Người phụ trách Văn Việt:

Trịnh Y Thư

Web:

vanviet.info

Blog:

vandoanviet.blogspot.com

Danh ngôn

Trong mọi cộng đồng, chúng ta cần một nhóm thiên thần gây rối.

We need, in every community, a group of angelic troublemakers.

(Bayard Rustin – trích bài phát biểu tại New York City 1963)

Trong mọi trường hợp, chắc chắn rằng sự thiếu hiểu biết, đi kèm với quyền lực, là kẻ thù tàn bạo nhất có thể có của công lý.

It is certain, in any case, that ignorance, allied with power, is the most ferocious enemy justice can have.

(James Baldwin - No Name in the Street 1972)

Các cuộc cách mạng và các cá nhân có thể bị giết hại, nhưng bạn không thể giết chết các ý tưởng.

While revolutionaries and individuals can be murdered, you cannot kill ideas.

(Thomas Sankara, một tuần trước khi bị ám sát, 1987)

Không có cảm giác nào cô đơn hơn việc bị chính đất nước mình trục xuất.

There's not a more lonely feeling than to be banished by my own country.

(Kiyo Sato – Kiyo’s Story 2009)

Ban Biên tập

Địa chỉ liên lạc:

1. Thơ

tho.vanviet.vd@gmail.com

2. Văn

vanviet.van14@gmail.com

3. Nghiên cứu Phê Bình

vanviet.ncpb@gmail.com

4. Vấn đề hôm nay

vanviet.vdhn1@gmail.com

5. Thư bạn đọc

vanviet.tbd14@gmail.com

6. Tư liệu

vanviet.tulieu@gmail.com

7. Văn học Miền Nam 54-75

vanhocmiennam5475@gmail.com

Tra cứu theo tên tác giả

Thứ Năm, 19 tháng 6, 2025

Bí mật của hải trình

  (Về tiểu thuyết Thuyền của Nguyễn Đức Tùng, Nxb Phụ nữ Việt Nam, 2025)

Lê Hồ Quang

 

Thuyền có nhịp điệu ngôn từ khá đặc biệt: chậm rãi và bình thản. Nhịp điệu ấy hé lộ những câu chuyện khác, ẩn sau câu chuyện đang kể, một dòng chảy rộng lớn, không ngừng luân chuyển, đẩy con thuyền sự kiện trôi dạt không cùng trong hải lưu mênh mang của hồi ức, suy tưởng, chiêm nghiệm về lịch sử dân tộc, nhân loại và đời sống cá nhân, về những giá trị như sự thật, tự do, tình yêu, nỗi đau, sự cứu rỗi… Phải đọc chậm, vì dẫu có muốn, không thể cản được cái mạch/ nhịp đã được hình thành ngay từ lúc câu đầu tiên xuất hiện, nghĩa là khi con thuyền của câu chuyện xuất bến, bắt đầu hải trình, và nhịp điệu ấy được duy trì cho đến tận dòng kết thúc.

Không thể trích dẫn

 Tạ Duy Anh

Chưa khi nào tôi cảm thấy khó khăn đến vậy, khi đọc và định nói điều gì đó, về một cuốn sách. Cuốn sách đó có cái tên khá khô khan: "Những Ngày Tháng Năm". Và tác giả của nó là Phan Thúy Hà (Sơn Khê)*, một cây bút tôi đã quen tên từ lâu, chưa biết mặt, và đây là lần đầu đọc cô ấy.

Đáng sợ và nể phục.

Chính tôi cũng không chắc chắn mình đang nói cảm nhận về cuốn sách hay tác giả của nó. Có lẽ cả hai.

Không khói hoàng hôn (Tập III - kỳ 13)

 Nguyễn Thị Kim Thoa

Mấy điều trao đổi cùng ông Bùi Tín và… (phần 1)

Tôi là một độc giả không thường trực của diễn đàn Talawas và một vài diễn đàn điện tử khác, chỉ trong một vài tháng mới đây – từ sau khi đã nghỉ hưu. Do vậy, mặc dầu nghe danh Bùi Tín nhiều, nhưng đọc những gì do ông viết thì ít. Và vì thế hiểu ông lại càng ít hơn.

Thứ Ba, 17 tháng 6, 2025

Thành phố Hà Tĩnh nên có con đường mang tên Nguyễn Văn Tý

 Hà Tùng Sơn

 

Không chỉ với người Hà Tĩnh, với mọi người sống trên đất nước Việt Nam này mỗi khi nhắc đến Hà Tĩnh là trong đầu bỗng dưng ngân nga giai điệu của những ca khúc Một khúc tâm tình của người Hà Tĩnh Người đi xây hồ Kẻ Gỗ của nhạc sỹ Nguyễn Văn Tý.

Một cuốn sách dị thường

 Thái Hạo

1.

Nguyễn Đức Tùng từ Canada về Hà Nội, ra mắt cuốn tiểu thuyết “Thuyền” mà anh vừa in ở NXB Phụ nữ Việt Nam. Tôi không ra dự, tôi ở nhà đón anh và bằng hữu. Đó là lý do, vừa rất thật, vừa không thật…

Giáo sư Nguyễn Phượng gọi cho tôi, “Có thể chúng ta sẽ thức suốt đêm”. Trên đường đi, mọi người nói muốn gặp anh Hoàng Tuấn Công, tôi gọi cho anh. Trời vừa tối, hai xe tình cờ gặp nhau trên đường rẽ vào núi.

Thứ Hai, 16 tháng 6, 2025

Và rồi tất cả sẽ nguôi ngoai (Đọc tiểu thuyết về Thuyền nhân lần đầu tiên xuất bản ở Việt Nam)

Nguyễn Thị Tịnh Thy

1. “Kể lại sự thật không phải là một chọn lựa dễ dàng”. Tác giả Nguyễn Đức Tùng đã viết như thế trong tiểu thuyết Thuyền (Nxb. Phụ nữ Việt Nam, 2025). Không dễ dàng, bởi vì, sự thật mà ông kể lại thuộc về những điều “Sống mà nhớ lấy”[1].

Thuyền viết về một đề tài đau đớn của đất nước, của lịch sử và nhiều người dân Việt Nam trong thập niên 1980 – 1990. Đó là vượt biên.

2. “Vượt biên”! Hai tiếng này, một thời kỳ rất dài, trong đời sống, người ta chỉ được thì thào với nhau. Trong văn học, đó là đề tài cấm kỵ. Anh có thể công bố tác phẩm viết về “vượt biên”, về “thuyền nhân” ở bất cứ nơi đâu trên Trái đất này, trừ Việt Nam. Ngay cả khi hàng Mỹ, tiền Mỹ được gửi về để giúp nhiều gia đình đổi đời; ngay cả khi những thuyền nhân năm nào (vốn bị xem là những kẻ phản bội tổ quốc) đã được phép trở về dưới danh nghĩa “Việt kiều yêu nước”, được phép cưới vợ Việt, đầu tư ở Việt; ngay cả khi văn chương đã Đổi mới với nhiều thành tựu lớn lao, có thể phơi bày hiện thực, phản tư về cách mạng – lịch sử – chiến tranh – nhân sinh – anh hùng… (dĩ nhiên là với mức độ cho phép), thì “vượt biên” và “thuyền nhân” vẫn không được xem là đề tài hợp pháp của văn chương Việt.

Vì thế, tiểu thuyết Thuyền của Nguyễn Đức Tùng được xuất bản, được phát hành một cách hợp pháp, chính danh ở trong nước vào tháng 6 năm 2025 là một dấu mốc cực kỳ quan trọng.

Cũng thật trùng hợp, cách đây hai tháng, vào tháng 4 năm 2025, tác giả Sơn Khê (Phan Thuý Hà) xuất bản tập bút ký Những ngày tháng năm, có một bài liên quan đến thuyền nhân dài 15 trang, nội dung tập trung ghi nhận thành quả của “Con tàu hoà bình” do ông Rupert Neudeck và các cộng sự cứu những thuyền nhân Việt Nam gặp nguy hiểm trên biển Đông. Trong nội dung của bút ký, Phan Thuý Hà đã trích dẫn bài viết “A ship for Vietnam” của Rupert Neudeck trên tạp chí The century of refugees[2], ghi lại lời của vợ ông Rupert Neudeck về công việc đầy nhân đạo và dũng cảm này và lời kể của một số thuyền nhân về những khổ đau, bi kịch mà họ phải gánh chịu.

“Con tàu hoà bình” của Phan Thuý Hà là trần thuật phi hư cấu, tiểu thuyết Thuyền của Nguyễn Đức Tùng là trần thuật hư cấu, dù mức độ và dung lượng khác nhau, nhưng cả hai đều là những tác phẩm đầu tiên viết về thuyền nhân Việt. Sự xuất hiện mang tính tiên phong ấy, dù muộn mằn, vẫn là một thành quả đáng ghi nhận của các tác giả và nhà xuất bản. Nó khai sơn phá thạch cho một đề tài liên quan đến khoảng một triệu người Việt đi tìm “giấc mơ Mỹ”, giấc mơ Tây Âu trong mấy mươi năm cuối thế kỷ XX, với vô số những điều bi hoan ly hợp. Số phận họ, dù đã bị vùi sâu dưới đáy đại dương hay may mắn sống sót thì cũng đã là một phần của lịch sử hiện đại. Lịch sử cần được nhớ lại, được nhắc đến, không thể lãng quên.

3. Tiểu thuyết Thuyền như một bách khoa thư về hiện tượng “vượt biên”. Móc nối, mua chỗ, tìm tàu, kiếm bãi, nguỵ trang, ẩn náu, mua sắm, tập kết, rượt đuổi, trốn chạy, bắt bớ, biển động, lênh đênh, đói khát, cướp – giết – hiếp, mang thai, mất tích, hy vọng, tuyệt vọng, cầu nguyện, điên loạn, ác mộng, hoang tưởng, áo giác, tị nạn, lưu vong, tự do, thất lạc, tìm kiếm, trở về, hải phận quốc tế, thập tử nhất sinh, tử biệt sinh ly, hồn xiêu phách tán, địa ngục trần gian…, tất cả đều có ở đây. Đủ đầy, đau đớn!

Quá khứ trong Thuyền là những gì đọng lại từ ký ức của “tôi” – người kể chuyện – kẻ sống sót trong một chuyến vượt biên đầy kinh hoàng. Một trăm bốn mươi người chen chúc, lênh đênh, vật vạ trên một chiếc thuyền nhỏ bé chất chứa sự hỗn độn của nhớp nháp, tởm lợm, nhục nhã, đau đớn, cuồng hoang, cưỡng hiếp, giết chóc, cướp bóc, hận thù… Bạn gái của nhân vật “tôi” đã lao mình xuống biển tự tử khi bị bọn cướp biển bắt sang thuyền của chúng để làm nô lệ tình dục hoặc để bán vào các nhà chứa. Thoát chết, “tôi” mãi mãi sống trong những ám ảnh, dằn vặt, day dứt của kẻ bị chấn thương tinh thần sau khi đã từng chứng kiến và trải nghiệm những điều không thể chịu đựng nổi. Anh ta luôn mang mặc cảm tội lỗi bởi sự sống sót của mình. Sống, trong trường hợp này là sự trừng phạt hơn là ân huệ. Sống, đồng nghĩa với đày ải nặng nề vì quá khứ cứ tràn về, vây bủa. Anh ta cần được thổ lộ. Một lần cho tất cả, anh phải viết ra. Viết cho tới lòng người, cho thấu trời xanh, cho quỷ khốc thần sầu, cho người chưa biết phải biết, cho người biết rồi sẽ không thể nào quên. Viết như một sự giãi bày, trả nợ, chuộc lỗi, sám hối, gột rửa, hoá giải…

Mang đặc điểm của tự sự chấn thương, cốt truyện của Thuyền có thể gói gọn trong ba sự kiện chính: ra đi, kiếm tìm và trở về. Tuy nhiên, để chọn một từ khoá cho toàn tác phẩm, thì đó là từ “kiếm tìm”. Bởi vì, ra đi là để kiếm tìm: kiếm tìm tự do ở một chân trời xa lạ; trở về cũng là để kiếm tìm: kiếm tìm một hình bóng đã mất, kiếm tìm những kỷ niệm ngọt ngào và cay đắng, kiếm tìm linh hồn của người khác và bản thể của chính mình. Cũng giống như cuộc lữ hành trong Linh sơn của Cao Hành Kiện, giữa ra đi và trở về của “tôi”, vẫn là kiếm tìm, kiếm tìm không ngưng nghỉ: anh đi tìm em – dù anh đã tận mắt nhìn thấy em nhảy xuống biển khơi, tôi đi tìm tôi – tìm ý nghĩa của những gì tôi đã chọn lựa, đã sống, đã mất mát, đã mắc nợ. “Tôi” là kẻ lạc loài khổ đau khi đến được miền đất hứa nhưng mất đi người yêu dấu của mình. “Đánh mất một người phụ nữ cũng giống như đánh mất chính quê hương mình”. Vì vậy, từ giây phút ấy trở đi, cuộc sống của “tôi” là một cuộc kiếm tìm bất tận; kiếm tìm trong đời thực, trong mộng mị, trong ý thức lẫn vô thức. Ở bề mặt sự kiện của cốt truyện, sự kiếm tìm ấy rất cụ thể, đó là tìm “nàng” – Liên Hương – người con gái đã bỏ lại tất cả, cùng người yêu xuống con thuyền định mệnh để rồi mất xác giữa đại dương. Tuy nhiên, hành trình “tôi” đi tìm Liên Hương là hành trình tâm tưởng hơn là hành trình hành động. Trong dòng tâm tưởng miên man, “tôi” tra vấn, định nghĩa, lý giải về những điều khiến nhân loại lao tâm khổ tứ suốt mấy ngàn năm nay: tự do, lịch sử, bình đẳng, cái tôi, hạnh phúc, khổ đau, sự sống, cái chết, linh hồn, chọn lựa…:

“Tự do không phải là một ý tưởng… Tự do không phải là số phận. Tự do là một chọn lựa cá nhân… Đó là chọn lựa khó khăn: một nửa nhân loại sẽ nói không với nó”.

“Con đường tự do mà chúng ta đi khổ nhục thế này ư?”

“Không ai biết làm gì với cái chết. Nhưng chúng ta thường xuyên nghĩ về nó, nói về nó, kể về nó, ca hát về nó”.

“Trong nhiều trường hợp, văn học là sự dối trá. Trong nhiều trường hợp khác, là mặc khải”.

“Lịch sử là quá khứ đã được chọn lọc.

Con người có cần biết những quá khứ khác không?

Để làm gì?

Chẳng để làm gì cả.

Ý nghĩa của sự ra đi?

Mất mát.

Tức là biến mất khỏi một thế giới?

Mất mát là biến mất khỏi một thế giới không được chấp nhận và hiện hữu trong một thế giới khác.

Ước vọng lớn nhất của con người là gì?”…

Nhiều định nghĩa, nhiều câu hỏi của Nguyễn Đức Tùng khiến người đọc phải ngẫm ngợi. Và như thế, theo cuộc kiếm tìm của người kể chuyện, độc giả cũng tự trở thành kẻ kiếm tìm, chứ không thể đứng ngoài cuộc. “Tôi” của Nguyễn Đức Tùng đã tìm thấy ý nghĩa của sự sống và sự chết chưa? “Tôi” của mỗi “ta” trong “chúng ta” đã tìm thấy điều đó chưa, khi ta vẫn còn phiêu dạt trong biển đời mênh mông này, đang ở trong trò chơi của tạo hoá?

Trần thuật từ ký ức, Thuyền có một nghệ thuật viết khá điêu luyện. Sự kiện được trực tả một cách dữ dội và khốc liệt từ điểm nhìn của người trong cuộc. Theo dòng chảy ý thức, câu chữ khi chậm rãi, bình thản; khi nghẹn ngào, xót xa; khi cuồn cuộn trào dâng, chảy tràn không ngưng nghỉ. Chuyện ngắn, chuyện dài, sự kiện, cảm xúc từ ký ức gần xa vẫy gọi nhau, xô đẩy nhau, dằn xóc lên nhau, cay đắng cùng nhau. Tất cả những khổ đau, mất mát cứ ráo riết, chênh chao, hoang hoải hiện về như một cuốn phim rối tung, một cuốn album bị rách rời khiến người đọc phải tự ráp nối lại. Tác giả đổi điểm nhìn, thay ngôi kể, dịch chuyển vị trí của người kể chuyện và người nghe chuyện như những cái trở mình của kẻ đau đớn trên giường bệnh. Ngồn ngộn hiện thực, se sắt cảm xúc, bàng bạc chất thơ, thấm đẫm tâm lý, chứa chan kỷ niệm, da diết nhớ nhung; đối thoại phi lý đan xen những trầm tư triết lý đầy sức nặng nội tâm…, những đặc điểm ấy khiến ngôn từ của Thuyền thực sự cuốn hút; gây xao xuyến, chấn động, choáng váng và ám ảnh.

4. Đại dương có thể vùi sâu sinh mệnh nhưng không thể vùi sâu ký ức. Về động cơ và ý nghĩa của sáng tác, Thuyền đã làm được một việc rất nhân văn, đó là trả món nợ của văn chương đối với một hiện tượng lịch sử và nhiều thân phận cá nhân. Có thể xem Thuyền như một áng văn chiêu hồn cho những thuyền nhân. Không chỉ riêng Liên Hương và các nhân vật khác trong tiểu thuyết Thuyền, những thuyền nhân ngoài đời thật đã bỏ mạng trên biển cả đều là những oan hồn chứ không phải linh hồn. Những hồn ma lưu lạc, những bóng quế lưu vong cần được đường hoàng bước vào, trở về ngôi nhà văn chương trong lãnh thổ nước Việt. Ta hãy chiêu hồn họ trở về đây, cầu siêu cho họ bằng chữ nghĩa. Bất hạnh trong cuộc đời rồi, không thể bất hạnh trong văn chương. Công bằng với những người đã chết và những kẻ bị chấn thương tinh thần hành hạ, đó không phải là sứ mệnh của văn chương sao? Không trốn chạy, không che giấu, không lừa mị, không tránh né sự thật, không đeo mặt nạ cho lịch sử, đó chẳng phải là cách tốt nhất để vuốt mắt cho quá khứ, để quá khứ được ngủ yên hay sao?

Trong tác phẩm, nhà văn Nguyễn Đức Tùng từng viết: “Muốn biết chuyện tương lai, thì lắng nghe tiếng thì thầm của quá khứ”. Chúng ta cần lắng nghe tiếng thì thầm ấy từ ký ức chân thành và nguyên vẹn của người kể chuyện, dù sự chân thành và nguyên vẹn đó làm ta đau đớn. Ký ức của kẻ lạc loài, ngoại vi, bên lề cũng là một phần của ký ức cộng đồng. Ký ức của cá nhân cũng là ký ức của dân tộc. Ký ức “không phải chỉ là sự ghi lại quá khứ, việc gìn giữ những kỷ niệm thời thơ ấu, những đau buồn của tuổi trẻ, vàng son của tự do, mà còn là tấm bản đồ dành cho tương lai, cho con đường vận động về phía trước. Ký ức trở thành động lực cho những ngày sắp tới. Không phải chỉ những mất mát. Mà những mất mát cũng làm nên vốn liếng của thế hệ mai sau”.

Với nhiều người Việt Nam mấy mươi năm qua, nước biển dường như mặn hơn, có lẽ vì nó chứa đầy sự chết bi thảm và sự sống nhọc nhằn của biết bao nhiêu thuyền nhân, chứa đầy nước mắt của bao nhiêu người mẹ mất con trong cuộc di dân dị thường này. Ở chương 10 của tiểu thuyết, khi tàu ra đến hải phận quốc tế, mọi người đều hồi sinh, mừng rỡ, hạnh phúc, nghẹt thở, khóc, lặng lẽ, reo mừng… Lúc ấy, người kể chuyện chợt suy tư:

“Khi một dân tộc sung sướng, người ta làm gì?

Ôm lấy nhau. Khóc.

Người ta làm gì nữa?

Tha thứ. Tha thứ hết”.

Hôm nay, tiểu thuyết Thuyền có thể yên ổn nằm trên tay bạn đọc, đó là dấu hiệu của “sung sướng” và “tha thứ”. Nhược bằng, con Thuyền văn học này vẫn bị quăng quật vì bão tố sau khi xuất bản, bị ép buộc phải “vượt biên”, lưu vong thì thật đáng buồn; bởi vì điều đó chứng tỏ chúng ta chưa phải là “một dân tộc sung sướng”.

Thuyền của người ra đi đã từng lận đận, chao đảo, phiêu dạt, vỡ nát, đắm chìm. Giờ đây, mong rằng con thuyền ký ức của người trở về sẽ cập bến bình yên trong vòng tay chào đón, nâng niu, yêu thương và trân trọng của những người ở lại và còn lại.

“Hồn hề! Hồn hề! Hồ bất quy? […] Thành quách do thị, nhân dân phi”.

(Hồn ơi! Hồn ơi! Sao chẳng về? […] Thành quách còn đây, nhân dân đã khác)[3].

Hồn của người sống và người chết – của chàng và nàng, anh và em, của bé thơ và người già, của người may mắn và bất hạnh, thành đạt và thất bại, xin một lần cùng lên THUYỀN của nhà văn Nguyễn Đức Tùng để trở về cố quốc với tất cả “vinh dự lầm than của kiếp người”[4].

Tôi đã hiểu, đã cảm, đã khắc khoải, hồi hộp, đắng đót, xót xa cùng các nhân vật qua 372 trang tiểu thuyết. “Mực của nhà văn còn quý hơn máu của kẻ tử đạo”, tôi thấm thía câu ngạn ngữ này của người Ả Rập. Tôi lắng nghe tiếng thì thầm của quá khứ, tôi thắp nén tâm nhang cho những người quen và chưa quen đã bất hạnh chìm sâu dưới đáy đại dương, hoặc mang những vết thương thể xác và tinh thần không gì bù đắp nổi để viết nên tâm tình này, với niềm hy vọng “và rồi tất cả sẽ nguôi ngoai”[5].


[1] Nhan đề tiểu thuyết của nhà văn Nga Valentin Raxputin.

[2] “Bãi biển trên đảo hoang Koh Kra đầy những búi tóc phụ nữ, giày trẻ em, quần áo nhuốm máu, áo ngực rách. Trên bức tường để lại những dòng chữ nguệch ngoạc: “Để tưởng nhớ cha và mẹ”, “Để tưởng nhớ sự đau khổ mà ba chị em tôi đã phải chịu đựng trong hai mươi mốt ngày”. Dòng chữ trên tảng đá: “Hãy chắc chắn rằng người Thái không tìm thấy phụ nữ và trẻ em gái - giấu họ trong hang và bụi cây”, “Đầu tiên bạn sẽ được cho thứ gì đó để ăn, sau đó mọi thứ bạn có sẽ bị lấy đi, kể cả quần áo của bạn, họ sẽ cưỡng hiếp bạn, hết thuyền này đến thuyền khác, họ sẽ đến hàng trăm người và sẽ lần lượt cưỡng hiếp bạn. Sau đó họ giết bạn”” (Những ngày tháng năm, Sơn Khê (Phan Thuý Hà), Nxb. Thông tin và truyền thông, 2025, tr. 239-240).

[3] Phản chiêu hồn (thơ của Nguyễn Du).

[4], [5] Và rồi tất cả sẽ nguôi ngoai (thơ của Tô Thuỳ Yên).

Bước đi khả thi nào cho phát triển Khoa học

 Phan Dương Hiệu

Gần đây, khi được trò chuyện với các trưởng lão trong cả lĩnh vực xã hội và tự nhiên, tôi càng nhận thấy một điều: nếu thực sự có nhiều kinh phí, bước đầu tư hiệu quả trước tiên của chính phủ cho khoa học cơ bản (xã hội và tự nhiên) đơn giản chỉ là tăng trợ giúp gấp 10–100 lần cho những cơ sở (Viện, Đại học), cho những Quỹ khoa học đã có nền tảng vững chắc, đã có đội ngũ tâm huyết đang âm thầm làm việc ngay cả trong điều kiện khó khăn. Ở thời điểm này, việc đánh giá đâu là các cơ sở mạnh, có tiềm năng, hay các Quỹ khoa học nghiêm túc là hoàn toàn dễ dàng.

Hồi ức đến tương lai

 Phạm Xuân Nguyên

Kính thưa các anh chị,

Tôi rất lấy làm tiếc đã không đến dự được cuộc ra mắt cuốn sách này của nhà kinh tế học Trần Văn Thọ. Lý do là trong buổi sáng nay (14/6/2025) cùng giờ này tôi bận làm MC cũng cho một cuộc ra mắt sách: tiểu thuyết Thuyền của nhà văn Nguyễn Đức Tùng ở Canada in ở trong nước, một tác phẩm viết về vượt biên và thuyền nhân (boat people) từ đó đặt ra vấn đề sự thật và ký ức. Hai sự kiện về sách có những sự trùng hợp ngẫu nhiên lý thú diễn ra rất gần nhau (52 Hai Bà Trưng và 36 Lý Thường Kiệt) mà ước gì tôi có thể phân thân để cùng lúc dự được cả hai. Nhưng người phàm thì không thể phân thân nên tôi đành khất cuộc này và xin viết ra vài lời cậy nhờ sư tỷ đồng Phạm là nhà kinh tế Phạm Chi Lan gửi đến anh Trần Văn Thọ và tất cả các anh chị có mặt.

Tôi đã đọc hết cuốn sách của anh Thọ. Sau đây là mấy ghi nhận ban đầu của tôi.

Cánh diều năm cũ

 Tạp bút Đặng Văn Sinh

"Tiếng diều xanh lúa

Uốn cong tre làng"[1]

Tôi ngồi trên phiến đá, trước đây vốn là cái quán nhỏ của bà cụ Mận bán quà bánh cho khách chờ đò ngang qua sông Cái. Nhưng tôi không mấy để ý đến con sông mùa lũ đầy ắp thuyền bè qua lại, mà quay lưng ngắm hoàng hôn đang loang dần khắp mấy quả đồi lúp xúp mọc toàn sim mua. Bầu trời không một gợn mây và sáng lạ lùng, cứ như cố tình muốn kéo dài cảnh chiều tà đầy mê hoặc của mùa hạ miền trung du. Ở đâu đó, có tiếng sáo ngân nga lúc khoan lúc nhặt khiến tôi phải nghển cổ, dõi mắt cố tìm xem con diều của ai đó đang lơ lửng trên chín tầng trời, thả vào không gian những thanh âm đầy quyến rũ của giai điệu đồng quê.

Chủ Nhật, 15 tháng 6, 2025

Thuyền trong lịch sử di cư của người Việt

 Khuất Thu Hồng

Khi đọc "Thuyền" của Nguyễn Đức Tùng, điều ám ảnh nhất với mình không chỉ là những cơn sóng, cơn đói, hay sự hiểm nguy những người vượt biên đã trải qua, mà còn là những câu hỏi sâu xa về thân phận con người, về sự lựa chọn trong hoàn cảnh bất khả kháng. Mình đọc một mạch, từ chiều đến hai giờ sáng. Gấp cuốn sách lại vẫn còn run rẩy và giấc ngủ bị ám ảnh bởi những cảnh tượng tàn bạo và đau đớn mà Tùng trải qua trên con thuyền đi tìm số phận của mình: những lần bị hải tặc tấn công, những người đàn ông bị giết, những người phụ nữ bị làm nhục và cảm giác bất lực khi chứng kiến sự ra đi vĩnh viễn của người con gái mà anh yêu dấu...

Thơ Nguyễn Đức Tùng

 

NGƯỜI ĐI CHÂN ĐẤT (CHƯƠNG 7)

                                                                         Trường ca

Mọi thứ đều phải kết thúc

Bằng cách này hay bằng cách khác

Tôi nhìn thấy một người chồng những hòn đá bên bờ nước

Ở Thái Lan, hòn đá này trên hòn đá khác

Như thế mãi, chúng đứng im, không sợ hãi

Trắng, đen, xanh, buồn, vui

Gaza: Vẽ tranh giữa trời hư vỡ

 Phan Tấn Hải

Có cách nào để sớm có hòa bình cho Gaza, một trong vài vùng đất đau thương nhất thế giới hiện nay? Chúng ta không có câu trả lời. Liên Hợp Quốc cũng bế tắc. Chúng ta, những người sống trong thế kỷ 21, cũng không thể quy trách một ai, vì như dường định mệnh đã sắp sẵn cho cuộc tàn sát từ nửa đầu thế kỷ 20, hay là từ hai ngàn năm trước. Chúng ta hoàn toàn không hiểu, tại sao khu vực được xem là đất thánh của ba tôn giáo lớn nhất thế giới – Do Thái Giáo, Ky tô giáo, và Hồi giáo – lại rơi vào một cuộc chiến bi thảm và dai dẳng như thế? Tuy nhiên, đất trời muôn đời vẫn im lặng. Một cách nào đó, các nghệ sĩ ở Gaza lên tiếng cho dân tộc của họ. Họ đã vẽ, dù không còn đầy đủ màu sơn. Khi giấy và các tấm canvas biến mất, họ lấy các bao bột mì làm nền để vẽ tranh.

Thứ Sáu, 13 tháng 6, 2025

Thuyền (viết nhân đọc tiểu thuyết THUYỀN của Nguyễn Đức Tùng)

Giáng Vân

 

“Có một nơi trên trái đất ở đó người ta không chết, họ chỉ biến mất.

Bạn hỏi: tôi có đi được không?

Không.

Có.

Bạn hỏi: tại sao tôi phải đi?

Tại sao không?

Tôi có thể để lại một thứ gì, không mang theo, được không?

Không.

Ý nghĩa của sự ra đi?

Biến mất khỏi một đời sống.

Tức là chết?

Không. Từ chối nó”*

Giữ hộ anh màu áo lụa Hà Đông!

 Phạm Hiền Mây

 

I. NGUYÊN SA – THẦN TƯỢNG THƠ CỦA HỌC SINH, SINH VIÊN MIỀN NAM CẢ TRƯỚC VÀ SAU 1975

Khoảng mười tuổi, tôi đã bắt đầu biết đọc thơ.

Thưa, đọc thơ chớ không phải là đọc chữ. Đọc chữ thì bé nào lên sáu, cũng đều biết, và bắt đầu xem truyện hình. Truyện chữ, thì còn tùy, tùy sở thích đặc biệt của trẻ. Có trẻ, chín tuổi, đã chui xuống gầm giường, đọc một mạch truyện Vòng tay học trò của Nguyễn Thị Hoàng trong vòng hai, ba ngày, như tôi, chẳng hạn.

Thơ Trần Hoàng Phố

 

TIẾNG SẤM XANH VÀ TIẾNG NÓI KHẢI HUYỀN

 

*

 

Trong chu kỳ của mưa gió bão

và những ngày trời trong xanh

Tôi nghe thấy

một điểm nghẽn của thời tiết

trong tiếng con chim lợn kêu đêm

Ngày lễ hội các thiên thần sẽ đến

Trong bàn tay sấp ngửa của Thượng Đế

Và giấc mơ tiếng chuông lễ khuya

Vang trong đêm vắng

và bay tới đậu trên trái tim người thi sĩ

Một bài thơ như

một bông hoa súng xanh

Nở hy vọng trong đêm ngày lễ thánh

Giật mình nhìn lại và cười vui với tiểu luận

 Lê Thị Hường

Những trang văn của Hồ Anh Thái nặng trĩu những trầm tư về các lĩnh vực văn hóa, con người, cùng với niềm mong mỏi về một giá trị sống giữa những bất an trong lòng xã hội hiện tồn. Niềm tự hào xen lẫn với nỗi buồn. Phê phán và ưu ái. Hoài nghi lẫn tin yêu.

Hồi ức đến tương lai của Trần Văn Thọ: Một luồng gió mới

 Nguyễn Xuân Xanh

“Tôi sinh ra ở nông thôn miền Trung, một trong những vùng nghèo của đất nước. Thời tôi còn nhỏ, thập niên 1950 và 1960, cha mẹ, bà con và hàng xóm ai cũng đầu tắt mặt tối, vất vả ngoài đồng ruộng. Mùa đông gió rét mặc không đủ ấm, mùa hè nóng không ngủ được. Qua sách vở, tôi cũng thấy những hình ảnh đó ở hầu hết các vùng khác của đất nước.

Từ nhỏ, tôi biết nhiều nhạc khúc ca tụng đồng quê, nhưng phần lớn nói lên cuộc sống nghèo khó của người dân Việt Nam. Những ca khúc như Nắng lên xóm nghèo, Quê nghèo, Tình nghèo, v.v. đều phản ánh tình trạng đó. Tôi luôn mong đất nước sẽ phát triển, người dân được sống ấm no, hạnh phúc. Tôi nghĩ mong ước đó cũng thể hiện lòng yêu quê hương đất nước một cách cụ thể. Thời trung học, đọc tiểu thuyết Đoạn tuyệt của Nhất Linh, qua suy nghĩ của nhân vật Dũng, tôi bắt gặp một định nghĩa về lòng yêu nước rất phù hợp với mục tiêu phát triển cần có của Việt Nam lúc ấy: “Chiều hôm ấy, Dũng như cảm thấy tâm hồn của đất nước, mà biểu hiện cho đất nước ấy không phải là những bậc vua chúa danh nhân, chính là đám dân hèn không tên không tuổi. Dân là nước. Yêu nước chính là yêu chung đám thường dân, nghĩ đến sự đau khổ của đám thường dân”. Đây là định nghĩa về lòng yêu nước rất hay, rất thiết thực, in sâu vào tâm trí tôi, cho đến bây giờ tôi vẫn nhớ gần như nguyên văn.”

—Trần Văn Thọ

Thứ Ba, 10 tháng 6, 2025

Tóm lược 50 năm văn học Việt nhập cư 1975-2025 (kỳ 3)

 Ngu Yên

 

Nhà văn Monique Truong

Monique T. D. Truong (sinh ngày 13 tháng 5 năm 1968) là một nhà văn người Mỹ gốc Việt sống tại Brooklyn, New York. Cô tốt nghiệp Đại học Yale và Trường Luật Đại học Columbia. Cô đã viết nhiều cuốn sách và cuốn tiểu thuyết đầu tiên của cô, The Book of Salt, được Houghton-Mifflin xuất bản năm 2003. Đây là một cuốn sách bán chạy nhất toàn quốc và đã được trao Giải thưởng tiểu thuyết Bard năm 2003 và Giải thưởng sách Stonewall, Giải thưởng văn học Barbara Gittings. Cô cũng đã viết Watermark: Vietnamese American Poetry & Prose, cùng với Barbara Tran và Luu Truong Khoi, và nhiều bài tiểu luận và tác phẩm truyện ngắn. (Wikipedia)

Không khói hoàng hôn (Tập III - kỳ 10)

 Nguyễn Thị Kim Thoa

Hoa cỏ quanh tôi (phần 1)

Những lần đi khám bệnh quanh xóm, những buổi đi dạo trên đường đê bao, tình cờ hay cố ý nhìn thấy những bông hoa, cây cỏ bên đường, tôi đã cố gắng chụp cho chúng những tấm hình “đẹp” bằng khả năng mình có được. Những hoa cỏ tôi đã biết tên, hoặc hỏi dân địa phương, tôi ghi lại bằng hình ảnh và đôi điều nhớ nghĩ về chúng.

Thứ Hai, 9 tháng 6, 2025

Ad Reinhardt và những bức tranh đen

 Nguyễn Man Nhiên

Ad Reinhardt (1913–1967) là nghệ sĩ Mỹ tiên phong trong phong trào Trừu tượng và Tối giản. Loạt tác phẩm "Những bức tranh đen" (Black Paintings) của ông gồm các bức tranh gần như toàn màu đen, nhấn mạnh sự tinh khiết tuyệt đối của hội họa, có ảnh hưởng lâu dài đến Nghệ thuật Hiện đại.

Đối thoại với “cái bóng” của Vân Thuyết

 (Tham luận đọc tại buổi ra mắt sách Bến Thi Ca của tác giả Thin Zen Paul Vân Thuyết)

Dương Thắng

  1. Tại sao chúng ta lại có mặt trong khán phòng này ngày hôm nay? Câu trả lời tưởng chừng rất đơn giản và rõ ràng: tới dự lễ ra mắt tác phẩm Bến Thi Ca của tác giả Thin Zen Paul Vân Thuyết, đánh dấu một hành trình sáng tạo thơ hơn nửa thế kỷ của tác giả, để lắng nghe trao đổi với nhau những suy ngẫm, những đánh giá của mình về cuốn sách này. Đến đây thì vấn đề trở nên phức tạp và rắm rối hơn: Chúng ta đang lắng nghe ai? Ông Vân Thuyết đang ngồi ở đây trước mắt chúng ta hay một ông Vân Thuyết khác, đang in đậm bóng dáng của mình trên từng dòng thơ này và cũng chỉ tồn tại trên những dòng chữ này, và tôi đồ rằng ông Vân Thuyết thứ hai này đôi khi đã viết ra những câu thơ lạ lùng mà chính ông Vân Thuyết thứ nhất cũng ngỡ ngàng khi đọc lại nó. Oái oăm thay người mà chúng ta cần đối thoại tìm hiểu khám phá lại chính là ông Vân Thuyết thứ hai này (để dễ phân biệt tôi tạm gọi ông “Vân Thuyết số hai” này là “cái bóng” của ông Vân Thuyết số 1). Còn một vấn đề cốt yếu nữa: Tại sao chúng ta lại cần phải nói về cuốn sách này? Việc chúng ta bàn luận về nó có “chính đáng” không? Và chúng ta sẽ dựa trên cái gì để nói về nó?
Chủ Nhật, 8 tháng 6, 2025

Suy nghĩ của một người học ‘khối C’…

 Thái Hạo

1.

Sự rớt giá thê thảm của “Khối C” (tức tổ hợp C00), một phần phản ánh những thay đổi mạnh mẽ của xã hội Việt Nam hiện nay, khi ở đó các ngành kinh tế, kỹ thuật, công nghệ trở thành mũi nhọn và chi phối xã hội một cách áp đảo; trong khi ngành nhân văn vốn không trực tiếp sản xuất, không tạo ra của cải, tất bị lép vế.

Thứ Bảy, 7 tháng 6, 2025

Các nghệ sĩ trường phái New York, chủ nghĩa Biểu hiện Trừu tượng và tranh Hành động

 Nguyễn Man Nhiên

1. Sau Thế chiến II, khi cuộc sống nghệ thuật tiếp tục trở lại trong môi trường hậu chiến, nhiều nhà quan sát dần nhận ra rằng nghệ thuật mới thú vị nhất không còn bắt nguồn từ Paris nữa. Đúng hơn, nó được tìm thấy ở New York. Trung tâm của năng lượng đã dịch chuyển. Một số phát triển đã mở đường cho sự nở rộ của nghệ thuật tiên tiến ở Mỹ, chẳng hạn sự thành lập của Bảo tàng Nghệ thuật Hiện đại (MoMA) vào năm 1929.

Thứ Sáu, 6 tháng 6, 2025

Phỏng vấn trí tuệ nhân tạo về hòa hợp hòa giải dân tộc Việt Nam

 Thực hiện: Trần Kiêm Đoàn – từ Sacramento, California, Hoa Kỳ lúc 5:15 PM ngày 3-6-2025

Trả lời: Trí tuệ nhân tạo Chat GPT – OpenAI

 

Lời mở đầu của người phỏng vấn:

Trước khi thực hiện cuộc phỏng vấn này, tôi đã tham khảo nhiều nguồn thông tin và trực tiếp đối thoại với những nhân vật “sống” trong và ngoài nước. Tuy nhiên, phản hồi nhận được đa phần rơi vào ba mô thức:

Nhà văn Hoài Thanh và tấm lòng thể tất bị đứt gãy

 Lê Học Lãnh Vân

 

Dẫn nhập: TỔNG THỐNG MACRON và CHÍ PHÈO

Tổng thống Pháp sang thăm Việt Nam. Người Việt bực bội vì những bình luận rất thiếu văn hóa và thiếu kiến thức trên mạng xã hội của hàng ngàn Facebooker mà nhiều người Việt ví là Chí Phèo. Sự hiện diện của số người đó chứng tỏ dân trí của đất nước ở tầm hạn chế sự phát triển mong muốn. Tôi chợt nhớ bài TẤM LÒNG THỂ TẤT BỊ ĐỨT GÃY của mình cách đây bảy năm viết về một nhà trí thức Việt Nam, có thể xem là biểu tượng của nhiều nhà trí thức thời chín năm kháng chiến chống Pháp giành độc lập. Xin lục lại đăng lên.

Bảy năm trước, khi hạ câu chót của bài “Trong lúc đất nước vẫn còn loay hoay với những chuyện Chí Phèo”, lòng tôi buồn rũ! Nhiều người thuộc thế hệ trí thức Việt Nam vì quá hăng say lao vào cuộc chiến thời đó mà đánh mất mình. Bao nhiêu nông dân Việt Nam hiền lành hóa Chí Phèo thời Cải Cách Ruộng Đất? Bao nhiêu người trí thức Việt Nam đáng kính hóa Chí Phèo thời Nhân Văn Giai Phẩm? Làm sao trí thức hóa, lành mạnh hóa tư tưởng các Chí Phèo đã sinh sôi nảy nở từ đó tới nay?

Gánh nặng để lại cho đời nay thực không nhỏ...

Thứ Năm, 5 tháng 6, 2025

Tóm lược 50 năm văn học Việt nhập cư 1975-2025 (kỳ 2)

 Ngu Yên

PHẦN HAI

Dẫn nhập

Câu hỏi: Văn học sáng tác bằng ngoại ngữ bởi người Việt di dân có được coi là văn học Việt hay không?

Thông thường người ta thỏa thuận những tác phẩm và những tác giả đó thuộc về văn học bản xứ với phụ đề “gốc Việt.” Thỏa thuận đó đặt cơ bản trên ngôn ngữ, có tên gọi “ngôn ngữ chính thống”, còn tiếng Việt là “ngôn ngữ thiểu số.” Tất cả những ý nghĩa này được nhìn thấy và định nghĩa từ những người bản xứ của ngoại ngữ. Còn người Việt, chúng ta nhìn thấy và nghĩ như thế nào?

Trần Mộng Tú ngỡ ngàng dung dị đời thơ

Nguyễn Nguyên

Đọc thơ Trần Mộng Tú tôi như được nghe câu chuyện cuộc đời bà đang kể với với chính mình. Bà thành thực, tĩnh lặng, dung dị nâng niu mỗi khoảnh khắc sự sống trên suốt chiều dài một cuộc đời vừa là nhân chứng, vừa là nạn nhân trong một cuộc chiến không người Việt nào mong đợi. Trái tim bà rung lên nỗi đau mất mát và khát vọng được sống trong yêu thương theo cách riêng mình khiến ta không khỏi ngỡ ngàng…

Trần Mộng Tú gửi đời mình vào thơ. Đó là điều duy nhất không bị cắt chia, lìa xa dẫu bà ở đâu, làm gì. Có thể gọi đó là một niềm hạnh phúc trọn vẹn của bà.

Hơi thở của mặt trời/Đẹp như hơi thở của một câu thơ/Tôi mở bàn tay hứng/Bàn tay đầy mặt trời/Bàn tay đầy thơ (Thơ mùa Covid 2019)

Thơ vẫn lung linh ngay khi bà viết về cái chết.

“Áo trên vai người lạ/Hơi chị còn vương hương/Bài Thơ chắc đang khóc/Khói nhang nào còn thơm” (Áo và Thơ – 14/7/2022)

Bà thật trẻ trung khi ao ước kiếp sau vẫn là thi nhân cùng với một người chồng thi sĩ “thơ chàng dán lên vách, thơ em che trời mưa”
“Ngoài vườn đầy hoa nở/Trong lòng ngập mộng mơ/Cửa lều thường không khép/Nên Xuân đến bốn mùa”
(Kiếp sau)

-Nguyễn Nguyên-

Tình yêu, đương nhiên rồi, đó là điều người đàn bà nào cũng khát khao, ấp ủ từ khi mái tóc đang xanh tới khi lộng gió pha sương. Những bài thơ tình của bà, dẫu là nỗi nhớ, niềm mong đợi, chia lìa hay hạnh phúc, đều lắng sâu vào tĩnh tại với ngôn từ dung dị đời thường. Bà khiến người đọc bất ngờ bởi những cấu tứ bất chợt làm nên dấu ấn riêng biệt.

Cả một dòng sông đứng lại chờ là nỗi nhớ người yêu không lẫn vào đâu được của Trần Mộng Tú.

Giữa bộn bề cảm xúc xa người như xa mùa xuân, xa mưa, xa quê hương, với môi thơm mùi thuốc, hàng cây bâng khuâng, tóc mưa còn ướt, hương trầm đọng ngực; bán tín bán nghi liệu người có ngậm ngùi nhớ về dòng sông trắng, ngóng trông bóng chim cuối rừng, có châm điếu thuốc, có đi trong mưa… Trần Mộng Tú đột ngột buông lời

“Người xa tôi gió cũng lặng thinh/Tôi rung nỗi nhớ ở quanh mình/Người như suối chảy qua rừng vắng/Cả một dòng sông đứng lại chờ”

Một nỗi nhớ như muôn ngàn nỗi nhớ bỗng thanh cao dịu ngọt bất ngờ. Âm hưởng này còn được thể hiện trong nhiều bài thơ tình khác của bà. Ở Trái tim hồng có một khoảng trống trong hồn như cây mùa thu đứng chờ lá vàng về phủ trăm năm; có tóc hờn giận chia nghìn sợi chờ người về đo dài đo ngắn; có tay thủy chung đáy túi cô đơn chờ ngón tay người; có giày con gái bỏ quên trong góc tủ, người không về chân chẳng muốn đi; có trán tương tư mùi thuốc, mắt nhạt màu, môi bớt đỏ suốt đêm thâu khóc nhớ… Để rồi

“Em sẽ chết với mảnh hồn trống đó/Chúa đứng đón em ở cổng Thiên Đàng/Xin trả Chúa trái tim hồng lãng mạn/Dưới thế gian con dại dột cho chàng…”

Gọi anh mùa xuân cũng là nỗi đợi chờ miên man bao dung ấy; nhưng ở cung bậc mới cho thấy một tình yêu phóng khoáng không tưởng của bà.

“Đã lâu quá anh không về gõ cửa/lồng ngực em. Trái đỏ vẫn còn nguyên/mùa xuân đến em lên đồi gọi gió/thả đam mê và buông những ưu phiền”.

Bà “mở áo cho xuân coi lồng ngực” – như “một trái tim như vườn cũ quê nhà, cành mai chiết tay ai còn in dấu”; như ngọn hải đăng “lửa sinh diệt thắp hoài không dám tắt” đợi chàng biệt tăm không biết bến bờ nào; như trầm quế đợi xông hương chờ “con chim nhỏ đã bay qua biển Bắc/ai tìm ai ngậm ngải giữa mù sương”…Vẫn là một mực thủy chung giữa mông lung thương nhớ.

Trần Mộng Tú hồn hậu trong tình yêu, kể cả nỗi “ngẩn ngơ” đầu đời. Bông hoa đỏ là một vết thương ngọt ngào như vậy. E sợ hương bay theo gió, bà gói đóa hồng vào lòng. Nào ngờ người đến đặt hoa như xuân không trở lại, khiến bà rơi lệ với vết thương của tuổi dậy thì trước khi lành lặn hồi sinh.

“Tháng năm tàn như mộng/Chảy một dòng sóng đời/Anh trở về đòi lại/Bông hoa anh bỏ rơi/ Anh ơi hoa đã héo/Vết thương xưa đã lành/Vuông lụa chồng em giữ/Không còn gì cho anh.”

Lòng nào như suối cạn cũng là một bài thơ cho thấy sự tinh tế của những cuộc chia tay buồn mà không oán hận. Như những nét chấm phá đối lập của một bức tranh quán nhỏ ngày xưa, ngày nay với giọt cà phê trên môi, giọt tình nồng trong mắt, nếp nhăn trên trán, sắc hồng trên má ngược chiều cùng những vết thương ngọt trong đời, bà khiến giọt tình cuồng trong mắt tan theo nỗi sầu đọng mãi trong lòng người đọc.

Dẫu vậy, tình yêu của bà luôn nồng nàn, ở mọi lúc, mọi nơi.

“Đang giữa hạ anh sắp về chưa nhỉ/Tháng sáu nghiêng vai nhớ một bàn tay/Em nghiêng tình rót đầy ly trong suốt/Ong có về nhỏ mật để cùng say” (Đang giữa hạ chim bay về đầy phố – 6/2015)

“đố anh trong tách trà buổi tối/có bao nhiêu ngụm trong tách trà/mỗi ngụm trà có bao nhiêu giọt/và giọt nào nhỏ xuống tình ta.” (Đố anh – 2014)

Hơn thế, tình yêu của bà lồ lộ một niềm hoan lạc lạ.

“em đến đó nhưng em không ở lại/anh tặng cho em những mảnh linh hồn/vai em nhỏ mảnh hồn anh sáng quá/em ngỡ em đang gánh một vầng trăng”

“vầng trăng sáng đan sợi vàng sợi bạc/em mê đi như ở giữa chiêm bao/trái tim em hoang mang trong lồng ngực/nhưng thân em thì lấp lánh đầy sao” (Đến)

Khát khao một cuộc tình trọn vẹn, bà lưu giữ tất cả những gì thuộc về chàng, từ sợi tóc bạc, trái tim, môi mắt, tay chân, hơi thở vào chính mình để được hiến dâng, hạnh phúc cùng chàng suốt đêm ngày, năm tháng.


“đôi mắt anh em giấu vào trong mắt/lệ riêng em trong suốt mắt hai ta/môi của anh em giấu vào trong miệng/ngậm hương thơm của một mối tình xa/bàn tay anh em giấu vào trong áo/ngực rất hiền nở vội một đóa hoa”

“hơi thở anh em giấu vào hơi thở/đời sống chia nhau từng sợi mong manh/mình hà cho nhau một linh hồn mới/Chúa sẽ kêu lên… thôi thế cũng đành.” (Giấu)

Đặt tình yêu sánh bằng tín ngưỡng, bà nguyện ước

“Chúa Phật đều từ tâm/Tình yêu như tín ngưỡng/Hãy rót vào đời nhau/Nước sông hằng vô lượng.” (Vẽ hộ em nét mày – 2009)

Nhưng chính người đàn bà hiền thục, đầm ấm, tươi tắn đó đã để lại cho dòng chảy thơ ca Việt một cuộc tình đau đớn không thể phai mờ. Quà tặng chiến tranh được biết đến như một dấu mốc sâu đậm nhất trong sự nghiệp thơ của Trần Mộng Tú. Nó là duy nhất chưa từng có, chí ít tại nền thi thơ Việt cho tới thời điểm này. Chúng ta từng có một Chinh phụ ngâm, một Màu tím hoa sim chẳng bao giờ phai nhạt. Nhưng chưa từng có một thi nhân viết về nỗi đau đớn này của chính mình theo một cách dị biệt như vậy. Dường như không phải bà đã viết ra, mà đang nghĩ về nó. Những ý nghĩ không âm thanh ấy tạc thành một bức tranh tĩnh vật với tất cả sự thực khủng khiếp giết chết hạnh phúc đẹp nhất của tình yêu ngay khi vừa đơm hoa kết nụ. Hoa hồng, áo cưới, tuổi ngọc, mắt vương nắng hạ, đông giá tuổi xuân của người con gái vừa làm vợ xuống mồ cùng chồng. Bội tinh, mùi máu, môi không cười, tay không nắm, mắt không nhìn, mảnh đạn di vật của người chồng trao lại vợ. Không nước mắt, không kêu gào mà sao tức tưởi tàn nhẫn. Không thêm, không bớt, tất cả chỉ là sự thật trần trụi, phũ phàng. Chiến tranh xé nát cuộc đời như hương như hoa của một người con gái vừa độ trưởng thành. Chiến tranh cướp đi một một ngôi nhà, một gia đình vừa được xây cất với bao mong chờ tương lai ngày mới. Nỗi đau này lấy đi nước mắt của người đọc, nhất là không ít những người phụ nữ mất chồng trong chiến tranh như bà ở cả hai đầu cuộc chiến. Hệt như điều bà rung cảm “Máu anh và máu địch/xin em cùng xót thương”.

Năm ấy bà mới 26 tuổi, cưới chồng được hơn 3 tháng, ở với nhau được 2 tuần nếu tính theo ngày. Nỗi đau không nước mắt đọng trong tim, trong tâm tưởng, chi phối bà cả suốt cuộc đời.

Trước Quà tặng chiến tranh, Trần Mộng Tú có một Buổi trưa Sài Gòn (1968) thấm nước mắt. Cầm trái tim bằng cả hai tay đi dưới cơn mưa đầy bong bóng nhớ về người lính mới đang cầm cây súng đen sì ở một nơi xa lắc Trà Bồng, lòng bà không ngừng tự hỏi

“Sao anh còn trẻ thế/Sao em còn trẻ thế/Sao tình yêu hai ta còn trẻ thế/Lại lăn vào/Một cuộc chiến già nua”

Sau Quà tặng chiến tranh, bà còn rất nhiều bài thơ về nỗi đau thương này.

“Không bao giờ em quên/trái tim anh lãng mạn/chỉ một bóng hình em giờ nhận thêm mảnh đạn” (Huyệt mộ)

Nỗi bi thương đó theo bà suốt 50 năm sống cuộc đời không súng đạn ở xứ Cờ Hoa. Bà Tạ tình với người chồng bởi giây phút hoảng loạn bỏ chạy không kịp tới mộ phần nói lời từ biệt.

“Hãy tha thứ cho em/Một đi không ngoảnh lại/Để sỏi đá mỏi mòn/Để cho anh ngóng đợi”/“Hãy tha thứ cho em/Núi sông ngàn cách trở/Tình đã phụ tình rồi/Xin đừng mong ngóng nữa” (Tạ tình)

Vết thương chiến tranh, vết thương di tản dù xảy ra ở bất cứ quốc gia nào, cho bất cứ dân tộc nào cũng là những vết thương khó lành nhất” là điều bà viết vào tháng Tư 2025. Là sự nhìn nhận sâu thẳm nhất sau một chặng đường 50 năm bà phải từ bỏ quê hương vì cuộc chiến ý thức hệ.

Bài thơ viết ở Pendleton, California là bài thơ bà viết về Tháng Tư khi vừa đặt chân lên đất nước Hòa Kỳ (21/4/1975). Đó là nỗi đau đớn bàng hoàng ở cả hai đầu đi và đến. Đi như mất tất cả, từ trời đất, quê hương, dân tộc, người tình đến dòng sông, sóng nước tang thương. Đến chỉ là hồn thất lạc, nghẹn ngào tiếng nấc gọi tên nhau trong áo khăn, chăn người tủi lạnh…

Bà đã chia sẻ, đã nói thay nỗi đau này với những người cùng cảnh ngộ vừa dạt trôi tới căn lều Tỵ nạn mới dựng lên.

“Khi tôi đi một mặt trời vừa rụng/ Một kinh thành vừa sụp đổ sau lưng/ Một quê hương vừa thở nhịp cuối cùng/ Một dân tộc vừa ly khai dân tộc”

Thời gian qua đi, nỗi đau vẫn không qua, dẫu đất trời, quê hương sông núi tưởng chừng tan biến vẫn còn ở đó

 “Tháng Tư/Tôi chạm/những ngón tay gầy trên tờ lịch/đếm thật chậm những con số/đếm thật chậm đời tha hương/Tụ rồi tan/Mỗi người rẽ một ngã/rẽ ngã nào cũng gặp Tháng Tư” (Tháng Tư có nhận ra tôi – 22/4/2023)

50 mươi năm sau

Sợi tóc nào vừa nhuộm/ Vẫn trắng với thời gian/ Giọt nước mắt nào tan/ Vẫn đầm đìa muối mặn”/“Một mai khi nằm xuống/ Cờ nào phủ thịt da/ Một mai khi nhắm mắt/ Ta có xót thương Ta” (Viết tiếp vào năm 50).

Bà còn thảng thốt đến mức

“tháng này không phải tháng ba/cũng chẳng phải tháng tư,/tại sao Huy chết”/“Tại sao Huy lại rơi/như tiếng rơi/của vỏ đạn tháng ba vào cùng tiếng lá thu/sao Huy gãy ngang như báng súng/ai bẻ Huy đâu mà Huy gẫy thế này” (Hỏi Huy, sao chết tháng này – 11/2010)

Như lời của chính bà, vết thương đau đến mức bà đem cả chồng con về nhà họ Thái. Sống trên đất nước có cây cầu nạm vàng, bà vẫn đau đáu nhớ về cây cầu bê tông, cầu khỉ quê nhà với dòng nước tan tác. Trăng xứ lạ cũng làm bà động lòng trắc ẩn.

“Tôi cúi xuống hồn tôi/nhặt mảnh trăng vừa vỡ/mảnh trăng nhòe trên tay/hạt lệ vàng nức nở” (Tôi cúi xuống hồn tôi – 30/7/2015)

Một con mèo sưởi nắng cũng khiến bà liên tưởng tới nỗi cô đơn trong lòng

“Mèo có góc sân nhỏ/Tôi có khung kính mờ/Hai ta cùng bé nhỏ/Niềm cô đơn vô bờ”/“Mèo ơi phơi trong nắng/Khô hộ tôi nỗi buồn/Quê xưa, người tình cũ/Vẫn ướt sũng trong hồn.” (Con Mèo cô đơn)

Quà tặng chiến tranh ghi dấu ấn của bà vào nền thi ca dân tộc. Bà có không ít bài thơ thuộc “nhánh” này. Nhân chứng, Mẹ, con và hoa cúc, Tháng 10 hoa cúc, Có phải tôi không, Tháng Tư quê tôi, Lòng nào như suối cạn, Phía Tây mặt trời lặn, Buổi trưa Sài Gòn, Chiều 30 quét lá, Hoa tai, Trăng xanh, Vàng thu… là những bức họa khiêm nhường phía sau, phía xa Quà tặng chiến tranh, cho thấy một Trần Mộng Tú biệt tài trong việc sử dụng hình ảnh thực, ngôn từ chuẩn xác để “vẽ” nên những bức bích họa thơ. Nó khiến cho người ta cùng lúc nhìn thấy, nghe thấy, cảm thấy điều bà muốn gửi gắm. Dường như bà chỉ muốn để sự thật tự lên tiếng. Có thể điều đó khiến cho thơ bà tĩnh lặng, từng trải ngay khi mới lộ diện mà vẫn giữ được tươi trẻ khi đã thành danh. Vẻ đẹp của thanh âm, đa chiều của ngữ nghĩa tiếng Việt cũng nhờ đó mà lộ diện. Khiến bà đứng riêng ra/Rực chất sáng của mình/Như khối tượng lân tinh/ngời ngời tiêu hủy lấynhư cách nói của Tô Thùy Yên.

Một bức họa như vậy cho nghiệp văn chương

“Tiếng sách rơi khô trong hạ/thả vào võng gió chênh vênh/một chút âm dư vương lại/cũng tan theo nắng, nhẹ tênh”

“Văn chương theo người thinh lặng/chữ nghĩa theo người bốc hơi/giấy mực theo người khô cạn/bạn ơi sách ơi… mây trôi” (Như tiếng sách rơi – 2/7/2012)

Một bức cho tình mẫu tử
“Con đốt một nén nhang/nghe hồn mình cháy đỏ/ôi tàn tro nhỏ nhoi/bay về đâu theo gió
Mẹ đã bước ra đây/ngồi bên con một lúc/cả con và hoa cúc/cùng được Mẹ cầm tay.”
(Mẹ, con và hoa cúc – 14/10/2015)

Thêm một bức cho các bé gái tới khi phơ phơ đầu bạc chốn thôn quê không biết có bao nhiêu chiều 30 quét lá sân nhà, mà không biết mình đã quét đi cả giây phút thi nhân
“Lá ơi lá cứ rụng/chổi ơi chổi cứ xoay/gió ơi gió cứ thổi/tình ơi tình cứ bay”
“nhát chổi thay nét bút/đăm đắm chiều ba mươi/vạch một đường hư ảo/giữa thơ và đất trời”
(Chiều 30 Giáp Ngọ)

-Nguyễn Nguyên-

Người đàn bà thi sĩ Việt Nam dường như là một tổng kết về tâm trạng ấy. Cuộc đời thi sĩ của bà bắt đầu bằng tiếng khóc oe oe trên chiếc xe bò chở gia đình bà rời Hà Nội tránh làn đạn giặc Nhật. Để rồi, từ bỏ quê nội Nam Định, quê ngoại Thanh Hóa, nơi sinh Hà Đông, gót son tuổi thơ bà dạt trôi không ngừng nghỉ theo ngả đường Thái Bình, Hải Phòng, Sài gòn. Để rồi người đàn bà thi sĩ Việt Nam ấy bỏ lại quê hương, bỏ lại mối tình được gắn bội tinh, gói trong quốc kỳ nơi mộ huyệt. Bà di tản trước ngày 30/4, không phải chịu cảnh thuyền nhân tang tóc. Bà có một cuộc sống êm đềm với chồng con trên đất Hoa kỳ “Chồng yêu vợ, mẹ yêu con”, ngày ngày chồng đi làm, con đi học, bà “ở nhà nấu ăn, làm bánh, làm thơ”. Bà cũng thấy mình hạnh phúc.

“Nhưng sao lòng vẫn không vui/ Vẫn thấy nhớ/Vẫn thấy thương/Một điều gì/Ở chốn rất xa xôi/Và đêm đêm/Hồn vẫn thả trôi về quá khứ/Tôi người đàn bà thi sĩ Việt Nam/Đang sống đời biệt xứ”

Trần Mộng Tú còn có nỗi đau của một người nhìn thấy những trang sử “viết trên xác chết” của một cuộc chiến ngàn đời không đáng có. Cuộc chiến dẫn đến một “đám tang mẹ già/hải tặc là phu đám/biển xanh là mộ sâu”; “Chàng chết chưa kịp thấy/Vùng Đất Hứa Tự Do/Mắt hãy còn mở lớn/Đại dương đã là mồ”; những thân phận đàn bà tủi nhục“Gọi tên chồng lần cuối/Ôi ngọc nát vàng son” (Nhân chứng)

Nỗi đau Quà tặng chiến tranh khiến cho trái tim bà không chỉ xót thương mình, thương tộc Việt, mà còn thương bất cứ dân tộc nào rơi vào cảnh thịt nát xương rơi.

“Tháng Tư/Tiếng đạn ở Ukraine/tiếng khóc ở Ukraine/sao giống tiếng đạn ở quê mình/sao giống tiếng khóc ở quê mình/những trái tim chảy máu/sao trông rất giống trái tim mình” (Tháng Tư có nhận ra tôi – 22/4/2023)

Chứng kiến vụ khủng bố tòa nhà thương mại ngày 11/9/2001 tại Hoa kỳ, bà muốn đòi lại người mẹ trẻ cho đứa con thơ chờ đợi nơi cổng trường, người con trai duy nhất người mẹ luôn giữ trong lòng, cô con gái xinh đẹp cho người yêu hẹn tới, người cha cho đứa con có câu hỏi đang chờ, người vợ, mẹ của đàn con ngóng đợi trong căn bếp, người chồng kính yêu linh hồn của cả gia đình …

“Tôi sẽ trả lại anh/Con dao không có lưỡi/Súng không đạn trong nòng/Bàn tay không nắm đấm/Tôi sẽ trả lại anh/Tình yêu cho nỗi ghét/Băng bó cho vết thương/Đắp bồi cho mảnh vỡ/Và rồi anh sẽ có/Một trái tim an bình” (Trả lại cho tôi – 26/9/2001)

Bà xót thương những người đàn bà, đàn ông, người già, em bé bỏ chạy khỏi cuộc chiến Syria không tránh được chết thảm trên con đường tìm miền đất hứa.

“xác thân đã nẫu chín/thành nước và bốc hơi/ứa ra cùng hy vọng/nhỏ giọt xuống mặt đường/giọt chảy như giọt lệ/ướt sũng thềm lưu vong”;

“những thân xác da đen, nhuộn đen vùng biển mặn, cánh tay nào giơ lên, vẫy vào bờ tuyệt vọng”. (Vết thương nội chiến – 30/8/2015)

“Người di tản/của bất cứ quốc gia nào/trái tim cũng mất dần từng mảnh/nên khi chết/họ chết với một trái tim không nguyên vẹn./Có người chết/với lồng ngực rỗng/họ mất nguyên cả trái tim” (Tháng Ba và Tháng Tư ở đây – Vào xuân 20/3/2023)

Nhưng nỗi đau đã giúp bà nhận ra sự thật.

“Những cường quốc mang ân huệ của mình/rắc trên những mảnh đất chiến tranh/Họ chẳng cho không bao giờ/Họ lấy về hơn cả những gì họ mặc cả”

“Và những điều này/cả thế giới đều biết/cả anh và em đều biết/Biển và núi
hạt cát/những viên sỏi/muông thú/chúng đều biết hết”

“Chúa và Phật nhìn nhau/rồi cả hai cùng nhắm mắt/Chúa có hối hận vì đã sinh ra loài người/Phật có hối hận vì đã bao bọc chúng sinh” (Chỉ có thượng đế biết –9/3/2025)

Chúa và Phật cùng nhắm mắt, nhưng chắc hẳn Chúa và Phật không hối hận đã sinh ra và bao bọc chúng sinh. Bởi các Ngài đều biết con người cũng cần đi qua những khốn khổ, oan khiên, lầm lạc để thấu hiểu đạo sống. Không ngẫu nhiên “cánh chim giang hồ” Phạm Duy bay suốt một vòng đã quay về cố quốc với những trường ca bất hủ nhất đời mình. Ông trở về với Đàn chim Việt thảnh thơi thả hồn lên bầu trời với lời ca nồng nàn hào sảng, trong trẻo ân tình về dân tộc, non sông đất nước, tiếng Việt thiêng liêng. Bằng những ngôn từ đẹp nhất, Trần Mộng Tú đã gửi tri ân vào thời khắc ông thanh thản ra đi. Ông đã được “sống và chết trên quê hương, nước Việt Nam”.

50 năm qua biết bao người con di tản từ ngày tháng Tư năm ấy đã trở về quê hương tìm lại cha mẹ; bao cựu chiến binh Hoa Kỳ trở lại Việt Nam tìm mối tình đầu, tìm đứa con chưa từng biết mặt, tìm ân nhân cứu mạng trong cuộc chiến… Họ trở thành những người nỗ lực nhất trong cuộc hòa giải người Việt với người Việt, người Mỹ với người Việt và hai quốc gia cựu thù trở thành đối tác cùng phát triển như ngày hôm nay.

Cuối thu năm 2000, Trần Mộng Tú đã “Chia nhau Hà Nội” với tình yêu của mình. Bà đã không quên những gì đã làm nên hạnh phúc tuổi thơ – chiếc lá bàng cuối thu, hồi chuông giáo đường tinh mơ sáng, tơ tằm mới dệt giăng từ Hàng Đào đến phố Hàng Bông, ly cà phê buổi tối, mùi ngô non nướng dưới cột đèn, chiếc kiềng nạm bạc phố Hàng Gai giống hệt chiếc kiềng mẹ đeo trong ảnh nhiều năm trước… Giữ cho mình“những con ngõ hẹp/những bàn chân vội vã/ giẫm lên nhau/những cánh cửa/ bàn tay ai quên mở/rặng sấu già nua/vẫn lặng lẽ cúi đầu”; bà gửi cả đất trời, cả trái tim Hà Nội để người yêu cất “vào chỗ giấu trái tim em”. Hà Nội mà Trần Mộng Tú muốn được cất giấu cùng trái tim mình vẫn ở đó, nơi cư ngụ muôn đời tộc Việt hình chữ S vẫn ở đó, thấu hiểu tiếng lòng từ những bài thơ chân thành cảm xúc của bà.

Tiếng thơ dung dị ngỡ ngàng của bà đã góp vào nền thơ ca Việt một sắc thái khó phai mờ bởi một cuộc chiến đau thương không bao giờ phai mờ trong tiến trình hoàn thiện vóc dáng dân tộc Việt.

Hà Nội, 5/2025

 

Thứ Tư, 4 tháng 6, 2025

Nghĩ lòng vòng

 Phạm Quang Long

 

Khi nhà xuất bản thông báo sẽ bỏ bài viết phê phán sự dối trá đang tràn lan trong đời sống khỏi cuốn sách tôi đưa in (cùng một vài bài khác), nếu không sẽ không in, tôi hơi buồn. Buồn vì nhà xuất bản thứ nhất không in với lời phê “không in vì động đến những vấn đề nhạy cảm” và lần này biên tập bắt cắt đi những bài, đoạn “nhạy cảm”. Tôi thấy chữ “nhạy cảm” ở đây như chiếc áo khoác để giấu đi một thái độ không chấp nhận cái khác, chứ chả nhạy cảm chút gì. Tại sao biên tập nhìn thấy ở bài viết ấy những tác động tiêu cực? Buồn vì sao người ta không dám đối diện với thực tế phũ phàng; buồn vì đâu phải cứ coi như những cái xấu, cái ác không có trên thế gian này thì nghĩ chúng không tồn tại; buồn vì mỗi khi có người lên tiếng cảnh tỉnh một điều gì đó “nhạy cảm” là người ta vội phanh lại ngay, thậm chí gán cho họ cả những tội, lỗi không có? V.v. và v.v.