Người phụ trách Văn Việt:

Trịnh Y Thư

Web:

vanviet.info

Blog:

vandoanviet.blogspot.com

Danh ngôn

Trong mọi cộng đồng, chúng ta cần một nhóm thiên thần gây rối.

We need, in every community, a group of angelic troublemakers.

(Bayard Rustin – trích bài phát biểu tại New York City 1963)

Trong mọi trường hợp, chắc chắn rằng sự thiếu hiểu biết, đi kèm với quyền lực, là kẻ thù tàn bạo nhất có thể có của công lý.

It is certain, in any case, that ignorance, allied with power, is the most ferocious enemy justice can have.

(James Baldwin - No Name in the Street 1972)

Các cuộc cách mạng và các cá nhân có thể bị giết hại, nhưng bạn không thể giết chết các ý tưởng.

While revolutionaries and individuals can be murdered, you cannot kill ideas.

(Thomas Sankara, một tuần trước khi bị ám sát, 1987)

Không có cảm giác nào cô đơn hơn việc bị chính đất nước mình trục xuất.

There's not a more lonely feeling than to be banished by my own country.

(Kiyo Sato – Kiyo’s Story 2009)

Ban Biên tập

Địa chỉ liên lạc:

1. Thơ

tho.vanviet.vd@gmail.com

2. Văn

vanviet.van14@gmail.com

3. Nghiên cứu Phê Bình

vanviet.ncpb@gmail.com

4. Vấn đề hôm nay

vanviet.vdhn1@gmail.com

5. Thư bạn đọc

vanviet.tbd14@gmail.com

6. Tư liệu

vanviet.tulieu@gmail.com

7. Văn học Miền Nam 54-75

vanhocmiennam5475@gmail.com

Tra cứu theo tên tác giả

Thứ Tư, 26 tháng 11, 2025

Vài cảm nghĩ về truyện ngắn của một cây bút mới: Ái Điểu

 Trần Doãn Nho

Ái Điểu

(Hình: Facebook)

Một bạn văn của tôi, anh Nguyễn Lệ Uyên, gửi cho tôi một số truyện ngắn của một cây bút mới, tên tuổi còn xa lạ với văn đàn, cả trong lẫn ngoài nước: Ái Điểu. Truyện, hầu hết, đều từ ngắn đến rất ngắn. Dài nhất đếm được 2500 chữ và ngắn nhất chỉ có 174 chữ; số còn lại thì khoảng 1500 chữ, 1200, 1150, 880… rồi thì là 239, 226 chữ. Có thể tạm xếp chúng vào  loại “truyện rất ngắn” (very short story) hay “truyện chớp” (flash fiction).

Truyện Ái Điểu, được biết, xuất hiện đều đều trên Facebook (FB), một trong những trang mạng xã hội phổ biến nhất hiện nay. FB – cõi ảo – không chỉ là nơi người ta dùng để phản ảnh các hiện thực xã hội, mà lắm khi, nó còn hiện-thực-hóa chính nó. Người ta đọc, nghe, nhìn, tham gia, tương tác với nhau một cách trực tiếp, sống động. Rốt cuộc, ảo mà thực, thực trong ảo. Chả thế mà, công bố sáng tác (hay sáng tác ngay) trên FB dần dà trở thành nét đặc trưng thời kỹ thuật số, tạo thành một loại văn chương mới, “văn chương FB”, như một nhà nghiên cứu văn học có lần đã mệnh danh. Vô hình trung, FB trở thành một tạp chí tự tạo, nơi chủ tài khoản cũng là chủ biên kiêm chủ bút đồng thời là cộng tác viên. Độc giả – đối tượng của sáng tác – luôn luôn có sẵn, đa dạng và… vô tận. Tải lên là có ngay độc giả, có ngay phản hồi, khác hẳn với cái vắng lặng buồn tẻ của các tạp chí văn chương chuyên nghiệp. Chẳng lạ gì, nhiều tác giả, kể cả những cây bút thành danh, đã sử dụng FB như một diễn đàn văn chương, liên tục công bố những sáng tác ngắn, gọn, tức thời của mình. Thơ, văn đã rồi; mà còn cả nhận định hay phê bình văn học. Tôi không dùng FB, chỉ thỉnh thoảng ghé vào xem ké FB của người trong nhà, do đó, không có kinh nghiệm gì về sinh hoạt này. Tương lai của hình thức sáng tác này sẽ đẩy văn chương về đâu, chưa biết, nhưng nó đã hiện hữu, càng ngày càng hấp dẫn, thu hút đông đảo người đọc và người gõ.

Trở lại với Ái Điểu.

Trước hết, một trong những đặc điểm của văn Ái Điểu nằm ở ngôn ngữ và cung cách diễn tả: gọn gàng, dễ hiểu, cụ thể. Nhiều chỗ, truyện chẳng khác gì những ghi chép sống. Có sao nói vậy, không thêm mắm dặm muối, không bóng bẩy, màu mè, không ẩn dụ. Lại không ứng dụng (và lạm dụng) một vài thủ pháp viết lách thời thượng để “chứng tỏ” mình, như dòng ý thức, phân mảnh, phi tuyến tính, vân vân. Cũng không phân tích tâm lý dài dòng, hay  triết lý làm dáng. Sự kiện, khung cảnh và đối thoại chiếm lĩnh phần lớn không gian truyện.

Đọc thử vài trích đoạn trong Sấm ký, một trong những truyện có cấu trúc khá lạ.

Mô tả cuộc hẹn hò giữa một ông cao niên và một đứa con gái trẻ, Ái Điểu viết:

Con Liễu đem ly líp-tông cho ông Chiến. Ông lén khèo nhẹ vào tay nó, nói: Cưng lấy cho hộp khăn giấy.

Con Liễu nói: Dạ. Mà trong đầu nó nghĩ: Rồi, có chuyện rồi.

Đúng như nó đoán. Khi về đến chỗ pha chế, nó nhận tin nhắn của ông Chiến: Bốn giờ chiều nay đến Hoa Lan nghen cưng.

Nó trả lời: Ba giờ ba mươi nghen. E mắc đi làm. A đến đó rồi nhắn cho e số phòng. E đến liền.

Ông Chiến bấm nhanh: OK.” (Sấm ký)

Một kiểu hẹn hò vô cùng “thời đại”: nhanh, gọn, khỏe và… văn minh.

Rồi sao nữa?

“Cũng nhanh thôi, hơn ba mươi phút thì xong việc. Ông Chiến vội vã mặc đồ, nói: Anh đi trước, cưng chờ anh đi khỏi rồi mới đi nghen.

Con Liễu nói: Dạ.

Ông khách nào cũng như nhau, hết cơn ham thích đều muốn đi nhanh để khỏi bị thấy mình ăn chơi” (Sấm ký).

Rồi sao nữa?

Con Liễu còn trần truồng thì có tiếng báo tin nhắn. Tin nhắn của anh Chinh, con ông Chiến [...] Con Liễu vào phòng tắm xả nước cho trôi hết mùi người nhơ nhớp cơ thể [...] Tắm xong, con Liễu không mặc áo quần. Như vậy cho đỡ mất thời gian, vì nó còn suất làm chiều ở quán nhậu” (Sấm ký).

Cha hẹn gái xong đến con hẹn gái; gái ngủ với cha xong rồi ngủ với con. Chữ nghĩa tỉnh queo, nhân vật tỉnh queo. Tính cách này, tự nó, là ý nghĩa. Ý nghĩa tiềm ẩn trong sự kiện.

Mô tả tính cách của một nhân vật cũng thế, Ái Điểu phác thảo một số nét tiêu biểu:

Thường lệ, từ ngày về hưu, cứ đúng năm giờ ba mươi phút sáng ông Dư đạp xe đến quán cà phê con Ba Bốc. Ly cà phê đen mười hai ngàn. Rẻ, đương nhiên là không ngon. Nhưng ông Dư tìm thấy cảm giác của thời trai trẻ. Một mình giữa nhiều người, độc lập nhưng không lẻ loi. Kiểu lãng tử ông thích mà không được sống. Thỉnh thoảng ông có nhìn trộm khe ngực của con Ba Bốc, khi nó vô tình để hở lúc cúi xuống. Chỉ vậy thôi, ông không có cử chỉ hay lời lẽ nào thiếu đứng đắn.” (Nơi đất lành chim đậu)

Thỉnh thoảng, cô đẩy hiện thực lên một tầng mới, mờ mờ ảo ảo, nhuốm đôi chút  không khí “hiện thực hoang đường” (magical realism) trong văn chương Tây Ban Nha:

Người xà ích đội cái mũ bèo nhèo che kín mặt. Xe chở một bà mụ đỡ đẻ. Bà giống y như mụ phù thuỷ trong truyện cổ tích. Bà nhai trầu. Nước trầu chảy leo ra khoé miệng. Bà đưa hai ngón tay quệt. Tay và môi bà dính màu đỏ máu bầm. Chiếc xe ngựa bánh gỗ cũ mệt mỏi, chậm chạp lăn vô tận trong cõi vô minh. Qua những đoạn đường đá núi, những cồn cát gió bay, những vũng sình lầy trơn trợt, những vực thẳm nằm giữa trời và biển [...] Chiếc xe ngựa cũ kỹ ngày nào lướt trong mây trắng bồng bềnh, dừng ở cửa sổ tầng chín. Bánh xe gỗ chậm rãi quay đều”  (Bốn đoạn ngắn về một người đàn bà).

Giữa những mô tả trông rất bình thường, đôi khi, ta bắt gặp một nhận xét bất ngờ, như một tia chớp xẹt ngang giữa bầu trời yên tĩnh, khiến ta giựt mình, ngừng đọc và suy gẫm:

Làng đã có nhiều đàn ông. Họ về từ chiến tranh, từ cõi chết. Người làng không phân biệt chiến tuyến. Tất cả đều là con của làng. Có người mất tay, chân. Có người câm, điếc. Có người mất trí. Có người u uất, lạc lõng trong bình yên. Những người lính thực thụ không muốn kể lại những chiến công. Chỉ có người không còn lương tri mới hân hoan thành tích sát nhân của mình” (Bốn đoạn ngắn về một người đàn bà).

Vâng! “Chỉ có người không còn lương tri mới hân hoan thành tích sát nhân của mình.” Một nhận định, mà cũng là một lời kết án. Nhất là đối với bộ máy tuyên truyền, ngày đêm ra rả kể chuyện chiến công, anh hùng, chẳng để làm gì, ngoài mục đích đánh bóng cho kẻ cầm quyền.

Cũng có khi, giọng văn nghe rất chân tình, nhưng ẩn giấu nét trào lộng:

Thầy cuốn tôi dâng cao theo tâm trạng của Katia, Dasa, Rotsin… trên Con đường đau khổ. Thần tượng Paven Coocsaghin qua Thép đã tôi thế đấy rực sáng ngọn lửa soi đường cho tôi. Ăn cơm độn, mặc áo vá là chuyện tầm thường; chúng tôi không nghĩ đến. Chúng tôi vui sống trong hào quang của lý tưởng cao cả. Mọi người bình đẳng, giống nhau trong sự thiếu thốn vật chất. Nhiều đứa bạn còn tự hào về cái nghèo của gia đình mình. Con người có hạnh phúc bằng ảo tưởng. Sau này, khi sống gần với những người nghiện tôi thấy họ sảng khoái khi có ảo giác nhờ chất kích thích. Tuổi trẻ chúng tôi cũng có niềm vui sống qua ảo ảnh của một thế giới bình đẳng, hạnh phúc trong tương lai. Tôi như ngọn cỏ khô, cháy lên những ngọn lửa ước mơ. Như đoá hoa hoang dã hé nụ đợi chờ. Đến bây giờ, tôi vẫn thấy đó là những ngày tháng êm đẹp nhất đời mình” (Mộ phần của những ngọn lửa nhỏ).

Ai đã từng sống qua thời “ăn cơm độn, mặc áo vá”, nhưng lại “vui sống trong hào quang của lý tưởng cao cả” nhờ những tác phẩm Con đường đau khổThép đã tôi thế ấy đầy mùi vị Nga Xô-Viết ngày nào, nhất định không thể không chia xẻ cảm giác “những ngày tháng êm đẹp nhất đời mình”, nghe rất trái khoáy, này cùa Ái Điểu.

Mặt khác, tuy không nằm trong ngôn ngữ, nhưng ẩn dụ lại thấp thoáng xuất hiện trong câu chuyện, trong sự kiện, và trong cách kể chuyện, khiến văn chương Ái Điểu có lúc  mang tính chất ngụ ngôn. Văn, ở đây, pha trộn giữa thực và ảo. Người không có dấu chân chẳng hạn. Truyện mở đầu như sau:

Sanh ra, ông Dư đã mang một điều rất lạ là khi đi, chạy, đứng – bằng đôi chân trần – ông đều không để lại dấu chân. Không ai chú ý, biết sự dị thường này; kể cả ông. Vì con người thời nay mang giày, dép. Dụng ý ban đầu giày dép là để bảo vệ chân, sau đó vì nghi thức và làm dáng. Đôi khi có đi chân trần nhưng người ta không bao giờ nhìn xuống hoặc quay đầu nhìn lại coi mình có để lại dấu chân không? Mà dấu chân khô khan, chai sần chỉ cần một cơn gió đã thổi bay. Dấu chân đẫm ướt mồ hôi, máu bom đạn, cát bụi phong trần cũng lau khô mất dấu tích thôi mà.”

Ngoài đặc điểm “không có dấu chân”, ông Dư là người bình thường.

Về hưu với chức phó phòng cấp huyện, ông làm một chuyến thăm quê. Một hôm, trên đường trở về từ nghĩa trang, thấy thằng bé dẫn đường – mà ông tưởng là một đứa cháu trong họ - để lại “những dấu chân trần nhỏ nhắn in trên con đường phù sa ẩm nước,” ông Dư mới khám phá ra là, ông chẳng hề để lại  dấu chân như nó; không những thế, sau đó, ông cũng mới hay rằng, thằng bé chỉ là bóng ma. Ấy thế mà, trong tang lễ của ông diễn ra ba tháng sau, một đại diện trong hội người cao tuổi, khi đọc điếu văn, có đoạn ca ngợi ông Dư có nhiều công lao to lớn khi còn công tác, và nhắc nhở, “Thế hệ sau nên theo dấu chân ông mà đi.”

Một kẻ không có dấu chân, thì lấy gì để người sau (noi) “theo dấu chân”?

Trong truyện, Ái Điểu không tự hỏi như thế, nhưng lại kết luận bằng một “Lời ngoài truyện”: “Các bạn đọc quý mến của tôi có khi nào xem thử mình có dấu chân hay không?”:

Đề tài lạ. Câu chuyện lạ. Kết thúc cũng lạ. Cái tưởng ảo thì là thực; ngược lại, cái tưởng thực thì hóa ra ảo. Nghịch lý này không khó tìm thấy trong cuộc sống nháo nhào hiện nay ở Việt Nam. Người không có dấu chân ngắn, gọn, đơn giản, nghe có phần hoang đường, nhưng lại vô cùng thời sự!

                                                                        *

Ái Điểu sinh năm 1980 tại Ninh Thuận, hiện sống ở Châu Đốc. Viết truyện ngắn và làm thơ.

Ngoài một số bài thơ và truyện ngắn  xuất hiện trên trang Văn Việt, hầu hết các sáng tác đều được đăng tải trên Facebook của mình. Chưa có tác phẩm xuất bản.

T. D. N.

(11/2025)