Người phụ trách Văn Việt:

Trịnh Y Thư

Web:

vanviet.info

Blog:

vandoanviet.blogspot.com

Danh ngôn

Trong mọi cộng đồng, chúng ta cần một nhóm thiên thần gây rối.

We need, in every community, a group of angelic troublemakers.

(Bayard Rustin – trích bài phát biểu tại New York City 1963)

Trong mọi trường hợp, chắc chắn rằng sự thiếu hiểu biết, đi kèm với quyền lực, là kẻ thù tàn bạo nhất có thể có của công lý.

It is certain, in any case, that ignorance, allied with power, is the most ferocious enemy justice can have.

(James Baldwin - No Name in the Street 1972)

Các cuộc cách mạng và các cá nhân có thể bị giết hại, nhưng bạn không thể giết chết các ý tưởng.

While revolutionaries and individuals can be murdered, you cannot kill ideas.

(Thomas Sankara, một tuần trước khi bị ám sát, 1987)

Không có cảm giác nào cô đơn hơn việc bị chính đất nước mình trục xuất.

There's not a more lonely feeling than to be banished by my own country.

(Kiyo Sato – Kiyo’s Story 2009)

Ban Biên tập

Địa chỉ liên lạc:

1. Thơ

tho.vanviet.vd@gmail.com

2. Văn

vanviet.van14@gmail.com

3. Nghiên cứu Phê Bình

vanviet.ncpb@gmail.com

4. Vấn đề hôm nay

vanviet.vdhn1@gmail.com

5. Thư bạn đọc

vanviet.tbd14@gmail.com

6. Tư liệu

vanviet.tulieu@gmail.com

7. Văn học Miền Nam 54-75

vanhocmiennam5475@gmail.com

Tra cứu theo tên tác giả

Thứ Hai, 27 tháng 10, 2025

Doãn Quốc Sỹ từ hiện sinh đến vào thiền

 Trần Kiêm Đoàn

Doãn Quốc Sỹ qua nét vẽ của  Đỗ Duy Ngọc

Nhà văn Doãn Quốc Sỹ mới qua đời tại Mỹ, hưởng thọ 102 tuổi (theo lịch Âm là 103 tuổi). Ông là hàng nhà văn tiền bối cuối cùng trong thế hệ Chiến tranh Việt Nam vừa ra đi. Ông vừa là nhà văn, vừa là nhà giáo và cho rằng dạy học là nghề, viết văn là nghiệp. Như thế trong nhãn quan Phật giáo thì phải chăng văn chương là duyên và tác phẩm là “nợ” như khái niệm “duyên nợ trần ai” giữa đời thường.

Chủ Nhật, 26 tháng 10, 2025

Huyền thoại Duy-ma-cật: Triết học của trí tuệ bất nhị và đời sống nhập thế

 Tino Cao

Gần hai năm đã trôi qua kể từ ngày trưởng lão hòa thượng Thích Tuệ Sỹ, pháp hiệu Nguyên Chứng, viên tịch (24.11.2023). Thời gian trôi đi, nhưng ảnh hưởng to lớn của Ngài vẫn còn lưu giữ trong đời sống Phật giáo và lan tỏa trong nhiều lĩnh vực tư tưởng và văn hóa Việt Nam đương đại. Nhân chuẩn bị cho ngày lễ đại tường, việc nhìn lại di sản của hòa thượng Tuệ Sỹ không chỉ là để tưởng nhớ một bậc cao tăng thạc đức của Phật giáo Việt Nam đương đại, đó còn là cơ hội để suy ngẫm về một trí tuệ đã vượt qua giới hạn của tôn giáo, để lại dấu ấn sâu sắc trong triết học, văn học và đời sống tinh thần của thời đại.

Thơ Trần Doãn Nho

Chiều 29 tháng 4 trên đường Công Lý

thành phố thất thần
bóng tối đến sớm
mây thấp và cửa đóng, đường run
năm giờ chiều, chiếc đồng hồ bứt rứt
tôi đi trong bóng của mình

dinh độc lập úa
như phế tích âm thầm
góc đường hồng thập tự – công lý
toán lính nhảy dù ngồi ăn cơm
lá rơi trên tấm poncho
lá rơi trên ga-men
lá rơi thảng thốt
chiếc áo trận nhòe
ngậm ngùi lịch sử

lá rơi, rơi
mải miết như đùa
như trò chơi
như mơ như thực
cuộc phế hưng bủn rủn phận người.

lính nhảy dù, người ngồi kẻ đứng
súng nghiêng
nhắm vào thành phố vô hồn
những góc đường bối rối
dấu chân chìm

đêm xuống nhanh
cho một ngày mai khác

ngày mai mặt trời vẫn sẽ lên
thành phố khép chặt
lạnh
và quên.

 

hành

trước mặt rừng kiệt lá

sau lưng phố tạnh người

trời xa mây quánh đặc

đờ đẫn vạt chiều phai

 

con tim hồng bạt gió

tạt tới chỗ ta ngồi

ngẩn ngơ cành thu muộn

rụng.

            một ngọn chơi vơi

 

bỏ tim vào trong túi

ta bay hết quãng trời

chạm đến vùng không tưởng

xao xác phiến tình côi

 

gió xoáy vào u tịch

nắng rơi động cõi ngoài

ta níu từng hư tự

tặng dữ cuộc chi phôi

 

ta ngược ta quá vãng

tìm lại chút tinh khôi

xôn xao cơn huyễn mộng

vỗ xuống những ngày vui

 

sau lưng rừng đã lá

trước mặt phố đã người

vọng âm từ khoảng vắng

đọng

        một

               tiếng

                        đàn

                               rơi

 

tôi tò mò tôi

nếu hỏi tôi

tổng thống bush (con) là ai

tôi nói ông ta là một tay cao bồi

 

thái dương hệ có bao nhiêu hành tinh

tôi nói có tám hành tinh

(không phải chín, pluto bất hạnh đã bị tước mất quyền được làm hành tinh tháng vừa rồi vì thiếu tiêu chuẩn)

 

chân lý là gì

tôi nói chân lý là vô ngôn và vô niệm

hay nếu cần thì là hư vô

 

tình yêu là gì

tôi nói tình yêu là bi kịch

 

nước mỹ là thế nào

tôi nói nước mỹ giàu nhưng ít học

 

nước pháp là thế nào

tôi nói nước pháp đầy văn chương

                     nhưng kênh kiệu lỗi thời

 

cộng sản việt nam là thế nào

tôi nói cộng sản việt nam tài nhưng thiếu đức

 

cuộc đời là gì

tôi nói cuộc đời là phi lý

là mythe de sisyphe

 

gì nữa nào?

braudillard beckett kristeva beat generation

derida hậu cơ cấu stem cell gunter grass (mới thú tội làm lính đức quốc xã) vệ tuệ đinh linh

phan huyền thư nhóm mở miệng tuyên ngôn 4806…

 

nhằm nhò gì

tôi biết tất

nhiều điều  nhiều sự  nhiều  việc nhiều cái

nhiều người nhiều gã nhiều tên

nhiều vân vân

 

nhãn, tôi có nhiều

chữ, tôi không thiếu

cứ thế, tôi thoải mái dán

cho người này người nọ phe này phe nọ nhóm này nhóm nọ

 

có điều tôi không biết: tôi

có cái tôi không rõ: tôi

có gã tôi không quen: tôi

có vật tôi không sờ đến: tôi

 

có kẻ tôi không dám bình: tôi

có sự tôi không buồn thắc mắc: tôi

có loại tôi không can đảm nghiên cứu: tôi

tôi không dán tôi

nên tò mò tôi

tò mò tôi

 

từng ngày từng phút từng giây

tôi chạy trốn rất tài

tôi lấp liếm rất tài

tôi biện hộ rất tài

tôi cứ tò mò tôi

tò mò tôi

tôi

 

lắm lần

tôi đuổi theo tôi

truy tầm tôi. bản lai diện mục

hễ tôi đến gần

là tôi biến mất

tôi vinh danh tôi

một mình tôi

 

gặp
                (gửi Nguyễn Đức Tùng)

 
trong đời tôi chưa hề gặp một người nào dũng cảm
cũng chưa hề gặp một người nào thông minh
cũng chưa hề gặp một người nào tử tế

tệ hơn
tôi chưa hề gặp một ai vừa dũng cảm vừa thông minh lại vừa tử tế

đã thế
tôi cũng chưa hề gặp một ai hèn nhát
cũng chưa gặp ai dốt nát
cũng chưa gặp ai bất lương

đáng trách hơn
tôi chưa hề gặp một ai vừa hèn nhát vừa dốt nát lại vừa bất lương

một hôm
tôi gặp hắn
vừa dũng cảm vừa thông minh vừa tử tế
vừa hèn nhát vừa dốt nát vừa bất lương

tôi hỏi: ai?
tôi trả lời: tôi

 

nỗi huế

nơi đó
thành quách nhiều hơn người
giai thoại đè lịch sử
thuở nhỏ
tôi đi dọc theo những con đường vuông
góc thành này đến góc thành kia
lớp lớp rêu bám đầy
nhẫn nhục, cổ sơ
nghiêm cẩn đến nao lòng
nhìn hoài vẫn cứ tự hỏi …

tôi giẫm bước vô danh trên những địa danh
quá khứ được ăn tiêu rất kỹ
những khu vườn có cổng chắn
tường lở nhiều chỗ
vài đoạn rào thép gai
chắp vá hờ hững
ngôi nhà thấp
                chật ních kỷ vật
câu đối sơn son thếp vàng hồn nhiên ngủ kỹ
                ngang và dọc
                mục và quý phái
                cũ và kiêu sa
giai thoại mọc lên từ mỗi góc nhỏ
ngày tháng co giãn 
đậm đặc nỗi tự hào

thuở thanh xuân
mân mê những livre-de-poche ưng hạ
đọc cọp báo sài gòn mới gia long
tà tà phan bội châu
                nhìn trộm phương lan
dựa cột đèn trần hưng đạo
                ngắm từng em từng em đi qua
                rỡ ràng phố chật
cốc cà phê lạc sơn chiều muộn
hơi người hơi ruốt
nhớ bâng quơ

chiều mưa giông đồng khánh
những con chim bồ câu
túa ra
       ướt mèm áo trắng
cậu học trò không chịu về nhà
nép dưới tàn cây
                   hiên phố
ngẩn ngơ

huế rất lạnh mà rất nắng
mưa thì phùn và gió rất khô
trời mênh mang mà người thì lặng
những buổi chiều hiền
       thẩn thơ đường nhỏ
em đi như tĩnh vật
tôi rụng rời cơn mơ 

nhiều lần lang thang quanh hoàng cung
nghe gạch ngói thở
sờ đám tượng trên sân chầu
                ẩn nhẩn
                        đìu hiu
leo lên lầu ngọ môn
                thấm thía dòng hư tự
quan ở đâu vua ở đâu cờ quạt ở đâu
chỉ là mấy bông sứ lặng lẽ rụng
trong hồ sen ngơ ngác
hít hà chút cổ sử
                ngậm ngùi thơm

đó là nơi tỏ ra rất tiện lợi
cho nhiều màn trình diễn
                ngoạn mục bất ngờ
có khi trịnh trọng có khi bình dân
có khi rất chuyên nghiệp
và những tan vỡ liên tục diễn ra
thật chậm rãi
đủ để người ta thưởng thức nỗi mất mát
của chính mình

lắm khi
từ trong cái ù lì lặng lẽ
bỗng vươn vai đứng dậy
y như thể đã chuẩn bị từ bao giờ
vội vội vàng vàng
băng cờ la hét
đường phố hừng hực
khát khao thu gọn chiều dài lịch sử

dưới kia
sông vẫn lặng
đò vẫn trôi
sông còn thơm
mà đò thì chật

những ngày xuân âm khí năm nào
thành quách nín
đất đá nghẹn
cỏ cây câm
hố hầm co quắp
                ngột
âm bản cuộc liêu trai

lại có khi
thành phố bồng bế nhau
vứt cả rực rỡ hè mới chớm
rùng rùng bỏ chạy
đi đâu?
không biết đi đâu
miễn là xuôi nam
để lại một cõi lặng
không gian rỗng
sàn diễn trống trơn
những con chó mất chủ chạy rất tự do
                                và vô vọng
hàng phượng lạc loài
                chấp chới bay
gió nắng rong chơi
vòng vèo quanh nội thành ấm ức

kiêu binh về
bắt đầu mắng mỏ nhiếc móc
thậm chí oán thù
                những người đã chết
y như thể không có họ
thì đất nước sẽ thành cường quốc từ thế kỷ 18!

bỗng nhiên
mọi thứ được vội vã  hóa thân
hội hè đình đám
những ngợi khen đẫm mùi tiếp thị
phục chế/tân trang kẻ thù
đem ra bày bán

chữ nghĩa không xương…

sorry huế!

đành phải ra đi
bỏ phía sau nhìn phía trước.

lạc lõng giữa đất trời lạ hoắc
ăn cũng huế
nói cũng huế
đi cũng huế
chào cũng huế
thương cũng huế
nhớ cũng huế
ngày huế
đêm huế
lao xao những ôn những mụ những o những dì
đám trẻ con ngỡ ngàng 
                tưởng còn thời khuyết sử

cô cháu nhỏ tò mò
what’s hue, ngoai?
hue here! 
tôi chỉ vào bà ngoại
really, ngoai?
yes
ngoai oi, so i love hue so very very much

tháng bảy quay quắt huế
đến hẹn
       nước lại lên
nước tràn đập đá nước lút bến đò cồn nước ngập bao vinh nước ngâm quốc lộ
…đãng trí
          tôi không về
ai lội lụt thăm em

một thuở
            vỉa hè/góc phố
            nắng/mưa
            lụt/bão
            nghèo/thiếu/đói/no
            tù/ngục

…một thuở…

thành phố thì còn
huế đã đi

vĩnh viễn đi!

 

mùa

sân trước
sân sau
mùa  xuống ngổn ngang
nắng chao
lao xao lá
rỡ ràng
les fueilles mortes feuilles mortes fueilles mortes
tiếng hát nao nhớ

rồi đã đến lúc
trên cao thì mây
dưới thế thì chật ních
từng đống từng đống chán chê
rưng rức thở

khỏa thân và hốt hoảng
hàng cây níu kéo phận mình
đã rời

thấp thoáng bóng gió lang thang
đuổi theo và trửng giỡn với từng khoảng lặng
les fueilles mortes les fueilles mortes les fueilles mortes les fueilles mortes
le…s
fueill…es fueill…es fueill…es
mort…es
mort…es


tiếng hát loãng
chìm nghỉm
trong cõi người ấy
với những bài mùa thu mất dấu
mất dấu

một ngọn lẻ loi
cựa quậy rất nản chí
trên lối đi
quá đỗi
sạch


mùa qua

rồi mùa đến
lao xao

 

ngắn

đời sống thì dàààààiiiii
thật dài

tôi lại ngắn
mỗi ngày mỗi ngắn
ngắn
ngắn

một hôm
tôi nhớ tôi
tôi đi tìm

tìm hoải
tìm hoài
chẳng thấy
ai

 

lại huế

    (gửi Hoàng Xuân Sơn)
 

bỏ đi
tui nhớ
tui thương
tui quay
tui quắc
tui buồn
tui chán
tui tiếc
tui tức
tui trách
tui thề…

…quay về
tui chạy xuôi
tui chạy nguợc
tui vô trong nội
tui ra ngoài thành
tui thăm lăng
tui viếng phố
tui lên núi
tui xuống làng
tui đi quanh
đi quẩn
đi quật
đi quành

tui gào khản cổ:
huế ơi, rứa chừ mi ở mô?

 

khuya

em
rất nồng

da
thì mọng

tay
rất ngoan

tóc
thì lộng

môi
rất căng

mắt
thì lặng

đêm
rất hăng

anh

thì vụng

 

mừng tuổi 

(gửi một em gái – em nào cũng được)

tôi gửi biếu em thêm một tuổi
một tuổi tươi ngoan một tuổi hồng
một tuổi chao qua, đời nhẹ hẫng
chạm vào. mềm. thơm. giọt tuyết tan

tôi gửi biếu em mỗi tí tôi
đôi chút buồn lạ trứt niềm vui
vài câu hờn xa sang nỗi đợi
như một đầu năm lưa thưa lời

tôi gửi biếu em sợi lẻ loi
mảnh, thon, gầy, nhẹ, ngắn, chơi vơi
em có thể giấu vào lồng ngực
hay một chỗ nào… không có ai.

em nhé, mùa xuân còn trứng nước
chờ. lâu, tôi xé miếng thời gian
đắp lên từng mảng, ngời,  thăm thẳm
chợt thấy mình xanh biếc hoàng hôn.

cái thuở cùng em gầy cuộc nhớ
bên này tôi lừa đảo bên kia
trái cấm, tôi chia từng phiến mỏng
cắn. thôi. lại nếm. rất vụng về

mồng một, tôi ra ngoài quãng trống
vẫy chào từng chuyến hẹn qua nhanh
tiếc nhau, ừ, tiếc nhau, đời mỏi
nhìn lên chấp chới một thinh không.

em hãy hồn nhiên cầm tuổi mới
tôi thì, tôi cứ cũ, vậy thôi
đất trời vây hãm niềm tơ tưởng
rất bực, tôi bèn lặng lẽ tôi.

chưa đề

buổi sáng
như một tách trà
tôi nhắp

buổi chiều
như một bình rượu
tôi tu

nửa khuya trăng soi
tôi tắt

về…

trở về, tôi, chốn cũ
quê hương, ơi, quê hương
trăng bạc lòng không tỏ
tôi bạc lòng, nín thinh

phố phường ngông nghênh mới
chạnh bước lối mòn xưa
cây khế già lẩm cẩm
rụng mấy chiếc vu vơ

nửa đêm choàng thức giấc
đứng ngó ra vườn trăng
ai níu tàu lá chuối
thoáng động bóng ma quen

tới viếng thăm thằng đính
móm mém vết đời đau
tạt ngang nhà nguyệt hạ
nắng úa đẫm hàng cau

bụi tre vườn thằng lợi
mọc một cửa hàng ăn
góc lều xưa, thằng thụ
khẳng khiu lão bạn nằm

dăm đứa ngồi cụng chén
ấm lạnh cuộc hơn thua
mềm môi nhìn ngoái lại
bên song tiếng gió lùa

quê hương là vết cắn
bầm tím lớp da đời
quê hương là dấu hỏi
ném vào mỗi cuộc chơi

quê hương là ẩn ngữ
đánh đố nỗi hoài mong
về! đất trời xao xác
lạ lẫm như chưa từng

chiều lên nghe gió chướng
thổi buốt trái tim câm
nội thành tôi, ai gọi
hơi hụt giữa trời không

trở về, tôi, đứng sững

một vết mòn phân vân…

Thứ Bảy, 25 tháng 10, 2025

PGS TS Mạc Văn Trang: Thư ngỏ gửi Bộ trưởng Bộ Giáo dục & Đào tạo

 Thành phố Hồ Chí Minh, 23/10/2025

THƯ NGỎ GỬI BỘ TRƯỞNG BỘ GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO

(Nhờ các bộ phận giúp việc chuyển Thư đến Bộ trưởng)

Thưa ông Bộ trưởng,

Tôi rất lo ngại khi thấy: “Thủ tướng Phạm Minh Chính chỉ đạo đưa AI vào giảng dạy cho học sinh trong các trường phổ thông ngay từ lớp 1”. Nên ngày 18/9/2025 tôi đã có “Thư ngỏ gửi TBT Tô Lâm và Thủ tướng Phạm Minh Chính về vấn đề này.

Một nền văn học loạn giá trị

 Đinh Thanh Huyền

Trong đời sống văn học Việt Nam những năm gần đây, tôi nhận thấy một nghịch lí: nhiều tác phẩm đạt giải thưởng lại sáo mòn về tư tưởng, cũ kĩ về nghệ thuật, lặp lại mô-típ cũ của thời chiến tranh, thời bao cấp hoặc những lối viết mòn nhàm của hiện thực chủ nghĩa. Một số tác giả được truyền thông ca tụng lại không phải vì có sự sáng tạo đột xuất, mà vì họ thuộc một “vòng quan hệ”, một phe nhóm hay xu hướng thời thượng. Tác phẩm được quảng bá rầm rộ đôi khi chỉ là sản phẩm “an toàn”, “vừa phải”, thứ văn chương “chưa bao giờ lớn”. Hậu quả là người đọc mất niềm tin vào giải thưởng và phê bình; những người viết thực sự có tìm tòi, đổi mới  thì cảm thấy bị vô hiệu hóa hoặc đứng ngoài cuộc chơi.

Chi bằng học (từ Phan Châu Trinh tới Phan Khôi)

 Lê Thanh Trường

1.

Cái câu "chi bằng học" Phan Châu Trinh để lại tặng quốc dân đồng bào, qua trăm năm còn được nhắc lại với đầy tính thời sự. Nhưng nhắc lại gồm những ai? Những ai biết tới, chiêm nghiệm, và bàn luận với nhau về câu nói đơn sơ đó, như một nỗi canh cánh với tình trạng "quốc dân" hiện tại?

Trương Chi, đâu bóng thuyền Văn Cao?

 Ngu Yên

Trương Chi là người hát hay hoặc thổi sáo hay?

Từ nhỏ, mẹ tôi đã đọc cho tôi nghe truyện Trương Chi và Mỵ Nương nên tôi biết Trương Chi thổi sáo rất hay. Lớn lên, khi học trung học đệ nhất cấp, tôi nghe được ca khúc Trương Chi của nhạc sĩ Văn Cao, trong bài đó, có câu “Anh Trương Chi, tiếng hát vọng ngàn xưa còn rung …” tôi mới biết Trương Chi không thổi sáo mà hát trên sông. Vậy thì tiếng sáo hoặc tiếng ca đã làm Mỵ Nương say đắm?

Nghệ thuật không nhất thiết phải kể câu chuyện gì

 Thụ Nguyên

Tháng 3/2023, trong triển lãm Tranh cùng khổ tại May Artspace, Bùi Chát dán lên tường một tấm poster nền hồng, viết rõ: “Tôi không phải là người nhiều chuyện. Tác phẩm tôi cũng không thích kể lể điều gì (chủ quan nghĩ thế). Nhưng quan trọng là bạn đang tham dự một cuộc bày vẽ, ở đây chỉ có tác phẩm, không có bất cứ câu chuyện nào cả. Vì vậy, làm ơn đừng thắc mắc/băn khoăn/tò mò về những câu chuyện. Thành thật cám ơn!” Câu chữ này, nếu đọc theo thói quen thông thường, có vẻ như một sự từ chối kể lể, nhưng dưới góc nhìn của Hội họa Tình huống, nó không dừng lại ở thái độ “không nhiều chuyện”, nó là một hành động tình huống, một can thiệp trực tiếp vào bối cảnh nghệ thuật đang bị ám ảnh bởi storytelling.

Thứ Sáu, 24 tháng 10, 2025

Nghe tiếng vọng từ nền văn minh bị chôn vùi

 Tuấn Khanh

 

Cuộc thi piano Chopin danh giá tại Ba Lan năm nay, có một điều thật đặc biệt. Người ta không thể không chú ý đến sự xuất hiện của các thí sinh người Trung Quốc. Họ xuất hiện trong cuộc thi, với tài năng của họ, giờ đã không còn bị xem là “bản sao” của phương Tây, mà đã tạo ra những sắc thái riêng, tinh tế, cạnh tranh sòng phẳng và đôi khi còn gây nên tranh cãi trong chính hàng ngũ ban giám khảo.

Tùy bút Trần Tuấn: Những phác thảo đời sống không hoàn kết

  Đinh Thanh Huyền

Nhiều năm trước, khi đọc tập tiểu luận Những màu khác của Orhan Pamuk (nhà văn Thổ Nhĩ Kỳ, Noben văn học 2006), tôi đã có những băn khoăn và ngầm đối chiếu với thể tùy bút ở Việt Nam. Trong lí thuyết và thực hành văn học phương Tây không có khái niệm “tùy bút” nhưng có những thể loại gần gũi về chức năng và phong cách trong đó có thể loại essay (tiểu luận). Essay (Âu-Mỹ) và tùy bút (Việt Nam) đều là những thể văn xuôi có tính chất tự do, cá nhân hóa cao độ, có sự kết hợp của thông tin xác thực và yếu tố chủ quan của người người viết trong đó sự thật đời sống là nền tảng để nhà văn bày tỏ những chiêm nghiệm, triết lí và xúc cảm riêng. Tuy nhiên, điểm khác biệt lớn nhất giữa các tiểu luận của Orhan Pamuk (hoặc H. Murakami) với tùy bút Việt Nam từ Thạch Lam, Nguyễn Tuân, Võ Phiến, Nguyễn Thi, Hoàng Phủ Ngọc Tường,… đến Chu Văn Sơn, Lê Minh Hà, Nguyễn Trương Quý, Nguyễn Ngọc Tư,… là: một bên như một cuộc đối thoại tư tưởng, còn bên kia như một bản độc tấu nội tâm. Một bên thiên về “nghĩ cho rõ”, một bên thiên về “cảm cho thấu”. Những khác biệt đó thuộc bản sắc sâu xa của các cộng đồng văn hóa. Tuy nhiên, theo thời gian, đến nay tùy bút của Việt Nam đã tăng cường tính triết học – phản tư. Những cây bút nổi bật thường kết hợp cả suy niệm và biểu cảm với một thiên hướng tư tưởng rõ ràng.

Văn Hải ngoại sau 1975 (kỳ 317): Nhà văn Trịnh Y Thư

 Nguyễn Vy Khanh


Ông tên thật Trịnh Ngọc Minh, sinh ngày 11-2-1952 tại Hà Nội, du học Hoa Kỳ năm 1970. Trịnh Y Thư làm thơ, viết văn, dịch thuật, làm báo, chủ bút tạp chí Văn HọcViệt Báo Weekly News vùng Orange County CA và chủ trương nhà xuất bản Văn Học Press thời sau này. Ông cùng Nguyễn Mạnh Trinh biên tập Tuyển tập 23 người viết sau 1975 (Văn Nghệ, 1989), gồm 23 nhà văn mới xuất hiện ở hải ngoại.

Tô Như Châu – Người viết nên mùa thu Hà Nội từ bên bờ kia chiến tuyến

 (Giới thiệu tác giả và tác phẩm Có phải em mùa thu Hà Nội)

Nguyễn Xuân Vượng

Tác giả – Thi sĩ Tô Như Châu (1934–2002)

Tô Như Châu, tên thật Đặng Hữu Có, sinh năm 1934 tại An Hải, Sơn Trà, Đà Nẵng. Ông là hội viên Hội Văn học Nghệ thuật Đà Nẵng, một gương mặt quen thuộc trong đời sống thơ ca miền Trung suốt những năm chiến tranh và sau 1975.

Triển lãm “Hình vang vọng ý”

 Phù Sa Art Foundation

Sáng ngày 18/10, tại K-Art Studio (67 Tô Hiến Thành, Hà Nội), triển lãm “Hình vang vọng ý” chính thức khai mạc, mở ra một cuộc đối thoại xuyên thế hệ giữa danh họa Tô Ngọc Vân và 7 họa sĩ đương thời – Kim Bạch, Đặng Xuân Hòa, Phan Cẩm Thượng, Duy Hòa, Triệu Phương, Lê Thúy và Xuân Lam.

Thứ Năm, 23 tháng 10, 2025

Thầy tôi: Giáo sư, Nhà văn Doãn Quốc Sỹ

 Đỗ Duy Ngọc

 

Vào những năm đầu của bậc trung học, tôi đọc được truyện ngắn Chiếc chiếu hoa cạp điều của nhà văn Doãn Quốc Sỹ. Truyện đã khiến cho đứa bé mới lớn ở thành phố miền Nam là tôi thấm thía và xúc động. Một câu chuyện với lối viết chân tình như một lời tâm sự mang tính nhân văn kể lại chuyện buồn của một gia đình trong cuộc kháng chiến chống Pháp ở miền Bắc. Chính phong cách viết đấy đã khiến tôi tìm đọc thêm nhiều tác phẩm của nhà văn. Ở mỗi lứa tuổi, cách nhìn vấn đề, cách suy nghĩ mỗi khác nên càng đọc truyện của nhà văn tôi càng ngưỡng mộ và kính trọng. Ở phần kết của truyện, tác giả viết: “Linh hồn nhân loại chỉ có thể mua được bằng tình thương yêu rộng rãi và chân thành.

Con mắt trôi dạt

 Ái Điểu

1-

Trong bóng tối của căn phòng nhà nghỉ có giọng nói phụ nữ: Anh mở đèn lên cho sáng mà mặc đồ.

Tiếng nói của người đàn ông: Cũng không cần, tiền để ở bàn, em cho số để anh gặp em lại.

Người phụ nữ trẻ bước ra từ phòng tắm, không ngượng ngập dù không có gì che thân, nói: Anh đưa máy, em bấm số em vào cho nhanh.

Người đàn ông: Lưu tên gì đây em?

Thứ Tư, 22 tháng 10, 2025

Bi kịch của quyền lực và sự thức tỉnh của con người trong "Đỉnh cao chói lọi"

 Tino Cao

Trong lịch sử văn học Việt Nam đương đại, hiếm có tác phẩm nào dám chạm đến trung tâm của quyền lực chính trị bằng giọng điệu nhân bản và sự tự trọng trí thức như Đỉnh cao chói lọi của Dương Thu Hương. Cuốn tiểu thuyết vừa kể lại những ngày cuối đời của một lãnh tụ vừa mở ra một không gian suy tưởng cho phép nhân vật đối diện với chính lịch sử mà mình đã tạo dựng. Ở đó, quyền lực không còn là biểu tượng linh thiêng của chiến thắng mà là tấm gương soi rọi tính mong manh của đạo đức trước cám dỗ của quyền lực.

Doãn Quốc Sỹ: nhà văn thần thoại

 Nguyên Giác Phan Tấn Hải

Nhà văn Doãn Quốc Sỹ (1923-2025)

Từ thời say mê đọc sách trong các năm trung học, tôi đã nhìn thấy chung quanh mình như là một cõi phân đôi: thế giới thần thoại và thế giới đời thường. Cái nhìn đó vẫn theo tôi không rời, và tôi tin thật rằng các nhân vật trong truyện về các nàng Mị Nương, truyện Bích Câu kỳ ngộ của Việt Nam vẫn đang đi lại bên các vị thần của cổ tích Hy Lạp bên ngoài hiên nhà của tôi. Hễ tôi hé cửa nhìn ra là họ biến mất, nhưng khi khép cửa lại, tôi nghe được tiếng họ thì thầm như thúc giục tôi mở ra các trang sách để đọc về những cõi rất là thơ mộng.

Thơ Kim Yi-deum

 Nguyễn Man Nhiên dịch

NGƯỜI CHƠI ĐÀN GHI-TA TRÊN PHỐ

- “Đừng quay lại,” Mẹ

Một người đàn bà trên phố ôm chặt cây đàn ghi-ta. Như thể bà muốn ép bầu ngực mình vào đó. Bà cần phải gảy đàn và xin từng đồng tiền lẻ bằng mọi giá. Bà càng lo lắng hơn khi trời bắt đầu mưa. Vì bộ phận sinh dục của cây đàn ghi-ta chính là âm thanh, bà ấy bắt đầu đá con gái mình.

Thơ Cư sĩ Minh Đạt

 Kinh dịch luật của sự sống & các dòng chảy nhỏ 

 

Kinh dịch luật về tính liên tục của sự sống 

Cổ–Lâm–Quán là hành trình thức tỉnh của nhận biết,

Khiêm–Tốn–Tế là hành trình trong suốt của hành động,

Tụ–Tán–Hồi là hành trình tự giải phóng của sự sống — nơi Đạo thở bằng nhịp của tự do.

Động – Tĩnh – Hóa là hơi thở của tình yêu và từ bi.

Đọc thơ Nguyễn Viện

 Nguyễn Đông A

 

KHI NGÔN NGỮ TRỞ MÌNH GIỮA CÕI TỤC VÀ CÕI THIÊNG

Nguyễn Viện là một hiện tượng lạ lùng và thách thức trong thi ca Việt đương đại – một thi sĩ đứng giữa biên giới mong manh của thiêng và tục, của triết học và thân xác, của nỗi đau hiện sinh và tiếng cười dân gian. Đọc thơ anh, người ta không chỉ đọc chữ, mà đọc một thứ chất sống thô mộc, khai nguyên, chưa kịp gọt giũa; nơi ngôn ngữ rịn ra mùi của đất, của người, của hơi men và nước mắt. Đó không phải là thứ thơ để thưởng ngoạn, mà là để va đập, để bị thương, để nhận ra linh hồn mình còn biết đau giữa cõi đời đã quen giả tạo.

Chủ Nhật, 19 tháng 10, 2025

"Thành phố và những bức tường bất định" của Murakami

Lê Hồng Lâm


 

“Loài người giống như hơi thở. Đời người như bóng bay qua. Ờm, cậu có hiểu không? Con người là một dạng tồn tại mong manh như hơi thở, mọi hành vi sống hằng ngày của con người chẳng qua chỉ là cái bóng đang di chuyển. Ờm, từ ngày xưa tôi đã bị hấp dẫn bởi câu thơ này, nhưng phải sau khi chết đi, phải sau khi trở thành như bây giờ, tôi mới hiểu thấu đáo ý nghĩa của nó. Phải, con người chúng ta chẳng qua chỉ là một dạng tồn tại giống như hơi thở mà thôi. Thế rồi một kẻ đã chết giống như tôi còn chẳng hề có bóng bám theo.”

Nguyễn Hữu Liêm và Giới hạn của Giới hạn

 Trần Đình Thắng

Bài viết này được hình thành như cuộc chuyện trò học thuật với Gs, triết gia Nguyễn Hữu Liêm (NHL), người đã viết bài “Ontological Commitment = Cam kết bản thể” trên trang VanViet (Liêm, 2025)[1]. Trong bài viết ấy, ông đã thẳng thắn đưa ra một cách đọc Quine và truyền thống triết học phân tích, và mặc dù còn nhiều điểm cần tranh luận, đóng góp của Giáo sư Liêm đã khơi dậy một câu hỏi thiết yếu: Triết học có thể bám vào thực tại, móc vào đời sống hay không, hay nó chỉ còn là “trò chơi ngôn ngữ” (hiểu theo NHL (Liêm, 2025))?

Thứ Bảy, 18 tháng 10, 2025

Khi bức tranh không còn gánh nổi ý nghĩa

 (Phản biện một ý rất nhỏ trong bài viết của Nguyễn Thanh Sơn)

Thụ Nguyên

Nguyễn Thanh Sơn, trong bài viết gần đây, đã nói một câu mà nhiều người làm nghệ thuật ở Việt Nam có thể thấy… vừa đúng vừa sai: “Và có lẽ, trong một ngày nào đó, giữa vô số triển lãm ‘vì nhân loại’, sẽ có ai đó dám treo một bức tranh không có thông điệp gì cả, và chỉ cần một người đứng lặng trước nó, thấy tim mình hơi nhói.” Câu ấy nghe có vẻ mơ hồ nhưng đầy thiện chí, như một ước mong về thứ hội họa thuần khiết, tự do, không bị đè nặng bởi “ý nghĩa.” Nhưng cái ngày mà Nguyễn Thanh Sơn tưởng tượng ra ấy, thật ra, đã đến rồi — và đến khá lâu.

Tuấn Andrew Nguyễn có tên trong sáu nghệ sĩ nhận Giải MacArthur “Thiên tài”

 Maya Pontone, Hyperallergic ngày 8 tháng 10 năm 2025

Bản dịch của Văn Việt

Theo chiều kim đồng hồ từ trên cùng bên trái: Matt Black, Garrett Bradley, Jeremy Frey, Tonika Lewis Johnson, Tuan Andrew Nguyen, và Gala Porras-Kim (ảnh do Quỹ MacArthur cung cấp, chỉnh sửa bởi Valentina Di Liscia/Hyperallergic)

Doãn Quốc Sỹ, nỗi buồn và, niềm vinh dự, hân hoan lớn

 Du Tử Lê


Nhà văn Doãn Quốc Sỹ sinh ngày 3 Tháng Hai, Quý Hợi, tức ngày 17 Tháng Hai, 1923 Dương Lịch. Ông là con trưởng của gia đình văn nghệ sĩ. Cha ông là Doãn Hưu, một nhà nho và người em trai của ông là nhạc sĩ Quân đội Nhân dân Việt Nam, Doãn Nho. Năm 1946, ông lập gia đình với con gái nhà thơ trào phúng Tú Mỡ (Hồ Trọng Hiếu) là bà Hồ Thị Thảo. Năm 1954, ông cùng gia đình di cư vào Nam.

Ông dạy học tại các trường trung học công lập như Nguyễn Khuyến (Nam Định, 1951-1952), Chu Văn An (Hà Nội, 1952-1953), Trần Lục (Sài Gòn, 1953-1960). Làm hiệu trưởng trường Trung học Công lập Hà Tiên (1960-1961), giáo sư trường Trung học Hồ Ngọc Cẩn (1961-1962), giáo sư trường Đại học Sư Phạm Sài Gòn, Đại học Văn Khoa Sài Gòn năm 1962 đến giữa thập niên 1960. Ông du học tại Hoa Kỳ về ngành giáo dục và rồi trở về nước tiếp tục công việc giảng dạy cho đến năm 1975.

Tác phẩm nổi tiếng nhất của ông là Khu Rừng Lau, một trường thiên tiểu thuyết gồm có: Ba Sinh Hương Lửa (1962), Người Đàn Bà Bên Kia Vĩ Tuyến (1964), Tình Yêu Thánh Hóa (1965), Những Ngả Sông (1966)... Theo Lê Văn, đặc phái viên Việt Ngữ của Đài Tiếng nói Hoa Kỳ, trong một cuộc phỏng vấn ông, có dẫn chuyện rằng "Ba Sinh Hương Lửa người ta thường ví như những tác phẩm lớn của Nga như Chiến Tranh Và Hòa Bình" trong đó nội dung mô tả lại những cảm xúc đớn đau của của một thế hệ thanh niên mới lớn tham gia vào công cuộc kháng chiến chống Pháp nhưng sau đó phát giác ra mình đã bị lợi dụng như công cụ đấu tranh giai cấp của những người cộng sản và "có lẽ chính vì thế mà anh đã bị cộng sản bỏ tù khi họ khi chiếm được miền Nam"

Sau năm 1975, ông bị chính quyền Việt Nam giam cầm nhiều lần vì tội "viết văn chống phá cách mạng", tổng cộng là 14 năm. Ông có tên trong danh sách những tên “biệt kích văn hóa,” bị bắt trong chiến dịch khởi động ngày 3 tháng Tư năm 1976, một năm sau ngày chiến tranh Việt Nam kết thúc, cùng hàng trăm nhà văn, nhà báo, nghệ sĩ, nhân sĩ miền Nam bị xếp hạng “phản động”: Trần Dạ Từ, Đằng Giao, Nhã Ca, Nguyễn Mạnh Côn, Nguyễn Hữu Hiệu, Hoàng Anh Tuấn, Thân Trọng Kỳ, Hoàng Vĩnh Lộc, Trịnh Viết Thành, họa sĩ Chóe, Như Phong Lê Văn Tiến, linh mục Trần Hữu Thanh, linh mục Đinh Bình Định, thượng tọa Thích Huyền Quang… Ông được phép di cư sang Hoa Kỳ vào năm 1995. Hiện nay ông sống tại Little Saigon, California.

Ông là tác giả của khoảng 25 cuốn sách. Chuyện ngụ ngôn của ông có tựa đề Con cá mắc cạn đã được dịch ra tiếng Anh (The Stranded Fish)[5] và có trong sách Việt Nam: Bạn Đồng Hành Văn Chương Của Một Du Khách (Vietnam: A traveler's literary companion) do John Balaban và Nguyễn Quí Đức biên soạn.

1.

Theo tiểu sử được ghi nhận bởi Bách khoa toàn thư mở Wikipedia thì, nhà văn Doãn Quốc Sỹ sinh tại Hà Đông, ngày 17 Tháng Hai, 1923, trong một gia đình thấm nhuần tinh thần Nho giáo. Năm 1954, ông cùng gia đình phải di cư vào miền Nam vì hiệp định Geneva chia đôi Việt Nam.

Trước thời điểm này không lâu, ông hoàn tất truyện ngắn truyện ngắn “Sợ lửa,” (dạng cổ tích,) tựa bước chân đầu tìm đến văn chương.

Cũng trước giai đoạn qua phân đất nước, ở miền Bắc, họ Doãn từng dạy tại một số trường trung học công lập, như Nguyễn Khuyến (Nam Định, 1951-1952,) Chu Văn An (Hà Nội, 1952-1953) v.v…

Những yếu tố như được sinh trưởng trong một gia đình mà, người cha là một nhà Nho, khi trưởng thành, lại chọn cho mình nghề dạy học, theo tôi, là những chỉ dấu cho thấy, ẩn mật đằng sau tư cách nhà văn, họ Doãn còn/ đã là một kẻ sĩ.

Kẻ sĩ hiểu theo nghĩa lương tâm và, trách nhiệm của một trí thức, đứa con của một tổ quốc, trước những biến động rung chuyển, bật gốc một đất nước.

Tôi không biết định mệnh nghiêng về phía nào, giữa hai con người nhà văn và, kẻ sĩ của một Doãn Quốc Sỹ. Nhưng qua những tác phẩm văn chương của ông, điển hình như bộ trường thiên “Khu rừng lau,” tôi có cảm tưởng ông đã lôi, kéo được định mệnh nghiêng về phía kẻ sĩ trước thời cuộc, ở nơi ông.

2.

Nhìn lại hai mươi năm văn học miền Nam, chúng ta phải nói rằng, đó là thời gian quá ngắn cho sự hình thành, khai triển rồi định hình, một dòng văn học đa dạng, phong phú. Nên, ta cũng có thể nói, nó giống sự vươn vai, lớn dậy thần kỳ, như huyền thoại Phù Đổng Thiên Vương.

Hai tác nhân chính giúp cho sự thoát thai, sinh thành dòng văn học mang tính Phủ Đổng Thiên Vương vừa kể, tôi nghĩ, là thảm kịch chia lìa bật máu, vĩ đại (lần đầu trong lịch sử dân tộc Việt) với hơn 1 triệu người miền Bắc nghiến răng, bậm môi, tự nguyện bỏ lại sau lưng mồ mả ông cha. Và, sự chuyển hóa chớp nhoáng từ thể chế Quân chủ lập hiến, sang thể chế Cộng hòa chỉ trong vài năm, như một giấc mơ, ở miền Nam.

Hai tác nhân hỗ tương nhau tựa một kết hợp kỳ diệu, biến gần hai chục triệu người dân miền Nam (thời đó,) trở thành những kẻ đồng hành, nhất tâm, hăm hở trong một lên đường mới mẻ. Một lên đường khám phá và, khai phóng cái thổ ngưỡng vốn đã hằng nghìn năm, sẵn đấy.

Tinh thần khai phá của giai đoạn lịch sử miền Nam sau 1954, thể hiện cụ thể, hưng phấn nhất, tiêu biểu là lãnh vực văn học.

Văn học miền Nam ở giai đoạn vỡ đất này có hai khuynh hướng chính:

-Khuynh hướng văn chương chống chế độ cộng sản. (Và)

-Khuynh hướng văn chương nặng tính nhân văn, trồng người. Hiểu theo nghĩa lấy đạo lý, nhân tính làm căn bản.

Cũng vẫn ở giai đoạn khẩn hoang, vỡ đất kia, số tác giả đắm mình, vẫy vùng trong ngọn triều chống cộng chiếm đa số. Họ đứng về phía thời thế nóng bỏng. Như một thứ thời thượng… Phía trồng người, xây tâm ít, hiếm.

Theo ghi nhận của tôi, tác giả “Dòng Sông Định Mệnh” ở phía ít, hiếm đó.

Họ Doãn an nhiên, tự tại, nở nụ cười đôn hậu trước chọn lựa có phần thưa, vắng đồng hành, của mình.

Vì là một lên đường mới mẻ, ồ ạt, nên, trong lúc nhiều tác giả xuất hiện giữa thập niên 1950, qua sáng tác, còn đang nỗ lực thực chứng sự hiện diện của mình như Mai Thảo, Dương Nghiễm Mậu, Tô Thùy Yên, Quách Thoại, Thanh Tâm Tuyền… thì, Doãn Quốc Sỹ đã định hình (hiểu theo nghĩa được đám đông đón nhận,) qua những tác phẩm ấn hành như “Sợ Lửa” (1956,) “U Hoài” (1957,) “Dòng Sông Định Mệnh” (1959)…

Về phương diện kỹ thuật, (cũng như một vài tác giả khác,) theo tôi, họ Doãn đi tiếp con đường văn chương thời tiền chiến.

Con đường mà hình thức truyện được xây dựng trên hai căn bản:

-Cốt truyện (với những nút thắt, nút mở.) (Và)

-Chủ tâm khai thác tâm lý nhân vật (để người đọc dễ thấy mình, trong truyện.)

Nhưng về phương diện nội dung, vẫn theo tôi, họ Doãn không bó rọ, gói chặt tác phẩm của mình trong những luận đề gia đình, xã hội, xung đột cũ/ mới như thời Tự Lực Văn Đoàn.

Ông cũng không bó rọ nội dung chống cộng sản trong tác phẩm của ông trên cái nền cốt truyện và tâm lý nhân vật.

Truyện của ông, dù không hề xa rời hiện thực xã hội, nhiễu nhương, như “Chiếc Chiếu Hoa Cạp Điều,” như “Gìn Vàng Giữ Ngọc,” vẫn mở vào phần con người, như một sinh vật linh trưởng, bản chất thiện căn, ở trên mọi hạn hẹp của thể chế chính trị, giai đoạn.

Truyện của ông, ngoài những ẩn dụ, như những phóng chiếu nhân tính qua những truyện ở dạng cổ tích, cũng là những rung động, những lãng mạn thuần khiết (cung ứng cho nhu cầu mơ mộng, căn cốt của con người.) Chúng xiển dương tính hướng thượng. Chúng chan hòa tính nhân loại.

Tới hôm nay, dù trải qua bao năm tháng, bao cuộc đổi đời, tôi vẫn cảm phục ông biết bao, khi trong truyện “Gìn Vàng Giữ Ngọc,” của ông, tôi được đọc câu văn:

Ở thế giới thực dân tư bản, người ta tung vật chất ra để giam lỏng linh hồn. Ở thế giới thực dân cộng sản, người ta phong tỏa vật chất để mua rẻ linh hồn. Cả hai cùng thất bại! Linh hồn nhân loại chỉ có thể mua bằng tình thương yêu rộng rãi và chân thành.”

 

3.

Hình như mối bận tâm, nỗi đau đáu lao lung một đời của nhà văn-kẻ-sĩ mang tên Doãn Quốc Sỹ, trước sau vẫn là chủ tâm, nỗ lực kêu đòi, nhắc nhở, cổ súy khả năng “thánh hóa” tình thương yêu rộng rãi và, chân thành nơi mỗi con người ấy.

Sự tương nhượng dẫn tới tương hợp tuyệt vời giữa hai con người nhà văn và, kẻ sĩ nơi họ Doãn, thể hiện sâu sắc nhất, theo tôi ở trường thiên “Khu Rừng Lau.”

Khu Rừng Lau” không chỉ là bản trường ca xương, máu của một dân tộc liên tiếp trải qua những kiếp nạn, từ thời chống ngoại xâm, thực dân Pháp, qua tới những năm tháng bị đầu độc bởi chủ thuyết cộng sản và, tạm dừng ở điểm đứng dân chủ trá hình, lận trong tay áo những con trủy thủ độc tài mà, "Khu Rừng Lau" còn là trường ca, với những tổ khúc tin tưởng, hy vọng nơi cái Thiện, vốn là một linh–thánh-nhân-bản khi con người (hay nhân loại) phải đối đầu với thảm kịch, với cái ác.

Trường thiên này, theo tôi, là bước song hành giữa kẻ sĩ trước trách nhiệm với lịch sử một đất nước và, nhà văn, trước cái đẹp và, cái thiện của sinh vật linh trưởng.

Nhiều người từng ví trường thiên “Khu Rừng Lau” với bộ “Chiến Tranh Và Hòa Bình” của Leo Tolstoy.(*) Nhưng chưa một ai chỉ ra rằng, nếu Leo Tolstoy là nhà văn dựng lại, (tức đứng ngoài) một giai đoạn lịch sử cháy đỏ lầm than của xứ Đại Nga, kể từ những ngày đầu của cuộc chiến tranh Pháp-Nga 1811 thì, Doãn Quốc Sỹ là người đứng giữa tâm bão.

Ông không tìm hiểu, để rồi chiêm nghiệm mà, ông đã sống, đã chảy máu cùng lúc với dân tộc, tổ quốc ông; khi lịch sử và, đất nước ông đang chảy máu…

Do đó, với tôi, sự có mặt của ông, Doãn Quốc Sỹ, sự chúng ta còn có trong tâm, trong nhiều thế hệ sau "Khu Rừng Lau” của họ Doãn là, một nỗi buồn, đồng thời cũng là một vinh dự, hân hoan lớn, cho văn học và, con người Việt Nam vậy.

Du Tử Lê,

(Calif. Tháng 8-2010.)

______

Chú thích:
(*) Leo Tolstoy (hay Léon Tolstoi,) nhà văn Nga, còn được biết với tên đầy đủ là Lyev Nikolayevick Tolstoy, sinh ngày 9 Tháng Chín, 1828. Ông là tác giả nổi tiếng với hai bộ trường thiên tiểu thuyết: “Chiến Tranh Và Hòa Bình” và “Ana Kha Lệ Nin.” Ông mất ngày 20 Tháng Mười Một, 1910.

Nguồn: https://www.dutule.com/a2721/doan-quoc-sy-noi-buon-va-niem-vinh-du-han-hoan-lon-

Thơ của bác sĩ Tôn Thất Tùng

 Hôm nọ, anh Lê Xuân Phán có gửi cho tôi bài thơ tiếng Pháp có tựa Amour của bác sĩ Tôn Thất Tùng (đăng trên tạp chí Le Monôme số 1, tháng 6, năm 1936 của Tổng hội Sinh viên Đại học Đông Dương), nhờ tôi thử dịch sang tiếng Việt. Khó thật nhé. Tôi vốn đâu có quen dịch thơ cổ điển; và cả đời cũng chẳng làm bài thơ nào ra hồn. Loay hoay mãi, đọc đi đọc lại, nặn óc cố làm sao cho ra một bản dịch mà người Việt khi đọc có thể cảm được hơi thở và cái độ khó rất riêng của thơ Pháp thời ấy.

Dưới đây là bản tôi dịch, vừa bám nguyên tác, vừa giữ nhịp thơ Việt xưa xưa của hồi đó, mong rằng vẫn còn ít nhiều hồn vía của nguyên tác:

Nếu bạn nào có thể có bản dịch hay hơn, xin chia sẻ nhé. Cảm ơn.

Tino Cao

Nhà văn được vinh danh, dịch giả được nhớ đến

 Ngân Xuyên (theo hlo.hu ngày 13. 10. 2025)

Nhân dịp nhà văn nước mình là László Krasznahorkai được giải Nobel Văn chương 2025, Hiệp hội Dịch giả Văn chương Hungary (MEGY) đã đăng trên Facebook lời chúc mừng gửi đến 64 dịch giả của ông trên toàn thế giới, trong đó có một dịch giả Việt Nam là Giáp Văn Chung. Toàn văn lời chúc mừng của MEGY và danh sách các dịch giả kèm theo như sau:

Thứ Năm, 16 tháng 10, 2025

Vĩnh biệt Dzoãn Quốc Sỹ (17.2.1923 - 14.10.2025): Dzoãn Quốc Sỹ – Người giữ ngọn lửa của chữ nghĩa

 Tino Cao

* English below

 

Mỗi thế kỉ đều có ít nhất một người chọn đi hết quãng trăm năm của nó bằng chữ nghĩa, coi chữ nghĩa như con đường vừa riêng tư vừa phổ quát để vượt thời gian. Thế kỉ hai mươi của Việt Nam có Dzoãn Quốc Sỹ. Ông không làm cách mạng, không diễn thuyết tranh luận, nhưng đời sống của ông lại là một bằng chứng về khả năng tồn tại của tinh thần tự do trong những giới hạn ngặt nghèo nhất. Ông dạy học, viết văn, chịu tù đày, rồi già đi nơi đất khách. Tất cả tưởng chừng bình thường, nếu không có cách ông đi qua những điều ấy bằng một thái độ nhất quán: lặng lẽ, trung thực và tuyệt đối không oán hận. Chính sự im lặng đó khiến đời ông mang ý nghĩa của một phẩm cách đạo đức, khi chữ nghĩa không chỉ là phương tiện biểu đạt mà trở thành một hình thức tu dưỡng, một con đường giữ lấy phẩm giá giữa những biến thiên của lịch sử.