Danh ngôn

Trong mọi cộng đồng, chúng ta cần một nhóm thiên thần gây rối.

We need, in every community, a group of angelic troublemakers.

(Bayard Rustin – trích bài phát biểu tại New York City 1963)

Trong mọi trường hợp, chắc chắn rằng sự thiếu hiểu biết, đi kèm với quyền lực, là kẻ thù tàn bạo nhất có thể có của công lý.

It is certain, in any case, that ignorance, allied with power, is the most ferocious enemy justice can have.

(James Baldwin - No Name in the Street 1972)

Các cuộc cách mạng và các cá nhân có thể bị giết hại, nhưng bạn không thể giết chết các ý tưởng.

While revolutionaries and individuals can be murdered, you cannot kill ideas.

(Thomas Sankara, một tuần trước khi bị ám sát, 1987)

Không có cảm giác nào cô đơn hơn việc bị chính đất nước mình trục xuất.

There's not a more lonely feeling than to be banished by my own country.

(Kiyo Sato – Kiyo’s Story 2009)

Ban Biên tập

Địa chỉ liên lạc:

1. Thơ

tho.vanviet.vd@gmail.com

2. Văn

vanviet.van14@gmail.com

3. Nghiên cứu Phê Bình

vanviet.ncpb@gmail.com

4. Vấn đề hôm nay

vanviet.vdhn1@gmail.com

5. Thư bạn đọc

vanviet.tbd14@gmail.com

6. Tư liệu

vanviet.tulieu@gmail.com

7. Văn học Miền Nam 54-75

vanhocmiennam5475@gmail.com

Tra cứu theo tên tác giả

Thứ Năm, 21 tháng 7, 2016

Tiếng vọng từ Chernobyl (kỳ 5)

Svetlana Alexievich

T. Vấn dịch

Độc thoại

_____________________________

về cả một cuộc đời được ghi lại trên cánh cửa

Tôi muốn được làm một người chứng . . .

Nó đã xẩy ra 10 năm trước đây. Nó vẫn xẩy ra với tôi như thế mỗi ngày.

Chúng tôi sống ở một thành phố có tên là Pripyat.

Tôi không phải là nhà văn. Tôi sẽ không thể nào tả lại được việc đã xẩy ra. Đầu óc tôi không có khả năng thấu hiểu hết sự việc. Cả cái bằng tốt nghiệp đại học của tôi cũng bất lực như vậy. Bà thấy đấy : tôi là một con người bình thường. Một người nhỏ bé. Giống như bất cứ người nào khác – tôi đi làm, hết giờ làm về nhà. Tôi được nhận một mức lương trung bình. Mỗi năm tôi đều được hưởng một kỳ nghỉ có lương. Một con người bình thường như thế đấy. Rồi bỗng nhiên một ngày tôi bị biến thành người Chernobyl, biến thành con thú, ai cũng tò mò muốn tìm hiểu và chẳng có ai biết gì về nó cả. Tôi muốn được là một người bình thường như bao người khác, nhưng giờ đây tôi không thể. Người ta nhìn tôi bằng một con mắt khác rồi. Họ hỏi tôi : Nó có đáng sợ không? Làm sao mà cái nhà máy phản ứng ấy nó bị cháy? Thế anh đã thấy những gì? Liệu rồi anh có thể có con được nữa không? Vợ anh bỏ anh chưa?

Chúng tôi bị biến thành những con thú. Chính cái tên “Chernobyl” là một dấu hiệu để người ta chú ý. Mọi người ai cũng quay đầu nhìn tôi. Anh ta ở Chernobyl đấy!

Mọi chuyện đã khởi sự như thế! Chúng tôi không chỉ mất đi thành phố nơi mình sinh sống, chúng tôi mất luôn cả đời sống của mình. Chúng tôi ra đi vào ngày thứ ba. Nhà máy phản ứng vẫn còn đang cháy. Tôi nhớ một người bạn của tôi bảo: “Có mùi phóng xạ”. Đó là thứ mùi không thể nào diễn tả được. Thế nhưng báo chí đang ra sức bàn tán về nó. Họ đã biến Chernobyl thành một nơi chứa toàn những điều kinh khủng, mặc dù thực ra họ vừa biến nó thành một bức tranh hí họa.

Tôi sẽ chỉ kể lại những gì xẩy ra với tôi. Sự thật của riêng tôi.

Như thế này: Qua đài phát thanh họ thông báo rằng không ai được phép mang theo mèo. Thế nên chúng tôi giấu con mèo vào trong va li. Nhưng nó không chịu, bò ra ngoài, cào cấu mọi người. Không ai được mang theo đồ đạc gì. Không sao cả! Tôi sẽ không mang theo bất cứ vật gì. Ngoại trừ một thứ. Chỉ một thứ. Tôi sẽ gỡ cánh cửa phòng tôi ở khu chung cư và mang nó theo. Không thể để cái cửa lại được. Tôi dùng những tấm bìa cứng che tạm cửa phòng. Cánh cửa phòng của chúng tôi – đó là tấm bùa tượng trưng cho sự may mắn, là di vật của gia đình tôi. Cha tôi đã nằm trên cánh cửa này. Tôi không biết đó là tục lệ gì, không phải chỗ nào cũng như vậy, nhưng mẹ tôi bảo người chết phải được đặt nằm trên cánh cửa nhà của mình. Xác cha tôi được để nằm trên cánh cửa cho đến khi người ta mang quan tài tới. Tôi đã ngồi cạnh ông suốt đêm. Căn phòng cũng mở toang suốt đêm. Trên cánh cửa này có những vết khắc, đánh dấu từng thời kỳ tôi lớn lên. Những dấu khắc chỉ : lớp một, lớp hai. Lớp bẩy. Trước khi tôi vào quân đội. Kế đó là những dấu khắc từ thời thơ ấu của con trai tôi. Của con gái tôi. Cả cuộc đời tôi được khắc lại trên cánh cửa này. Làm sao mà tôi bỏ nó lại được?

Người hàng xóm của tôi có chiếc xe hơi, tôi nhờ anh ấy giúp đem cái cánh cửa đi. Anh ta ra dấu chỉ vào đầu mình. Ý muốn nói cái đầu tôi có gì đó không ổn, phải không? Rồi tôi cũng tìm cách mang nó đi được. Bằng xe gắn máy. Khi đêm xuống. Xuyên qua rừng. Đó là khoảng thời gian 2 năm sau khi mà căn phòng của chúng tôi đã bị cướp vét sạch mọi thứ. Cảnh sát đuổi theo tôi. “Chúng tao sẽ bắn! Chúng tao bắn đấy!”. Họ nghĩ tôi ăn trộm cánh cửa. Tôi mang cánh cửa nhà của chính mình đi như thế đó.

Tôi đưa con gái và vợ vào bệnh viện. Trên người họ bắt đầu nổi những mụn đen. Những mụn này xuất hiện rồi lại biến mất. Chúng cỡ đồng tiền 5 kopek. Nhưng không làm đau đớn. Bệnh viện làm thử nghiệm những mụn ấy. Tôi hỏi họ kết quả thế nào. Họ bảo: “Làm thử nghiệm đâu phải cho người bệnh đâu!”. Tôi hỏi lại : “Vậy thử nghiệm cho ai ?”.

Lúc ấy ai cũng nói: “Rồi sẽ chết hết thôi. Sẽ chết hết thôi. Đến năm 2000 sẽ chẳng còn người Belarus nào sống sót. Con gái tôi được 6 tuổi. Khi đưa con lên giường ngủ, nó thì thầm vào tai tôi: “Bố ơi, con muốn sống. Con vẫn còn bé mà!”. Trước đó, tôi cho rằng con bé chẳng hiểu gì hết.

Bà có thể hình dung ra được cảnh 7 đứa con gái nhỏ đầu cạo trọc ở chung một phòng? Có 7 đứa con gái như con gái tôi ở bệnh viện . . . Nhưng kể thế đủ rồi. Đủ rồi! Khi tôi nói về câu chuyện này, tôi có cảm tưởng như bụng mình đang bảo dạ mình – mày đã phản bội những bé gái đó. Bởi vì tôi cần phải kể câu chuyện như là một người lạ, người ngoài cuộc. Vợ tôi từ bệnh viện về nhà. Cô ấy hết chịu đựng nổi rồi. “Thà nó chết đi còn đỡ khổ hơn là chịu đau đớn như thế này. Hãy để em chết đi, để không còn phải chứng kiến những cảnh đau lòng này nữa.”. Thôi, đủ rồi! Đủ rồi. Tôi không còn muốn nghe gì nữa. Không!

Chúng tôi đặt nó nằm trên cái cửa. Trên cùng cái cửa mà cha tôi đã nằm. Cho đến khi họ mang đến chiếc quan tài nhỏ xíu. Nó nhỏ như chiếc hộp đựng búp bê.

Tôi muốn được làm một người chứng, rằng : Con gái tôi đã chết vì Chernobyl.

Và người ta muốn chúng tôi phải quên nó đi.

Nikolai Fomich Kalugin, Người cha

Độc thoại

_____________________________

về những người đã trở về

Làng Bely Bereg, khu vực Narovlyansk, Gomel.

Những người kể chuyện: Anna Pavlovna Artyushenko, Eva Adamovna Artyushenko, Vasily Nikolaevich Artyushenko, Sofya Nikolaevna Moroz, Nadezha Borisovna Nikolaenko, Aleksandr Fedorosvich Nikolaenko, Mikhail Martynovich Lis.

“Cứ thế chúng tôi vượt qua mọi thứ và sống sót.”

“Tôi thậm chí không muốn nhớ đến quãng thời gian ấy chút nào hết. Kinh hãi lắm! Họ lùa chúng tôi đi, mấy người lính ấy mà. Họ đem cả những chiếc xe xúc khổng lồ đến. Lọai xe có thể họat động ở những địa thế hiểm trở khó khăn. Có ông già nằm ở ngoài kia kìa. Ông ta đang hấp hối. Mà ông ta định đi đâu vậy? “Để tôi đi ra nghĩa trang. Tôi tự đi được mà.” Ông già vừa khóc vừa nói. Họ sẽ đền bù nhà của mình bằng cái gì? Cái gì? Xem, chỗ này xinh đẹp biết bao! Ai sẽ đền bù cho chúng tôi về sự mất mát này? Khu nghỉ hè cho khách du lịch mà.”

“ Máy bay, cả trực thăng- Chung quanh đây thật ồn ào. Những xe tải kéo theo rờ mọoc. Lính tráng. Tôi tưởng chiến tranh đã nổ ra. Với người Trung quốc hay người Mỹ gì đó.”

“Chồng tôi về nhà sau một cuộc họp ở nông trang. Anh bảo: “Ngày mai mình phải di tản ra khỏi đây.”. Tôi hỏi anh: “Còn lứa khoai ngòai vườn thì sao? Mình chưa kịp nhổ chúng lên. Chưa có thì giờ để làm.” Người hàng xóm gõ cửa. Chúng tôi ngồi xuống uống với nhau chút rượu. Anh ta bắt đầu chửi rủa viên chủ tịch nông trang. "Minh sẽ không đi đâu cả. Chấm hết. Chúng mình đã sống sót qua chiến tranh, giờ thì chất phóng xạ. Nếu có phải chôn thây ở đây mình cũng quyết sẽ không di tản.”

“Mới đầu chúng tôi lo lắm. Tưởng là sẽ chết cả nút chỉ trong khoảng thời gian hai hay ba tháng gì đó. Họ bảo chúng tôi vậy. Họ nhồi sọ chúng tôi. Họ làm cho chúng tôi sợ hãi. Ơn Chúa – Chúng tôi vẫn còn sống đây.”

“Tạ ơn Chúa ! Tạ ơn Chúa !”.

“Chẳng ai biết thế giới bên kia như thế nào. Dẫu sao ở đây vẫn tốt hơn.Quen thuộc hơn.”.

“Chúng tôi ra đi. Tôi nhặt một nắm đất ở mộ mẹ tôi, bỏ vào trong cái túi nhỏ, rồi quỳ xuống : “Xin tha thứ cho chúng con đã bỏ mẹ ở đây mà đi.”. Lúc ấy là đêm nhưng tôi không sợ. Người ta viết tên tuổi của họ trên vách nhà. Trên gỗ. Trên rào dậu quanh nhà. Trên cả nền xi măng.”.

“Mấy người lính giết sạch chó. Họ bắn từng con một. Bặc ! Bặc ! Sau đó tôi không còn nghe tiếng của bất cứ sinh vật nào còn sống.”.

“Tôi là một đội trưởng của nông trang tập thể. 45 tuổi đời. Tôi cảm thấy tội nghiệp mọi người. Nông trang gửi chúng tôi đến Moscow với một bầy nai để tham dự triển lãm. Khi trở về chúng tôi được thưởng một huy hiệu và bằng khen màu đỏ. Mọi người ai cũng xưng hô với tôi hết sức trân trọng. “Thưa ông Vasily Nikolaevich. Ông Nikolaevich. Giờ thì tôi có còn là ông Nikolaevich nữa đâu. Chỉ là một lão già sống trong căn nhà nhỏ bé. Tôi sẽ nằm chết ở đây. Mấy người đàn bà vẫn mang nước đến cho tôi, họ sưởi ấm căn nhà. Tôi thấy thương hết thẩy mọi người. Ngoài đồng vẫn có phụ nữ vừa đi vừa hát. Họ không tìm thấy được gì ngoài ấy nhưng họ vẫn hát. Có lẽ là vài thanh củi khô nằm vương vất trong một ngày gọi là thu hoạch. Dầu vậy, họ vẫn cứ hát . . .”

“Dù đã bị nhiễm độc bởi chất phóng xạ, nhưng đây vẫn là nhà của chúng tôi. Không có nơi nào khác chúng tôi có thể ở. Ngay đến con chim cũng còn có tổ của nó . . .”.

“Để tôi kể thêm nhé : Tôi sống với con trai ở tầng thứ bẩy. Tôi đứng ở cửa sổ nhìn xuống, làm dấu thánh giá. Tôi tưởng mình nghe có tiếng ngựa. Tiếng gà trống gáy. Ôi khủng khiếp quá! Có lúc tôi mơ thấy mình đang ở trong vườn nhà, cột con bò cái vào cột rồi ngồi xuống vắt sữa nó, vắt mãi. Rồi tôi tỉnh dậy. Tôi không muốn thức dậy nữa. Tôi vẫn còn ở nhà mình. Lúc thì ở đây, lúc thì ở đó.”.

“Ban ngày thì chúng tôi sống tại nơi ở mới, còn ban đêm thì vẫn sống ở nhà cũ của mình – trong những giấc mơ.”.

“Mùa đông ở đây đêm rất dài. Chúng tôi chỉ biết ngồi buồn bã, và đếm: Lại thêm có ai vừa chết đấy?”.

“Chồng tôi nằm bệt trên giường bệnh hai tháng. Ông ấy không nói một lời, cũng không buồn trả lời tôi. Ông ấy phát điên rồi. Từ vườn nhà, tôi quay vào, hỏi : “Ông ơi, hôm nay ông thấy thế nào?”. Nghe tiếng tôi, ông ấy nhìn lên. Thế là khá rồi đấy! Miễn là ông ấy vẫn còn có mặt trong nhà. Khi một người thân đang hấp hối, bà không thể khóc được. Làm như thế là cản trở sự hấp hối của họ, phải để họ ra đi. Tôi lấy cây đèn cầy trong tủ, để vào tay ông ấy. Ông ấy cầm lấy và cố thở. Mắt ông ấy đã dại dần. Tôi không khóc. Chỉ xin một điều: “Gởi lời chào của tôi đến con gái và người mẹ thân yêu.”. Tôi đã cầu nguyện xin cho mình được chết cùng lúc với gia đình nhưng chẳng có thần linh nào chứng giám cho tôi. Ngài vẫn chưa cho tôi chết. Thế nên tôi còn sống ở đây . . .”.

“Mấy cô gái kia, đừng có khóc nữa! Lúc nào mà chúng ta không ở tuyến đầu. Chúng ta là những công nhân tiên tiến mà. Chúng ta đã sống qua thời Stalin, sống qua chiến tranh! Nếu tôi không biết cười và biết tự an ủi mình thì tôi đã treo cổ tự vận từ lâu rồi!”.

“Có lần mẹ tôi dậy – con lấy bức tượng, trở đầu ngược lại rồi dùng dây treo lên. Cứ để thế trong ba ngày. Rồi thì sau đó bất kể con ở đâu con cũng biết lối quay về nhà. Tôi có hai con bò cái, hai con bò đực, năm con heo, ngỗng, gà. Một con chó. Tôi ôm đầu bước đi quanh vườn. Tất cả đã biến mất rồi, tất cả. Chẳng còn gì sót lại!”.

“Tôi quét dọn nhà cửa, lau chùi bếp núc. Rồi để ít bánh mì trên bàn ăn, với ít muối, một cái đĩa nhỏ và ba cái muỗng. Nhà bao nhiêu người thì để bấy nhiêu cái muỗng. Có thế thì chúng tôi mới mong quay về nhà được.”.

“Con gà nào trong vườn mào cũng đổi màu đen xỉn, chứ không đỏ như trước nữa, vì bị nhiễm phóng xạ. Cả tháng trời chúng tôi không có phó mát để ăn. Vì sữa không chua được, nó vón lại thành từng cục bột trắng. Chỉ bởi chất phóng xạ.”.

“Cả vườn rau nhà tôi bị nhiễm phóng xạ. Tất cả hoa quả rau trái đều mang một màu trắng, trắng đến độ không thể nào trắng hơn được nữa, như thể có một vật gì trắng phủ lên. Tôi tưởng có ai đó đem từ trong rừng về.”.

“Chúng tôi không ai muốn bỏ đi. Bọn đàn ông say khướt, họ lao mình dưới gầm xe hơi. Mấy ông lãnh đạo đảng uỷ đến từng nhà một năn nỉ mọi người hãy đi. Nhưng có lệnh: “Không được mang theo đồ đạc cá nhân”.

“Bày gia súc không có nước uống đã ba ngày. Cũng không có gì để ăn nữa. Có anh phóng viên một tờ báo luẩn quẩn thế nào mà suýt bị mấy cô gái vắt sữa say rượu giết chết.”.

“Tay chỉ huy đến nhà tôi cùng với đám lính của hắn. Hắn dọa: “Đi ra khỏi nhà ngay, nếu không bọn tôi sẽ phóng hoả! Các cậu đâu? Đưa cho tôi bình xăng nào!”. Tôi chạy loanh quanh, tay vớ cái mền, tay chụp cái gối”.

“Thời chiến tranh mình nghe súng nổ chát chúa cả đêm. Chúng tôi đào một cái hầm ở trong rừng. Họ đánh bom khắp nơi. Thiêu huỷ mọi thứ - không chỉ nhà cửa, vườn tược, cây cối. Không có gì sót lại. Nhưng giờ đâu còn chiến tranh nữa. Chính vì thế mà tôi sợ hãi.”.

“Người ta hỏi phóng viên của đài phát thanh Armenian: “Táo có thể mọc lên được ở Chernobyl không? Được chứ, nhưng mà phải chôn cái hột táo thật sâu dưới đất.”.

“Họ cấp cho chúng tôi một căn nhà mới. Xây bằng gạch hẳn hoi. Nhưng, như bà biết đấy, trong 7 năm trời chúng tôi không đóng một cái đinh nào cả. Bởi vì nhà đó không phải của chúng tôi. Nó thật xa lạ. Chồng tôi khóc và khóc. Suốt tuần anh ấy lái xe xúc cho nông trang, chờ đợi ngày chủ nhật. Chủ nhật đến, anh ấy nằm nhìn tường rên rỉ. . .”.

“Không, không ai có thể lừa chúng tôi được nữa, chúng tôi sẽ không bỏ đi đâu hết. Ở đây không có cửa hàng, không có bệnh viện, không có điện. Buổi tối đến chúng tôi đốt đèn dầu, ngồi dưới ánh trăng. Chúng tôi thích thế! Bởi vì chúng tôi đang sống trong nhà của mình.”.

“Ở thành phố, con dâu tôi và tôi chăm sóc kỹ lưỡng căn nhà chung cư, lúc nào cũng lau chùi cửa nẻo ghế bàn. Tất cả đều được mua sắm bằng tiền của tôi, đồ đạc trong nhà và cả chiếc xe hơi Zhiguli nữa. Tiền đó là của chính phủ bồi thường cho căn nhà và bầy bò của tôi bỏ lại. Ngay khi tiền hết thì tôi hiểu mình không còn cần có mặt ở trong nhà của nó nữa.”.

“Các con chúng tôi lấy một phần tiền. Số còn lại mất là bởi lạm phát. Với số tiền họ bồi thường căn nhà của chúng tôi chỉ đủ mua một kí lô kẹo ngon. Có thể bây giờ thì không đủ nữa.”.

“Tôi cuốc bộ ròng rã hai tuần lễ. Cùng với con bò cái. Người ta không cho tôi vào trong nhà. Tôi phải ngủ ngoài rừng.”.

“Ai cũng sợ chúng tôi. Họ bảo chúng tôi bị nhiễm xạ. Tại sao Chúa trừng phạt chúng tôi? Ngài nổi giận chăng? Chúng tôi không sống như mọi người, không sống đúng theo giáo luật của Ngài. Chính vì thế mà người ta đang giết chóc lẫn nhau.”.

“Mùa hè mấy đứa cháu tôi chúng đến chơi. Hồi đầu, chúng sợ, không dám đến. Giờ thì mùa hè nào chúng cũng về. Mang theo cả thức ăn nữa, bất cứ thứ gì chúng kiếm được. Chúng bảo tôi: “Bà ngoại à, bà có đọc quyển tiểu thuyết Robinson Crusoe chưa? Anh chàng Robinson Crusoe cũng sống một mình như mình vậy. Chung quanh chẳng có ai cả. Tôi mua được nửa bao diêm. Một cái cuốc và một cái xẻng. Hiện giờ tôi có mỡ, có trứng, và sữa. Chỉ thiếu đường. Không trồng mía được. Nhưng mình có cả khoảng đất mênh mông này. Cứ cày bừa trồng tỉa hàng trăm héc-ta đất nếu mình có sức. Không chính quyền, không ông chủ. Không có ai đứng án ngữ giữa đường .”.

“Mấy con mèo đã trở lại nhà với chúng tôi. Cả mấy con chó nữa. Chúng tôi cùng đoàn tụ xum vầy. Nhưng mà những người lính giữ an ninh khu vực không cho chúng tôi qua trạm. Thế là chúng tôi phải len lỏi đi đường rừng – như mấy ông du kích quân.”.

“Chúng tôi không cần bất cứ thứ gì từ chính quyền. Hãy để cho chúng tôi yên. Đó là thứ duy nhất chúng tôi muốn từ họ. Chúng tôi không cần cửa hàng, không cần xe bus. Chúng tôi đi bộ lấy bánh mì. 20 ki lô mét. Hãy cứ để cho chúng tôi yên. Chúng tôi muốn tự xoay sở mọi chuyện .”.

“Ba gia đình chúng tôi cùng quay trở về. Nhà cửa chúng tôi bị vét sạch mọi thứ. Bếp vỡ nát hết. Cửa sổ, cửa chính bị tháo gỡ. Đèn đuốc, nút điện, ổ cắm điện – mất hết. Chả còn gì cả. Tôi phải thu vén các thứ bằng chỉ đôi tay này. Làm sao khác được!”.

“Khi mà lũ ngỗng hoang kêu inh ỏi ngoài kia, có nghĩa là mùa xuân đã trở về. Thời điểm gieo hạt ngoài cánh đồng. Vậy mà chúng tôi phải ngồi suông trong căn nhà trống hoang trống hoác. Nhưng ít nhất còn có cái mái che vững chắc trên đầu.”.

“Bọn cảnh sát đang la hét om sòm. Những chiếc xe đầy cảnh sát phóng tới, chúng tôi chạy vào rừng. Như trước đây chúng tôi chạy trốn bọn Đức. Có lần cảnh sát còn đem theo một ông công tố viện. Ông này vừa thở không ra hơi vừa đe doạ sẽ nhốt chúng tôi vào tù vì vi phạm điều 10. Tôi bảo: “Cứ để họ đem tôi vào tù trong một năm. Đủ một năm tôi sẽ về lại đây sống tiếp.”. Việc của cảnh sát là la hét, đe nẹt. Việc của chúng ta là cứ câm miệng hến. Tôi có cái huy chương này – huy chương thưởng cho người gặt giỏi nhất nông trang. Vậy mà ông ta đem điều luật 10 ra doạ tôi.”.

“Ngày nào tôi cũng mơ thấy căn nhà của mình. Tôi trở về, đào bới ngoài vườn, sửa sang lại giường chiếu. Lần nào tôi cũng tìm thấy được cái gì đó: khi thì chiếc giầy, khi thì chú gà con. Chúng làm tôi vui sướng. Tôi sẽ sớm về nhà . . .”.

“Ban đêm chúng tôi cầu xin Chúa, ban ngày thì cầu xin cảnh sát. Nếu bà hỏi tôi: “Sao chị khóc? Tôi không biết trả lời sao. Tôi sung sướng được sống trong căn nhà của mình.”.

“Chúng tôi sống qua mọi thứ, sống sót sau bao nhiêu chuyện xảy ra . . .”.

“Tôi đi khám bác sĩ. Tôi nói “Cháu ơi, đôi chân của bà không chịu cử động nữa. Mấy cái khớp này hành đau quá. “Ngọai ơi, bà phải bỏ quách cái con bò cái ấy đi thôi. Sữa của nó bị nhiễm phóng xạ rồi.”. Tôi trả lời: “Không, không! Chân của bà đau, đầu gối của bà đau, nhưng bà nhất định không bỏ con bò cái. Nó nuôi bà đấy!”.

“Tôi có 7 đứa con tất cả. Bọn chúng ở cả thành phố. Riêng tôi ở đây một mình. Chung quanh là những tấm hình của chúng nó. Tôi tự chuyện trò một mình, với mình, chỉ một mình. Tự tay tôi sơn lấy căn nhà, tốn mất 6 hộp sơn. Tôi sống như thế đấy. Tôi nuôi dưỡng 4 đứa con trai, 3 đứa con gái. Chồng tôi chết sớm. Giờ thì chỉ còn lại mình tôi.”.

“Có lần tôi gặp chó sói. Nó đứng đó, tôi đứng đó. Chúng tôi nhìn nhau. Nó chạy băng qua đường, tôi cũng chạy bán sống bán chết, mũ nón văng đâu mất. Thật đáng sợ quá!”.

“Loài thú nào cũng sợ con người. Nếu bà không làm gì nó thì nó cũng chỉ đi vòng vòng quanh bà. Trước đây, đi trong rừng nghe có tiếng người, bà sẽ chạy tìm họ. Còn bây giờ thì người ta lẩn trốn nhau. Chúa đã cứu tôi bằng cách không để tôi gặp người nào đó trong rừng.”.

“Những gì viết trong Kinh Thánh đều có thật hết. Trong đó cũng có viết về nông trang tập thể của chúng tôi. Và về ông Gorbachev. Viết rằng sẽ ra đời một quan chức rất lớn có cái bớt bẩm sinh trên người và rằng một đế chế hùng mạnh sẽ sụp đổ. Rồi kế tiếp đó là ngày Tận Thế, ngày Phán Xử Cuối Cùng. Những ai sống ở thành phố sẽ chết hết và chỉ có một người sống ở làng quê được sống. Người sống sót này sẽ rất vui sướng tìm ra dấu chân người. Không phải một con người khác mà là dấu chân của chính anh ta.”.

“Chúng tôi có cái đèn . Cái đèn đốt bằng dầu cặn. Mấy người phụ nữ đã nói rồi đấy. Nếu chúng tôi bắt được con lợn rừng, chúng tôi đem xuống tầng hầm xẻ thịt và chôn dưới đất. Ở đó có thể giữ thịt được 3 ngày. Còn rượu thì chúng tôi tự nấu lấy.”.

“Tôi có hai bao muối. Không có sự giúp đỡ của chính quyền chúng tôi cũng chẳng sao. Củi giả thì nhiều lắm. Ngoài kia có cả một khu rừng mà. Căn nhà ấm áp. Có đèn chiếu sáng. Thật dễ chịu! Tôi nuôi 1 con dê, 1 đứa trẻ, 3 con heo, 14 con gà. Đất thì tha hồ mà chiếm. Cỏ cũng tha hồ mà cắt. Có cả giếng nước. Và tự do. Chúng tôi cảm thấy hạnh phúc. Không còn phải ở trong nông trang tập thể nữa. Giờ thì chúng tôi là một cộng đồng, một xóm giềng. Chúng tôi cần mua thêm một con ngựa nữa. Chỉ một con ngựa nhỏ nữa thôi là chúng tôi có thể tự lực cánh sinh một mình chẳng cần đến ai.”.

“Có anh chàng phóng viên ví von rằng chúng tôi không chỉ về nhà, mà còn đi ngược thời gian hàng trăm năm. Chúng tôi dùng búa để gặt , dùng liềm để cắt cỏ và đập lúa ngay trên mặt đường.”.

“Thời chiến tranh nhà cửa chúng tôi bị đốt cháy, chúng tôi phải trốn chui trốn nhũi trong những cái hầm trú ẩn. Chúng giết anh tôi và hai đứa con trai của anh ấy. Gia đình tôi bị giết tất cả là 17 người. Mẹ tôi khóc hết nước mắt. Có một bà cụ già đi lang thang khắp làng mót thức ăn, thấy vậy bảo mẹ tôi: “Bà thương khóc người chết à? Đừng! Người nào đã hy sinh chính mạng sống mình cho kẻ khác, người ấy là thánh.”. Tôi sẵn sàng làm bất cứ điều gì cho tổ quốc. Chỉ có giết người là tôi không thể làm được. Tôi làm nghề dạy học, tôi dạy học trò tôi hãy thương yêu lẫn nhau. Phải, tôi dạy chúng như thế!”. Điều tốt luôn luôn chiến thắng. “Những đứa trẻ con, tâm hồn chúng bao giờ cũng thuần khiết.”.

“Chernobyl giống như một cuộc chiến tranh bao trùm mọi cuộc chiến tranh. Chẳng còn chỗ nào để ẩn náu cả. Kể cả lòng đất, kể cả dưới nước, kể cả trên trời.”.

“Chúng tôi tắt máy phát thanh ngay lập tức. Chúng tôi chẳng biết điều gì xẩy ra ngoài kia, nhưng cuộc sống thật yên bình. Chúng tôi không biết đến lo âu. Người ta ghé qua, kể cho chúng tôi nghe nhiều thứ, - rằng chỗ nào cũng có chiến tranh. Và thế là chủ nghĩa xã hội biến mất và chúng tôi sống dưới chủ nghĩa tư bản. Sa Hoàng sẽ trở lại. Có thật thế không?”.

“Thỉnh thoảng có con lợn rừng chạy vào vườn, có khi con chồn. Nhưng người thì không. Chỉ có cảnh sát.”.

“Bà nên đến thăm nhà tôi nữa chứ!”.

“ Nhà tôi nữa. Đã lâu lắm rồi tôi không được tiếp khách.”.

“Tôi làm dấu thánh giá rồi cầu nguyện : Lạy chúa! Đã hai lần cảnh sát vào nhà con đập bể cái lò bếp. Chúng bắt con ra khỏi nhà trên chiếc xe xúc. Nhưng rồi con cũng lại quay về được. Họ nên để cho người ta về nhà chứ - mọi người quỳ xuống năn nỉ kìa. Nỗi đau khổ của chúng con được nói đến khắp toàn cầu. Bây giờ chỉ có người chết mới được về. Chết rồi mới được phép về. Còn người sống phải lén về vào ban đêm, băng rừng mà về.”.

“Ai cũng muốn được trở về nhà cho kịp mùa gặt. Đúng thế đấy! Mọi người đều muốn được lấy lại phần của mình. Cảnh sát lập danh sách những người họ cho phép quay về nhưng trẻ con dưới 18 tuổi thì không được phép. Mọi người sung sướng được đứng giữa sân nhà cạnh cây táo chính tay họ trồng. Trước hết, họ sẽ chạy ra nghĩa trang để khóc, rồi trở về lại sân nhà mình, cũng chỉ để khóc. Và, tất nhiên, cầu nguyện. Họ đốt nến, treo chúng trên hàng rào. Như họ đã làm như thế trên những hàng rào nhỏ ở nghĩa trang. Có khi họ treo một vòng hoa tang trước cửa nhà. Có khi là tấm khăn màu trắng ở cổng. Mấy bà cụ già quỳ xuống cầu nguyện : “Hỡi các anh chị em! Xin hãy bền chí kiên trì!”.

“Người ta mang trứng, bánh mì và nhiều thứ khác ra nghĩa trang. Họ ngồi xuống chỗ phần mộ gia đình. Rồi gọi : “Chị ơi, em đến thăm chị đây. Ăn cơm với em nhé!” Hoặc: “Mẹ ơi! Mẹ thân yêu ơi! Bố, Bố ơi!”. Họ gọi các linh hồn từ trời xuống. Thân nhân những người vừa mới chết thì khóc lóc. Còn những người khác thì mắt ráo hoảnh. Họ chuyện trò, gợi lại chuyện đã qua. Ai cũng cầu nguyện. Kể cả những người không biết cầu nguyện như thế nào, cũng cầu nguyện.”.

“Chỉ có khi đêm xuống thì tôi mới ngưng khóc. Bà không thể khóc tiếc thương người chết vào ban đêm. Tôi không bao giờ khóc lúc không còn ánh mặt trời. Lạy Chúa! Xin hãy nhớ đến những linh hồn. Và đưa họ về nước Chúa.”.

“Nếu bà không biết tiếu lâm là bà thiệt đấy. Ở chợ có một phụ nữ người Ukraine rao bán những trái táo đỏ thật lớn. “Mua táo đây! táo đây! Táo Chernobyl đây!”. Có người bảo chị ấy đừng có rao hàng như vậy, sẽ chẳng có ma nào thèm mua.” Chị trả lời: “Không sao đâu! Thế nào cũng có người mua mà. Có người cần mua để biếu mẹ chồng, có người lại mua biếu sếp.”.

“Có anh chàng nọ mới ở tù ra. Được ân xá ấy mà! Anh ta ở ngay làng bên cạnh. Trở về, mẹ chết, nhà bị vùi dưới đất. Anh ta chạy qua nhà chúng tôi, đề nghị: “Cho tôi ít bánh mì, ít mỡ. Tôi sẽ chẻ củi cho.” Anh ta được toại nguyện ngay”.

“Cả nước là một mớ hỗn loạn – mọi người đều trở về đây. Họ trốn tránh nhau. Trốn tránh luật pháp. Sống cô độc. Có cả những kẻ lạ mặt nữa. Trông họ lạnh lùng, không một chút thân thiện trong ánh mắt. Khi say sưa họ có khả năng đốt sạch mọi thứ. Đêm ngủ chúng tôi để rìu và chỉa ba dưới gậm giường. Ngoài nhà bếp, ngay cửa ra vào là cây búa.”.

“Mùa xuân rồi có một con chồn bị bệnh dại. Khi chồn bị bệnh dại, nó lại hiền lành một cách khác thường. Nó không dám nhìn vào mặt nước. Hãy cứ để một chậu nước trong vườn nhà, nó sẽ chạy đi chỗ khác ngay.”.

“Không có truyền hình. Cũng chẳng phim ảnh. Chỉ có thể làm mỗi một điều là nhìn ra ngoài cửa sổ. À, cầu nguyện nữa chứ, tất nhiên rồi. Trước đây có cộng sản thay vì Chúa, nhưng giờ chỉ còn có Chúa thôi. Thế nên chúng tôi cầu nguyện.”.

“Chúng tôi là những người đã từng đóng góp cho đất nước. Tôi đã ở trong đội du kích quân một năm. Chúng tôi tham gia chiến đấu đánh đuổi bọn Đức. Tôi đã viết tên mình trên miếng băng tay chữ Vạn : Artyushenko. Tôi đã xăn tay áo lên xây dựng chủ nghĩa cộng sản. Bây giờ nó đâu rồi?”.

“Ở đây chúng tôi có chủ nghĩa cộng sản – chúng tôi sống như anh chị em ruột thịt với nhau . . . “.

“Cái năm mà chiến tranh bùng nổ, vườn nhà chúng tôi tuyệt không thấy có nấm hay dâu tây gì cả. Liệu bà có tin nổi không? Ngay đến mặt đất cũng đã ngửi trước được mùi thảm hoạ. Năm 1941. Tôi nhớ chứ! làm sao mà tôi có thể quên được chiến tranh. Có tin đồn lan truyền rằng những tù binh chiến tranh bị giải qua làng, nếu ai nhận diện được người thân thì có thể đem họ về. Cánh phụ nữ chạy ùa đến ngay. Đêm hôm đó, có chị dẫn chồng mình về nhà, có chị dẫn người không phải chồng mình. Chẳng may có một thằng vô lại. Nó cũng bình thường như bao người khác, có vợ, hai đứa con. Thế mà nó đi báo với tên chỉ huy là chúng tôi dẫn cả người Ukraine về nhà. Vasko, Sashko. Hôm sau, bọn Đức đến bằng những chiếc xe máy. Chúng tôi quỳ xuống năn nỉ xin tha. Mặc. Chúng vẫn cứ dẫn mấy người Ukraine đi vào rừng rồi xả súng bắn chết hết. Cả 9 người. Đều còn rất trẻ và hiền lành!Vasko, Sashko. . . “.

“Bọn lãnh đạo đến, họ la hét ỏm tỏi, nhưng chúng tôi điếc và câm hết. Cứ thế, chúng tôi sống qua mọi thứ, sống sót sau bao nhiêu chuyện xảy ra . . .”.

“Nhưng tôi đang nói chuyện khác, cái chuyện mà tôi đã suy nghĩ về nó rất nhiều. Ở nghĩa trang ấy! Người thì cầu nguyện rõ to, kẻ khác lại rất lặng lẽ. Có người cầu: “Hỡi cát vàng, hãy mở ra nào. Hỡi đêm đen, hãy mở ra nào.” Rừng thì có thể mở lòng ra với người, nhưng cát thì không bao giờ. Tôi sẽ sàng hỏi : “Ivan, Ivan, em sống thế nào đây?”. Nhưng anh ấy không buồn trả lời tôi dù bất cứ bằng cách nào.”. “Tôi không có mất mát nào của riêng mình để khóc than, thế nên tôi khóc than cho mọi người. Cho những kẻ lạ mặt. Tôi vào nghĩa trang. Chuyện trò với người chết.”.

“Tôi không sợ ai hết – người chết cũng không sợ, thú vật cũng không sợ, không sợ ai hết. Con trai tôi từ thành phố ghé qua, nó cáu gắt với tôi: “Sao mẹ còn ở đây? Bọn cướp nó giết mẹ thì sao?”. Nhưng mà nó muốn lấy cái gì của tôi? Thì có mấy cái gối đó. Trong căn nhà đơn sơ như thế này, thì gối là đồ đạc chính. Thằng ăn cắp nào muốn vào đây, ngay lúc nó thò đầu vào cửa sổ tôi đã chặt béng bằng chiếc rìu này rồi. Chúng tôi sống sót ở đây như thế đó. Có thể chẳng có Chúa nào ở đây, có thể vẫn có ai đó, nhưng lại ở tuốt trên cao kia . Thế là tôi vẫn cứ sống còn.”.

“Tại sao Chernobyl suy sụp thảm hại như thế? Có người bảo đó là do lỗi của các nhà khoa học. Họ dám nắm râu Chúa và Chúa đang cười to. Nhưng chúng tôi mới là người phải trả giá cho lỗi lầm ấy.”.

“Chúng tôi chưa bao giờ được sống yên ổn, tử tế. Lúc nào chúng tôi cũng sợ hãi. Hồi chiến tranh họ bắt người làng đi phục vụ. Lái những chiếc xe hơi đen đến, họ bắt ba trong số những đàn ông trai tráng đang làm việc ngoài đồng. Cho đến nay vẫn chưa có ai trở về. Thế nên chúng tôi luôn sống trong sự sợ hãi.”.

“Giờ thì chúng tôi tự do rồi. Mùa màng trù phú. Chúng tôi sống như những ông hoàng.”.

“Tôi chỉ sở hữu duy nhất một con bò cái. Tôi sẽ giao nộp nó ngay nếu họ không gây thêm một cuộc chiến tranh nào nữa. Sao tôi thù ghét chiến tranh thế!”.

“Ở đây chúng tôi có một cuộc chiến tranh trên hết các cuộc chiến tranh – đó là Chernobyl.”.

“Và những con chim cu đang cúc cu, những con ác là đang chích choè, những con hoẵng đang thi nhau chạy. Liệu chúng có còn sinh sản được nữa không? Ai biết được? buổi sáng tôi nhìn ra vườn, thấy mấy con lợn rừng đang chũi đất. Chúng là lợn hoang mà. Con người còn có thể tạo dựng lại cuộc sống ở một nơi khác được, nhưng con hươu, con lợn thì không thể được. Cũng như nước nó đâu có tôn trọng ranh giới biên thuỳ, nó chảy theo mặt đất, chảy dưới mặt đất.”.

“Đau lòng lắm, các bà ơi. Ôi, đau lòng lắm! Hãy im lặng nào. Họ âm thầm mang quan tài của mình đến. Cẩn thận. Kẻo lại va vào cửa, vào thành giường, vào bất cứ thứ gì hoặc làm đổ tung toé. Nếu không thì mình sẽ phải chờ người chết kế tiếp đấy! lạy Chúa! Xin cứu rỗi những linh hồn, đem họ về nước Chúa. Xin hãy đọc kinh cầu nguyện cho họ trong giờ lâm tử. Ở đây chúng tôi có nhiều những ngôi mộ. Chỗ nào cũng có mộ. Máy ủi đất, xe xúc làm việc cật lực. Nhà cửa bị hạ xuống rầm rập. Các người thợ đào mồ không lúc nào ngưng tay. Người ta vùi lấp trường học, toà nhà sở chỉ huy, nhà vệ sinh. Cũng chỉ là một thế giới đó thôi, nhưng con người ở đó thì khác hẳn. Có một điều tôi không biết, con người ta có linh hồn không? Xếp loại chúng như thế nào? và làm sao tất cả các linh hồn có thể thích nghi được trong thế giới kế tiếp? Ông tôi hấp hối 2 ngày trước khi chết. Tôi núp sau nhà bếp để chờ xem linh hồn nó bay ra khỏi xác của ông tôi bằng cách nào. Tôi ra vắt sữa bò- quay lại, thấy ông tôi chết rồi mà hai mắt vẫn mở rộng. Linh hồn ông tôi cũng đi mất từ bao giờ. Hoặc là chẳng có linh hồn nào bay đi cả. Vậy thì bằng cách nào để ông tôi và tôi có thể gặp lại nhau ?”.

“Có bà cụ già đoan quyết là chúng ta sẽ bất tử. Chúng tôi đọc kinh cầu nguyện. Lạy Chúa, xin cho chúng con sức mạnh để chúng con vượt qua được sự mỏi mệt của cuộc sống này”.

Độc Thoại

_____________________________

về hình dạng chất phóng xạ như thế nào

Lần đầu tiên tôi cảm thấy hoảng sợ là hôm buổi sáng phát hiện mấy con chuột chũi nằm chết trong sân và trong vườn rau. Chúng chết vì nghẹt thở. Cái gì khiến chúng bị nghẹt thở? Thường thì không bao giờ chuột chũi bò lên mặt đất. Chắc phải có cái gì đó đuổi chúng chạy lên. Tôi thề có trời đất chứng giám.

Từ Gomel, con trai tôi gọi hỏi: “Sâu tháng năm xuất hiện chưa mẹ?”

“Mẹ chẳng thấy con sâu nào hết. Không cả dòi bọ. Chúng còn đang lẩn trốn đâu đó.”

“Thế còn giun?”

“Nếu thấy giun trong lúc mưa thì mấy con gà của con sẽ thích lắm. Nhưng cũng không có con giun nào.”

“Đó là dấu hiệu sơ khởi đó mẹ. Tháng năm mà chưa thấy sâu bọ, cũng không thấy giun, tức là không khí bị nhiễm độc phóng xạ nặng rồi mẹ ạ.”

“Con nói phóng xạ gì?”

“Mẹ, đó là thứ chất độc chết người. Mẹ với bà phải rời khỏi đó ngay lập tức và đến ở với chúng con.”.

“Nhưng mẹ chưa kịp gieo trồng gì ngoài vườn cả!”

Nếu ai cũng khôn ngoan, lanh lợi thì kẻ nào là đứa ngu đần? Nhà máy nó phát hoả - vậy thì nó phát hoả. Một cơn hoả hoạn xẩy ra rồi bị dập tắt, thì có gì mà phải sợ. Lúc ấy, chẳng ai biết gì về nguyên tử cả. Tôi xin thề trên cây thập giá là như thế. Vậy mà chúng tôi sống ngay bên cạnh nhà máy hạt nhân, chỉ cách nó 30 cây số đường chim bay và 40 cây số nếu đi bằng đường bộ. Hồi ấy, chúng tôi sống khá dễ dàng. Bà chỉ cần một cái vé xe là có thể đến đó, muốn gì cũng có, như ở Moscow vậy. Xúc xích rẻ lắm. Còn cửa tiệm lúc nào cũng có thịt. Ai cần gì có nấy. Ôi cái thuở vàng son ấy!

Thỉnh thoảng tôi mở máy phát thanh, chỉ để nghe họ lúc nào cũng doạ chúng tôi với cái chất phóng xạ. Nhưng cuộc sống của chúng tôi lại trở nên khá hơn từ ngày có chất phóng xạ. Tôi thề độc đấy! hãy xem : người ta mang đến cam này, tới 3 loại xúc xích khác nhau này, muốn gì là được ngay. Đem cho cả làng. Mấy đứa cháu tôi đi khắp nơi trên thế giới. Đứa nhỏ nhất mới từ Pháp về, nơi mà Napoleon đã từng từ đó tiến đánh (nước Nga). “Bà ơi, cháu đã thấy quả dứa!” Còn thằng anh nó thì được người ta đưa đi chữa bệnh ở tận Berlin, nơi mà Hitler ngồi xe tăng khởi sự chiến tranh. Quả là một thế giới mới mẻ. Mọi sự không còn như xưa nữa. Vậy đó là do lỗi của phóng xạ? hay là cái gì?

Trông nó như thế nào, cái chất phóng xạ ấy? Có thể người ta đã chiếu nó trong những phim ảnh? bà có nhìn thấy nó chưa? nó màu trắng, hay màu gì? Màu gì vậy? Có người bảo nó không màu, không vị, kẻ khác lại bảo nó màu đen. Như đất vậy. Nhưng nếu bảo nó không màu, tức là nó giống như Thượng đế rồi. Thượng đế thì ở khắp mọi nơi, bà chỉ không trông thấy ông ấy thôi. Họ làm cho chúng tôi sợ! Cây táo trong vườn vẫn ra trái, cây vẫn ra lá, khoai vẫn ra củ ngoài đồng. Tôi không tin có cái vụ gọi là Chernobyl, họ chỉ bịa chuyện lên thôi. Mấy người bịp bợm ấy mà. Em gái tôi cùng với chồng nó đã bỏ đi. Chúng nó ở cách đây không xa lắm, chừng 20 ki lô mét. Sau đó khoảng 2 tháng, người hàng xóm cũ của nó chạy đến bảo : “Con bò nhà chị nó lây chất phóng xạ cho con bò nhà tôi! Nó chết rồi!” “Thế nó lây cho bò nhà chị bằng cách nào?” “Qua không khí chứ sao, như là bụi ấy. Nó bay lơ lửng trên không.”.

Chỉ là những chuyện thần thoại. Hết chuyện này tới chuyện khác.

Nhưng đây là chuyện thực sự xẩy ra. Ông tôi nuôi ong, 5 ổ ong. Trong hai ngày trời, chẳng có con nào bay ra khỏi tổ cả. Tất cả chúng đều ở riệt trong tổ. Và chờ đợi. Ông tôi không biết gì về vụ nhà máy hạt nhân vừa phát nổ, cứ chạy khắp vườn, lẩm bẩm : Thế này là thế nào? Chuyện gì thế? Hẳn phải có chuyện gì xẩy ra với thiên nhiên. Người hàng xóm của chúng tôi, một ông thầy giáo, bảo chúng tôi là lũ ong ấy chúng có hệ thống đánh hơi rất nhậy, tốt hơn con người, chúng đã biết ngay có chuyện gì vừa xẩy ra rồi. Đài, báo không nói một lời nào, nhưng lũ ong chúng biết. Ngày thứ ba chúng bay ra khỏi tổ. Ở đầu hồi nhà chúng tôi cũng có một tổ ong thợ, không một ai quấy rầy chúng cả. Buổi sáng hôm đó, không còn con nào trong đó. Chúng không chết, cũng không còn sống. Chúng tôi chỉ biết một điều là 6 năm sau thì chúng quay lại làm tổ nữa.

Chất phóng xạ : nó làm con người hoảng sợ, thú cũng sợ, chim cũng sợ. Đến cây cối cũng sợ nhưng chúng câm lặng, không nói nửa lời. Một thảm hoạ khủng khiếp cho hết thẩy mọi người, mọi loài. Chỉ có đám bọ cánh cứng xuất xứ từ Colorado bên Mỹ là nhởn nhơ khắp chỗ, như chúng vốn thế, ăn sạch đám khoai ngoài vườn, không chừa cả lá. Chúng quen với độc chất rồi. Như chúng tôi thôi.

Nhưng, nếu tôi nghĩ về sự việc như thế này. Nhà nào cũng có người chết. Ở khu phố đó, phía bên kia sông – tất cả chỉ còn đàn bà, không có đàn ông, họ chết hết rồi. Ở khu phố tôi ở, chỉ còn mình ông tôi và một người đàn ông nữa, là còn sống. Chúa đem mấy người đàn ông cất đi sớm. Tại sao vậy? không ai có thể nói cho chúng tôi biết tại sao. Nếu chúng ta thử nghĩ sự việc theo cách khác. Nếu tất cả cánh đàn ông sống sót, không còn một người đàn bà nào, thì chắc cũng chẳng thể khá hơn tình cảnh hiện nay. Chắc họ cũng lại say sưa suốt ngày vì sầu khổ. Phải không? Bọn đàn bà chúng tôi cảm thấy trống huênh trống hoác. Cứ ba bà lại có một bà bị hỏng đi cái “phần nữ” trên cơ thể. Già trẻ gì cũng bị như thế cả. Không ai còn có thể kiểm soát được việc sinh sản của mình đúng ngày đúng tháng nữa. Nếu như tôi nghĩ về sự việc theo cách này, cách khác, thì nó cứ thoảng đi như thể chưa từng có gì xẩy ra.

Tôi sẽ nói được gì khác đây? Mình phải sống. Thế thôi!

Còn việc này nữa. Trước đây, chúng tôi tự chế biến lấy bơ, tự chế biến phó mát sữa, phó mát thường. Chúng tôi nấu sữa thành bột. Ở trên phố người ta có ăn những thứ đó không? Bà đổ nước vào bột, trộn đều lên, rồi bỏ vào mấy mảnh vụn bột chua, xong cho vào nồi nước sôi nấu chín. Chế thêm chút sữa. Mẹ tôi chỉ tôi cách nấu, bà bảo : “Này, học làm học ăn đi con. Đây là món bà ngoại dậy mẹ đấy!”. Chúng tôi uống nước ép từ cây. Chúng tôi hấp đậu trên lò. Chúng tôi làm mứt quất. Thời chiến tranh chúng tôi phải đi gom cây cỏ gai, cây chân ngỗng. Chúng tôi đói triền miên nhưng không ai chết. Trong rừng lúc nào cũng có mận dâu, nấm rơm. Nhưng giờ thì chẳng còn gì. Tôi luôn nghĩ rằng, món ăn mình nấu trong nồi thì chẳng bao giờ thay đổi. Nhưng không phải vậy. Bà không thể có được sữa, đậu cũng không. Người ta không cho ăn mận dâu, không cho ăn nấm. Họ bảo phải hầm thịt lâu 3 tiếng đồng hồ. Khi luộc khoai phải chắt nước đổ đi 2 lần. Nào, mình không thể đánh nhau tay đôi với Chúa được. Mình phải sống. Thậm chí người ta còn doạ nước ở đây không thể uống được. Làm sao sống mà không có nước? Mỗi người đều có nước bên trong cơ thể mình. Không ai là không có. Ngay đến đá cũng có nước nữa là. Vậy, có thể nào, nước là vĩnh cửu? tất cả mọi sự sống đến từ nước. Bà hỏi ai bây giờ đây? Chẳng ai nói một lời. Người ta cầu nguyện Chúa, nhưng người ta không hỏi Chúa. Mình chỉ phải sống thôi!

Anna Petrovna Badaeva, dân tái định cư