẫn nghĩ rằng đó là một sự cai trị tốt.

Những vở hài kịch và sự châm biếm để đả kích vào cái xã hội xúc vật, thực ra là để chế diễu sự bất lực và tham nhũng của nền quân chủ Pháp và lũ người nịnh thần của nó. Nguyễn Văn Vĩnh không đặt được thẳng trước vấn đề thuộc địa của người Pháp, tuy nhiên, cũng như Molière, ông đã đánh trực tiếp vào chế độ quân chủ của xã hội Việt Nam một cách không khoan nhượng.

Khá nhiều những công trình dịch thuật của Nguyễn Văn Vĩnh cũng chuyển tải các tư tưởng bài xích và chống lại chế độ quân chủ ấy. Cụ thể, nó cũng đã được phát đi từ tác phẩm Gulliver du ký của Jonathan Swift. Nhìn vào cuốn Telesmaque phiêu lưu ký của Fénelon cũng vậy, cuốn sách đã từng bị vua Louis 14 cấm ngay sau khi nó được phát hành từ năm 1699, vì bị coi là diễu cợt vương triều. Trước đó mấy năm, Fénelon đã viết một bức“thư gửi vua Louis 14”, bức thư không vòng vo, ông nói không úp mở vào thẳng cái đói nghèo của tầng lớp nông dân Pháp, và về sự tất yếu phải có cuộc cách mạng “cải cách tự do”.

Nguyễn Văn Vĩnh cũng hành động giống như vậy, chống lại lũ tham quan ở xứ An Nam, nhất là Bắc kỳ (ông quan niệm như vậy). Thật khó mà tin rằng, những suy nghĩ của Fénelon trong cuốn Telesmaque phiêu lưu ký về một chính quyền tốt, cùng các quyền tự nhiên của một xã hội, lại không có liên hệ gì với những tư tưởng của Nguyễn Văn Vĩnh, vốn từ lâu, ông đã rất quan tâm đến thực trạng của người nông dân nước mình và ông lại là kẻ luôn hướng theo những tư tưởng cộng hòa Pháp, mà ông là người đã gặp gỡ họ tại Hội Nhân quyềnHội Tam điểm. Việc ông dịch cuốn Những người khốn khổ của Victor Hugo, còn thể hiện một mối quan tâm xã hội khác của một con người đã tìm thấy chính mình trong những bài viết có chuyên đề về làng xã và về những thực trạng nghèo khổ đang ngự trị ở đó (30).

Tuy nhiên, Nguyễn Văn Vĩnh không chỉ giới hạn trong việc dịch thuật các tác phẩm từ Pháp ngữ. Ông không phải là người có chủ trương “đồng hóa”. Từ năm 1909, cùng với Phan Kế Bính, ông đã cho xuất bản toàn bộ bản dịch bộ tiểu thuyết cổ điển Trung Hoa Tam Quốc chí diễn nghĩa bằng chữ Quốc ngữ. Ông cũng dịch tác phẩm nổi tiếng của Nguyễn Du Kim Vân kiều vốn có bản gốc là chữ Nôm. Nguyễn Văn Vĩnh đã thường xuyên xem đi xem lại và không ngừng hoàn thiện bản dịch này từ năm này qua năm khác. Năm 1923, tác phẩm này đã được in lại lần thứ bẩy với số lượng phát hành là 30.000 bản. Qua thực tế này, ta thấy Nguyễn Văn Vĩnh không chỉ truyền bá văn hóa Pháp ở Việt Nam, mà ông còn giúp cho công chúng tại Việt Nam hiểu thêm những tác phẩm kinh điển của chính đất nước mình.

Lịch sử trớ trêu, bởi sau khi chữ Nôm không còn được sử dụng rộng rãi, phần nào họ bị mất liên lạc về ngôn ngữ, như thế, cũng có thể nhìn Nguyễn Văn Vĩnh là người đã góp phần vào sự gián đoạn ấy, nhất là khi ông cổ xúy cho chữ Quốc ngữ và đề cao lòng tin vào những bản dịch các tác phẩm hiện đại đến từ nước Pháp. Nhất định, ông hiểu tầm quan trọng của việc mình làm: việc chuyển câu chuyện Kim Vân Kiều sang Quốc ngữ theo dạng truyền viết, thay vì truyền miệng. Cũng đương nhiên mang đầy ý nghĩa là việc ông đã không dịch tác phẩm đó ra tiếng Pháp trước.

Bản dịch Kim Vân Kiều lại càng có tầm quan trọng với Nguyễn Văn Vĩnh, khi nó được chế tác thành kịch bản điện ảnh. Đây là bộ phim truyện được xây dựng đầu tiên ở Việt Nam và phát hành tại Hà Nội năm 1924, nhờ Paul Thierry và xưởng phim Indochine Films et Cinéma của ông (32). Sau đó, bộ phim này đã đưa đi chiếu khắp đất nước. Nguyễn Văn Vĩnh cũng là người đầu tiên du nhập sân khấu phương Tây vào Việt Nam, đó là năm 1920, khi ông đưa lên sân khấu công diễn vở kịch Người bệnh tưởng. Việc chuyển tải vở kịch của Molière sang tiếng Việt của Nguyễn Văn Vĩnh hình như đã thành công lớn. Trong những năm 1920 và 1930, loại hình nghệ thuật sân khấu tiếp tục phát triển song song cùng nhịp với công nghiệp điện ảnh ở Việt Nam.

Vậy nhưng thế hệ trẻ còn đi xa hơn cả Nguyễn Văn Vĩnh, thay vì phải vay mượn và cải biên từ các vở kịch hay tiểu thuyết Pháp đưa vào thực tế Việt Nam qua các bản dịch, những chiến sỹ mới như Vũ Trọng Phụng và Nhất Linh đã dựng những vở kịch của mình trên sân khấu Hà Nội

( Không một tiếng Vang của Vũ Trọng Phụng) và tấn công vào hàng ngũ quan lại Việt Nam qua cuốn tiểu thuyết ( Đoạn tuyệt của Nhất Linh). Chưa thấy có khi nào mà Nguyễn Văn Vĩnh lên tiếng hoan nghênh thành quả của lớp trẻ đi sau ông, những người kế tục ông. Thật là sự sai lầm khi ông vẫn tự coi mình chỉ là người trung gian duy nhất làm công việc kết nối, dung hòa các hình thức nghệ thuật giữa phương Tây và Việt Nam.

Đương nhiên, khi chú tâm dịch các tác phẩm từ tiếng Pháp đó, Nguyễn Văn Vĩnh đã đóng góp tích cực để phát triển một nền văn học thuần Việt. Những loại hình văn hóa mới như hài kịch, bi kịch, sân khấu châm biếm mới được du nhập vào hàng ngũ những di sản văn hóa của Việt nam, mặc dù đã khá phong phú, nhưng những thể loại nghệ thuật này còn đang khó khăn trong việc tiếp thu nó. Để phát triển loại văn trào phúng, châm biếm, cũng như để phát triển sân khấu hiện đại Việt Nam, các bản dịch các tác phẩm của Molière, đặc biệt như:Người bệnh tưởng, Trưởng giả học làm sang là thực sự quan trọng.

Trưởng giả học làm sang đã được trình diễn lần đầu ở Pháp năm 1670, chế diễu một gã thương nhân, một kẻ giàu mới nổi, gã Jourdain tai tiếng, luôn chỉ băn khoăn làm sao để leo được lên nấc thang xã hội cao nhất, chỉ mê mải với những phách lối nực cười nhất. Để đạt được mục đích, gã sẵn sàng chi những khoản tiền kếch xù, hòng để học cái phong cách, lề thói của sự văn minh, những cung cách lịch thiệp, và những cái gã cần để thâm nhập được vào một thế giới, một đẳng cấp, một trình độ văn minh xa lạ với chính ông ta. Theo như Alexander Woodside từng nhấn mạnh một cách tuyệt vời rằng: Nguyễn Văn Vĩnh đã biến vị Trưởng giả Pháp đó thành một viên quan Việt nực cười, lố lăng, chẳng thua kém gì cái gã Trưởng giả Pháp đến mức, rồi đây, không biết có nên hay không nên mặc bộ áo dài lễ phục trong các buổi lễ tân…Như Woodside đã bình luận :

“Hình như hình ảnh lố lăng của một tay trưởng giả muốn trở thành quý tộc đang lung lay, dao động (hay là của một kẻ người Việt như gã) đang tìm cách cố học đòi những lề lối của cung cách văn minh hơn đã tác động và tạo thành sự bận tâm và tham vọng chung của một số trí thức người Việt thời kỳ đó. Chí ít, điều này đã củng cố cho cái trực cảm chung của họ, đến độ, ngay các trò hề của gã Jourdain của Molière cũng có thể tạo cho họ chiếc chìa khóa về phương cách, để có hay không có được những phản xạ khôn ngoan hơn, biết đâu hữu hiệu hơn trong hành xử” (31).

Nguyễn Văn Vĩnh, chữ Quốc ngữ và công chúng Việt Nam 33

Thành lập và phát triển một tờ báo in Quốc ngữ là phương thức khác trong chương trình xã hội-văn hóa mà Nguyễn Văn Vĩnh bắt tay thực hiện. Ông không phải là người đầu tiên thừa nhận tầm quan trọng của loại chữ viết tiếng Việt được La tinh hóa, sản phẩm của các giáo sỹ Dòng tên Bồ Đào Nha, rồi đến các giáo sỹ Pháp củng cố xây dựng. Pétrus Trương Vĩnh Ký, một người công giáo đã hoạt động rất nhiều để phổ biến chữ Quốc ngữ giai đoạn cuối thế kỷ 19. Gia Định báo là tờ báo hiện đại đầu tiên ở Việt Nam đã in bằng chữ Quốc ngữ cùng với chữ Nho.

Vậy nhưng, Nguyễn Văn Vĩnh đã đẩy bước đột phá này đi xa hơn vào những năm đầu của thế kỷ 20. Suy nghĩ của ông đã được viết ngay trên trang nhất của bản dịch Kim Vân Kiều, rằng tương lai của Việt Nam tùy thuộc vào việc sử dụng chữ Quốc ngữ !

Con đường làm báo của ông sẽ chứng minh cho lý tưởng này. Năm 1907, ông liên kết với chủ nhiệm của tờĐăng cổ Tùng báo là F.H.Schneider để quảng bá rộng rãi các bản dịch từ Pháp ngữ sang Quốc ngữ cùng những bài tiểu luận của ông về công cuộc canh tân đất nước. Ông Vĩnh cũng tiếp tục cộng tác với Schneider vào những năm 1908-1909-1910 để làm hai tờ báo tiếng Pháp là Notre JournalNotre Revue, cho dù hai tờ báo này đã chết yểu. Năm 1910, ông còn cùng với Schneider làm cho tờ Lục Tỉnh Tân văn, là một tờ báo nổi tiếng ở phía Nam. Họ đã cùng nhau trở ra ngoài Bắc để kiếm tìm những kinh nghiệm mới.

Được sự hỗ trợ của chính quyền thuộc địa, họ đã thành lập tờ Đông Dương Tạp chí nổi tiếng (1913-1916). Tờ báo này đối diện với hai mục tiêu. Một là đương đầu với phong trào chống chủ nghĩa thực dân do Phan Bội Châu cùng một số nhà cách mạng yêu nước khác lãnh đạo, mặt khác, tờ báo cổ vũ cho tinh thần hợp tác Pháp-Nam để phát triển văn hóa-xã hội. Chính quyền Thực dân kiểm soát dữ dội và nghiệt ngã tất cả những tờ báo ra đời sớm đó.

Giai đoạn chiến tranh Thế giới lần thứ Nhất, Nguyễn Văn Vĩnh cùng Schneider điều hành tờ báo Trung Bắc Tân văn (1917-1942), đây cũng là tờ báo chữ Quốc ngữ ra hàng ngày đầu tiên ở Việt Nam. Ông còn hậu thuẫn cho nhóm của Trần Trọng Kim để làm tờ báo Nam học Niên khóa, sau đổi thành Học báo (1919). Đây là tập san giáo dục chuyên đề dành cho học sinh.

Khởi đầu, Nguyễn Văn Vĩnh mong muốn sẽ được tiếp cận với một tầng lớp người đọc mà ngày càng đông lên, nhằm truyền bá những tư tưởng của mình. Người ta đã tính được, vào năm 1917, có 75.000 học sinh, đến năm 1921, có số này khoảng 150.000 (34). Vào năm 1931, Nguyễn Văn Vĩnh dự tính ở xứ Bắc kỳ, lượng người là công luận sẽ có 10.000 người (35).

Ở tờ báo Đông Dương Tạp chí, Nguyễn Văn Vĩnh đã viết hàng trăm bài có nội dung về vệ sinh, y tế, thể thao, văn học, thời sự…Chúng ta chưa làm được thống kê tất cả những bài viết của ông đã được đăng trên Đông Dương Tạp chí Trung Bắc Tân văn. Nhưng khi đọc kỹ trên tờ báo L’Annam Nouveau-chủ trương xây dựng một nước Nam mới – rồi đánh giá, mới thấy một trong những khía cạnh hấp dẫn nhất của con người ông nằm ở số lượng lớn đến kinh ngạc, đặc biệt là ở chất lượng nội dung của các bài viết đó.

Tất nhiên, cũng giống như nhiều bạn đồng nghiệp của ông tán thành việc cải lương, ông đã viết rất nhiều bài về đề tài cải cách giáo dục và chính trị, cũng như sự cần thiết phải phát triển thương mại và xây dựng một xã hội dân sự cho Việt Nam. Nhưng Nguyễn Văn Vĩnh còn quan tâm đến các vấn đề xã hội, điều này đã cho phép ông thực hiện một số công trình mê hồn về nghệ thuật dân gian, về chiêm tinh học, về các trò may rủi trong cờ bạc, về ẩm thực, về luật pháp, cả về giấy khai sinh, về quốc tịch và về vấn đề thầu khoán. Tóm lại, là về chủ trương “văn minh hóa phong tục” của nước Việt Nam(36).

Nguyễn Văn Vĩnh cũng không hề giấu diếm: Đông Dương Tạp chí ra đời để ngăn chặn các nhà cách mạng Việt Nam khác cũng đang dựa vào việc in ấn, bí mật truyền bá những tư tưởng của họ thông qua việc in truyền đơn và báo chí.

Thật sai lầm khi nghĩ rằng, Nguyễn Văn Vĩnh là người chỉ chú trọng đến tầng lớp thượng lưu bằng cách dẫn lời của Molière trong các bài viết của mình. Chúng ta ít biết về những mối quan tâm của ông đối với các vấn đề liên quan đến cuộc sống hàng ngày của đồng bào mình, những nhóm người ở dưới đáy xã hội, và trên hết, là cuộc sống ở nông thôn cùng những khổ đau của những người nông dân, mà ông cho rằng chính là hệ quả của sự hà lạm của đám quan lại.

Mối quan tâm sâu sắc của ông với “vấn đề nông thôn”, hẳn phải xuất phát từ nguồn gốc nghèo khổ ở làng quê của ông và những năm tháng sống ở nông thôn khi còn là viên chức thuộc địa. Mối quan tâm này của ông càng được tích lũy thêm khi ông dịch hàng loạt các tiểu thuyết mô tả nỗi cùng cực của những người nông dân Pháp từ thế kỷ XVII, mô tả cái hà khắc của chính thể quân chủ mà người dân là nạn nhân. Dù thế nào đi nữa, bất kể phán xét cuối cùng nào về Nguyễn Văn Vĩnh, đều phải tính đến các công trình nghiên cứu của ông về nông thôn Việt nam, về các vấn đề của nó, về xu hướng cải cách và tâm lý nông dân(37). Đúng như ông đã viết trong một bài báo xuất sắc từ năm 1934 như sau:

“Nếu tôi cứ lo toan giải quyết mọi vấn đề liên quan đến làng xã trên một tờ báo chỉ dành cho người thành thị, thì chính vì làng xã là chìa khóa của sự tiến bộ ở một đất nước mà sống chủ yếu là nhờ vào nghề nông như chúng ta”(38).

Rất ít trí thức Việt Nam như ông, được giáo dục theo kiểu phương Tây,  có nguồn gốc xã hội như ông, mà lại hiểu được thực tế như Nguyễn Văn Vĩnh trước các vấn đề về người nông dân. Giới quan lại được đặc biệt bị công kích dữ dội trong các bài báo của ông Vĩnh; ông thấy họ bóc lột nông dân mà không bị ai lên án và được người Pháp khoan hòa, che chắn(39). Nguyễn Văn Vĩnh lên án thực tế đó bằng một ngòi bút thép, đặc biệt trên tờ báo L’Annam Nouveau(40) (Nước Nam Mới).

Cụ thể, về chính trị, ông khích người Pháp phải cứng rắn đối với tầng lớp đó, đồng thời đánh thức lương tri của những người Việt Nam khi đọc được bằng tiếng Pháp, bởi đó là những thành phần tinh hoa nhất có thể can dự, cứu giúp người nông dân. Ông Vĩnh đã chuyên tâm tìm kiếm các giải pháp hiện đại cho những bài toán mà chính tổ tiên của ông để lại. Ông tham khảo ý kiến của những nhà chuyên môn như Pierre Gourou, để có những lối thoát hòng giảm bớt sự nghèo khổ của người nông dân(41). Ông viết những tiểu luận về các phương pháp áp dụng khoa học Tây phương, về những tính khéo léo, tài trí của người Việt trong việc tìm nước sạch cho dân làng(42).

Một trong những ước nguyện lớn nhất của ông về mặt xã hội, là phải phát triển công nghiệp địa phương, như việc trồng thuốc lá và dệt lụa tơ tằm. Ông cũng xúc tiến chương trình phát triển những hiệp hội cho vay và trả thuế, nhằm giúp đỡ như một sự tài trợ cho các kế hoạch phát triển nông thôn, cũng như công tác điện khí hóa và cấp nước sạch cho những vùng xa các thành phố[2]. Không thể nghiên cứu và nêu chi tiết các vấn đề đó ở trong bài viết này.

Tuy nhiên điều cần nhấn mạnh, là trong suốt cuộc đời, ông đã sử dụng báo chí hiện đại làm phương tiện nhằm cảnh báo công luận về những bất công ở thôn quê và sự cổ hủ của một số thiết chế ở Việt Nam. Tất nhiên ông không đơn độc trong suy nghĩ và hành động như vậy; nhưng cần phải tính đến những đóng góp của ông trong việc giải quyết những tệ nạn của thời đại. Võ Nguyên Giáp và Trường Chinh không phải là những người duy nhất đã quan tâm đến “vấn đề dân cày”.

Báo chí dưới con mắt của Nguyễn Văn Vĩnh là quan trọng còn vì một lý do khác. Việc viết bằng chữ Quốc ngữ là không đủ. Ông muốn như Phạm Quỳnh, ông muốn sử dụng một ngôn ngữ đổi mới để có thể diễn đạt một cách thích hợp những khái niệm khoa học, kinh tế, văn chương và văn hóa một cách chính xác, mà trước đó chưa hề có. Hiển nhiên Nhà nước Thuộc địa đã ủng hộ ông trong việc này, với suy nghĩ rằng, về phần họ sẽ làm cho hoạt động tuyên truyền văn hóa Pháp thâm nhập rộng hơn trong quần chúng dân An Nam, điều mà họ đã từng khó khăn trong việc thực hiện. Một lần nữa, đây là một lĩnh vực rộng lớn, xứng đáng dành cho một tiểu luận khác.

Chúng ta hãy bằng lòng để nói rằng, ông Vĩnh viết rất nhiều cả bằng tiếng Việt và cả bằng tiếng Pháp về sự cần thiết phải thống nhất và hệ thông hóa chính tả, cũng như ngữ pháp tiếng Việt để gia tăng tính hiệu quả và nâng cao tính công dụng của nó. Ông đã xúc tiến và cổ vũ cho việc chuẩn hóa tiếng Việt trong các nhà trường để việc tiếp thu được dễ dàng hơn(44). Ông muốn tìm được nguồn gốc xuất xứ rõ ràng và chính xác đối với tất cả các từ vựng, đặc biệt là có xuất xứ vay mượn từ tiếng Hán. Ông viêt thận trọng về ngữ âm, về phiên âm, về sự cải biên và khi dịch tiếng Pháp cũng như tiếng Hán ra tiếng Việt.

Ông đã công bố cả bản dịch đi dịch lại từng bước một của tác phẩm Kim Vân Kiều. Giải thích cho cả người Việt cũng như người Pháp trong một hội nghị bàn về tính phức tạp của công trình cũng như tầm quan trọng của tác phẩm đó. Những suy nghĩ rất hấp dẫn của ông về chữ Quốc ngữ, về chức năng của ngôn ngữ học được đăng tải trên tờ L’Annam Nouveau, khiến cho tờ báo trở thành một thứ phương tiện hàn lâm Việt Nam để suy nghĩ về sự tiến hóa của ngôn ngữ dân tộc.

Qua con đường vòng của tờ báo tiếng Pháp L’Annam Nouveau, ông cố gắng lồng ý đồ phổ biến chữ Quốc ngữ không phải chỉ cho người Việt, mà ở đây là cả người Pháp. Ông là người biện hộ rất sớm việc học tiếng Việt của người Pháp; Theo Nguyễn Văn Vĩnh, hoạt động giáo dục giữa các dân tộc cần phải được tiến hành bằng cả hai chiều, và đặt lên hàng đầu trong kế hoạch tạo sự hòa nhập giữa người Việt và người Pháp, bất chấp cái hố sâu ngăn cách của chủng tộc và thuộc địa, điều mà ông đã ý thức được trong thực tế(45).

Hết phần 2

————-

* Tiến sỹ Christopher E. Goscha, quốc tịch Mỹ, chuyên gia nghiên cứu lịch sử Việt Nam hiện đại. Cộng tác viên của Viện Viễn Đông Bác cổ Pháp. Hiện là giảng viên khoa Đông phương học thuộc đại học Montreal-Canada. Bài viết đăng trên RFHOM, T.88, số 332-333 (2001).

[1] Le bourgeois gentilhomme, Les femmes savantes, L’Avare, Le malade imaginaire – Les misérables – Les fables de La Fontaine – Les trois mousquetaires – Le voyage de Gulliver. Một số tác phẩm sau này đã được dịch và xuất bản lại dưới các tên khác, đây là tên tác phẩm trên các bản dịch của Nguyễn Văn Vĩnh (ND.).

[2] Nguyễn Văn Vĩnh, “Tài trợ những công trình nông thôn”, AN, 24-8-1933, và “Dự án thành lập quĩ tín dụng  bất động sản ưu tiên”, AN, 9-11-1933.

Chú thích:

29 Quốc Anh, “Người Việt Nam đầu tiên cổ vũ cho điện ảnh”, Tuổi trẻ chủ nhật, ngày 31-12-1995.

30 Về chủ đề này, xem tài liệu nghiên cứu của Shawn McHale, Print and Power: Buddhism, Confucianism and Communism in the Making of Modern Vietnam (Báo chí và quyền lực: Phật giáo, Khổng giáo và Cộng sản trong việc hiện đại hóa Việt Nam), sắp xuất bản.

T.14 không có c/t.

31 Nguyễn Văn Vĩnh, “Làng quê và thành thị”, AN, ngày 25-3-1934.

32 Nguyễn Văn Vĩnh, “Bần cùng và thuộc địa”, AN, 23-2-1933.

33 Tờ Trung Bắc tân văn bị kiểm duyệt nhiều hơn tờ L’Annam Nouveau.

34 Nguyễn Văn Vĩnh, “Công nghiệp nông thôn”, AN, 28-1-1934.

35 Nguyễn Văn Vĩnh, “Vấn đề nước sạch trong làng quê chúng ta”, AN, 2-7-1933, và “Nước trong làng”, AN, 13-8-1933.

36 Nguyễn Văn Vĩnh, “Tài trợ những công trình nông thôn”, AN, 24-8-1933, và “Dự án thành lập quĩ tín dụng  bất động sản ưu tiên”, AN, 9-11-1933.

37 Nguyễn Văn Vĩnh, “Chính tả chữ quốc ngữ”, AN, 25-9-1932, 29-9-1932.

38 Nguyễn Văn Vĩnh, “Các danh từ Việt Nam”, AN, 21-4-1931, 25-4-1931, 28-4-1931.

39 Giống như Thái Lan thời đó, nước Việt Nam có thể phát triển mà không cần có sự bảo hộ trực tiếp của Pháp, hay dưới sự bảo trợ của một cường quốc châu Âu khác. Nước Pháp không bao giờ có sứ mạng phải biến Việt Nam thành thuộc địa. Về Thái Lan, xem bài viết xuất sắc của Thongchai Winichakul, “Đi tìm văn minh: Bàn về tính địa lý của suy nghĩ về văn minh cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20 ở Xiêm”, The Journal of Asian Studies, tập 59, số 3 (2000), tr. 528-549.

40 Một sự phân tích khá xác đáng về vấn đề phức tạp của văn minh đã được Norbert Elias thực hiện,Civilisation des moeurs, Paris, Calman-Lévy, 1999, tái bản lần thứ hai.

41 Nguyễn Văn Vĩnh, “Vấn đề trang phục”, AN, 3-11-1932.

42 Elias, sđd, về tiến trình văn minh.

43 Giống như người Thái Lan ở miền tây, hay người Âu-Mỹ muốn cho “thổ dân Da đỏ” mặc quần áo truyền thống để chụp ảnh.

44 Nguyễn Văn Vĩnh, “Vấn đề trang phục”, sđd.

45 Gi-Wook Shin và Michael Robinson (chủ biên), Colonial modernity in Korea, Cambridge, Harvard University Press, 1999.