Người phụ trách Văn Việt:

Trịnh Y Thư

Web:

vanviet.info

Blog:

vandoanviet.blogspot.com

Danh ngôn

Trong mọi cộng đồng, chúng ta cần một nhóm thiên thần gây rối.

We need, in every community, a group of angelic troublemakers.

(Bayard Rustin – trích bài phát biểu tại New York City 1963)

Trong mọi trường hợp, chắc chắn rằng sự thiếu hiểu biết, đi kèm với quyền lực, là kẻ thù tàn bạo nhất có thể có của công lý.

It is certain, in any case, that ignorance, allied with power, is the most ferocious enemy justice can have.

(James Baldwin - No Name in the Street 1972)

Các cuộc cách mạng và các cá nhân có thể bị giết hại, nhưng bạn không thể giết chết các ý tưởng.

While revolutionaries and individuals can be murdered, you cannot kill ideas.

(Thomas Sankara, một tuần trước khi bị ám sát, 1987)

Không có cảm giác nào cô đơn hơn việc bị chính đất nước mình trục xuất.

There's not a more lonely feeling than to be banished by my own country.

(Kiyo Sato – Kiyo’s Story 2009)

Ban Biên tập

Địa chỉ liên lạc:

1. Thơ

tho.vanviet.vd@gmail.com

2. Văn

vanviet.van14@gmail.com

3. Nghiên cứu Phê Bình

vanviet.ncpb@gmail.com

4. Vấn đề hôm nay

vanviet.vdhn1@gmail.com

5. Thư bạn đọc

vanviet.tbd14@gmail.com

6. Tư liệu

vanviet.tulieu@gmail.com

7. Văn học Miền Nam 54-75

vanhocmiennam5475@gmail.com

Tra cứu theo tên tác giả

Chủ Nhật, 17 tháng 8, 2025

Bút kí của Leonardo da Vinci (10)

 Hà Vũ Trọng dịch

Nguyên văn: The Notebooks of Leonardo da Vinci do Irma A. Richter biên tuyển, Ấn quán Đại học Oxford, 1991.


II. SO SÁNH CÁC MÔN NGHỆ THUẬT

1. Hội hoạ, âm nhạc, và thơ ca

Tài năng thực hành nhiều môn nghệ thuật của Leonardo đã dẫn ông tới viêc so sánh những điểm dị đồng của chúng, và khả năng này đào sâu nhận thức về những phẩm chất ưu việt trong lãnh vực hội hoạ. Ông thách thức sự phân loại theo truyền thống kinh viện về tri thức con người căn cứ vào đó bảy môn Nghệ thuật Tự do thể hiện hình thức tối cao thành quả con người. Thơ và Âm nhạc đều bao gồm trong các môn này; thế nhưng Hội hoạ bị hạ tầng cùng với “Nghệ thuật của Cơ giới” hoặc các nghể thủ công vốn bao gồm lao động tay chân đủ các loại và bị coi là thấp kém.  

Thơ tương tự âm nhạc, trong đó những âm tiết của ngôn từ tương đương với những nốt nhạc. Cả thi cú lẫn thanh âm đều diễn tiến qua thời gian theo sự hình thành tiết nhịp. Mặt khác, người hoạ sĩ không tự thể hiện bằng những lữ luật tiết điệu của thời gian nhưng y có thể truyền tiết điệu vào trong những đường nét của hình thể. Plutarch từng so sánh những đường nét với sự vận động tiết điệu: “Vũ đạo tương tự với những đường nét xác định hình thể – Vũ đạo giống thơ vô ngôn, trong khi thơ giống vũ đạo của ngôn từ”.

Tuy nhiên, tiết điệu được coi là thứ yếu. Chính sự kết hợp hài hoà, sự biến hoá của cao độ (pitch), dường như quan trọng hơn cả đối với Leonardo. Nghệ thuật của hoạ sĩ tương tự với nghệ thuật của nhạc sĩ trong đó những tỉ lệ cân đối tương đương với những biến thiên của cao độ trong âm điệu. Những tỉ lệ cân đối ưu mĩ trong âm nhạc tương tự một hợp âm với những nốt khác nhau ngân lên đồng thời. Những hoà âm đồng thời này cho con người khoái cảm mãnh liệt. Ở đây, nghệ thuật thơ bị khiếm khuyết, vì nó không thể đồng thời vang lên mỗi lần hơn một nốt. Theo những cứu xét này thì hoà âm và tiết tấu vượt qua những giới hạn của một nghệ thuật. Chúng đáp ứng lại cảm xúc với cái đẹp trong chính hữu thể của chúng ta và tự phơi mở dưới nhiều lốt khác nhau tuỳ theo điều kiện của mỗi môn nghệ thuật. “Bạn có biết rằng linh hồn chúng ta được soạn bằng sự hoà âm”. 

Hoạ sĩ là chúa tể của tất cả mọi loại người và vạn vật.[5] Nếu hoạ sĩ muốn cho nhìn thấy những vẻ đẹp mê hồn, thì việc này nằm trong quyền năng của y sáng tạo nên, còn nếu y muốn nhìn thấy những vật quái dị thật ghê sợ, hài hước hoặc lố lăng, hoặc đáng thương, y có thể là chúa tể và là vị thần của những thứ đó; nếu y muốn sản sinh ra những vùng đất có người hoặc sa mạc hoặc những nơi tối tăm và rợp bóng để tránh cái nóng, hoặc những nơi ấm áp trong thời tiết lạnh lẽo, y có thể làm được. Nếu y muốn những thung lũng, và từ những ngọn núi cao mở ra một đại bình nguyên trải xuống tận chân trời ngoài biển, y là chúa tể có thể thực hiện được; cũng thế, nếu từ những bình nguyên thấp y muốn nhìn thấy những quả núi cao... Thực sự, bất kể những gì tồn tại trong vũ trụ, trong bản chất, trong ngoại hình, trong trí tưởng tượng, người hoạ sĩ trước tiên nảy ra trong đầu óc và sau đó dùng bàn tay biểu hiện; và những khả năng vượt trội này, chúng có thể thể hiện một cái nhìn cân đối và hài hoà về cái toàn thể, điều này có thể thấy đồng thời, thoáng nhìn, hệt như vạn vật trong tự nhiên.

Ai khinh miệt hội hoạ thì cũng không yêu triết học và tự nhiên. Nếu bạn khinh miệt hội hoạ vốn là kẻ mô phỏng duy nhất mọi tác phẩm hữu hình của tự nhiên, tất bạn sẽ khinh miệt một phát minh tinh tế vốn đem lại triết học và sự khảo sát tinh tế liên quan tới tính chất của tất cả hình thái – biển và lục địa, thực vật và động vật, hoa cỏ, vốn bao bọc trong bóng tối và ánh sáng. Hội hoạ đích thực là một khoa học, là đứa con nòi của tự nhiên, vì hội hoạ sinh ra từ tự nhiên, hay đúng hơn ta có thể gọi nó là cháu của tự nhiên; bởi vì mọi vật hữu hình đều do tự nhiên sinh ra và lũ con này của tự nhiên đã đẻ ra hội hoạ. Vì thế chúng ta có thể nói một cách chính đáng rằng hội hoạ là cháu nội của tự nhiên và tương thân với Thượng đế.[6]

Hội hoạ không thể dạy cho những người thiếu tư chất, không như toán học, người thầy dạy bao nhiêu học sinh tiếp thu chừng ấy. Hội hoạ không thể sao chép như những con chữ mà bản sao có cùng giá trị như nguyên bản. Nó cũng không thể khuôn đúc như trong điêu khắc với vật đúc ra có cùng chất lượng với nguyên bản; nó không thể tái chế tạo một cách vô hạn như trong việc in ấn sách.

Hội hoạ vẫn giữ tính cao quý vô song của nó; riêng nó đem danh dự cho tác giả của nó, và duy trì tính độc đáo và quý giá; nó chẳng bao giờ đẻ ra dòng dõi nào sánh bằng với nó; và tính đơn độc này khiến nó vượt trội lên những khoa học được công bố khắp nơi. Chúng ta không thấy hay sao, những hoàng đế phương Đông ngự hành khi che mặt và phủ kín bởi vì họ nghĩ rằng thanh danh họ có thể bị giảm sút khi phô bày bản thân ra công cộng và dung nhan của họ bị lộ ra. Chúng ta không thấy hay sao, những bức tranh miêu tả Thượng đế thường xuyên được che đậy dưới những lớp vải vóc đắt giá và trước khi chúng được mở ra trong những nghi lễ trọng đại của giới tu sĩ cử hành cùng với ca xướng theo những nhạc điệu của nhạc khí; và vào khoảnh khắc phơi mở hình tượng thì những đám đông lớn quần tụ ở đó và phủ phục xuống mặt đất để thờ phụng và khẩn cầu tới Ngài và hình ảnh của Ngài được hiện thân để phục hồi sức khoẻ và cho họ sự cứu rỗi vĩnh hằng, như thể Thượng đế đích thân có mặt. Những thứ tương tự không xảy ra với bất kì tác phẩm nào khác của con người; và nếu bạn khẳng định rằng nó không bởi vì công trạng của ngưởi hoạ sĩ mà chẳng qua là chủ đề miêu tả, thì ta có thể trả lời, nếu đúng như vậy, thì con người có thể cứ bình tĩnh ở trên giường để cho trí tưởng tượng của họ được thoả mãn, thay vì đi tới những nơi mệt nhọc và hiểm nghèo như chúng ta thấy họ thực hiện không ngừng trong những cuộc hành hương. Vậy điều gì thúc đẩy những con người này tiếp tục hành hương? Chắc chắn bạn sẽ đồng ý rằng hình ảnh của Thượng đế là nguyên nhân và không có khối lượng viết lách nào có thể sản sinh ra một hình ảnh sánh bằng vừa về hình thức vừa về sức mạnh. Vì thế, gần như Thượng đế yêu một bức hoạ và yêu những người tôn thờ và sùng kính nó và ngài hoan hỉ được thờ phụng theo cách này hơn dưới một hình thức khác của sự mô phỏng; và ban ân điển và giải thoát qua nó tuỳ theo niềm tin của những kẻ tập hợp ở những địa điểm như thế.

Âm nhạc có thể gọi là em gái của hội hoạ, vì âm nhạc phụ thuộc vào thính giác, cảm quan thứ hai,[7] và hoà âm được cấu thành bằng sự kết hợp những phần cân xứng vang lên đồng thời, bổng và trầm bằng những tiết điệu hài hoà. Những tiết điệu này có thể nói là viền quanh tính cân đối của những phần hợp thành sự hoà âm, hệt như đường nét bao quanh những thành phần tạo nên vẻ đẹp của nhân thể.

Nhưng hội hoạ vượt trội và cao hơn âm nhạc, vì nó không lịm tắt khi vừa sinh ra, như số phận bất hạnh của âm nhạc. Trái lại, nó trường tồn và có tất cả ngoại dạng của sinh khí, tuy thực ra nó bị hạn chế trên một bề mặt. Ồ, môn khoa học diệu kì có thể bảo tồn vẻ đẹp nhất thời của người phàm và phú cho nó một sự thường hằng cao cả hơn những công trình tự nhiên; vì những thứ này lệ thuộc vào sự thay đổi liên tục của thời gian dẫn tới sự già cả không thể tránh được! Và một khoa học như thế trong cùng mối tương quan với thiên nhiên thần thánh khi những tác phẩm của nó là những tác phẩm của thiên nhiên, và vì thế nó được tôn sùng.

Nhạc sĩ tự cho nghệ thuật của y sánh bằng với nghệ thuật của người hoạ sĩ, vì nó cũng là một chỉnh thể cấu thành từ nhiều phần – những vẻ hoa mĩ được người quan sát thưởng ngoạn như trong nhiều tiết điệu hoà âm, và với những tiết điệu này vốn sinh ra và chết đi, nó làm hân hoan tâm hồn của con người. Nhưng người hoạ sĩ trả lời và nói rằng nhân thể được kết hợp từ nhiều thành phần không ban khoái cảm thông qua những tiết điệu hài hoà trong đó vẻ đẹp phải biến thiên và tạo ra những hình thức mới, nó cũng không cấu thành bằng những tiết điệu vốn không ngừng đòi được sinh ra và chết đi, mà người hoạ sĩ làm cho nó trường tồn qua nhiều năm và sự đặc sắc ấy hài hoà do tỉ lệ sống động mà thiên nhiên với tất cả sức mạnh của nó không thể nào giữ nổi. Biết bao bức tranh đã bảo tồn hình ảnh về vẻ đẹp thiêng liêng mà thời gian hoặc cái chết bất kì đã phá huỷ nguyên tác của Tự nhiên; vì thế tác phẩm của người hoạ sĩ đã tồn tại trong hình thức cao cả hơn hình thức của Tự nhiên là ngườ tình của y.

Những trống định âm được chơi như độc huyền cầm, hoặc sáo nhẹ.

Âm nhạc có hai khuyết điểm, một là tính tử vong (mortal) và hai là tính tiêu hao (wasting). Tính tử vong luôn gắn liền với khoảnh khắc sau khi nó phát ra thanh âm; tính tiêu hao nằm trong sự lập lại khiến cho nó bị nhàm chán và hạ thấp.

Có sự dị biệt trong việc biểu hiện về nhân thể đối với nhà thơ và hoạ sĩ, cũng như có sự dị biệt giữa những thân thể bị phân li và thân thể hợp nhất. Bởi vì nhà thơ khi miêu tả vẻ đẹp hay xấu của bất kì nhân vật nào chỉ có thể cho bạn thấy tuần tự, từng chút một, trong khi hoạ sĩ phô bày đồng thời tất cả... Và phương cách của nhà thơ có thể sánh với phương cách của nhạc sĩ đơn độc đảm đương bản nhạc viết cho bốn giọng với trước tiên là giọng nữ cao, tiếp theo là giọng nam cao, rồi giọng nữ trầm, và cuối cùng là giọng nam trầm. Những cuộc trình diễn như thế không thể sản sinh ra vẻ đẹp có tỉ lệ hài hoà trong những phân bố của thời gian... Cũng vậy, âm nhạc khi phổ những giai điệu ngọt ngào theo những phân bố tiết tấu của thời gian, kết hợp chúng bằng những giọng khác nhau. Còn nhà thơ thì bị ngăn khỏi sự tách bạch về hoà âm của các giọng, y không có khả năng đưa ra một sự tương đương với hoà âm trong âm nhạc, bởi vì nó vượt ngoài năng lực của y khi lên tiếng về những sự vật khác nhau cùng lúc như người hoạ sĩ thực hiện trong những tỉ lệ hài hoà trong đó những phần hợp thành được tạo ra đồng thời tương tác và có thể thấy vừa phối hợp và vừa đồng thời vừa riêng biệt...  Vì những lí do này, nhà thơ được liệt ở dưới hoạ sĩ trong việc thể hiện những vật hữu hình, và thua cả nhạc sĩ trong việc thể hiện vật vô hình.

Nếu nhà thơ biết cách miêu tả và viết xuống những ngoại hình của hình thể, thì người hoạ sĩ có thể làm ra chúng tới mức xuất hiện sống động khi tạo nên những biểu hiện của những gương mặt cùng với sáng và bóng. Ở đây, nhà thơ không thể đạt được bằng ngòi bút những gì hoạ sĩ đạt được bằng cây cọ.

Và nếu nhà thơ lĩnh ngộ bằng tai, thì hoạ sĩ lĩnh ngộ bằng mắt – là giác quan cao quý hơn; nhưng tôi sẽ không đòi hỏi gì hơn là một hoạ sĩ giỏi nên thể hiện tính kịch liệt của một trận chiến so với một nhà thơ miêu tả một trận chiến, và cả hai trận chiến này được đặt trước công chúng; bạn sẽ thấy ngay cái nào có sức thu hút lớn nhất đối với khán giả, và cái nào gây thảo luận nhất, điểm nào đáng ca ngợi hơn và cài nào thoả mãn hơn. Không hồ nghi, bức tranh sẽ dễ hiểu hơn nhiều và vẻ đẹp sẽ làm hài lòng hơn. Hãy khắc tên của Thượng đế và đặt hình ảnh của Ngài đối diện, và bạn sẽ thấy cái nào đáng tôn sùng hơn. Hội hoạ bao hàm trong nó tất cả những hình thái của tự nhiên, trong khi bạn không có gì ngoại trừ danh xưng của chúng vốn không phổ quát như hình thái. Nếu các bạn có những hiệu quả về biểu hiện thì chúng tôi có những biểu hiện về hiệu quả. Hãy lấy trường hợp của một nhà thơ miêu tả vẻ đẹp của một cô nương cho người tình của nàng và một hoạ sĩ miêu tả nàng; và các bạn sẽ thấy tư chất nào sẽ mà vị phán quan ngả về bên nào hơn. Rõ rệt bằng chứng về sự việc của chuyện này tự nhiên sẽ định vào phán quyết của kinh nghiệm.

Những người đặt hội hoạ vào trong số những môn nghệ thuật cơ giới. Thực ra, những hoạ sĩ cũng sẵn sàng như các người khi ca tụng tác phẩm họ bằng văn tự, tôi không chắc chúng ta có chịu đựng được sự sỉ nhục với một danh xưng thấp hèn đến thế không. Nếu các người gọi hội hoạ là có tính cơ giới bởi nó là tác phẩm làm bằng tay và bàn tay thiết kế những gì nằm trong trí tưởng tượng, còn những văn sĩ của các người chép xuống với cây viết bằng công việc bàn tay phát xuất trong đầu óc của các người. Còn nếu các người gọi nó có tính cơ giới bởi vì nó được thực hiện vì đồng tiền, còn ai rơi vào sai lầm này – nếu có thể gọi là sai lầm – hơn bản thân các người? Nếu giảng dạy, các người không tìm tới những ai trả thật hậu hĩnh hay sao? Có việc chi các người làm mà không có thù lao? Tuy thế, tôi không nêu việc này ra để trách, vì mọi việc lao động đều mong được phần thưởng.Và nếu một nhà thơ nói rằng tôi sẽ viết một câu chuyện để biểu thị cho những việc lớn lao, thì hoạ sĩ có thể cũng làm như vậy, vì ngay cả Apelles cũng có thể vẽ bức "Vu khống”. Nếu bạn nói rằng thơ ca trường cửu hơn, thì tôi cũng nói rằng những tác phẩm của một thợ đồ đồng trường cửu hơn nữa, vì thời gian bảo tồn chúng lâu hơn cả những tác phẩm của bạn và chúng tôi; tuy thế, họ phơi bày ít trí tưởng tượng; và một bức tranh có thể được tạo ra trường cửu hơn nếu được vẽ trên đồng có màu sắc tráng men.

Chúng ta bằng nghệ thuật mình có thể gọi là cháu nội của Thượng đế.

Nếu thơ ca bàn về triết học luân lí, thì hội hoạ bàn về triết học tự nhiên. Nếu thơ ca miêu tả hoạt động của tinh thần, thì hội hoạ xem xét hoạt động tinh thần như phản ánh trong những vận động [của cơ thể]. Nếu thơ ca có thể làm kinh sợ con người bằng những hư cấu về địa ngục, thì hội hoạ có thể làm như thế bằng việc đặt cùng những điều đó trước mắt. Giả sử có sự tỉ thí giữa nhà thơ và hoạ sĩ khi thể hiện cái đẹp, nỗi kinh hoàng hoặc một quái vật đê tiện, xấu xa, thì bất kể dùng phương pháp hay hình thức miêu tả nào, người hoạ sĩ cũng sẽ làm thoả mãn hơn. Chúng ta không thấy hay sao những bức tranh quá đỗi tương tự với vật thực đến nỗi chúng đánh lừa được cả người và thú.

Hội hoạ vượt trội mọi tác phẩm khác của con người bằng sự cấu tứ tinh tế

Con mắt là cửa sổ của linh hồn, là phương tiện chủ yếu nhờ đó sự nhận thức có thể giám thưởng trọn vẹn và phong phú nhất những tác phẩm vô hạn của thiên nhiên; còn cái tai đứng thứ nhì, thụ đắc phẩm giá bằng việc nghe những điều mắt nhìn thấy. Nếu bạn là nhà sử học hoặc nhà thơ, nhà toán học mà không tận mắt nhìn thấy mọi điều, bạn có thể tường thuật về chúng bằng văn tự nhưng không được hoàn hảo. Và nếu bạn, hỡi nhà thơ, kể chuyện bằng ngòi bút, thì hoạ sĩ bằng cây cọ có thể kể dễ dàng hơn, với sự hoàn hảo đơn giản hơn, và ít tẻ nhạt. Nếu bạn gọi hội hoạ là thơ câm, thì hoạ sĩ có thể gọi thơ ca là hoạ mù. Vậy hãy xem xét loại nào khuyết tật nặng hơn, là mù hay câm? Mặc dù nhà thơ cũng được tự do như hoạ sĩ khi sáng tác từ hư cấu, nhưng sáng tạo của y không đưa ra sự thoả mãn lớn đối với con người như hội hoạ; vì tuy thơ ca cố gắng miêu tả những hình thái, động tác, và nơi chốn bằng văn tự, còn hoạ sĩ áp dụng tính tương tự thực sự về hình thể để tái hiện chúng. Vậy, hãy xét coi cái nào gần hơn với con người thực sự, tên người đó, hay hình ảnh người đó? Tên người đó thay đổi cùng với sự thay đổi từ xứ sở này sang xứ sở khác; còn hình dạng của người ấy thì không thay đổi ngoại trừ bởi cái chết.

Nhân dịp lễ chúc thọ Hoàng đế Mathias,[8] một nhà thơ đem tới một bài thơ tán tụng sự kiện mà y nói rằng vì lợi ích của thế giới; còn một hoạ sĩ tặng cho ngài bức chân dung người yêu dấu của ngài. Hoàng đế vội gấp lại cuốn sách của nhà thơ và quay sang bức tranh rồi dán chặt mắt lên đó với niềm thán phục biết bao. Khi ấy nhà thơ tức giận nói: “Thưa bệ hạ, xin hãy đọc, chỉ có đọc, ngài sẽ thấy sự việc có ngụ ý thâm sâu hơn nhiều so với một bức tranh câm”. Hoàng đế phẫn nộ đối với việc chỉ trích ngài đang hâm mộ sự câm lặng, ngài nói: “Hãy câm tiếng, hỡi nhà thơ, ngươi không biết mình đang nói gì; bức tranh này phục vụ cho một cảm quan cao cả hơn cả tác phẩm của ngươi vốn có thể dành cho người mù. Hãy đưa cho trẫm những gì thấy được và chạm vào chứ không chỉ nghe tới, và cũng đừng trách sự chọn lựa của trẫm khi đặt cánh tay đè lên cuốn sách của ngươi và hai tay đưa bức tranh lên mắt để thưởng thức; bởi vì đôi tay trẫm chọn những cái phù hợp với cái cảm quan cao quý hơn chứ không chỉ là thính giác. Ý trẫm cho rằng nghệ thuật của người hoạ sĩ hơn xa nghệ thuật của nhà thơ vì y phục vụ cho cảm quan cao quý hơn. Ngươi không biết rằng linh hồn của chúng ta được kết hợp bằng hoà điệu và hoà điệu đó có thể tạo ra khi những tỉ lệ của sự vật được thấy hoặc được nghe đồng thời hay sao? Vả lại ngươi không thấy rằng trong nghệ thuật của ngươi không có sự đối ứng đồng thời giữa các tỉ lệ, mà phần này tạo ra phần khác tiếp tục nhau, vì thế cái sau còn chưa sinh, cái trước đã chết rồi. Do đó, theo ý trẫm, sự phát minh của ngươi kém hơn nhiều so với phát minh của hoạ sĩ vì lí do duy nhất là không có sự bố cục về tỉ lệ hài hoà. Nó không thoả mãn tinh thần của người nghe hoặc người nhìn ngắm giống như những tỉ lệ về hình thể mĩ lệ tạo thành vẻ đẹp tuyệt trần của gương mặt này đây trước mắt trẫm, chúng đều liên kết lại với nhau và tương tác đồng thời khiến cho ta khoái cảm xiết bao bằng những tỉ lệ thiêng liêng của chúng, làm ta nghĩ rằng không có tác phẩm nào khác của con người trên trần gian có thể cho ta niềm vui thú lớn hơn.

2. THỜI GIAN VÀ KHÔNG GIAN

Tỉ lệ của vạn vật

Tỉ lệ không chỉ thấy trong số tự và đo lường mà cũng còn trong âm thanh, trọng lượng, thời gian, không gian, và có thể trong bất cứ năng lực nào.

Hãy miêu tả tính chất của thời gian được biện biệt với những định nghĩa về hình học. Điểm không có phần nào; một tuyến là chuyển tiếp của một điểm; những điểm là những biên giới của một tuyến.

Một khoảnh khắc không có thời gian. Thời gian được tạo bằng sự vận động của khoảnh khắc, và những khoảnh khắc là những biên giới của thời gian.

Mặc dù thời gian được kể bằng những lượng liên tục, thế nhưng, do tính vô hình và phi vật chất, nó không bị quy vào phạm trù của Hình học vốn thể hiện những sự phân chia bằng hình và thể biến thiên vô hạn, như thường xuyên thấy trong trường hợp những vật hữu hình và những vật có chất thể; nhưng nó hài hoà những thứ này chỉ khi liên quan đến những nguyên lí đệ nhất của nó, tức là điểm và tuyến. Điểm được xem trong hạn từ của thời gian có thể sánh với khoảnh khắc, còn tuyến sánh với trường độ của lượng thời gian. Và hệt như những điểm là khởi đầu và kết thúc của tuyến nói trên, vì thế những khoảnh khắc hình thành điểm kết thúc và khởi đầu của bất cứ sự khoảng thời gian nhất định nào. Và trong khi một tuyến thì có thể phân chia tới vô hạn, một khoảng thời gian thì không khác với sự phân chia đến vô hạn như thế; và vì những phân chia của tuyến có thể mang một tỉ lệ nhất định với nhau, vì thế có thể là những phần của thời gian.

3. ÂM THANH VÀ KHÔNG GIAN

Tựa như một viên đá ném xuống nước trở nên trung tâm và tạo nên nhiều vòng tròn, và như âm thanh tự khuếch tán thành những vòng tròn trong không trung; vì thế bất cứ vật thể nào, được đặt trong khí quyển toả sáng, tự nó khuếch tán thành những vòng tròn, và làm đầy không trung bao quanh với vô hạn hình ảnh của chính nó.

Tôi cho rằng âm thanh của tiếng vang được phản xạ tới tai sau khi nó đã dội vào, giống như hình ảnh vật thể dội vào gương được phản chiếu vào trong mắt. Và khi hình ảnh vật thể trút từ một vật thể đi vào gương và từ gương vào mắt với những góc đều nhau, thì âm thanh dội và vang lại theo những góc đều nhau khi nó đi tới từ sự chấn động đầu tiên trong không trung và để gặp tai.

Mọi ấn tượng tiếp tục trong một thời gian nơi đối tượng nhạy cảm tiếp thu nó, và ấn tượng nào có năng lượng lớn hơn sẽ tiếp tục trong kẻ tiếp thu một thời gian lâu hơn, còn năng lực ít hơn thì trong một thời gian ngắn hơn...

Ấn tượng nhậy cảm là một ấn tượng của sự va đập tiếp thu trên một chất thể vang vọng như những loại chuông và những thứ tương tự, hoặc như thanh điệu trong tai, và quả vậy, trừ khi nó bảo tồn cái ấn tượng về những thanh điệu này, có thể chẳng bao giờ sinh ra khoái cảm từ việc nghe một thanh âm đơn độc; vì khi nó đi thẳng từ thanh điệu thứ nhất đến thanh điệu thứ năm, thì hiệu quả như thể ta nghe thấy hai thanh điệu này đồng thời, và như thế, ta tiếp nhận được sự hài hoà thực sự với thanh điệu thứ nhất cùng với thanh điệu thứ năm; vì nếu thanh điệu thứ nhất không lưu lại trong tai trong một thời gian nào đó, thì thanh điệu thứ năm lập tức theo sau thanh điệu thứ nhất gần như sẽ đơn độc; và một thanh điệu đơn sẽ không thể tạo nên bất cứ hài hoà nào cả, và vì thế bất cứ điệu đơn độc nào khi hát lên hẳn sẽ thiếu sự hấp dẫn.

Cũng vậy, sự phát xạ của mặt trời hoặc một vật thể phát quang khác lưu lại trong mắt một thời gian sau khi nó được nhìn thấy, và sự chuyển động của một khúc củi xoáy nhanh thành một vòng tròn khiến cho vòng tròn này gần như là một ngọn lửa đồng đều liên tục.

Những giọt mưa gần như là những sợi chỉ liên tục thả xuống từ những đám mây; và ở đây người ta có thể thấy mắt lưu giữ những ấn tượng về những vật thể di động mà nó nhìn thấy...

Tiếng nói gây ấn tượng qua không khí mà không chiếm chỗ không khí, và va đập lên những vật thể rồi trở về nguồn.

Người hoạ sĩ đo lường khoảng cách của sự vật khi chúng lùi khỏi con mắt theo những cấp độ như người nhạc sĩ đo lường những quãng âm mà tai nghe thấy. Mặc dù những vật thể do mắt quan sát tiếp xúc nhau khi chúng thoái lui, tuy thế tôi tìm ra quy tắc của tôi về một chuỗi những quãng cách đo được 20 thước Ý (braccia), giống như người nhạc sĩ, tuy những thanh âm của y kết hợp và được xâu chuỗi với nhau, đã tạo nên những quãng tuỳ khoảng cách từ âm này tới âm kia và được gọi là đồng thanh (unison), âm thứ hai, âm thứ ba, âm thứ tư, và âm thứ năm và vân vân, cho tới những định danh được gọi theo những cấp độ khác nhau về cao độ đúng với thanh giọng con người.

4. HỘI HOẠ VÀ ĐIÊU KHẮC

So sánh giữa hội hoạ và điêu khắc

Hội hoạ đòi hỏi sức tưởng tượng và kĩ năng nhiều hơn và phi thường hơn so với điêu khắc, bởi vì tinh thần của hoạ sĩ phải tất yếu nhập vào tinh thần của tự nhiên để đóng vai như một kẻ thông giải giữa tự nhiên và nghệ thuật; hội hoạ phải có khả năng thuyết minh lí do biểu hiện về quy luật của tự nhiên, và phương cách làm cho tính tương tự của đối tượng bao quanh mắt và hội tụ ở trong đồng tử của mắt để chuyển đi hình tượng chân thực; nó phải biện biệt được trong số nhiều vật thể có kích thước bằng nhau và cái nào sẽ xuất hiện lớn hơn đối với mắt; trong những màu sắc giống nhau, cái nào sẽ xuất hiện đậm hơn và cái nào xuất hiện nhạt hơn; trong số những vật thể tất cả đều đặt ở cùng độ cao, cái nào sẽ xuất hiện cao hơn; trong số những vật tương tự đặt ở những cự li khác nhau, tại sao chúng có vẻ ít rõ nét hơn những vật khác.

Nghệ thuật hội hoạ bao hàm trong lãnh vực của nó tất cả những vật thể hiện hình, còn điêu khắc với những hạn chế của nó không có, ấy là những màu sắc của mọi vật với cường độ và độ trong suốt của những vật thể biến thiên. Nhà điêu khắc đơn thuần cho bạn thấy những hình dạng của vật thể tự nhiên và không có sự tinh xảo nào xa hơn. Hoạ sĩ có thể gợi ý những cự li khác nhau qua việc biến hoá màu sắc, qua khí quyển chen vào giữa vật thể và mắt. Y có thể miêu tả những đám sương mù qua đó khiến hình dạng sự vật khó nhận ra; mưa lộ rõ với những quả núi phủ mây; và những đám bụi quấn quanh những chiến sĩ làm dấy lên; những dòng suối có độ trong suốt khác nhau, đàn cá đùa chơi giữa mặt nước và đáy nước; và những viên sỏi nhẵn thĩn đủ màu sắc lắng đọng trên nền cát sạch của lòng sông bao quanh thảo mộc xanh biếc thấy dưới mặt nước. Y sẽ miêu tả những tinh tú ở những độ cao biến thiên trên đầu chúng ta và vô số những hiệu quả khác tới mức điêu khắc không thể mong tới.

Nhà điêu khắc không thể nào miêu tả độ trong suốt hoặc những vật thể phát sáng.

Con mắt không thể nhận ra hình dạng của vật thể ở trong biên giới của chúng, nếu không nhờ có bóng và ánh sáng; nhiều khoa học sẽ không tồn tại nếu không có khoa học về bóng và ánh sáng – như hội hoạ, điêu khắc, thiên văn, và đại bộ phận phép phối cảnh và những thứ tương tự.

Có thể thấy, nhà điêu khắc không thể làm việc mà thiếu sự trợ giúp của bóng và ánh sáng, vì thiếu những thứ này thì vật liệu được khắc chạm hẳn vẫn giữ nguyên một màu... Một mặt phẳng được chiếu sáng bởi một loại ánh sáng đều và không chỗ nào biến thiên về độ sáng tối từ màu sắc tự nhiên của nó; và sự tương đồng này về màu sắc biểu thị cho độ nhẵn đồng bộ của bề mặt. Vì thế, sau đó nếu vật liệu được chạm khắc không được phủ bởi bóng và ánh sáng để sinh ra độ lồi lõm xen vào của cơ bắp, thì nhà điêu khắc sẽ không thể nào liên tục theo dõi tiến triển tác phẩm của y, nếu không, những gì y tạo hình trong ban ngày hẳn trông sẽ như thể nó được tạo ra trong bóng tối của đêm.

Về hội hoạ

Dù thế nào, hội hoạ nhờ bóng và ánh sáng thể hiện trên bề mặt phẳng, những hình dạng với những thành phần lồi lõm từ những hướng đa dạng, và tách biệt nhau theo cự li khác nhau.

Nhà điêu khắc có thể cho rằng phù điêu (basso relievo) là một loại hội hoạ; điều này có thể thừa nhận ở mức độ hình hoạ liên quan vì phù điêu có mang phép phối cảnh. Nhưng còn về bóng và sáng, nó làm hỏng cả điêu khắc lẫn hội hoạ bởi vì những bóng của phù điêu trong những bộ phận súc đoản (foreshortened), chẳng hạn, không có độ sâu tương ứng với bóng trong hội hoạ hoặc điêu khắc hình tròn. Nhưng nghệ thuật này là sự hỗn hợp của hội hoạ và điêu khắc.

Điêu khắc kém tính trí năng hơn hội hoạ và thiếu nhiều phẩm chất cố hữu

Khi tôi thực hành nghệ thuật điêu khắc cũng như nghệ thuật hội hoạ, và thực hiện cả hai môn trong cùng mức độ, gần như với tôi, không hoài nghi về tính thiên vị, tôi mạo muội đưa ra ý kiến về hai môn, môn nào trong hai môn này có kĩ năng lớn hơn và hoàn thiện hơn.

Đầu tiên, một pho tượng phụ thuộc vào ánh sáng nhất định, là ánh sáng từ bên trên, trong khi một bức tranh mang ánh sáng và bóng râm của nó khắp nơi. Sáng và bóng là thiết yếu với điêu khắc. Ở mặt này, nhà điêu khắc được trợ giúp bởi tính chất phù điêu (độ nổi), vốn tạo ra ánh sáng và bóng râm theo tính phù hợp tự nhiên; trong khi người hoạ sĩ phải sáng tạo ra chúng bằng nghệ thuật ở điểm mà thiên nhiên thường không làm.

Nhà điêu khắc không thể khu biệt giữa những màu sắc tự nhiên khác nhau của vật thể; còn hoạ sĩ về mặt này thì đạt được trong từng chi tiết. Những tuyến phối cảnh của nhà điêu khắc gần như không chân thực theo bất kể cách nào; còn những tuyến phối cảnh của hoạ sĩ có vẻ trải ra hàng trăm dặm ra ngoài chính tác phẩm. Những hiệu quả của phép phối cảnh không gian thì ở ngoài tầm tác phẩm của nhà điêu khắc; họ cũng không thể biểu hiện vật thể trong suốt hoặc vật thể phát quang, hoặc những phản chiếu, hoặc vật thể bóng loáng như tấm gương và những thứ có bề mặt lấp lánh, hoặc sương mù, hoặc thời tiết âm u, hoặc vô số những sự vật mà tôi miễn liệt kê để khỏi làm chán chường.

Ưu thế duy nhất mà điêu khắc có được là sức chống chọi lớn hơn đối với thời gian...

Hội hoạ thì đẹp hơn, giàu tưởng tượng hơn và phong phú hơn về chất liệu, trong khi điêu khắc thì bền vững hơn, nhưng không có điểm vượt trội nào khác.

Điêu khắc phơi mở chính nó mà không cần nhiều nỗ lực; còn hội hoạ gần như một thứ thần kì, tạo ra những vật không sờ mó được xuất hiện như sờ mó được, trình ra những vật như nổi mà lại phẳng phiu, những vật xa mà như gần.

Thực sự, hội hoạ được trang sức với vô hạn khả năng mà điêu khắc không thể làm chủ.

III. ĐỒ ÁN KIẾN TRÚC

Những thủ cảo của Leonardo bao gồm nhiều thiết kế kiến trúc cho những đại giáo đường hình vòm được xây dựng trên đồ án trung tâm là nơi những vấn đề về kết cấu được bàn tới về mặt lí thuyết và từ quan điểm nghệ thuật. Ông cũng thiết kế những pháo đài, biệt thự, lâu đài, đình viên, và chuồng ngựa cho những nhà bảo trợ. Kiến nghị của ông là nỗ lực để hoàn thành những đại giáo đường ở Milan và Pavia.  

Ông quan tâm đến những vấn đề lí thuyết mang tầm quan trọng thực tiễn – trong những vấn đề như hình thức giáo đường thế nào mới đáp ứng tối ưu được yêu cầu về âm học (acoustics). Ông viết về cung vòm, xà và sức chịu lực của chúng; về nguyên nhân và tiến triển của những vết nứt trên tường và cách phòng tránh. 

Những ý tưởng của ông về quy hoạch thành thị, về cách bố trí nhà ở và vườn kết hợp nghệ thuật với kiến thức kĩ thuật, để cung cấp nhiều ánh sáng, độ thông gió, và không gian mở, những phòng cách âm, xa lộ hai tầng, và những vấn đề về điều kiện vệ sinh. 

Những biểu đồ này được vẽ lại từ bút kí của ông, biểu thị những quy tắc được Vitruvius và Leon Battista Alberti đề xuất những tỉ lệ cho chân trụ cột Attic.   

Cung vòm là gì?

Một cung vòm không gì khác hơn là một lực tạo nên từ hai lực yếu; vì vòm trong kiến trúc được cấu thành từ hai bộ phận của một vòng tròn, và mỗi bộ phận này tự bản thân rất yếu và có xu hướng đổ xuống, và khi bộ phận này chống đỡ sức đổ của bộ phận kia thì hai lực yếu đổi sang một lực đơn độc.

Về tính chất trọng lực của vòm

Một khi vòm được thiết dựng, nó duy trì trạng thái bình hành, bởi vì lực hai bên đẩy nhau; nhưng nếu một bộ phận của vòng tròn này nặng hơn bộ phận kia thì tính ổn định chung quy bị phá hoại.

Biểu đồ dưới đây cho thấy những vòm cung được tạo ra ở cạnh hình bát giác đã xô đẩy chân cột từ những góc ra bên ngoài, như biểu thị bằng những tuyến hc và td xô đẩy chân cột m; và chúng có xu hướng bật khỏi trung tâm một bát giác như thế.

Thí nghiệm chứng minh, một trọng lực đặt trên một vòm cung không tự hạ phóng (discharge) hoàn toàn trên những trụ cột; ngược lại, trọng lực càng lớn đặt trên những vòm cung, thì vòm cung càng truyền ít trọng lực tới những trụ cột. Thí nghiệm sau đây: một người được đặt trên cái cân đòn bẩy ở giữa thân giếng, tiếp theo, cho y dang tay và chân ra giữa những thành giếng, và bạn sẽ thấy trọng lượng của y nhẹ hơn rất nhiều so với trên cân đòn bẩy. Hãy đặt trên vai y một trọng lực, bạn sẽ thấy qua thí nghiệm rằng, trọng lực càng lớn mà bạn đặt trên vai y thì y sẽ phải nỗ lực càng lớn hơn khi dang tay và chân và trong khi ghì vào thành giếng, và trọng lực lên cân đòn bẩy sẽ càng kém đi.

Một ngôi tháp mới đặt nền móng một phần trên một công trình xưa.

Những thang nước

Khi mức hạ xuống từ những đập nước đã trũng sâu tới mức cuối cùng nó tụt xuống đáy sông, thì những dòng nước hạ xuống sẽ không hình thành hốc ở chân bờ sông, nên sẽ không mang đất đi theo cách dội lại, và như thế chúng sẽ không tiếp tục hình thành độ dài phần đáy của đập nước từ phía dưới. Hơn nữa, nếu bộ phận thấp nhất của bờ sông nằm nghiêng qua dòng những thuỷ lưu được kiến tạo thành những bậc thang sâu rộng theo lối cái cầu thang, thì những dòng nước trong khi chúng hạ xuống theo dòng của chúng sẽ quen đổ xuống thẳng góc từ khởi đầu của gian đoạn thấp nhất này, và đào sâu những nền tảng của bờ sông, sẽ không có thể hạ xuống nữa với một lực lượng hết sức mạnh mẽ. Và tôi sẽ nêu ra một ví dụ cho điều này, chiếc thang đi xuống mà những dòng nước đổ xuống từ những cánh đồng Sforzesca ở Vigenano, vì nước tuôn chảy xuống nó với một độ cao năm mươi thước Ý.

Nước sẽ cho phép đổ xuống từ toàn bộ vòng tròn ab.

Quy hoạch thành thị

Chiều rộng của con đường hãy cho bằng với chiều cao phổ biến của nhà ở.

[Với đồ án về thành thị cho thấy đường xá ở tầng cao và thấp]

Đường lộ ở tầng cao hơn là sáu thước Ý so với đường lộ ở tầng thấp, và mỗi đường lộ nên rộng hai mươi thước Ý và biên duyên có độ dốc xuống nửa thước Ý tính từ trung tâm. Và từ trung tâm này cứ mỗi thước Ý sẽ có một khe thoát rộng một ngón tay và dài một thước Ý, nhờ đó nước mưa rút xuống vào những lỗ thông trên những đường lộ hạ tầng. Và ở hai bên đường lộ này nên có một hành lang cuốn (arcade) rộng sáu thước Ý trên những cột trụ.

Và nếu có ai muốn đi qua toàn bộ nơi này bằng những đường lộ tầng cao thì có thể dùng chúng cho mục đích này, cũng vậy với những ai muốn đi qua những đường lộ tầng thấp. Những đường lộ tầng cao không được sử dụng cho loại xe hàng hoá hoặc những phương tiện giao thông mà chỉ dành cho sự tiện lợi của giới quyền quý. Mọi loại xe tải phục vụ và thuận lợi cho thường dân nên giới hạn trên những đường lộ tầng thấp. Nhà phải quay lưng lại với nhau, dành đường lộ tầng thấp ở giữa chúng. Những cửa dùng tiếp nhận những đồ cung cấp, như củi và rượu, vv... Nhà vệ sinh, chuồng ngựa, và những nơi hôi hám với chất thải đổ vào những thông đạo dưới lòng đất được định vị khoảng cách ba trăm thước Ý từ một nhịp cuốn (arch) cho tới phần còn lại, mỗi thông đạo nhận ánh sáng qua những lỗ hổng từ mặt đường phía trên, và cứ mỗi nhịp cuốn sẽ có một thang cuốn.... Ở chỗ rẽ đầu tiên sẽ có cửa đi vào những nhà vệ sinh, và cầu thang này có thể cho người ta đi xuống từ đường tầng cao xuống đường tầng thấp.

Những đường tầng cao bắt đầu ở bên ngoài những cổng ở độ cao sáu thước Ý. Địa điểm này nên chọn gần biển, hoặc gần sông lớn, để những chất ô uế của thành phố có thể được nước vận chuyển đi xa.

Quy hoạch nhà ở

Một toà nhà phải luôn tách ra toàn diện để có thể thấy được hình dạng chân thực của nó.

[Với bản vẽ kiến trúc].

Gian phòng lớn dành cho chủ nhân, phòng, bếp, chạn, phòng gác, phòng lớn dành cho thành viên gia đình, và sảnh đường.

Phòng lớn dành cho chủ nhân và phòng dành cho gia đình nên có nhà bếp ở giữa, và thực phẩm có thể phục vụ thông qua những cửa sổ rộng và thấp hoặc bằng những loại bàn xoay. Phòng lớn của gia đình nằm ở phía bên kia nhà bếp sao cho chủ nhà không nghe được âm thanh tạp.

Người vợ nên có căn buồng riêng và sảnh đường cách riêng khỏi phòng gia đình, vì thế bà có thể sắp đặt cho những đầy tớ gái ăn tại một bàn khác cùng một sảnh đường. Bà nên có hai căn buồng khác cũng như buồng riêng, một buồng cho các tớ gái, buồng kia cho các bảo mẫu, và không gian rộng dành cho dụng cụ nhà bếp. Và căn buồng này sẽ là nơi liên thông về các tiện nghi khác nhau; và là chỗ tiếp xúc với việc làm vườn và chuồng ngựa.

Kẻ giữ kho lương thực phải có lối vào nhà bếp ở đằng sau, để có thể làm việc một cách mau lẹ; và cửa sổ nhà bếp nên đối diện với kho lương thực sao để dễ rút củi. Và cho nhà bếp tiện lợi với việc rửa đồ dùng bằng thiếc để không phải mang đi suốt căn nhà. Tôi muốn có một cánh cửa lớn đóng lại toàn bộ căn nhà.

Cối xay nước

Lợi dụng cái cối xay nước, tôi có thể sản sinh ra một luồng không khí bất kì khi nào; vào mùa hè, tôi sẽ làm cho nước vọt lên tươi mát, nổi bọt và chảy dọc theo khoảng giữa những bình diện được sắp đặt như thế này [bản vẽ]. Đường mương có thể rộng nửa thước Ý, và ở đó nên có những bình rượu, luôn luôn tinh khôi nhất. Luồng nước khác nên chảy qua khu vườn làm ẩm những rặng cam và chanh thuỳ theo nhu cầu của chúng. Những cây chanh này sẽ thường trực, bởi vì địa thế của chúng sẽ được sắp đặt sao cho dễ được bao phủ lên trên và độ ấm áp liên tục mà mùa đông sản sinh ra sẽ là những phương tiện bảo tồn chúng tốt hơn nhiều so với lửa, vì hai lí do: một là độ ấm này của những dòng suối có tính tự nhiên và có cùng độ ấm từ rễ của mọi thảo mộc; thứ hai, lửa tạo ra hơi ấm từ những cây cối này theo cách ngẫu nhiên, bởi nó bị lấy mất độ ẩm, không đồng bộ cũng không liên tục, lúc đầu thì ấm hơn về sau và rất thường bị coi nhẹ do sự bất cẩn của những người trông nom nó.

Thảo mộc từ những dòng suối nhỏ phải được cắt thường xuyên để giữ độ trong của nước và có thể nhìn xuống dưới đáy có đá cuội, chỉ để lại những loại thực vật dùng làm thức ăn cho cá, như cải xoong và những cây tương tự, những loại cá như thế không làm cho nước đục, tức là không được thả lươn vào đó, hoặc cá hanh, hoặc cá chó, vì chúng sẽ tiêu diệt những loại cá khác.

Nhờ cối xay nước, bạn sẽ tạo ra nhiều ống dẫn nước qua suốt ngôi nhà, và những dòng suối ở những địa điểm khác nhau, và ở một chặng nào đó, khi có người đi qua, từ mọi phía ở dưới nước sẽ vọt lên, và như thế ở đó cũng sẽ có người sẵn sàng muốn tắm từ bên dưới, cho tới những phụ nữ hoặc những người khác ngang qua đó.

Ở trên đầu, chúng ta phải dựng một tấm lưới rất mịn bằng đồng để che bên trên khu vườn và quây lại bên dưới với nhiều loại chim khác nhau. Như vậy, bạn sẽ có âm nhạc bất tuyệt cùng với hương hoa cam và hoa chanh.

Với trợ giúp của cối xay, tôi sẽ làm ra mọi loại âm thanh liên tục từ mọi loại nhạc cụ, chừng nào cối xay còn tiếp tục di chuyển.

IV. ĐỜI SỐNG CỦA HOẠ SĨ

Người hoạ sĩ phấn đấu và thi đua với thiên nhiên.

Người hoạ sĩ phải nên cô tịch và lưu tâm những gì mình thấy, tự tranh luận về nó để chọn những phần nào là tối ưu nhất từ bất cứ những gì y thấy. Y nên tác động như một tấm gương chuyển hoá tự thân muôn màu như những vật thể đặt ở phía trước nó. Như thế, hoạ sĩ gần giống như là thiên nhiên thứ hai.

Đời sống của hoạ sĩ trong xưởng vẽ

Để cho cơ thể khoẻ mạnh không làm nhụt tinh thần, người hoạ sĩ hay hoạ viên nên giữ được sự cô tịch, đặc biệt khi chuyên tâm với những nghiên cứu và phản ánh sự vật vốn không ngừng xuất hiện trước mắt và trang bị chất liệu để lưu giữ kĩ trong kí ức. Khi cô độc, bạn hoàn toàn là chính mình; và nếu bạn chỉ cần có một đồng bạn thì là một nửa của chính mình, hoặc còn ít hơn nữa theo tỉ lệ về sự thiếu dè dặt trong cách cư xử của người bạn kia. Còn nếu có thêm những đồng bạn, còn mắc sâu hơn vào cùng sự phiền phức đó. Nếu bạn nói, “Tôi sẽ theo đường của mình, tôi sẽ ra ngoài ẩn dật để học tập các hình thể của vật tự nhiên”, tôi nói với bạn rằng, điều này sẽ tác động xấu vì bạn không thể không nghe họ huyên thuyên; vì không thể nào phục vụ hai chủ nên bạn sẽ đóng vai làm đồng bạn tồi tệ, và thực hiện những nghiên cứu nghệ thuật còn tồi tệ hơn. Còn nếu bạn nói rằng, “Tôi sẽ lui thật xa tới nỗi những lời lẽ của họ không tới được và quấy rầy được tôi”, tôi nói với bạn rằng, bạn sẽ bị xem là gàn; nhưng hãy nhớ rằng làm như vậy bạn ít ra sẽ được cô tịch; và nếu bạn phải có đồng hành thì hãy tìm trong những nghiên cứu... Điều này giúp bạn đạt được những lợi thế có được từ những phương pháp khác nhau. Còn mọi đồng bạn khác có thể rất tác quái với bạn.

Những căn phòng hoặc nơi cư trú nhỏ tạo kỉ luật cho tâm trí, những gian phòng lớn làm chia trí.

Cự tuyệt với chủ trương hoạ sĩ không nên làm việc trong những ngày lễ

Vì hội hoạ là cung cách học biết về đấng sáng tạo ra vạn vật diệu kì – và đây là cung cách để yêu nhiệt thành một nhà phát minh lớn như thế. Thực vậy, tình yêu lớn nảy sinh từ sự hiểu biết trọn vẹn cái mà người ta yêu; và nếu bạn không biết nó bạn có thể yêu nó nhưng chỉ chút xíu, hoặc chẳng hề.

Và nếu bạn yêu Ngài vì những lợi ích và bạn mong chờ có được từ Ngài, thì bạn giống như con chó vẫy đuôi, mừng và nhảy xổ vào người có thể cho bạn một cục xương. Còn nếu con chó biết và có thể hiểu được đức tính của vị chủ nhân này, thì tình yêu của nó lớn hơn đến đâu!

Đời sống của hoạ sĩ ở thôn quê

Một hoạ sĩ cần phải biết cái phần toán học liên quan tới hội hoạ, và việc đoạn tuyệt quan hệ với những bằng hữu vốn không cùng chí hướng nghiên cứu; và trí não phải có năng lực tự thích nghi với sự đa dạng của các loại đối tượng trước mắt; và thoát khỏi những mối quan tâm khác. Và nếu, trong khi xem xét và xác định một trường hợp, thì trường hợp thứ hai xen vào trong lúc tâm trí bận rộn với một đối tượng, vậy thì y phải quyết định trường hợp nào thực hiện khó khăn hơn, và đi theo nó tới khi nó hoàn toàn được sáng tỏ; và tìm ra giải thích cho cái kia kia; và trên hết, phải giữ cho tâm trí trong sáng như mặt gương, có thể biến đổi theo nhiều màu sắc khác nhau tuỳ theo những vật thể; và những đồng bạn của y sẽ học giống y trong những học tập của họ, và nếu y không tìm ra đồng bạn nào để học theo, y nên giữ những suy tư cho riêng mình, vì rút cuộc, y sẽ không tìm ra đồng bạn nào hữu ích hơn.

Học khi bạn thức, hoặc trước khi bạn đi ngủ trong bóng tối

Tôi tìm ra bằng kinh nghiệm của mình rằng, lợi ích thật không nhỏ khi bạn nằm trên giường trong bóng tối để rà đi rà lại trong trí tưởng tượng đường nét của những hình thể mà bạn đã nghiên cứu hoặc về những vật thể đáng ghi nhớ được thai nghén bằng sự trầm tư tinh tế; và điều này chắc chắn là một việc tập luyện đáng khen ngợi và hữu ích khi tạo ấn tượng sự vật lên kí ức.

Tinh thần của một hoạ sĩ nên như tấm gương, luôn tiếp nhận màu sắc của vật thể được phản chiếu, và chứa đầy hình ảnh của nhiều vật thể ở phía trước. Vì thế, bạn phải biết rằng, bạn không thể là một hoạ sĩ giỏi trừ phi bạn đa tài đa nghệ khi tái hiện trong nghệ thuật của bạn mọi loại hình thái mà thiên nhiên tạo ra. Bạn sẽ không biết phải làm sao trừ phi bạn nhìn thấy và nhớ chúng trong tâm trí. Vì thế, khi bạn đi dã ngoại, hãy chú ý tới những vật thể khác nhau, lúc nhìn vật này, lúc xem vật nọ, thu thập một kho những dữ liệu đa dạng được chọn lựa từ những cái ít có giá trị. Chớ như một số hoạ sĩ, khi tinh thần mệt mỏi,  đầu óc không còn màng đến công việc, họ luyện tập bằng việc đi dạo để thư giãn, tuy nhiên, sự mệt mỏi tinh thần như thế cản trở họ nắm bắt những đối tượng mà họ thấy, nhưng thường khi họ gặp bạn bè và người thân chào đón, tuy họ có thể thấy và nghe nhưng lại không nhận biết nếu họ thấy quá nhiều dáng điệu.

Hỡi các hoạ sĩ của tôi, điều gì xui khiến bạn rời bỏ nhà cửa ở thành thị, bỏ lại cha mẹ và bằng hữu để đi về vùng quê, lên núi cao và xuống thung lũng, nếu không vì vẻ đẹp của thế giới tự nhiên, nếu cân nhắc kĩ, bạn chỉ có thể thưởng ngoạn qua khí quan thị giác; và chính bởi ở đây, nhà thơ thi đua với hoạ sĩ, thế tại sao bạn không dùng sự mô tả của nhà thơ về những phong cảnh này rồi ở trong nhà mà không cần phải phơi mình với nắng mặt trời chói chang? Chẳng phải là thiết thực và ít mệt mỏi hơn hay sao, bởi vì bạn có thể ở một nơi mát mẻ mà không cần đi lại và hứng chịu bệnh tật? Nếu linh hồn bạn không thể tận hưởng khoái cảm qua đôi mắt, là những cửa sổ của căn nhà, thì nó không thể đón nhận ánh phản chiếu của những nơi rực rỡ, nó không thể thấy những thung lũng rợp bóng được tưới bởi những dòng sông uốn khúc lóng lánh, nó không thể nhìn thấy bao nhiêu đoá hoa vô vàn màu sắc khác nhau bày ra trước mắt. Nhưng nếu một hoạ sĩ vào một ngày mùa đông lạnh lẽo khắc nghiệt phô cho bạn thấy trong tranh của y những điều này, hoặc ở những thôn quê khác nơi bạn từng tận hưởng bên dòng suối nào đó, và nơi bạn có thể thấy lại mình trên những cánh đồng muôn hoa trong như một người tình bên cạnh người yêu dấu của bạn dưới những bóng mát dịu dưới rặng cây xanh um, chẳng phải nó cho bạn khoái cảm hơn là việc nghe nhà thơ mô tả về một cảnh như thế?

Thời gian nghiên cứu chọn lựa đề tài

Những chiều mùa đông nên được dùng cho các học sinh trẻ học tập những việc đã chuẩn bị trong mùa hè; đó là, những bản vẽ từ mẫu khoả thân mà bạn đã vẽ trong mùa hè nên tập trung lại và chọn những chi thể và thân thể xuất sắc nhất trong số đó để ứng dụng trong thực tế và lưu vào trí nhớ.

Về tư thế

Sau đó, vào mùa hè tiếp theo, bạn nên chọn một người thân thể đã phát triển, và không mặc loại áo chẽn, vì như vậy hình thể sẽ mất đi dáng điệu tự nhiên, và cho y làm một số động tác duyên dáng và thanh nhã; nếu cơ bắp của y không cho thấy rõ rệt những đường nét trên chi thể, điều đó không thành vấn đề. Khi có đủ những tư thế từ nhân vật, bạn có thể điều chỉnh chi thể bằng những tư liệu mà bạn đã học tập trong mùa đông.

Về cách học tập đúng cách bố cục nhiều nhân vật trong tranh lịch sử

Khi bạn đã học kĩ phép phối cảnh và sắp xếp trong trí nhớ mọi bộ phận và hình dạng của các vật thể, bạn nên khởi công và thường khi bạn đi tản bộ quan sát và xem xét những hoàn cảnh và hành xử của người ta khi họ nói chuyện, cãi nhau, hoặc cười, hoặc đi tới chuyện đánh nhau; những hành vi của chính họ và của những người ngoài cuộc can thiệp hoặc nhìn ngó. Hãy ghi chú về họ bằng những nét tốc hoạ vào cuốn sổ nhỏ mà bạn luôn mang theo; và trên loại giấy nhuộm màu nhẹ, để không thể bị tẩy xoá, và thay sổ cũ bằng sổ mới; bởi những thứ này không nên bị bôi boá mà cần bảo tồn cẩn thận; vì những hình dạng và vị trí của vật thể là vô hạn tới nỗi trí nhớ không thể nào ghi nhớ được, bởi vậy, hãy giữ những thứ này như là hướng đạo và thầy của mình.

Vẽ trong nhóm có tốt hơn hay không

Tôi cho rằng và khẳng định, vẽ trong nhóm tốt hơn nhiều so với vẽ một mình, vì nhiều lí do. Trước tiên là bạn hẳn phải xấu hổ khi bị xem trong số những hoạ viên nếu bạn bị thua kém, và cảm giác xấu hổ này sẽ dẫn bạn tới việc học tập tốt; thứ hai, một sự ghen tị lành mạnh sẽ kích thích bạn gia nhập vào số những người được khen ngợi hơn bạn, vì việc khen ngợi những người khác sẽ khích lệ bạn; còn một điều khác là bạn có thể học được từ những bản vẽ của những người vẽ giỏi hơn bạn; và nếu bạn giỏi hơn người khác, bạn có lợi qua việc coi khinh những khuyết điểm của người khác, còn lời khen của những người khác sẽ khuyến khích bạn cố gắng tiến xa hơn.

Về việc đánh giá tranh của bạn

Chúng ta biết rất rõ rằng những sai sót dễ nhận ra trong tác phẩm người khác hơn là của mình; và thường khi quở trách những thiếu sót của người khác, chúng ta có thể bỏ quên những khuyết điểm lớn hơn trong bản thân... Theo tôi, khi bạn vẽ, bạn nên có một tấm gương phẳng và thường nhìn vào tác phẩm của bạn phản chiếu trong đó, khi bạn thấy nó đảo ngược, và nó có vẻ với bạn như tranh của hoạ sĩ nào khác, bạn sẽ có thể đánh giá đúng hơn về những khuyết điểm của nó hơn bằng cách khác. Cũng tốt nếu bạn thường nên bỏ mặc tác phẩm và thư giãn một chút, bởi khi trở lại với nó, bạn sẽ phán xét tốt hơn; vì ngồi quá gần bên tác phẩm có thể đánh lừa bạn rất cao. Cũng tốt khi lùi lại ở một khoảng cách, bởi vì tác phẩm trông sẽ nhỏ hơn và mắt bạn tiếp nhận nó nhiều hơn trong một thoáng nhìn và dễ nhìn ra sự thiếu hài hoà và tỉ lệ trong những chi thể, màu sắc và đường nét của những đối tượng.

Về việc chọn những diện mạo đẹp

Với tôi, dường như không phải là ân huệ nhỏ nếu một hoạ sĩ có thể ban cho những nhân vật của mình một phong thái ưu nhã, và ân huệ này, nếu không nhờ thiên tính, thì y có thể thủ đắc bằng việc học tập bổ sung theo cách này: Hãy quan sát xung quanh và chọn những bộ phận tuyệt nhất trong nhiều dung mạo đẹp, và vẻ đẹp này do sự công nhận của số đông thay vì theo phán đoán của riêng bạn; bởi bạn có thể tự lừa gạt mình và chọn những dung mạo vốn mang những nét tương tự như của bạn, vì thường là sự tương tự đó làm hài lòng chúng ta; và giả sử bạn xấu, hẳn bạn sẽ chọn những dung mạo không xinh đẹp, rồi bạn sẽ tạo ra những dung mạo xấu như nhiều hoạ sĩ. Vì thường là những hình dáng của một người thầy khi chọn thì tương tự như bản thân của ông; vì thế hãy chọn những vẻ đẹp như tôi nói rồi khắc sâu trong tâm trí.

Phối ánh sáng cho những diện mạo được thanh nhã nhất

Nếu bạn có một cái sân bạn có thể tuỳ ý phủ nó bằng một tấm vải gai che mái để có ánh sáng lí tưởng. Hoặc khi bạn muốn vẽ một chân dung, hãy thực hiện vào thời tiết ảm đạm, hoặc khi chiều xuống, sắp đặt người mẫu quay lưng lại một bức tường của cái sân. Hãy lưu ý diện mạo của những người đàn ông đàn bà trên đường phố lúc hoàng hôn và lúc trời ảm đạm, bạn có thể nhận thấy vẻ ôn hoà và tinh tế của họ. Vì thế, hỡi người hoạ sĩ! Hãy có một đình cái sân được bố trí với những bức tường tô màu đen và một cái mái nhỏ hẹp nhô ra bên trong những bức tường. Nó có bề rộng 10 thước Ý, dài 20 thước Ý, cao 10 thước Ý và được che bằng một tấm bạt gai khi có mặt trời chiếu sáng, hoặc nếu không, hãy vẽ bức chân dung vào lúc hoàng hôn hoặc lúc trời u ám hoặc sương mù; vì đây là ánh sáng hoàn hảo.

Quy tắc học tập hội hoạ cho thiếu niên

Chúng ta biết rõ thị giác là một trong những động tác nhanh nhất và trong một khoảnh khắc chúng ta nhìn thấy vô số những hình thể; tuy nhiên, chúng ta chỉ có thể nhận thức mỗi lần chỉ được một thứ.

Độc giả, hãy giả định bạn nhìn thoáng vào trang viết này, và bạn sẽ nhận ra ngay là nó ngập những con chữ khác nhau, nhưng vào lúc ấy bạn không thể nào nhận ra là những chữ gì cũng không nhận ra chúng muốn nói gì. Do đó, bạn cần tiến hành nhìn từng chữ một, từng dòng một, để có thể hiểu được những chữ này hàm nghĩa gì. Cũng vậy, nếu bạn muốn trèo lên một dinh thự lớn bạn phải lên từng bậc thang một; nếu không, sẽ không thể nào lên tới phần cao nhất. Vì thế, tôi nói với bạn, kẻ nào mà thiên tính khiến hướng đến nghệ thuật này, nếu bạn muốn có tri thức về những hình thể của sự vật, bạn sẽ bắt đầu với những chi tiết của chúng, và không được tiếp tục sang bước thứ nhì cho tới khi bước thứ nhất đã ghi sâu vào kí ức và trong thực hành. Còn nếu bạn làm khác, bạn sẽ phí thời giờ, hoặc chắc chắn bạn sẽ kéo rất dài việc học tập; và hãy nhớ sự chuyên cần phải được tôn làm đầu, hơn là thực hành mau lẹ.

Đầu tiên nên học tập chuyên cần thay cho thực hành mau lẹ

Nếu là hoạ viên, bạn muốn học giỏi và đạt được mục đích, hãy tự làm quen với công việc một cách từ từ khi bạn vẽ, biện biệt những bộ phận ánh sáng nào có mức độ sáng nhất, và cũng vậy, về bóng, bóng nào tối hơn những bóng khác và cách chúng liên kết với nhau ra sao; tiếp đến, kích thước và những tỉ lệ của chúng tương quan với nhau; chú ý những hướng của đường viền, và trong những đường nét, phần nào của chúng cong sang bên này hoặc bên kia, chỗ nào dễ thấy hơn chỗ nào mơ hồ hơn, chỗ nào thô chỗ nào tinh tế; và cuối cùng, những bóng và ánh sáng hoà lẫn mà không có nét hoặc vệt: và khi bạn đã luyện tập bàn tay và sự phán đoán bằng sự chuyên cần như thế, bạn sẽ đạt được sự thi thố mau lẹ trước khi khi bạn nhận thức ra.

Những quy tắc này chỉ sử dùng trong việc kiểm tra những hình thể; bởi vì mỗi người phạm những sai sót nhất định trong những bố cục tranh đầu tiên của mình và kẻ nào không biết thì không thể sửa đổi. Do đó, khi bạn ý thức về những sai lầm thì kiểm tra tác phẩm, ở đâu thấy sai thì sửa, và hãy nhớ đừng bao giờ phạm vào nữa. Nhưng nếu bạn cố áp dụng những quy tắc này trong bố cục tranh, bạn sẽ không tạo được sự khởi đầu và sẽ làm rối tác phẩm của bạn.

Những quy tắc này mục đích dành cho bạn có được trí phán đoán tự do và tốt; bởi trí phán đoán tốt tiến hành từ sự thấu hiểu minh bạch, và sự thấu hiểu minh bạch này nảy sinh ra từ lí trí phái sinh từ những quy luật vững chãi, là con gái của kinh nghiệm vững chãi – là bà mẹ chung cho tất cả các khoa học và nghệ thuật. Vì thế, xin ghi nhớ những châm ngôn về quy tắc của tôi, bạn sẽ có thể, chỉ bằng việc phán đoán tu sửa của bạn để xét đoán và nhận biết sự trái tỉ lệ trong một tác phẩm, ngay cả nó nằm trong phối cảnh hoặc trong những nhân vật hoặc những sự vật khác hay không.

Nhiều người không nghiên cứu lí thuyết về bóng và ánh sáng và về phép phối cảnh bèn quay ra tự nhiên và sao chép nó; như vậy họ có được một sự thực tiễn nhất định thuần bằng việc sao chép mà không nghiên cứu hoặc đẩy xa việc phân tích tự nhiên. Có một số người nhìn vào những vật thể trong tự nhiên qua tấm kính hoặc tờ giấy trong suốt hoặc những tấm mạng rồi kẻ lại trên bề mặt trong suốt đó; tiếp theo, họ điều chỉnh những đường nét, bổ sung vào chỗ này chỗ nọ để cho chúng phù hợp với quy luật về tỉ lệ, rồi họ đem phối hợp sáng tối bằng việc điền vào những vị trí, kích thước, và hình dạng của bóng và sáng. Những thực hành này có thể đáng khen đối với người biết cách trình bày những hiệu quả của tự nhiên bằng trí tưởng tượng của mình và chỉ cầu đến chúng để tránh sự rối loạn mà không đánh mất nét đặc thù tế vi nhất trong việc mô phỏng chân thật về một vật thể mà tính tương tự chuẩn xác đòi hỏi; nhưng đáng trách với những người không thể miêu tả mà thiếu chúng hoặc không dùng đầu óc để phân tích, bởi qua sự lười biếng đó, y làm hỏng trí thông minh của mình và y sẽ chẳng thể nào sản sinh ra bất cứ gì hay đẹp mà không miễn cưỡng. Những kẻ như vậy sẽ luôn nghèo nàn và yếu trong tác phẩm mang trí tưởng tượng hoặc sáng tác tranh lịch sử.

Người hoạ sĩ vẽ bằng thực hành và phán đoán của con mắt mà không vận dụng lí trí thì giống như một tấm gương chỉ sao chép mọi thứ đặt ở trước nó mà vô tri về sự vật đó.

Những ai ham thực hành mà thiếu khoa học thì như người hoa tiêu trên con tàu không bánh lái hoặc la bàn, y không bao giờ chắc chắc được mình đang đi đâu. Việc thực hành luôn luôn nên đặt cơ sở trên lí thuyết vững chãi, từ đó phép phối cảnh là hướng đạo và cổng ngõ, thiếu nó thì tuyệt không thể thực hiện tốt được trong bất kì loại tranh nào.

Một hoạ sĩ không đáng ca ngợi nếu không có tính đại đồng

Có lẽ phải thành thật thừa nhận rằng có một số người tự huyễn hoặc mình khi gọi một hoạ sĩ là một “sư phụ”, người chỉ có thể vẽ giỏi hình đầu hoặc hình người. Chắc chắn không phải là thành tựu lớn lao nếu sau khi học tập duy nhất một thứ cả đời để đạt được một số cái hoàn hảo. Nhưng chúng ta biết rằng hội hoạ bao hàm và chứa đựng tự thân nó mọi sự vật mà tự nhiên sản sinh ra, hoặc vốn là kết quả từ những hành vi ngẫu nhiên của con người, nói tóm lại, bất cứ gì có thể lĩnh hội được bằng mắt, dường như với tôi y chỉ là một hoạ sĩ tồi vì y chỉ vẽ giỏi một hình tượng đơn độc. Vì bạn không thấy sao, biết bao nhiêu động tác biến thiên chỉ nói riêng của con người? Bạn không thấy có biết bao nhiêu động vật khác nhau, và cũng vậy, cây cối, hoa thảo? Đa dạng biết bao những vùng đồi núi và bình nguyên, sông, suối, thành thị với những công thự và tư dinh, những khí cụ mà con người sử dụng; biết bao nhiêu phục sức, trang sức, và các môn nghệ thuật! Tất cả những thứ này nên được miêu tả với sự thoải mái và hoàn hảo đồng đều bởi tất cả người nào mà bạn muốn gọi là một người thầy tốt.

Trong những tác phẩm quan trọng, không nên tin cậy hoàn toàn vào trí nhớ mình cũng như khinh việc vẽ từ thiên nhiên

Bất cứ hoạ sư nào mạo muội khoe khoang rằng mình có thể nhớ hết những hình thái và hiệu ứng của thiên nhiên, với tôi là y được phú bẩm đại ngu si, bởi vì những hiệu ứng này là vô tận mà kí ức của chúng ta không sao kham nổi. Vì vậy, hỡi hoạ sĩ, hãy cảnh giác để cho lòng tham lợi không hất cẳng danh tiếng trong nghệ thuật, vì để có được danh tiếng này thì lớn hơn nhiều so với danh tiếng về sự giàu có. Vì những lí do này hay khác có thể nêu, đầu tiên bạn nên nỗ lực về hình hoạ để trình bày với thị giác trong hình thái biểu cảm được mục đích và phát minh được cấu tứ đầu tiên trong trí tưởng tượng của bạn, rồi tiếp tục bằng việc cởi ra và mặc vào cho tới khi bạn thấy mãn ý; rồi sắp đặt những người mẫu mặc y phục hoặc khoả thân theo cách bạn đã bố trí họ trong tác phẩm; và tạo những kích thước và độ lớn được quyết định bằng phép phối cảnh, để cho không thứ gì còn lại trong tác phẩm mà không theo chỉ bảo của lí tính và bởi những hiệu ứng trong tự nhiên. Và điều này sẽ là cách để khiến chính bạn danh tiếng trong nghệ thuật.

Tranh suy bại và giảm giá trị qua các thời khi hoạ sĩ không có tiêu chuẩn nào khác hơn việc mô phỏng những bức tranh đã hoàn thành

Hoạ sĩ sẽ sản sinh những bức tranh ít giá trị nếu lấy tranh người khác làm tiêu chuẩn của mình, còn nếu y nghiên cứu từ tự nhiên y sẽ có thành quả. Như có thể thấy trong tranh sau thời đại La-mã người ta mô phỏng lẫn nhau và vì thế nghệ thuật của họ triền miên bị suy đồi từ thời này sang thời nọ. Sau những thời này, Giotto xuất hiện, người Florence, ông không thoả mãn với việc mô phỏng những tác phẩm của người thầy ông là Cimabue, sinh ra trong vùng núi cô tịch chỉ có những bầy dê và dã thú cư ngụ, và được thiên nhiên dẫn dắt tới nghệ thuật, ông bắt đầu vẽ trên đá những cử động của đàn dê do ông chăn dắt; và như vậy ông bắt đầu vẽ tất cả những động vật nào có thể thấy ở thôn dã, và theo phương cách đó sau khi học tập rất nhiều, ông đã vượt trội không chỉ những hoạ sư trong thời đại của ông mà tất cả những hoạ sư trong nhiều thời đại đã qua. Về sau, nghệ thuật của ông lại bị suy bại, bởi mọi người đều mô phỏng những bức tranh đã xong rồi trong quá khứ; như vậy, nó tiếp tục suy đồi... cho tới Tomaso ở Florence, tên hiệu là Masaccio, chứng minh tác phẩm hoàn hảo của ông mà những kẻ lấy đó làm tiêu chuẩn mà không lấy tự nhiên – người tình của mọi hoạ sư – bản thân họ mỏi mệt vô ích. Và tương tự, tôi muốn nói về những nghiên cứu toán học, có những kẻ chỉ học tập những bậc quyền uy chứ không phải tác phẩm của tự nhiên, thì họ là những hậu duệ chứ không phải con cái của tự nhiên, và tự nhiên vốn là người tình của tất cả mọi kẻ sáng tạo ưu tú. Ôi thật điên rồ những kẻ khiển trách những ai học từ tự nhiên, mà không chỉ trích những bậc uy quyền mà bản thân họ vốn là môn đệ của chính tự nhiên.

Vì thế, hỡi người hoạ sĩ nào không biết những quy luật này, nếu bạn miễn bị chỉ trích bởi những kẻ đã học tập chúng, hãy nhiệt tâm miêu tả mọi thứ dựa theo tự nhiên và chớ khinh miệt sự học tập như thế giống như những kẻ làm việc chỉ vì hám lợi.

Một môn đệ tồi là kẻ không vượt trội được thầy mình.

*

[5] Trong Đàm đạo về đời và tác phẩm của những hoạ sĩ xuất sắc nhất cổ đại và hiện đại (1666) André Félibien viết: "Phải phân chia tác phẩm dài và chăm chỉ này thành ba phần chính. Phần thứ nhất xử lí việc bố cục bao gồm hầu như toàn thể lí thuyết về nghệ thuật. Hai phần khác nói về hình hoạ và tô màu chỉ liên quan đến việc thực hành và thuộc về người thợ, khiến cho những phần này không cao quý bằng phần thứ nhất vốn hoàn toàn tự do và người ta có thể biết mà không cần là hoạ sĩ."

[6] Dante, Địa ngục, XI, 105 "Như thể nghệ thuật là con cháu của Thượng đế."

[7] Theo những truyền thuyền thống xưa, năm giác quan xếp hạng theo thứ bậc về tính cao quý. Thị giác đứng đầu, kế đến là thính giác. Hai giác quan này gắn bó với các bộ môn nghệ thuật của hội hoạ và âm nhạc, và vị thế cao hơn các giác quan thuộc khứu giác, vị giác, và xúc giác.

[8] Mathias Corvinus, Vua nước Hungary, bạn của danh gia Sforza và nhà bảo trợ nghệ thuật và văn chương.