Người phụ trách Văn Việt:

Trịnh Y Thư

Web:

vanviet.info

Blog:

vandoanviet.blogspot.com

Danh ngôn

Trong mọi cộng đồng, chúng ta cần một nhóm thiên thần gây rối.

We need, in every community, a group of angelic troublemakers.

(Bayard Rustin – trích bài phát biểu tại New York City 1963)

Trong mọi trường hợp, chắc chắn rằng sự thiếu hiểu biết, đi kèm với quyền lực, là kẻ thù tàn bạo nhất có thể có của công lý.

It is certain, in any case, that ignorance, allied with power, is the most ferocious enemy justice can have.

(James Baldwin - No Name in the Street 1972)

Các cuộc cách mạng và các cá nhân có thể bị giết hại, nhưng bạn không thể giết chết các ý tưởng.

While revolutionaries and individuals can be murdered, you cannot kill ideas.

(Thomas Sankara, một tuần trước khi bị ám sát, 1987)

Không có cảm giác nào cô đơn hơn việc bị chính đất nước mình trục xuất.

There's not a more lonely feeling than to be banished by my own country.

(Kiyo Sato – Kiyo’s Story 2009)

Ban Biên tập

Địa chỉ liên lạc:

1. Thơ

tho.vanviet.vd@gmail.com

2. Văn

vanviet.van14@gmail.com

3. Nghiên cứu Phê Bình

vanviet.ncpb@gmail.com

4. Vấn đề hôm nay

vanviet.vdhn1@gmail.com

5. Thư bạn đọc

vanviet.tbd14@gmail.com

6. Tư liệu

vanviet.tulieu@gmail.com

7. Văn học Miền Nam 54-75

vanhocmiennam5475@gmail.com

Tra cứu theo tên tác giả

Thứ Sáu, 19 tháng 12, 2025

Chọn lọc gen và ảo tưởng về tinh hoa

 Tino Cao

Những tiến bộ của di truyền học trong vài thập niên gần đây đã tạo ra một bước ngoặt lớn trong lịch sử khoa học về sự sống. Việc giải mã bộ gen người, sự phát triển của các nghiên cứu toàn hệ gen và sự ra đời của các công cụ chỉnh sửa gen chính xác đã làm thay đổi căn bản thành tựu y học hiện đại, đặc biệt trong chẩn đoán và điều trị các bệnh di truyền. Trong lĩnh vực y tế, những thành tựu này được nhìn nhận như một bước tiến mang tính khai phóng. Tuy nhiên, chính trong bối cảnh khoa học đạt tới mức tinh vi ấy, một xu hướng diễn giải vượt quá giới hạn khoa học cũng đang xuất hiện: xu hướng mở rộng gen học (genetics) – với tư cách là một ngành khoa học nghiên cứu về gen, di truyền và sự truyền đạt các đặc điểm sinh học thế hệ – từ mục tiêu chữa bệnh sang tham vọng tổ chức xã hội, phân loại con người và định nghĩa “giá trị” cá nhân ngay từ khi sinh ra.

“Nỗi buồn chiến tranh”: Ai hiếp Phương?

 Phạm Xuân Nguyên

(Đầu đề bài này không phải tôi muốn giật gân, mà vì tôi muốn đặt thẳng câu hỏi để bàn luận vấn đề.)

Trong tiểu thuyết “Nỗi buồn chiến tranh” (NBCT) có chi tiết Phương bị hãm hiếp trên chuyến tàu hoả đi cùng Kiên vào phía Nam. Những người phê phán cuốn tiểu thuyết dữ dội mấy ngày qua cho rằng tác giả đã mô tả vụ hãm hiếp này do bộ đội gây ra, vì thế họ đã cáo buộc và đòi xét xử nhà văn Bảo Ninh về tội đã xúc phạm đến quân đội nhân dân Việt Nam.

Tiến sĩ ca

 Đặng Tiến (Thái Nguyên)

 

(Khó như vụ gì ở Xứ Lạng mà dân mạng vẫn tìm ra huống hồ là tinh hoa tô-lịch!)

Xin gửi tặng bà bạn Khuất Thu Hồng – một trong những người đầu tiên lên tiếng về vụ này.

 

Thủa nước Nam phổ cập tiến sỹ,

Dân ngác ngơ rầu rĩ. Rồi cười.

Rằng là món ý truyền đời,

Sinh đồ! Ai thích! Xin mời! Ba quan.[1](*)

Có phải là như thế không?

 Tô Hoàng

 

1- Báo giấy bây giờ ít ai đọc nên số ấn phẩm thấp, báo luôn luôn lo bị lỗ. Từ đó đồng nhuận bút thấp. Nhuận bút thấp thì ít ai viết, bài gửi về tòa soạn khan hiếm, mà bài đã khan hiếm thì sự tuyển chọn cũng dễ dàng, chất lượng bài kém là chuyện đương nhiên. Vì vậy báo giấy không còn sức mạnh ghê gớm như xưa, đừng lấy danh nhà báo để hù dọa các ông chủ doanh nghiệp mà vòi tiền, vòi quảng cáo đấy nghe!

Chu Hồng Tiến và 29 bài thơ cuối

 Đinh Thanh Huyền

Chu Hồng Tiến

Một lần, Chu Hồng Tiến bày trò thi làm thơ, tôi bảo rằng tôi chỉ không viết được như Chu Hồng Tiến thôi. Ấy là tôi nói thật bởi đã từng làm thơ, từng có giải thưởng (nhưng thơ không phải niềm đam mê của tôi). Rốt cuộc, tôi vẫn nhận lời thách thức, lập tức trong khoảng 5 phút viết ra một bài thơ hoàn chỉnh và nhận của Tiến tràng cười tán thưởng.

Dư luận - phê bình trong những năm 1990 về tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh (kỳ 8 – hết)

 [Rút từ bộ tư liệu ĐỜI SỐNG VĂN NGHỆ THỜI ĐẦU ĐỔI MỚI do Lại Nguyên Ân và Nguyễn Thị Bình tổ chức sưu tầm, bản đánh máy do Trung tâm VH-NN Đông Tây thực hiện]

TRẢ LỜI PHỎNG VẤN BÁO CÔNG AN THÀNH PHỐ VỀ CUỐN NỖI BUỒN CHIẾN TRANH CỦA BẢO NINH

NGUYỄN ĐÌNH ƯỚC - HUỲNH KHÁI VINH

PHÓNG VIÊN - Với tư cách là Viện trưởng Viện lịch sử Quân sự, Trung tướng có nhận xét gì về cuốn tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh?

Thứ Năm, 18 tháng 12, 2025

Mùa nào thức nấy, có phải!?! (Về “Văn học Chấn thương”)

 Đặng Thân

Thời chiến, đã có những người hát nhạc tiền chiến, nhạc tình, nhạc vàng, nhạc xanh bị bắt đi tù, có người ngồi tù hàng chục năm như Toán xồm hay Lộc vàng. Thời bình, cớ sao không ai bắt bỏ tù những người chuyên hát những bài đầy máu me, súng đạn, đằng đằng sát khí (nhân danh hào khí), nhỉ? Ôi, “đường ra trận mùa này đẹp lắm”, “đi giữa ngày hội lớn”, “ta đứng đầu ngọn sóng / những luồng mạch tâm tư lay động loài người”…

Tôi nghe nhạc Từ Công Phụng

 Tino Cao

Từ Công Phụng không phải là một nhạc sĩ cần được “giới thiệu”. Việc giới thiệu ông thường chỉ làm lộ ra sự lúng túng của người viết. Nói gì đây khi không thể gắn ông vào một biến cố lịch sử cụ thể hay xếp ông vào một dòng nhạc đại diện, cũng không thể quy chiếu ông như một tiếng nói xã hội. Từ Công Phụng đứng ngoài hầu hết những tiêu chí quen thuộc mà tân nhạc Việt Nam từng dùng để xác lập giá trị. Chính vì thế, nói về ông buộc tôi phải thay đổi cách đặt vấn đề. Không thể hỏi ông “nói gì”, mà phải hỏi: ông đã từ chối nói những gì; và sự từ chối ấy có ý nghĩa ra sao.

Dư luận - phê bình trong những năm 1990 về tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh (kỳ 7)

 [Rút từ bộ tư liệu ĐỜI SỐNG VĂN NGHỆ THỜI ĐẦU ĐỔI MỚI do Lại Nguyên Ân và Nguyễn Thị Bình tổ chức sưu tầm, bản đánh máy do Trung tâm VH-NN Đông Tây thực hiện]

PHỎNG VẤN NHÀ BÁO NGUYỄN QUANG SÁNG VỀ QUYỂN NỖI BUỒN CHIẾN TRANH  CỦA BẢO NINH

NGUYỄN QUANG SÁNG

Cuốn tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh sau khi được giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam đã gây ra nhiều cuộc tranh cãi trong giới văn học. Nhiều bài viết phê phán tác phẩm này đã in trên các báo và dư âm của nó vẫn còn trong dư luận không chỉ riêng với văn học mà đã trở thành nỗi quan tâm trong dư luận quần chúng.

Thứ Tư, 17 tháng 12, 2025

Tiệm cận sự thật và lật sử

 Lê Học Lãnh Vân

Hổm rày, từ ngữ Lật Sử được dùng khá nhiều. Đọc diễn ngôn của các vị hăng hái hô hào "chống lật sử", “phải đấu tranh bảo vệ lịch sử nước nhà”, tôi hiểu từ ngữ Lật Sử được các ông dùng hàm ý một hành vi xấu xa, thiếu văn hóa, đảo ngược Sự thật Lịch sử theo cách hiểu của các ông về cụm từ này.

 

BS Văn Văn Của, sinh năm 1927 tại Phnom Penh, học Trung học ở Lycée Siso Wath Phnom Penh. Về Sài Gòn 1949, học Tú tài tại Chasseloup Laubat tới 1949. Vào Đại học Y khoa Sài Gòn 1950, tốt nghiệp Y khoa 1957. Y sĩ Đại tá Y sĩ trưởng Sư đoàn Nhảy Dù 1957-1964. Đô trưởng Sài Gòn - Chợ Lớn 1965-1968. Cao học Y tế công cộng /MPH Tulane University 1970. Viện trưởng Viện Quốc gia Y tế Công cộng từ 1973-1975, kiêm đặc trách các trại tỵ nạn chiến tranh Long Thành và Phú Quốc cho tới 1975. Vì chức vụ sau cùng này, mà Anh không thể ra đi. Sau 1975, Anh bị đi tù cải tạo 4 năm tới tháng 12/1979. Anh là tác giả tập hồi ký “Mộng Không Thành”, do Tạp chí Y tế xuất bản năm 2000. Những năm cuối đời, BS Văn Văn Của sống ở Pháp và mất ngày 17.08.2003 tại Orsay, vùng tây nam ngoại ô Paris, thọ 76 tuổi.

Dư luận - phê bình trong những năm 1990 về tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh (kỳ 6)

 [Rút từ bộ tư liệu ĐỜI SỐNG VĂN NGHỆ THỜI ĐẦU ĐỔI MỚI do Lại Nguyên Ân và Nguyễn Thị Bình tổ chức sưu tầm, bản đánh máy do Trung tâm VH-NN Đông Tây thực hiện]

NHỮNG NHỊP MẠNH CỦA TIỂU THUYẾT THÂN PHẬN CỦA TÌNH YÊU (HAY NỖI BUỒN CHIẾN TRANH)

ĐỖ ĐỨC HIỂU

Về nhan đề tiểu thuyết của Bảo Ninh

Trong văn học Việt Nam mấy chục năm nay, có thể Thân phận của tình yêu là quyển tiểu thuyết hay về tình yêu, quyển tiểu thuyết tình yêu xót thương nhất; có thể Phương là nhân vật phụ nữ đẹp nhất trong tiểu thuyết hiện đại Việt Nam; và có thể nhan đề "Thân phận của tình yêu" thật phù hợp với ý nghĩa tác phẩm.

Thứ Ba, 16 tháng 12, 2025

Nỗi buồn của hận thù còn lớn hơn NỖI BUỒN CHIẾN TRANH

 Hoàng Quốc Dũng

 

Gần đây, tại Việt Nam, cuốn Nỗi buồn chiến tranh được vinh danh trong một giải thưởng văn học. Một cử chỉ cần thiết, vì cuốn tiểu thuyết này là tiếng nói hiếm hoi dám đi thẳng vào vết thương chiến tranh bằng sự trung thực của một con người đã kinh qua chiến tranh đó.

“Nỗi buồn chiến tranh” – Bản kinh thế tục phơi bày vô minh

 Uyên Nguyên

Trong dòng văn học Việt Nam hậu chiến, rất ít tác phẩm có thể phá vỡ những ảo tưởng tập thể sâu đến mức được xem như nền tảng của cả một thế hệ và lại càng hiếm có cuốn sách nào chạm đến tầm mức triết học của thân phận con người như Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh. Xuất hiện trong bối cảnh mà ký ức chiến tranh vẫn còn là vùng đất thiêng, đầy cấm kỵ và tự hào, tác phẩm không những đem lại một tiếng nói mới lạ mà còn làm lung lay những huyền thoại chiến thắng đã được nâng lên thành ý thức hệ. Đọc Nỗi buồn chiến tranh, chúng ta vừa đối diện với những vết thương của lịch sử, và vừa đối diện với chính mình – với nỗi khổ, với vô thường, với sự đổ vỡ của cái tôi – qua lăng kính rất gần với bản chất của Phật học và triết học nhân sinh hiện đại.

Những nhân vật vắng mặt trong QUÁN KỲ NAM

 Nguyễn Hoàng Ánh

 

Theo mình thành công lớn nhất của bộ phim Quán Kỳ Nam là nó đã thành công trong việc mô tả một giai đoạn lịch sử đáng nhớ của Việt Nam với những nhân vật điển hình một thời mà giờ đang bị quên lãng. Bộ phim đã đả động đến khá nhiều vấn đề từng rất nổi cộm trong những năm 90 như thuyền nhân, cải cách tư sản, vượt biên… và bao trùm tất cả là sự nghi kỵ lẫn nhau, phân hóa trong tư tưởng sâu sắc, trái ngược hẳn với ước mơ của Văn Cao sau khi đất nước được thống nhất là “Từ nay người biết yêu người”! Tác giả đã rất tế nhị khi không đề cập trực tiếp đến những vấn đề nhạy cảm nhưng những ai tinh ý đều có thể nhận ra, thông qua những chi tiết nhỏ, những lời nhắc nhở tưởng như thoáng qua hoặc những người không hề xuất hiện, nhưng vai trò của họ lại rất lớn bao trùm toàn thể bối cảnh bộ phim.

Không mưa ở Nhã Nam

 Trần Tuấn

 

Tôi đã về Đồi Cháy với Đồi Mơ, đã lang thang nơi truông Gọi Hồn với Ngọc Bơ Rẫy, đã gặp bà mẹ Lành với cô bé Lan... trong Ni bun chiến tranh của Bảo Ninh. Nơi đang cất giữ chiếc hộp đen kỳ bí của ký ức cho những con người cô đơn nhất trần gian. Những con người day dứt với đời sống làm người, với lương tri, với quá khứ mà mình cứ đòi được trả giá thay cho kẻ khác...

Tùy bút này viết 16 năm trước (2009), in trong tập Ung cà phê trên đường ca Vũ, 2017.

Dư luận - phê bình trong những năm 1990 về tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh (kỳ 5)

 [Rút từ bộ tư liệu ĐỜI SỐNG VĂN NGHỆ THỜI ĐẦU ĐỔI MỚI do Lại Nguyên Ân và Nguyễn Thị Bình tổ chức sưu tầm, bản đánh máy do Trung tâm VH-NN Đông Tây thực hiện]

NGHĨ GÌ KHI ĐỌC TIỂU THUYẾT THÂN PHẬN CỦA TÌNH YÊU

ĐỖ VĂN KHANG

Phải thừa nhận là Bảo Ninh khéo viết nên đã làm đôi bạn  đọc dễ bị lầm về ý đồ tiểu thuyết của anh. Vì anh đã tiếp thu thủ pháp quen thuộc của nghệ thuật thế giới và đã dựng được cuốn "tiểu thuyết của tiểu thuyết". Viết theo cách này tác giả đã lẩn đi tới hai lần.

Sartre đã biện hộ cho trí thức như thế nào?

 (Đọc Biện hộ cho trí thức của Jean-Paul Sartre)

Dương Thắng

“Giá trị lớn nhất của Biện hộ cho trí thức là nó không định nghĩa trí thức như một danh hiệu, mà như một chức năng, một quá trình, một thái độ. Đó là thái độ của sự tự vấn không ngừng, sự can đảm vượt qua lĩnh vực chuyên môn để can dự vào các vấn đề chung, và lòng trung thành với sự thật trước mọi áp lực.”

(Bùi Văn Nam Sơn, "120 năm Jean-Paul Sartre (1905-2025) – Từ biện minh cho sự hiện hữu đến biện hộ cho trí thức: một khao khát làm người". Trong Jean-Paul Sartre, Biện hộ cho trí thức, Phạm Anh Tuấn và Đinh Hồng Phúc dịch, Công ty TNHH Sách Thật – Nxb Hội Nhà văn, 2025, tr. 28)

Khủng hoảng tác giả và sự trỗi dậy của độc giả trí tuệ nhân tạo

 Tino Cao

Không phải đợi đến khi các mô hình tạo sinh văn bản bùng nổ thì câu hỏi “ai là người viết” mới rơi vào thế rối rắm. Văn học hiện đại từ lâu đã nhiều lần tìm cách phá vỡ tính trung tâm của tác giả: đặt lại vấn đề về giọng kể, thử nghiệm những đột biến trong cấu trúc tự sự và nghi ngờ cả khả năng tồn tại của “ý thức” như một điểm quy chiếu ổn định. Nhưng tất cả những chuyển động ấy vẫn là những cuộc nổi loạn nội tại của chữ nghĩa, diễn ra trong giới hạn của kinh nghiệm con người. Trí tuệ nhân tạo, trái lại, không xuất hiện như một đối tượng để văn học hấp thụ mà như một biên kiện ngoại lai (exogenous boundary event), một can thiệp đến từ ngoài phạm vi của đời sống chữ nghĩa, làm bật lên những giả định vốn được xem là hiển nhiên. Nó không thách thức tác giả bằng việc viết hay hơn; cái nó tác động là khả năng tạo ra văn bản mà không cần đến một đời sống thật sự phía sau văn bản. Chính sự vắng bóng của đời sống này mới khiến những nền tảng tưởng như vững chắc của lí thuyết văn học bắt đầu rạn vỡ: từ bản thể của tác giả, quan niệm về kinh nghiệm, đến cách ta hiểu thế nào là đọc và thế nào là phê bình.

Dư luận - phê bình trong những năm 1990 về tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh (kỳ 4)

[Rút từ bộ tư liệu ĐỜI SỐNG VĂN NGHỆ THỜI ĐẦU ĐỔI MỚI do Lại Nguyên Ân và Nguyễn Thị Bình tổ chức sưu tầm, bản đánh máy do Trung tâm VH-NN Đông Tây thực hiện]

CUỐN TIỂU THUYẾT VỀ MỘT CUỐN TIỂU THUYẾT[1]

NGUYÊN NGỌC

Cuốn tiểu thuyết của Bảo Ninh là một cuốn tiểu thuyết về một cuốn tiểu thuyết. Hoặc nói cho chặt chẽ hơn: là một cuốn tiểu thuyết về một người đang viết một cuốn tiểu thuyết. Một người lính từ chiến tranh sống sót trở về; anh trở thành nhà văn và ngồi viết cuốn tiểu thuyết về cuộc chiến tranh ấy của anh.

Như vậy trong cuốn sách có đến hai cuốn tiểu thuyết chồng lấp lên nhau, đan chéo vào nhau.

Thủ pháp nghệ thuật này không hoàn toàn lạ. Ngay từ Bọn làm bạc giả của A. Gide ngày xưa cho đến Dì Hulia và nhà văn quèn của M. V. Llosa, v.v... gần đây đã thấy không ít cách viết tương tự. Đương nhiên nhà văn nhằm một hiệu quả nghệ thuật nào đó: hoặc anh muốn đan chéo vào nhau quá khứ và thực tại, có khi cả tương lai nữa; hoặc anh mở cửa cho các nhân vật trong các nhân vật trong các trang sách của mình lưu thông tự do, bước ra và đi lại trong cái đời thường rất đời thường, rất hôm nay ngổn ngang hỗn độn. (Ở Moskva có lần tôi được xem vở Ba chị em của Chékhov do nhà đạo diễn tài năng Liubimov dựng. Khi vở bắt đầu, tất cả các tường của nhà hát hóa ra vốn là các cánh cửa bỗng được mở toang ra, thông hẳn với quảng trường Taganka náo nhiệt bên ngoài, và bỗng diễn ra một hiệu quả nghệ thuật lạ thường: Liubimov đã đưa tấn bi kịch cổ điển oi bức của Chékhov vào ngay giữa lòng xã hội Xô-viết ồn ào hôm nay)...

Bảo Ninh nhằm hiệu quả nghệ thuật gì trong cách viết của anh ở Nỗi buồn chiến tranh?

Có lẽ ở đây mà nói đến "thủ pháp nghệ thuật" đến "cách viết" - tức là chừng nào đó, những "xảo thuật nghề nghiệp" - e có thể sẽ là phần thô bạo, thô thiển chăng. Ở đây còn có điều gì khác nữa, sâu hơn, căn bản hơn. Đây là chính "chủ đề" của cuốn sách, như người ta thường nói. Hoặc chính xác thấu đáo hơn: đây là nỗi đau (Bảo Ninh gọi là "nỗi buồn") thống thiết của người cầm bút trào ra, như máu, trên mấy trăm trang giấy.

Trong văn học ta vài ba chục năm trở lại đây đã có hàng ngàn cuốn sách viết về mấy cuộc chiến tranh vừa qua. Hầu hết các tác giả những cuốn sách ấy đề là những người đã tự mình ở ngay trong mấy cuộc chiến tranh ấy mà ra. Đó là một trong những chỗ mạnh độc đáo của văn học về đề tài chiến tranh cách mạng ở ta... Song, nhìn cho kỹ hơn một chút, sẽ thấy điều này: họ, các tác giả ấy, dầu sao cũng tham gia chiến tranh ở những vị trí tương đối gián tiếp. Thời ấy họ đã là nhà văn cầm bút mà đi ra chiến trường, hoặc họ là phóng viên chiến trường của một tờ báo nào đó, cấp trung ương hay địa phương; hoặc họ là cán bộ tuyên huấn, thông tin tuyên truyền..., những nghề ít nhiều gần gũi với văn chương... Họ đi ra chiến trường tham gia chiến trận, để ghi chép, trên tay cầm một quản bút và trong túi sẵn một cuốn sổ tay... Bây giờ họ ngồi viết lại những điều họ từng chứng kiến hay từng trải qua... Đương nhiên mấy cuộc chiến tranh vừa rồi của chúng ta, nhất là cuộc chống Mỹ cực kỳ ác liệt, không đặt bất cứ ai từng ở chiến trường ra ngoài vòng thử thách khắc nghiệt của nó.

Tuy nhiên, chiến tranh cũng lại có cái luật riêng dứt khoát: chiến tranh là do các cấp chỉ đạo, chỉ huy định liệu (có thể đến bạc trắng đầu vì những định liệu ghê gớm này) và sau đó chiến tranh là do người lính làm. Trực tiếp thực hiện, trực tiếp làm chiến tranh là những con người ở cấp thấp nhất của bộ máy chiến trận, là người lính trận, là người binh nhì, người chỉ có độc mỗi một ngôi sao trơ trụi trên cái nền đỏ trống trơn của cấp hiệu.

Trong chiến tranh tôi có nhận xét: người cuối cùng không được lựa chọn gì hết đó là người lính trần. Quyền lựa chọn là của các cấp chỉ đạo, chỉ huy: hôm nay trong trận huyết chiến này, sử dụng đại đội A hay đại đội B? Trung đội 1 hay trung đội 2 sẽ là lực lượng xung kích? Tiểu đội nào lên trước tiểu đội nào lên sau?.. Sự lựa chọn đó là của cấp trên là số phận của người lính. Nó rơi xuống trên đầu người lính trần. Và lúc đó người lính trần chỉ còn mỗi một quyền lựa chọn: hoặc là chiến thắng hoặc là cái chết.

Đó là sự thật của chiến tranh, trần trụi, logic, khắc nghiệt.

Bảo Ninh nói với chúng ta: trong cuộc chiến tranh chống Mỹ có một thế hệ của dân tộc đã được lựa chọn để hy sinh cho nghĩa lớn của đất nước. Hàng triệu người binh nhì đã ra trận những năm tháng ấy và không trở về. Cả một thế hệ, hàng triệu con người mạnh khỏe, trẻ trung, tốt đẹp, ưu tú.

Đó là thế hệ của anh. Anh là người sống sót của thế hệ ấy trở về, một cách ngẫu nhiên, một cách kỳ quặc, không thể hiểu được, đến vô lý, "gần như là một sự phản bội vậy".

Hãy nghe anh nói:

"Bây giờ thì đã qua cả rồi, tiếng ồn ào của xung đột đã im bặt. Gió lặng cây dừng, và vì chúng ta đã chiến thắng nên đương nhiên là chính nghĩa đã thắng. Tuy nhiên, cứ nghĩ mà xem, cứ nhìn vào sự sống sót của bản thân mình, cứ nhìn kỹ nền hòa bình thản nhiên kia và nhìn cái đất nước đã chiến thắng này mà xem: đau xót chua chát và nhất là buồn xiết bao.

Một người ngã xuống để những người khác sống, điều đó chẳng có gì mới, thật thế. Nhưng khi mà tôi và anh thì còn sống mà tất cả những người ưu tú nhất, tốt đẹp nhất, những người xứng đáng hơn ai hết sống trên cõi đời này đều gục ngã, bị nghiền nát, bị xô đẩy, bị cỗ máy đẫm máu của chiến trận chà đạp, đày đọa, bị bạo lực tăm tối hành hạ, làm nhục rồi giết chết, bị chôn vùi, bị quét sạch, bị tuyệt diệt thì sự bình yên này, cuộc sống này, cảnh trời yên biển lặng này là cả một nghịch lý quái gở, một sự trống rỗng thê thảm, một sự vô lý đến tột cùng, oái oăm và điên đảo gần giống như là một sự phản bội vậy...".

Nhưng "vô lý đến tột cùng, oái oăm và điên đảo..." vậy, mà anh, anh đã trở về!

Vậy thì anh phải viết. Anh phải trở thành nhà văn và anh phải viết. Cuốn sách đã ra đời như thế đó. Như một thiên chức. Không phải cái thứ thiên chức văn chương gì gì đó, như người ta thường to tiếng. Thiên chức làm người.

Đây là tiếng nói của một thế hệ đã được chọn để hy sinh vì nghĩa lớn của dân tộc. chiến tranh đã bỏ sót và gửi lại trên cõi dương này một người trong số họ, hằng hà sa số họ, để nói với hôm nay tiếng nói của họ.

Bảo Ninh viết: "Ôi, năm tháng của tôi, thời đại của tôi, thế hệ của tôi..."

Cuốn sách này là thế đó. Hãy lắng nghe nó.

Anh đã trở về, và anh phải sống.

Anh sẽ sống thế nào đây? Có một chỗ Bảo Ninh đã dùng mấy chữ nặng trĩu: "Con đường cứu rỗi của anh". Con đường cứu rỗi của anh là ở đâu?

Anh quằn quại, anh mò tìm. Và anh nói: "... Có vẻ như anh đã tìm ra cuộc đời mới của mình, đấy chính là cuộc đời đã qua, là tuổi trẻ đã mất đi trong nỗi đau buồn chiến tranh. Đối với tôi, tương lai đã nằm lại ở phía sau xa kia rồi... trong những cánh rừng nguyên thủy của chiến tranh", trong "một sự nghiệp vừa được ghi nhớ vĩnh hằng vừa không bị lãng quên..."

Đối với anh hôm nay, đi tới tức là trở lại. Là nghĩ và ngẫm lại, sống lại, khám phá lại.

Tôi đã nói ở đầu bài viết này: ở đây có hai cuốn tiểu thuyết lồng vào nhau. Nhưng thật đúng ra thì chỉ có một: cuốn tiểu thuyết về một con người trăn trở tìm lẽ sống của mình hôm nay. Tìm ở đâu?

Anh nói: "... và cứ thế, nửa điên rồ, (anh) lao vào chiến đấu lại cuộc chiến đấu của đời mình... một cách đơn độc, một cách phản hiện thực, cay đắng và tuyệt vọng, đầy rẫy va vấp và lầm lạc...". "... Có lẽ từ nay, (anh) thầm nghĩ, cuộc đời mình sẽ luôn luôn là thế này đây: tối tăm, đau khổ và rạng ngời hạnh phúc. Và cứ giữa mơ và tỉnh mà mình sẽ đi tiếp đoạn đời còn lại".

Thế đấy, đây là cuốn tiểu thuyết về một cuộc chiến đấu của một con người tìm lẽ sống hôm nay. Bằng cách chiến đấu lại cuộc chiến đấu của đời mình.

Đây là một cuộc đi tìm. Đi tìm lại, mà cũng là tìm tới, một cách quằn quại, "nửa điên rồ", "một cách đơn độc, một cách phản hiện thực, cay đắng và tuyệt vọng, đầy rẫy va vấp và lầm lạc".

Cho nên - tôi tha thiết muốn nói điều này - đừng có ý đi tìm ở đây điều anh khẳng định hay phủ định ở chỗ này hay chỗ khác qua từng trang sách. Quyển sách đầy rẫy mâu thuẫn. Chính anh đang đau khổ đi tìm kia mà. Và anh đề nghị ta tìm cùng anh.

Còn về điều này nữa: đừng nên nghĩ đây là một cuốn sách viết về chiến tranh. Chiến tranh là một hiện thực đã đi qua, nhưng chưa dứt. Đúng ra thì đây là cuốn sách về "hậu chiến". Một người lính trở về, và thấy khó tìm lẽ sống hôm nay quá. Không còn dễ dàng như trước chiến tranh, thậm chí như trong chính chiến tranh. Bởi vì đối với mỗi người đã đi qua chiến tranh rồi, - lại là người lính trần ở cấp thấp nhất từng gánh chịu trên đôi vai mình, số kiếp mình tất cả gánh nặng khủng khiếp của chiến trận - thì ý nghĩa, lý do sự tồn tại trên đời này sẽ là khác hẳn. Ý nghĩa hơn mà cũng nặng nề hơn, khó nhọc hơn, nghiêm khắc hơn... trong khi chính anh và cái xã hội anh đang sống hôm nay lại đã bị tổn thương lớn quá vì chính cuộc chiến tranh vừa lớn lao cần thiết vừa ác nghiệt rùng rợn ấy.

Nên nhớ: càng hiểu rằng cuộc sống là có ý nghĩa hơn, thì sống sẽ càng khó hơn.

Cuốn sách này không mô tả chiến tranh. Nó "mô tả" một cuộc kiếm tìm nặng nhọc chính hôm nay. Hiện thực ở đây là hiện thực bên trong của một tâm hồn quằn quại và đầy trách nhiệm, quằn quại vì đầy trách nhiệm. Trách nhiệm lương tâm.

Có lần Bảo Ninh nói với tôi: "... Sau tất cả những điều ghê gớm như vậy, sao hôm nay lại thế này?". Đó là anh hỏi về xã hội và về chính anh.

Cuốn sách nặng nề này không bi quan. Vẫn thấm sâu ở đâu đó trong từng kẽ chữ của nó một âm hưởng hy vọng tiềm tàng, chính là vì thế; anh đi tìm, nghĩa là anh còn hy vọng.

Cuốn sách, anh viết: "nhưng... tôi tin rằng anh vô cùng hạnh phúc trên con đường hướng mãi về quá khứ. Không bị sự lãng quên xói mòn, tâm hồn anh sẽ mãi mãi được sống trong mùa xuân cũ những tình cảm mà ngày nay đã bị mai một hoặc đã già cỗi và biến tướng. Anh sẽ được trở lại với tình yêu, tình bạn, tình đồng chí, những tình cảm đã giúp chúng ta vượt qua muôn ngàn đau khổ của chiến tranh... Anh sẽ vĩnh viễn được sống trong những ngày đau thương nhưng huy hoàng, những ngày bất hạnh nhưng chan chứa tình người, những ngày mà chúng ta biết rõ vì sao chúng ta phải bước vào chiến tranh, chúng ta cần phải chịu đựng tất cả và hy sinh tất cả. Ngày mà tất cả đều còn rất son trẻ, trong trắng và chân thành".

Sau tất cả những điều ghê gớm mà Bảo Ninh đã nói ở mấy trăm trang sách, thì lời đề nghị cuối cùng này của anh, tôi nghĩ, là đáng trân trọng, như tiếng nói vọng lại của một thế hệ của một dân tộc đã đau khổ nhiều nhất, mất mát lớn nhất, đã bị hy sinh.

Cách đây mấy chục năm tức là lúc ở Liên Xô đã đi khá sâu vào thời kỳ cải tổ, tại Moskva tôi có may mắn gặp một nhà phê bình Xô viết nổi tiếng hiện nay, ông Vlađimia Laksin. Ông từng là trợ thủ gần gũi và đắc lực của Tvacdovski, một trong những nhà thơ lớn nhất và có nhân cách nhất của văn học Xô viết, thời Tvacdovski làm Tổng biên tập tạp chí nổi tiếng Thế giới mới lần thứ hai (trước đó Tvacdovski đã bị cách chức Tổng biên tập tạp chí này một lần). Khi Tvacdovski bị cách chức lần thứ hai, Laksin cũng bị nạn được đưa về "ngồi chơi xơi nước" ở tạp chí Văn học nước ngoài 16 năm liền. Bây giờ ông trở lại làm Phó tổng biên tập tạp chí Lá cờ mà G. Baklanov là Tổng biên tập. Ông tiếp tôi ngay tại phòng làm việc của ông ở tạp chí Lá cờ, lúc bấy giờ còn đóng ngay cạnh học viện văn học M.Gorki. Buổi tối nói chuyện đầm ấm. Khi tôi hỏi ông về những tác phẩm "thời thượng" hiện nay ở Liên Xô (kiểu những tác phẩm "chống tiêu cực" hiện nay ở ta) và triển vọng sắp tới của văn học Xô viết, ông ngồi lặng hồi lâu, đôi mắt sắc và rất hóm đăm đăm nhìn ra cửa phòng, hai hàng râu mép rất Nga hơi rung khẽ, rồi ông nói, nhỏ, hồi hộp:

- ... Anh biết không, tôi ngồi làm việc ở đây, nhiều hôm tôi chợt có ý nghĩ: một lúc nào đó bỗng nghe có tiếng gõ cửa rụt rè, và sau đó cửa mở, trên ngưỡng cửa hiện ra một người thanh niên hơi gầy, dong dỏng cao, khuôn mặt tai tái và buồn, tay ôm một bản thảo dày. Anh ấy nói: Tôi mang đến một bản thảo... xin lỗi, xin phép tự giới thiệu..., tôi là F. Dostoevski...

Khi nói như vậy, khuôn mặt Laksin cũng hơi tái đi và buồn, duy có đôi mắt hơi nheo lại thì sáng rực lên kỳ lạ.

Tôi biết Laksin muốn nhắc lại trường hợp nổi tiếng Bielinski và Nekrasov "phát hiện" ra Dostoevski hồi thế kỷ trước. Tôi cũng hiểu không phải ông muốn nói rằng văn học Xô viết hiện nay đang sắp có một Dostoevski mới - một đỉnh núi như vậy cả lịch sử chỉ có một lần. Điều ông muốn nói là nền văn học này đang tha thiết chờ đợi và dường như đang cảm thấy đâu đó sự vượt qua cái thượng thời tất yếu và cần thiết hôm nay và sự xuất hiện những tác phẩm văn học đích thực của thời cải tổ. Một cái gì đó không trực tiếp dính dấp bề ngoài với cải tổ hiện nay nhưng lại chỉ có cải tổ mới có, một cái gì đó thật sự đẻ ra từ máu thịt của thời đại mới...

Tôi cũng không điên rồ so sánh Dostoevski với bất cứ ai hôm nay. Tôi chỉ muốn nói rằng điều Laksin nói với tôi năm nọ ở Moskva, dường như ở ta bây giờ, ta cũng đang cảm thấy. Ta cũng chờ đợi một cái gì đó vượt qua cái thời thượng - tôi xin nhắc lại một lần nữa: tất yếu là cần thiết - đang có, đi đến một cái gì đó dường như không trực tiếp dính dáng đến những xao động của Đổi mới hôm nay, song lại chỉ có thể do Đổi mới mới có được, là con đẻ thực sự của cuộc vận động xã hội và con người sâu sắc và cách mạng này.

Đổi mới đã đem đến những gì đó cho văn học? Nhiều lắm. Sức sống mới, không khí dân chủ, sự đa dạng... Song có lẽ đáng nói nhất là điều này: đã thực sự có tự do sáng tác. Chưa phải là tất cả, nhưng đã có. Và hết sức quan trọng là đã có ở chỗ chính yếu nhất: ở trong chính người sáng tác. Một thứ tự do nội tại, một sự giải phóng bên trong, cơ bản và sâu sắc, được tạo nên một kết quả tốt đẹp của những quá trình xã hội sôi động mấy năm nay. Và bởi vì đó lạ sự giải phóng bên trong, nội tại ở chính người cầm bút, cho nên nó là không thể đảo ngược được nữa, bất chấp cả những ràng buộc, lúng túng thật ra là còn không ít trong chỉ đạo và quản lý.

Tự do thật sự và chân chính ở người cầm bút đồng nghĩa với nhân cách và trách nhiệm. Nhân cách đàng hoàng, xứng đáng, độc lập của nhà văn đứng trước xã hội và con người. Trách nhiệm của người cầm bút trước lịch sử và nhân dân, quá khứ, hiện tại và ngày mai, trong cuộc đi tìm lẽ sống xứng đáng của mọi người, và từng người.

Đổi mới đã đem đến tự do cho sáng tạo nghệ thuật. Và tác phẩm nghệ thuật chân chính chỉ có thể đẻ ra trong tự do, trước hết là tự do nội tại của nhà văn.

Tôi muốn nghĩ rằng cuốn sách nặng đầy suy nghĩ trằn trọc và trách nhiệm, tâm huyết của Bảo Ninh đã được hình thành trong chính không khí đã có phần trong lành lại đó, trong sự vận động còn gian nan nhưng không gì cưỡng lại được của xã hội và văn học hiện nay.

Nguồn: Cửa Việt, Quảng Trị, số 7 (tháng 4-1991)

***

THÂN PHẬN CỦA TÌNH YÊU

ĐÀO HIẾU

Thân phận của tình yêu, tôi ngờ rằng tác giả không đặt tên sách ấy cho mình mà đặt cho thị trường, bởi trong tác phẩm này tình yêu chỉ là một phần bi kịch chiến tranh, một phần của thân phận con người.

Tình yêu giữa Kiên và Phương là một mối tình rực rỡ, tàn nhẫn và xót xa nhưng vẫn chưa phải là yếu tố duy nhất và quyết định của bi kịch trong tác phẩm. Tình yêu ấy là ánh chớp của lửa chiến tranh nhưng rất nhiều khi bị chìm khuất trong nỗi buồn mênh mông mà chiến tranh - sau khi bị phá phách và tàn lụi - để lại trong đời Kiên như một hoàng hôn vĩnh cửu, tàn tạ và mỏi mệt.

Cho nên Thân phận của tình yêu đúng ra là nỗi buồn của kẻ sống sót. Kẻ sống sót không vui, không tung mũ nón, không vẫy cờ mà ngồi một mình trong căn phòng sang trọng ở phi cảng Tân Sơn Nhất, chân gác lên bàn, uống rượu bên cạnh những tử thi để chờ sáng.

Đây là một trong những tác phẩm viết về chiến tranh dữ dội, bi thương và lẫm liệt nhất mà tôi được đọc. Bảo Ninh, một tên tuổi mới, một tác giả trẻ, một người đi sau nhưng đã bứt lên, qua mặt nhiều người dù tiếng vỗ tay trên khán đài còn lác đác...

Có người nói: Nếu sau chiến tranh, Kiên trở về Hà Nội gặp lại Phương xinh đẹp, trong trắng, chờ đợi mình thì có lẽ không có những bi kịch ấy, không có nỗi buồn của kẻ sống sót, không có những giằng xé tê dại kia...

Tôi không nghĩ như thế. Vì sau chiến tranh, Kiên trở về như kẻ bị ma ám. Ma là đồng đội của anh, là Thịnh, là Cừ, là Hòa, là Quảng. Quảng quằn quại vì vết thương và muốn kết thúc sớm sự đau đớn ấy. Anh bảo Kiên: "Bắn em đi anh. Bắn! Bắn! Mẹ mày chứ. Bắn đi!" Nhưng Kiên đã không nỡ và Quảng đã phải tự rút chốt quả lựu đạn.

Hồn ma ấy cũng là Hòa, cô giao liên nhỏ bé bị một toán lính da đen cưỡng hiếp đến chết giữa rừng. Hồn ma ấy là Can, đào ngũ và chết bên bờ suối. "Cái xác lở loét ốm o như xác nhái vì dòng lũ tấp lên một bãi lau lầy lụa. Mặt của xác chết bị quạ rỉa, miệng nhét đầy bùn và lá mục" (tr.25)

Hồn ma còn là những người bên kia chiến tuyến: "Dòng lính áo xanh bị xe tăng dồn tới, dồn tới để chết chồng chất vì tay Kiên. Không phải là bắn nữa, mà là tàn sát" (tr.131).

Sự ám ảnh của những hồn ma cộng với bi kịch xót xa đến cuồng điên trên chuyến tàu hỏa, đi với Phương, cộng với kết thúc ê chề của mối tình đã đẩy Kiên vào cơn điên thống khổ, kiêu hãnh và hoan lạc. Đó là nỗi hoan lạc man rợ, là niềm kiêu hãnh bùng cháy trong tuyệt vọng. Ngần ấy những giằng xé, mâu thuẫn đã tạo nên tính cách anh "nhà văn của phường tôi" ấy.

Bảo Ninh tạo một cấu trúc truyện "không cần cấu trúc". Với một nhà văn ít vốn sống thì việc phá bỏ cấu trúc như thế đòi hỏi nhiều kinh nghiệm. Nhưng với Bảo Ninh, kẻ thừa mứa vốn sống chiến tranh thì chỉ cần cảm xúc. Chính cảm xúc đã thay anh dẫn dắt câu chuyện, dẫn dắt kết cấu, bố cục và tạo được cho nó cái vẻ "phi cấu trúc" một cách tương đối tự nhiên và "có nghề". Thực ra Bảo Ninh không cố gắng mấy trong nghệ thuật "phi cấu trúc" này. Lợi thế của anh là vốn sống. Anh như một gã triệu phú có trong tay nhiều kho vàng bạc châu báu. Tự mỗi món đã đẹp rồi, đã lấp lánh sáng rồi thì dù ném vung vãi chúng trên sàn nhà, chồng lên nhau, cạnh nhau, dày đặc hay rải rác, xám hồng tím lẫn lộn, bất chấp quy luật phối cảnh, bất chấp sự hài hòa về sắc độ... nó vẫn đẹp, vẫn rực rỡ. Tên triệu phú cả cười, tung hê những vòng ngọc, lá vàng, lá bạc lên... bay lả tả. Hắn biết thế của mình và tiếp tục trò chơi ấy trong suốt tác phẩm.

Họ yêu nhau từ năm 13 tuổi, chơi trò ú tim, trò vợ chồng trong xó nhà. Ngay lúc ấy, Phương đã là một cô gái độc đáo.

16, 17 tuổi, hai người trốn học, trốn những buổi thảo luận nhàm chán, bơi qua Hồ Tây. Họ hôn nhau trên cỏ, Kiên rụt rè chưa dám làm tình. Nhưng lúc ấy, Phương tỏ ra bản lĩnh hơn bạn trai của mình rất nhiều. Đến lúc Kiên vào lính với những suy nghĩ khuôn sáo về một sứ mệnh cao cả nào đó thì Phương đã nghĩ đến nỗi đau của chiến tranh, của chia lìa, của phi lý và nghiệt ngã. Cô là "bà chị" của Kiên. Trải qua một cuộc chiến tranh dài, khốc liệt, Kiên trở về gặp lại Phương "sa đọa" thì Phương vẫn cứ lớn hơn Kiên, trưởng thành hơn Kiên như thường, nàng trân trọng mối tình đến mức phải kiêu hãnh mà gạt bỏ nó. Nàng sa đọa cũng vì kiêu hãnh. Và Kiên, dù đã là một con người từng trải, dày dạn, vẫn không hiểu điều ấy.

Vẻ đẹp đó của Phương còn lộng lẫy hơn vẻ đẹp của thân xác nàng.

Kiên lớ ngớ ở tuổi 13, lý tưởng vặt ở tuổi 17, dũng mãnh, tàn bạo ở tuổi 20, 25 và bị ma ám ở tuổi 40, cũng không theo kịp được tầm vóc của Phương.

Thật hạnh phúc khi xây dựng được một nhân vật như Phương. Những đoạn kể về Phương trên chuyến tàu hỏa tiễn Kiên đi B là những đoạn tả hay nhất trong tác phẩm. Đó là những trang diễm tình, cay đắng, mãnh liệt và tàn bạo nhất. Đó là thời điểm vô cùng rực rỡ của nhan sắc Phương.

Bảo Ninh rất thành công trong cách mô tả tình yêu và chiến tranh. Ở cả hai mảng anh đều dữ dội và trữ tình một cách khốc liệt. Phần còn lại của tác phẩm ít thành công hơn. Những đoạn anh phân tích về tâm trạng nhà văn, về cấu trúc truyện, về "lối kể kỳ lạ" thật ra không đặc sắc và không cần thiết lắm. Vì tự bản thân truyện, bản thân các chi tiết, bản thân nhân vật đã nói thay cho anh rồi.

Đoạn đời về sau này, lang thang vô định ở Hà Nội là cần thiết và sẽ là rất hay nếu anh biết lược bỏ đi một số đoạn triết lý và nhất là biết kiềm chế cái ước muốn "bi kịch hóa" thái quá nhân vật Kiên. Ý muốn đó vô tình kéo tác phẩm rấp ranh trở lại cấu trúc cổ điển: một tình sử, một cuộc tình ngang trái sau chiến tranh. Hành động "đốt tác phẩm" của người họa sĩ già (cha Kiên) và hành động định "đốt bản thảo" của Kiên là một sự lăm le trở về với mô típ cổ điển ấy. Sự sa đọa của Phương có lẽ cũng hơi quá tay, rõ ràng phảng phất hơi hướng của tình sử... nhưng chỉ rải rác, chút đỉnh. Tài năng của Bảo Ninh, vẫn chiếm ưu thế, vẫn lấn át được tất cả.

Vực dậy cả một quá khứ khốc liệt, một mối tình lớn không phải chỉ cần vốn sống và tư duy. Nó còn phụ thuộc rất nhiều vào ngôn ngữ và bút pháp. Ngoài những lúc chuyển đoạn hơi hấp tấp, hơi khập khiễng như ở trang 137, 138, 236... thì bút pháp của Bảo Ninh đã truyền sức mạnh cho ngôn ngữ. Bút pháp của anh khi lạnh lùng, khi cháy bỏng, lúc uể oải, lúc dồn dập, câu ngắn xen lẫn câu dài, lối dẫn chuyện lấp lửng, hé một chút rồi đóng lại, lửng lơ... đã dẫn dụ được người đọc. Bảo Ninh chiếm ưu thế dùng các thuộc từ (attribut). Ngôn ngữ của anh nóng bỏng, gào thét, và đầy hình tượng.

"Anh chiếm đoạt chị một cách cuồng bạo, khốc liệt, dằn xé, đâm vào chị nỗi đơn độc bí ẩn, sắc như dao, đầy hiểm nghèo của anh" (tr.124).

... "Khổ sở vì đói, vì sốt rét triền miên. Thối hết cả máu" (tr.17)... "Mặt mày ai nấy lêu rêu. Ủ dột. Yếm thế. Đời sống mục ra" (tr.18).

"Bọn chúng dồn cục lại nhưng chỉ còn vài tên đang còn đứng và đều xoay lưng lại phía Kiên. Chúng không hò hét, không rống cười, không quát tháo. Sự thể ghê rợn bày ra, quằn quại trong yên tĩnh, man rợ" (tr.225).

"Nàng xinh đẹp, mê dại và bất kham, hấp dẫn đến lịm người bởi một sắc đẹp kỳ ảo và khôn lường, đẹp như một sắc đẹp bị chấn thương, như thể một sắc đẹp bị lâm nguy, mấp mé bên bờ vực" (tr.275).

Trong từng trang sách ta thấy không những vốn sống ứ tràn trong anh chỉ chực trào ra là ngôn ngữ của anh cũng vậy, ngôn ngữ được sinh sôi từ chất liệu sống đầy ắp ấy nên cũng ứ đọng, cũng chực trào ra. Ta bắt gặp mỗi động tác, mỗi sự vật anh mô tả đều được kèm theo bốn năm thuộc từ và hình như vẫn chưa thỏa, vẫn muốn ném vào thêm dãy một nữa, một chuỗi nữa.

Ngôn ngữ Bảo Ninh cũng quằn quại như binh lửa, như cái chết và phận người.

                                                           Nguồn:Văn học và dư luận, Tp.HCM, số 9 (1991)

***

XIN GỌI ĐÚNG TÊN

HOÀNG HƯNG

Xin gọi đúng tên. Nó là Nỗi buồn chiến tranh. Xin đừng có sợ ở đây một cái nhìn đen tối, một mưu toan lật ngược, cũng chẳng có gì dính dáng đến cái gọi là văn học "sám hối". Càng không có nhã ý ôm lấy kẻ thù hôm qua mà thanh minh: phải bắn vào anh tôi đau khổ lắm, hoặc tôi chỉ bắn lên trời. Người lính trung thực và tự trọng này chỉ có nhu cầu bức bách "sống ngược trở lại cuộc chiến tranh, chiến đấu lại cuộc chiến đấu". Và một nỗi đau buồn lớn lao thấm vào từng câu chữ của cuộc sống lại lớn lao ấy. Nếu như cần đặt câu hỏi: Vì sao nỗi buồn? "Chính nhờ nỗi buồn mà chúng tôi đã thoát khỏi chiến tranh, thoát khỏi bị chôn vùi trong cảnh chém giết triền miên, trong cảnh khốn khổ của những tay súng, những đầu lê, trong ám ảnh bạo lực và bạo hành để bước trở lại con đường riêng của mỗi cuộc đời, những cuộc đời có lẽ chẳng sung sướng gì và cũng đầy tội lỗi, nhưng vẫn là cuộc đời đẹp đẽ nhất mà chúng tôi có thể hy vọng, bởi vì đấy là cuộc sống hòa bình!" (Thân phận của tình yêu - trang 282). Xin thêm một câu: chính nỗi buồn phân biệt con người cầm súng với con thú hoặc cỗ máy giết chóc, Kiên bước vào cuộc chiến với niềm háo hức và ra khỏi đó với nỗi buồn đó là cái được của anh trong cuộc chiến để làm người.

Xin gọi đúng tên. Nó là ký ức tự hành của kẻ mộng du. Nghĩa là một ký ức rối loạn thời gian và không gian. Sự rối loạn giúp con người vụt nhận ra những điều bị che khuất trong một thời gian tuyến tính, một không gian phẳng. Nghĩa là một hòa hợp thực + ảo, sự kiện + tâm trạng, tỉnh + mê, khách quan + chủ quan, ý thức + tiềm thức. Những thành phần thứ hai lâu nay bị lấp liếm, hóa ra có sức phát giác không thể xem thường, và quan trọng nhất là phát giác đời sống bên trong con người - điều người ta thật sự cần ở văn học nghệ thuật.

Xin gọi đúng tên. Nó là chân dung tập thể ghép từ trăm mảnh vỡ của một thế hệ mất mát. Một thứ hội chứng tâm thần mà chỉ có cách gọi đúng nguyên nhân, dựng sống lại sự chấn thương chìm trong quên lãng, như Kiên đã làm bằng cách giãi bày trên 300 trang in, mới mong giải thoát.

Xin gọi đúng tên. Một thứ văn xuôi vươn thành thơ. Những đoạn, những trang đặc quánh ấn tượng, cảm xúc, dồn nén từ ngữ, đầy tiết tấu và nhạc điệu, nóng bỏng và khẩn thiết, trực tiếp vọt ra từ tâm tưởng, có những chỗ đạt đến trạng thái tự vận động ngoài ý thức của ngôn từ. Hình như Bảo Ninh dợm đặt chân trên con đường siêu việt của William Faulkner, của Henry Miller.

Gọi đúng tên. Đó là văn học của tuổi trưởng thành.

                                                          Nguồn: Văn học và dư luận, Tp.HCM, số 9 (1991)

[1] Thân phận tình yêu - tiểu thuyết Bảo Ninh - Nhà xuất bản Hội nhà văn - 1990.

Cuốn tiểu thuyết vốn có tên là Nỗi buồn chiến tranh nhưng rồi vì "sức ép của thị trường sách" hỗn hợp hiện nay, nó buộc bị đổi tên một cách oan uổng và buồn cười, ngoài ý muốn của tác giả. Riêng tôi, tôi vẫn muốn gọi tên quai nôi của nó: Nỗi buồn chiến tranh.

***

NHỮNG NGHỊCH LÝ CỦA CHIẾN TRANH

                                                                                         (đọc Thân phận của tình yêu)

HOÀNG NGỌC HIẾN

Trong cuốn tiểu thuyết với nhan đề hết sức vớ vẩn này, Bảo Ninh viết về những nghịch lý của chiến tranh, của tình yêu, của một thân phận lính đeo đuổi nghiệp văn chương để sống lại ký ức chiến tranh và ký ức tình yêu. "Nghịch lý là bạn của thiên tài" (Pushkin). Cách tiếp cận đề tài của Bảo Ninh giống như một sự liều lĩnh. Có thể tác giả sẽ phải trả giá. Nhưng trong khi không ít người viết còn thiên về cách nghĩ bằng những "thuận lý" "một nghĩa" "bảo đảm an toàn" thì cuốn tiểu thuyết khác thường của Bảo Ninh là cái "được" cho văn chương.

Trong cảm thức của Kiên và những nhân vật khác trong truyện gần gũi với tác giả chiến tranh là "những ngày tháng đau thương nhưng huy hoàng", "những ngày bất hạnh nhưng chan chứa tình người"...

Nói đến chiến tranh, Kiên nhớ đến "biết bao đồng đội thân yêu ruột thịt... những người lính thường, những liệt sĩ của lòng nhân, đã làm sáng danh đất nước này và đã làm nên vẻ đẹp tinh thần, cho cuộc kháng chiến" nhưng Kiên cũng không thể nào quên "bộ mặt gớm guốc" của chiến tranh "với những móng vuốt của nó, những sự thật trần trụi bất nhân nhất của nó... bất kỳ ai đã phải trải qua, đều mãi mãi bị ám ảnh, mãi mãi mất khả năng sống bình thường, mãi mãi không thể tự tha thứ cho mình" (tr.227).

Chiến tranh là "sự che chở đùm bọc, được cứu rỗi trong tình đồng đội bác ái" đồng thời cũng là "gánh nặng bạo lực mà thân phận con sâu cái kiến của người lính phải cõng trên lưng đời đời kiếp kiếp" (tr.227).

Trong chiến tranh, "chính nghĩa thắng, lòng nhân thắng nhưng cái ác, sự chết chóc và bạo lực phi nhân cũng thắng" (tr.228).

"Thời buổi chiến tranh, thời buổi ngược đời..." (xem tr.33). Trong lời văn cuốn tiểu thuyết nhan nhản những "lời nói ngược", và những "lối nói ngược", "những niềm vui buồn thảm", "nhà tiên tri những năm tháng đã qua", sắc diện "đau đớn, say cuồng, tột cùng hạnh phúc", tâm trạng "vì sợ mà chẳng sợ gì nữa", "sự nghiệp thiêng liêng đau khổ của người lính chống Mỹ", "vừa được ghi nhớ vĩnh hằng vừa không ngừng bị lãng quên", "trở nên hoàn toàn khác" mà vẫn "không thay đổi"...

Cách nhìn nghịch lý càng trở nên phức tạp khi vươn tới "cõi xa xăm bên ngoài biên giới của tư duy, đạt đến cõi hòa đồng người sống và người chết, hạnh phúc và khổ đau, hồi ức và ước mơ" (tr.91). Có thể gọi đó là cõi "siêu thức", rất khác với "trạng thái ù lì, mụ mị, đánh đồng người khôn kẻ dại, người gan kẻ nhát, đánh đồng lính với quan, thậm chí đánh đồng thù bạn...", trạng thái khiến con người cảm nhận chiến tranh "là cõi không nhà không cửa, lang thang khốn khổ và phiêu bạt vĩ đại, là cõi không đàn ông, không đàn bà, là thế giới thảm sầu vô cảm và tuyệt tự khủng khiếp nhất của dòng giống con người!" (tr.33). Thể hiện đời sống nội tâm của Kiên trong những ngày liên miên của chiến tranh, ngòi bút của Bảo Ninh khá tinh tế trong sự miêu tả dòng ý thức mấp mé cõi "siêu thức" hoặc trạng thái ê chề đến mụ mị, như thể mất hồn, "như thể bị nhồi bông vào óc, không phấn chấn, không vui, không buồn, chẳng thiết gì, chẳng lo cũng chẳng mong gì".. (tr.225).

"Chiến tranh" và "chiến thắng" đã được một nhà thơ biểu tượng bằng hình ảnh "máu và hoa". Trong cuốn tiểu thuyết về chiến tranh của Bảo Ninh có những trang "ngập máu", "máu tung xối, chảy tóe, ồng ộc, nhoe nhoét", "máu nóng hổi rưới đẫm bờ dốc thoải", "vết thương không ngừng nhểu máu", "bãi chiến trường biến thành đầm lầy, mặt nước màu nâu thẫm nổi váng đỏ lòm"... (tr.7). Có những trang nặng mùi tử thi. Bộ mặt gớm guốc và tàn bạo của chiến tranh được Bảo Ninh miêu tả rất hiện thực nhưng không phải không có sự thăng hoa. Trước thi thể một người chiến sĩ vô danh ở dưới một ngôi mộ kết Kiên và mọi người sững lặng... "Không ai bảo ai tất cả đều quỳ xuống, đưa cao lên với theo bóng hồn thiêng người đồng đội đã về thần..." (tr.96). Trong truyện của Bảo Ninh, những ngày tháng sau hòa bình không có "hoa", chỉ có "nỗi buồn chiến tranh". Đó là "nỗi buồn được sống sót" (tr.227). Đó là "ngọn gió buồn vô hạn của tình yêu và tự do" từ chân trời dĩ vãng thổi tới, cứ "thổi mãi thổi hoài" như một niềm tiếc nuối khôn nguôi... Đó là tình thương vô hạn với tất cả những người đã nằm xuống không phân biệt "người vinh kẻ nhục", "người hùng kẻ nhát", "người đáng sống kẻ đáng chết"... với cả "những người anh em khốn khổ, bạc phước ra đi trong nhục nhã chẳng được ai đoái hoài"... Nỗi buồn chiến tranh – "một nỗi buồn cao cả, cao hơn hạnh phúc và vượt trên đau khổ" (tr.282).

Về những nghịch lý của tình yêu – một đề tài dễ sáo mòn –  Bảo Ninh khó mà đưa ra được điều gì thực sự mới mẻ và sâu sắc. Đóng góp của tác giả là sáng tạo được một cặp trai gái thực sự là tình nhân: Kiên và Phương. Bất chấp chiến tranh kinh khủng (và đời thường trong hòa bình còn kinh khủng hơn), bất chấp bạo tàn và ô nhục, "bất chấp sự rơm rác của những định kiến và những giáo điều gò khuôn cuộc sống của con người", họ sống cũng như yêu tự do và thanh sạch. Con người của họ cũng đầy tội lỗi và không thiếu khuyết tật. Tuy nhiên, trong cách ứng xử của họ với bố mẹ và xóm giềng, với người thân người sơ, với người tình và bè bạn, với đồng đội và cả với địch thủ nữa không có điều gì "bẩn". Trong khi khắp nơi đâu cũng than vãn con người "xuống cấp", Phương và Kiên là một kiểu nhân cách đáng chú ý. Vì khuyết tật đáng lo ngại hơn cả ở con người ngày hôm nay là mất giác quan cảm thấy "bẩn". Giác quan này bị tê liệt sẽ ngự trị các thói "ăn bẩn", "nghĩ bẩn", "nói tục tĩu" "chơi không đẹp"... Mài sắc giác quan này là một tác động quan trọng không gì thay thế được của văn học nghệ thuật. Kiên và Phương là một cặp tình nhân lãng mạn (có tình yêu nào mà không lãng mạn?). Trong văn học cổ điển, riêng Truyện Kiều có ba cặp tình nhân hấp dẫn. Tự Lực văn đoàn ít ra có đôi bạn Loan và Dũng, với Kiên và Phương văn xuôi đương đại có "Romeo và Juliet".

Một câu văn của Bảo Ninh: "Biết bao kỷ niệm bi thảm, bao nhiêu là nỗi đau mà từ lâu lòng đã nhủ lòng là phải gắng cho qua đi, rút cục đều dễ dàng bị lay thức bởi những mối liên tưởng tuồng như là không đâu nảy sinh một cách khôn lường từ muôn vàn những chi tiết tầm thường, rời rạc và vô vị nhất có thể có trong chuỗi bất tận ngày qua ngày nhạt thếch, buồn tẻ và êm đềm đến phát ốm này" (tr.47 - tôi gạch ở dưới H.N.H.). Giống như một câu văn Tự Lực văn đoàn: từ ngữ tao nhã, có âm điệu (gia công hơi lộ liễu). Nhưng khác câu văn Tự Lực văn đoàn ở kết cấu câu phức tạp hơn, bác học hơn và những từ khẩu ngữ: tuồng như là không đâu, êm đềm đến phát ốm. Văn của Bảo Ninh có chất khẩu ngữ nhưng chưa mạnh mẽ, dồi dào. Viết được cho hay như Tự Lực văn đoàn không dễ nhưng văn học và ngôn ngữ văn học ngày nay đòi hỏi câu văn thông tuệ hơn, bác học hơn, đồng thời "dân dã", "khẩu ngữ" hơn, dĩ nhiên vẫn phải có tiết tấu âm điệu, miễn là không dễ dãi. Trong Thân phận của tình yêu có những trang vừa thừa "văn chương", thiếu "khẩu ngữ", đọc những trang này giống như đứng trước một người con gái đẹp "thiếu máu".

Trong truyện của Bảo Ninh, ba đề tài về chiến tranh, tình yêu và đam mê sáng tạo nghệ thuật thực chất níu vào nhau. Trong cả ba cõi này luôn có sự chập chờn giữa được và mất, tin và ngờ, hạnh phúc và đau khổ, hy vọng và tuyệt vọng... một sự chập chờn đầy rẫy bất trắc và phi lý khiến người trong cuộc không thể không tin ở "một thiên mệnh thiêng liêng, cao cả, vô danh và tuyệt đối được bí ẩn". Không ai cấm nhà tiểu thuyết làm siêu hình học, và đây là một lĩnh vực mới mẻ đối với tiểu thuyết Việt Nam hiện đại mà Bảo Ninh đã mạnh dạn bước vào. Cuốn tiểu thuyết sẽ như thế nào nếu như tác giả chỉ viết về đề tài chiến tranh? Sự đóng ghép với đề tài tình yêu và đề tài sáng tạo nghệ thuật chí ít đã tránh cho tác giả khỏi đóng vai trò đơn thuần kể và tả, một vai trò dễ tẻ nhạt trong văn xuôi hiện đại.

Cảm hứng sáng tác của Kiên – người "lính về hưu" đam mê văn chương – là cả một nghịch lý. Để vượt qua cơn khủng hoảng "hậu chiến" để có lại lòng tin và tình yêu cuộc sống, Kiên không hướng về tương lai mà anh lần trở về với quá khứ. Với Kiên, viết là "sống ngược trở lại, lần tìm trở lại con đường của mối tình xưa, chiến đấu lại cuộc chiến đấu". Với Kiên "ký ức tình yêu và ký ức chiến tranh kết thành sinh lực và thành thi hứng, giúp anh thoát khỏi cái tầm thường bi đát của số phận anh sau chiến tranh" (tr. 183). Kiên viết để "tâm hồn anh mãi mãi được sống trong mùa xuân của những tình cảm mà ngày nay đã mai một hoặc đã già cỗi và biến tướng" (tr. 182). Tác giả tin rằng Kiên "vô cùng hạnh phúc trên con đường trở về với quá khứ", tức là "trở về với cõi cực lạc của những ngày tháng xa xưa, với tuổi thơ, với cô bạn gái nhỏ, với niềm tin ngây thơ trong trắng thuở trước chiến tranh" (tr. 280).

Chiến tranh "có sức mạnh hủy diệt, sức mạnh biến tất cả thành tro bụi của nó" (tr. 275), nhưng cuối cùng thì chiến tranh "không tiêu diệt được gì hết". Có thể hiểu được nghịch lý này. Chiến tranh (cũng như đời thường hậu chiến) "không tiêu diệt được gì hết", miễn là không bị hủy diệt những giấc mơ. Đam mê văn chương của Kiên bắt nguồn từ nhu cầu "làm bừng sáng lại những giấc mộng xưa". Những nghịch lý làm vật vã nhân vật đáng thương của Bảo Ninh thực ra cũng gần gũi với lẽ sống thông thường nhất của con người, với kinh nghiệm sinh tồn sơ đẳng và vĩnh cửu của loài người.

            Dầu thế nào đi nữa, chúng ta vẫn mơ,

            Dầu thế nào đi nữa, chúng ta vẫn sống.

            (Quoi qu'il arive, nous revons,

            Quoi qu'il arive, nous vivrons

                                    (Paul Eluard)).

                                                                Nguồn: Văn nghệ, Hà Nội, số 15 (13-4-1991)

(Còn nữa...)

Chủ Nhật, 14 tháng 12, 2025

Gánh hát quê đã cũ và những ngụm nước bọt đang phun

 Nguyễn Hoàng Văn

Yevgeny Korobov, một trung úy trong quân đội Nga nhưng đã trốn sang Kazakhstan xin tỵ nạn vào năm 2023, vừa mới xuất hiện trên một chương trình truyền hình ở Âu châu kể lại việc mình và đồng đội thoát khỏi cuộc chiến bằng cách cách tự bắn hay bắn vào nhau để… trở thành thương binh.[1]

Cập nhật tiến độ kênh đào Funan Techo từ tháng 05.2023 tới tháng 12.2025

 Ngô Thế Vinh


Lời Giới Thiệu: Từ tháng 5/2023 đến cuối năm 2025, kênh đào Funan Techo – dự án biểu tượng dân tộc Khmer do hai cha con Hun Sen và Hun Manet quyết liệt thúc đẩy – đã chính thức bước vào giai đoạn thi công thực địa, với sự tái khẳng định tài trợ 1,7 tỷ USD từ Trung Quốc. Dài 180 km, lấy nước trực tiếp từ cả hai phân lưu chính của sông Mekong (đầu nguồn sông Tiền và sông Hậu), con kênh không chỉ khó đạt được mục tiêu rút ngắn lộ trình và giảm chi phí vận tải như Campuchia tuyên truyền, mà còn có nguy cơ:
(1) làm suy giảm nghiêm trọng lưu lượng nước mùa khô về hạ lưu, (2) chặn đứng phù sa, (3) đẩy nhanh xâm nhập mặn sâu thêm hàng chục kilômét, (4) đe dọa trực tiếp sinh kế của hơn 20 triệu cư dân Đồng bằng sông Cửu Long.

Trong khi Phnom Penh liên tục khẳng định “lợi ích quốc gia thuần túy” và “không ảnh hưởng đáng kể”, thì các phân tích độc lập và Việt Nam lại chỉ ra hàng loạt thiếu sót: thiếu đánh giá tác động môi trường xuyên biên giới minh bạch, chi phí thực tế có thể vượt xa con số công bố, và rủi ro sinh thái lâu dài chưa được giải quyết thỏa đáng.

Bài viết ghi lại hành trình hai năm bảy tháng đầy căng thẳng ngoại giao, nghi ngại kỹ thuật và lo âu môi trường của một dự án đang thay đổi vĩnh viễn số phận dòng Mekong hạ lưu. Tiếng chuông chùa rộn ràng ngày động thổ 5/8/2024 có thực sự là lời chúc phúc cho Campuchia, hay đang ngân lên một hồi chuông cảnh tỉnh cho cả lưu vực sông Mekong? Phạm Phan Long - VEF

*

Phát biểu nhân dịp giới thiệu cuốn Theo Dấu Thư Hương II của Trịnh Y Thư

 Trần Huy Bích

Trong khung cảnh vui vẻ họp mặt để chào đón cuốn Theo Dấu Thư Hương II của anh Trịnh Y Thư, tôi rất mừng thấy trong danh sách phát biểu có anh Cung Tích Biền và chị Nguyễn Thị Khánh Minh. Anh Trịnh Y Thư là một nhà văn. Nhiều phần anh Cung Tích Biền sẽ nói về Theo Dấu Thư Hương II qua cặp mắt của một nhà văn. Chắc chị Khánh Minh cũng sẽ nói về anh Trịnh Y Thư và tác phẩm của anh theo nhãn quan của một nhà thơ. Nhiệm vụ của tôi do đó sẽ nhẹ hơn. Tôi xin được nói về ý niệm “thư hương” của anh Trịnh Y Thư, rồi sau đó kể lại một kỷ niệm vui với anh từ hơn 40 năm trước.

Thăm một bảo tàng hòa bình ở Nhật

 Nguyễn Thị Bích Hậu 

 

Cách nay ít lâu mình đi công tác ở Nhật. Khi tới Kagoshima, mình có ghé thăm bảo tàng Hòa bình Chiran. Gọi tên như vậy, nhưng thực ra nó là bảo tàng về các phi công cảm tử trong thế chiến 2 của Nhật – gọi là kamikaze. Những người này lái máy bay đâm thẳng vào tàu của quân Đồng minh và điều đó cũng đồng nghĩa với tự sát. Mà hầu hết tự sát vô ích, là vì theo thống kê thật ra chỉ có 19% các vụ tấn công này thành công mà thôi.

Nỗi buồn chiến tranh, và 4 thập kỷ dư luận

Thái Hạo

1.

Xuất bản năm 1990 với tên gọi “Thân phận của tình yêu” (cái tên do Nguyễn Phan Hách đặt), ngay năm sau tác phẩm này đoạt giải thưởng của Hội nhà văn Việt Nam, cùng với Bến không chồng của Dương Hướng và Mảnh đất lắm người nhiều ma của Nguyễn Khắc Trường.

Thứ Bảy, 13 tháng 12, 2025

Từ một chiếc lồng nghĩ về “Nỗi buồn chiến tranh”

 Lê Trọng Nghĩa

Mấy ngày nay, lướt mạng đâu đâu cũng thấy người ta ồn ào vì Nỗi buồn chiến tranh. Giữa những lớp lý lẽ và phán xét, tôi quay đọc lại với cuốn sách như đứng trước một bức tranh cũ: lùi ra một chút, nhìn lâu hơn một chút, thử xem đôi mắt mình đã đổi khác chưa.

Bộ sưu tập các tác phẩm Hán văn của tủ sách Hoàng Xuân Hãn được đưa vào thư viện của Viện Đông Á (IAO, Lyon)

François Guillemot - Nghiêm Thanh Hương, Indomemoires 9.7.2025

Đỗ Tuyết Khanh dịch

Đã từ nhiều năm, thậm chí trong nhiều thập niên, các nhà nghiên cứu Việt Nam học tự hỏi tủ sách nghiên cứu của học giả Hoàng Xuân Hãn (1908-1996) bây giờ ra sao. Năm 2025, thông qua cháu ngoại của ông, toàn bộ tủ sách của ông đã ra khỏi bóng tối để đạt một tầm vóc mới.

Năng lượng một con đường – Đọc hồi ký Bùi Mai Hạnh

 Dạ Ngân

Rất thuộc nhau nên đọc nhau hơi bị khó. Cùng khóa 5 Viết văn Nguyễn Du 1993-1997. Trong mắt tôi, Bùi Mai Hạnh thật hoang dã. Tôi đã ngoài bốn mươi, chiến binh, phụ nữ miệt vườn, đã có mấy đầu sách, tan vỡ hôn nhân rồi đang hạnh phúc với Nguyễn Quang Thân, tôi đâu chỉ là chị mà có thể là cô, thậm chí là mẹ của một đám đồng niên đáng tuổi con mình, trong đó Bùi Mai Hạnh nhỉnh hơn các em vừa tốt nghiệp Phổ thông trung học một ít cho dù, cho dù Hạnh đã có một con, con dâu của của một nhạc sĩ tài danh, vợ trẻ của một nhà thơ cùng lứa với Lưu Quang Vũ.

Giám tuyển: Nghề kiến tạo tri thức và phẩm giá bị hiểu sai

Tobi Trần - Giám tuyển Độc lập

Trong hệ sinh thái nghệ thuật đương đại tại Việt Nam trong những năm gần đây, nghề giám tuyển thường chỉ được nhìn nhận qua bề mặt như đứng giữa nghệ sĩ và công chúng, tổ chức triển lãm rồi treo tác phẩm. Nhưng đi khi sâu thực chất chúng ta sẽ thấy giám tuyển vận hành trong ở một tầng sâu hơn khi họ kiến tạo điều kiện để tác phẩm có thể được hiểu, được đọc và được sống trong đời sống tri nhận của xã hội.

Dư luận - phê bình trong những năm 1990 về tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh (kỳ 3)

Thảo luận về tiểu thuyết “Thân phận của tình yêu” tại tòa soạn báo Văn nghệ 24-8-1991 (phần 3) 

[Rút từ bộ tư liệu ĐỜI SỐNG VĂN NGHỆ THỜI ĐẦU ĐỔI MỚI do Lại Nguyên Ân và Nguyễn Thị Bình tổ chức sưu tầm, bản đánh máy do Trung tâm VH-NN Đông Tây thực hiện]

Những chuyến đi xa

Nguyễn Tuyết  Lộc

Du lịch đó đây là một trong những sở thích của tôi, mỗi khi thấy trí não bắt đầu trì trệ, cơ thể rã rời. Đi theo tours không cần lo chỗ ăn ở, tham quan, nhưng giờ giấc phải tuân thủ, muốn ngủ thêm chút buổi sáng, cũng phải mắt nhắm mắt mở dậy cho kịp đoàn; đi một mình, tha hồ nghỉ ngơi, dừng lại bất cứ nơi đâu, bất cứ lúc nào mình muốn, tôi có nhiều thời gian hơn để chiêm nghiệm những điều kỳ thú của cuộc sống ngoài đất nước mình, đôi khi trùng hợp những sự kiện lịch sử xứ người, như đọc được từng trang sách mới vô cùng hấp dẫn, nhưng xem chừng không người hướng dẫn, lắm lúc gặp tình huống dở khóc dở cười, tự nhiên thấy mình ngây ngô như ở quê lần đầu lên tỉnh.

Một nan đề thực tiễn

 FB Nguyễn Hồng Lam

Một lần vào khoảng năm 1998 -1999 gì đó, trên đường viết báo, tôi và một anh bạn ở báo Pháp Luật TP Hồ Chí Minh có ghé vào UBND xã Suối Tre, huyện Long Khánh, Đồng Nai ngồi chơi. Anh Chủ tịch xã có tướng một dân nhậu nông thôn đang pha trà mời khách thì có hai anh chị chở nhau đến kiếm "ông Chủ tịch". Cả hai chỉ khoảng trên dưới 30, nhưng nom vất vả, khắc khổ, da đen đúa, mặt đầy lo âu. Xe đạp họ đi không chuông, không phanh, không chắn bùn, cũng đen thui thủi. UBND xã không có tường rào, xe quẹo vô sân, chị vợ vội tót xuống, còn anh chồng thì cố thò chân ra bánh trước đạp chân dép đứt vào lốp để phanh xe, nhưng không kịp. Húc rầm một một phát vào bậc tam cấp, xe mới đổ nghiêng và dừng lại được.

Nguyễn Huy Lượng bình văn Đoạn trường tân thanh của Nguyễn Du

 Đoàn Xuân Kiên


Suốt thời trai tráng, Nguyễn Huy Lượng gắn bó với sinh hoạt văn chương nghệ thuật Thăng Long. Gia phả của dòng họ Nguyễn Gia (bên ngoại) và Nguyễn Huy (bên nội) đều ghi nhận những cuộc đối đáp thơ văn trong vòng bạn bè. Trong số những người có xướng họa thơ văn cùng ông có những người nổi tiếng một thời ở Thăng Long như Nguyễn Gia Thiều, Phạm Nguyễn Du, Nguyễn Hàn, Trần Bá Lãm, Bùi Huy Bích… Ngày nay sách vở tài liệu ghi chép lại những hoạt động của những tao đàn văn chương Thăng Long thời ấy không còn lại bao nhiêu. Tuy vậy, dõi trong những ghi chép trong các tập thơ của những nhà nho đất Thăng Long trong khoảng cuối thế kỉ XVIII thì Nguyễn Huy Lượng được ghi nhận là một trong những nhà văn tiêu biểu cho một “phái” trong số mười hai “phái” văn học đương thời.[1]

Dư luận - phê bình trong những năm 1990 về tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh (kỳ 2)

 Thảo luận về tiểu thuyết “Thân phận của tình yêu” tại tòa soạn báo Văn nghệ 24-8-1991 (phần 2)

[Rút từ bộ tư liệu ĐỜI SỐNG VĂN NGHỆ THỜI ĐẦU ĐỔI MỚI do Lại Nguyên Ân và Nguyễn Thị Bình tổ chức sưu tầm, bản đánh máy do Trung tâm VH-NN Đông Tây thực hiện]

Thứ Năm, 11 tháng 12, 2025

Văn chương và phản-văn-chương

 Dương Thắng

1. Các diễn ngôn thù nghịch với văn chương cung cấp cho chúng ta những dữ kiện quý giá không gì thay thế được, bởi bên cạnh việc chúng là những diễn ngôn “chống lại” văn chương thì chúng cũng là những diễn ngôn “về” văn chương: dù cho ngớ ngẩn đến đâu chúng vẫn cho thấy những vấn đề mà văn chương phải đối đầu, những kỳ vọng mà văn chương khơi dậy, những nỗi thất vọng mà văn chương gây ra. Các nhà nghiên cứu lịch sử văn học hay phê bình văn học thường có xu hướng quá dễ dàng bỏ qua những diễn ngôn phủ định ấy với lý do chúng quá tầm thường và ngớ ngẩn, chí ít thì chúng cũng ở bên ngoài đối tượng nghiên cứu của họ. Thế nhưng chính điều đó, theo tôi lại làm cho chúng trở nên đáng quan tâm.

Vì sao nhà văn Nga-Xô viết Alexander Fadeev tự sát?

 Vì sao nhà văn Nga-Xô viết Alexander Fadeev tự sát?

Tô Hoàng chuyển ngữ

(từ báo Văn hóa Nga)

Alexander Fadeev (24.12.1901 – 13.5.1956)

68 năm trước, vào một ngày tháng 5 năm 1956, Alexander Fadeev – nhà văn từng đoạt giải Stalin, được trao hai Huân chương Lênin, cựu Tổng thư ký Hội Nhà văn Liên Xô – đã tự bắn vào đầu mình tại một ngôi nhà gỗ ở Peredelkino, vùng ngoại vi thành phố Moskva. Chủ tịch tổ chức mật vụ Nga-Xô viết KGB Serov vội vã đến Peredelkino, mang theo lá thư tuyệt mệnh của Fadeev:

Anne Cheng nhận diện và gọi tên những thực tại Trung Quốc

 Roger-Pol Droit, nhật báo Pháp Le Monde ngày 6.12.2025

Bản dịch của Kiến Văn

 

Nhà Trung Quốc học Anne Cheng, năm 2021.

Nhà Trung Quốc học, giáo sư Học viện Pháp quốc (Collège de France), thực hiện công trình này trên cơ sở phê phán những thành kiến về Trung Quốc cũng như những thành kiến mà chính Nhà nước Đảng trị Trung Quốc đã loan truyền. Một công trình dựa trên những văn bản cụ thể, trình bày một cách chính xác và sáng tỏ.