Người phụ trách Văn Việt:

Trịnh Y Thư

Web:

vanviet.info

Blog:

vandoanviet.blogspot.com

Danh ngôn

Trong mọi cộng đồng, chúng ta cần một nhóm thiên thần gây rối.

We need, in every community, a group of angelic troublemakers.

(Bayard Rustin – trích bài phát biểu tại New York City 1963)

Trong mọi trường hợp, chắc chắn rằng sự thiếu hiểu biết, đi kèm với quyền lực, là kẻ thù tàn bạo nhất có thể có của công lý.

It is certain, in any case, that ignorance, allied with power, is the most ferocious enemy justice can have.

(James Baldwin - No Name in the Street 1972)

Các cuộc cách mạng và các cá nhân có thể bị giết hại, nhưng bạn không thể giết chết các ý tưởng.

While revolutionaries and individuals can be murdered, you cannot kill ideas.

(Thomas Sankara, một tuần trước khi bị ám sát, 1987)

Không có cảm giác nào cô đơn hơn việc bị chính đất nước mình trục xuất.

There's not a more lonely feeling than to be banished by my own country.

(Kiyo Sato – Kiyo’s Story 2009)

Ban Biên tập

Địa chỉ liên lạc:

1. Thơ

tho.vanviet.vd@gmail.com

2. Văn

vanviet.van14@gmail.com

3. Nghiên cứu Phê Bình

vanviet.ncpb@gmail.com

4. Vấn đề hôm nay

vanviet.vdhn1@gmail.com

5. Thư bạn đọc

vanviet.tbd14@gmail.com

6. Tư liệu

vanviet.tulieu@gmail.com

7. Văn học Miền Nam 54-75

vanhocmiennam5475@gmail.com

Tra cứu theo tên tác giả

Thứ Tư, 4 tháng 6, 2025

Lịch sử truyền giáo và chữ quốc ngữ (23)

  Thụy Khuê 

 

Chương 11

 Trương Vĩnh Ký (1837-1898)

 

IV- Phạm Quỳnh Chính sách phục hồi chữ quốc ngữ của Pháp

Cuốn sách Trương Vĩnh Ký nhà văn hoá của giáo sư Nguyễn Văn Trung, trong tiểu đoạn tựa đề: Giành lại Trương Vĩnh Ký về phiá Việt Nam, ông cho biết: ông viết sách này với mục đích sửa lại “lỗi lầm” trước 1975 ông đã từng phê phán Phạm Quỳnh và Trương Vĩnh Ký là “bán nước”. Sau hai mươi năm nhìn lại, ông thấy chỉ có Phạm Quỳnh “bán nước”, còn Trương Vĩnh Ký bị oan. Thậm chí ông còn nghĩ rằng người Pháp đã “kéo” Trương Vĩnh Ký, Phan Thanh Giản, kể cả vua Gia Long về phe họ, vậy nếu ta chống lại những người này, tức là ta “mắc mưu” thực dân![1]

Là người không khoan nhượng với chế độ thực dân, năm 1963, giáo sư Nguyễn Văn Trung đã viết cuốn Chủ nghiã thực dân Pháp ở Việt nam Thực chất và Huyền thoại (Nam Sơn xuất bản), tác phẩm này đã giúp cho bao người thấy được mặt trái của chế độ thuộc địa, khâm phục sự điều tra đến nguồn cội của ông về các lý thuyết thực dân. Nhưng lần này, viết về Trương Vĩnh Ký, Nguyễn Văn Trung lại tránh đả động đến hoạt động chính trị của ông và chấp nhận sự hợp tác với Pháp của Trương Vĩnh Ký như một tất yếu của lịch sử. Vì vậy, trước khi đi vào vấn đề chính là sự phục hồi chữ quốc ngữ, chúng tôi muốn sơ lược trở lại sự buộc tội Phạm Quỳnh “bán nước” của Nguyễn Văn Trung và nhiều người khác; đồng thời trình bày sự vận động của Phạm Quỳnh cho trẻ em bậc sơ học ở Bắc và Trung không phải học thẳng tiếng Pháp, và việc ông xây dựng nền tảng đầu tiên cho nền văn học quốc ngữ dựa trên di sản văn hóa Hán Nôm, cách đây hơn một trăm năm.

Khi gặp giáo sư Nguyễn Văn Trung ở Pháp, năm 2000, tôi có nhắc đến cuốn sách Chủ đích Nam Phong của ông và nói đại ý: “Những bài diễn văn của Phạm Quỳnh đọc năm 1922 ở Pháp mà anh trích dẫn trong sách “Chủ đích Nam Phong”[2] anh không đọc kỹ, nên đã buộc tội sai; em đọc, thấy Phạm Quỳnh hết lòng bênh vực tiếng Việt, với lập luận tâm huyết, ông đã xác định nền văn hóa lâu đời của dân tộc qua Ca dao và truyện Kiều và khẩn khoản xin chính quyền Pháp bỏ ý định bắt trẻ nhỏ học thẳng tiếng Pháp”. Giáo sư Nguyễn Văn Trung cười hiền, ông công nhận mình đã viết vội. Ít lâu sau, chúng tôi phỏng vấn ông về Trương Vĩnh Ký trên đài RFI như một kẻ bàng quan vì lúc đó chưa hề nghiên cứu Trương Vĩnh Ký. Còn về Phạm Quỳnh, sau đó chúng tôi viết Vụ án Nam Phong, trong sách Nhân Văn giai phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc[3], để điều chỉnh lại những lời buộc tội sai lầm và vô căn cứ về Nguyễn Bá Trác và Phạm Quỳnh. Ở đây chỉ xin sơ lược tóm tắt lại vấn đề Phạm Quỳnh   mà có lẽ ít người biết:

Lời Phạm Quỳnh: “Tôi sinh ra nước đã mất rồi, còn đâu mà tôi bán?” tiềm ẩn một niềm oan trái bi thương.

Việc đánh tạp chí Nam Phong do Nguyễn Bá Trác và Phạm Quỳnh điều hành, dựa trên sự kiện: Nam Phong ra đời do nghị định ngày 30-12-1916 của Phủ Toàn quyền, và Nam Phong do Louis Marty “sáng lập. Nhưng tất cả các báo quốc ngữ, đều phải có nghị định cho phép của Soái phủ, hoặc phủ Toàn quyền, và phải có người Pháp “quản lý”: Gia Định báo (1865): Ernest Potteaux – đến 1869, Trương Vĩnh Ký. Nông cổ mín đàm (1901): Canavaggio - Lương Khắc Ninh. Đại Việt tân báo (1905): Ernest Babut - Đào Nguyên Phổ. Lục tỉnh Tân văn (1909): Pierre Jeantet - Trần Nhất Thăng. Đăng cổ tùng báo (1907-1908) và Đông Dương tạp chí (1913): Schneider - Nguyễn Văn Vĩnh.

Báo Nam Phong do Louis Marty quản lý, Phạm Quỳnh, Nguyễn Bá Trác, điều hành nằm trong quy luật trên. Trường hợp Nam Phong, vì Louis Marty, được coi là “trùm mật thám”, nên cần hiểu Louis Marty là ai? Tại sao lại có “trùm mật thám” ở trong một tờ báo?

Phạm Thế Ngũ cho biết: 1907, Marty vào ngạch Tham sự hành chánh, làm việc tại Phủ Thống sứ Bắc kỳ. 1914, làm Phụ tá Trưởng phòng chính trị Phủ Toàn quyền, được đặc phái đi Bắc Kinh. 1915, thăng chức Trưởng phòng chính trị, phụ trách việc lấy tin để đối phó với âm mưu tấn công vào Đông Dương do Đức cầm đầu. Về sau, cơ quan gián điệp ấy trở thành Tổng cục an ninh Đông Dương.[4]

Tất cả “tội ác” đều quy vào việc Nam Phong ở dưới sự chỉ đạo của Louis Marty, lúc đó là phụ tá Trưởng phòng Chính trị. Nhưng Marty không chỉ “đỡ đầu” Nam Phong năm 1917, mà đến thập niên 1930, khi làm chức cao hơn, ông ta còn “đỡ đầu cho Đặng Thai Mai và Võ Nguyên Giáp nữa:

Hoàng Văn Chí viết: “Mai [Đặng Thai Mai] và Giáp [Võ Nguyên Giáp] đều là con nuôi” của Louis Marty, Giám đốc Phòng chính trị của phủ toàn quyền. Marty kiếm việc cho Mai dạy học ở trường Gia Long mà giám đốc là Bailey, một người Pháp, và giao Giáp, hãy còn là sinh viên, cho Mai trông coi.”[5].

Đặng Thai Mai viết: “Tôi tham gia đảng Phục Việt, tiền thân của đảng Tân Việt [...] Năm 1932 tôi ra Hà Nội dạy học trường Gia Long, sau dạy ở trường Thăng Long. [...] Ở trường Thăng Long lúc đó có đồng chí Phan Thanh [em họ Phan Khôi], Võ Nguyên Giáp và tôi.[6]

Tóm lại, vai trò của Marty thời Phạm Quỳnh, không khác gì vai trò của Paulin Vial thời Trương Vĩnh Ký. Và nhiệm vụ của Nam Phong cũng không khác gì nhiệm vụ của Gia Định Báo ngày trước, tức là tuyên truyền cho chính quyền thuộc địa.

Trên manchette Nam Phong tạp chí là hàng chữ: “L'Information française” (Thông tin Pháp), và “La France devant le monde. Son rôle dans la guerre des nations” (Nước Pháp trước thế giới. Vai trò của Pháp trong cuộc chiến giữa các nước). Với một “chủ đích như thế, Phạm Quỳnh và Nguyễn Bá Trác, hai công chức của phủ Toàn Quyền, cũng là hai chủ bút quốc ngữ và Hán văn, có thể làm gì được?

Trả lời phỏng vấn của Đào Hùng[7] năm 1931, Phạm Quỳnh cho biết: Trong thế chiến thứ nhất (1914-1918), Đức làm báo chữ Hán để tuyên truyền bên Tàu; Pháp bèn giao cho hai ông Quỳnh và Trác làm tờ “Âu Châu chiến sử”, chữ Hán, viết bài ký tên người Tàu, tuyên truyền cho Pháp, đem sang Tàu phát không. Đến 1917, Phủ Toàn quyền bàn với tôi [Phạm Quỳnh] rằng sẵn có tin tức và bài vở thì nên mở ra một bản quốc văn để làm cơ quan tuyên truyền tin tức trong xứ. Vì thế mà có Nam Phong và Đông Dương tạp chí.

Nguyễn Văn Trung viết cuốn Chủ đích Nam Phong[8] để buộc tội Phạm Quỳnh và để phản bác các quan điểm của Thanh Lãng và Phạm Thế Ngũ bênh vực Phạm Quỳnh. Tiếc rằng, Nguyễn Văn Trung không đem lại điều gì mới hơn các “chủ đích đã in trên đầu tờ báo và đã được Phạm Quỳnh nói rõ từ năm 1931 với Đào Hùng. Giáo sư Nguyễn Văn Trung chỉ đưa ra một số văn thư chính thức của Pháp, khen ngợi Phạm Quỳnh là người bạn tốt của Pháp (như vụ làm báo Âu Châu chiến sử); ông cũng chỉ đọc sơ vài bài viết của Phạm Quỳnh, lựa những câu có thể phê phán được, đưa ra ngoài bối cảnh để buộc tội: tại sao Phạm Quỳnh không chống Pháp mạnh mẽ như Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Phan Văn Trường, Nguyễn Thế Truyền, Nguyễn An Ninh?

Giọng ca tụng Pháp tồi tệ nhất trên Nam Phong là của Tuyết Huy (Dương Bá Trạc)[9] trong Bài ký ngày kỷ niệm quan toàn quyền Sarraut đến Hà Nội[10] và bài Lời mừng cuộc toàn thắng đồng minh[11]. Lời lẽ đáng xấu hổ, gọi Pháp là “mẹ nuôi ta”, coi Nã Phá Luân là “xứ nhà giời”, hoan hô “Đại Pháp muôn năm”, “Quan toàn quyền Sarraut muôn năm”, “Ta chúc nước Lang sa ta vinh quang hách dịch đời đời kiếp kiếp”, nhưng rất lạ là Dương Bá Trạc lại không bị kết tội “bán nước”.

Phạm Quỳnh và Nguyễn Bá Trác (trong phần quốc văn), mà chúng tôi đã đọc, không viết bài nào đáng trách. Bị bắt buộc phải tuyên truyền cho chủ trương Pháp-Việt đề huề của Albert Sarraut, và có lẽ trong thâm tâm ông, cũng ít nhiều tin tưởng vào chủ trương này, nhưng Phạm Quỳnh chỉ đăng diễn văn của Toàn quyền, và khi viết về vấn đề này, thì lời lẽ chừng mực, ít “thân Tây” hơn Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh trong các bài cổ động Pháp-Việt đề huề, đúng như nhận xét của Thanh Lãng.

 

Phạm Quỳnh (1892-1945) và chữ quốc ngữ

Sự vận động của Phạm Quỳnh cho dân ta khỏi phải học chữ Pháp từ nhỏ như các dân tộc châu Phi, bắt đầu từ năm 1922, khi ông sang Pháp, mang theo bản dịch tiếng Pháp truyện Kiều của Nguyễn Văn Vĩnh và đọc 4 bài diễn thuyết bằng tiếng Pháp ở Paris, tại những cơ sở sau đây:

- Trường Sinh ngữ Đông phương (Ecole des Langues Orientales Vivantes, ngày 26-5-1922).

- Trường Thuộc địa (Ecole Coloniale, ngày 31-5-1922).

- Hội Ái hữu Đông phương (Société française des Amis de l'Orient, ngày 5-7-1922).

- Hội Hàn Lâm Luân lý Chính trị học (Académie des Sciences morales et politiques ngày 22-7-1922)

Bốn bài diễn thuyết tiếng Pháp với đề tài khác nhau, đều tập trung về một mối: xác định Việt Nam là một nước có nền văn hóa lâu đời, không thể xoá đi và viết lên trên bất cứ thứ chữ gì của một nền văn hóa khác.

Trong bài diễn văn đọc tại trường Thuộc địa, Phạm Quỳnh nói về sự đô hộ của Pháp (xin tóm tắt ý và dịch):

Nước Pháp đến nước tôi đã nửa thế kỷ, chuyện đã rồi, chúng tôi đành phải chịu. “Nhưng đối với lớp đàn anh chúng tôi, thì chẳng qua quý quốc cũng chỉ là một giống xâm lược mà thôi”, “Trừ là một dân tộc hèn mạt suy đốn, chứ có bao giờ người dân một nước lại giương tay ra đón lấy kẻ ngoại quốc đến cưỡng chiếm nước mình”. Bởi thế nên 20 năm sau khi quý quốc đến chiếm hữu, biết bao nhiêu cuộc nổi dậy chống đối “cũng chỉ vì cái lòng ái quốc bị khổ nhục, lòng căm tức tới tâm gan”.

Sự căm thù khiến chúng tôi coi việc học tiếng Pháp và học vần quốc ngữ do người Tây phương đem lại là một cái nhục. Nhưng dần dần, sĩ phu của chúng tôi cũng phải thừa nhận sự kém yếu của nước mình, và họ đã tìm đọc những tư tưởng của J. J. Rousseau, Montesquieu qua những cuốn Tân Thư của Trung hoa, từ đó phát xuất phong trào Đông du”.

Và Phạm Quỳnh kết luận:

Chúng tôi là một dân tộc cổ kính, có một nền văn hoá lâu đời, ngày nay muốn nhập vào thế giới hiện đại, nhưng dứt khoát không muốn từ bỏ nền văn minh, cái quá khứ mà tổ tiên đã để lại qua nhiều thế kỷ. Chúng tôi muốn là chính mình. Muốn giữ lấy bản sắc của mình, giữ lấy cái quốc hồn quốc tuý của dân tộc mình. Vì sự tình cờ của lịch sử chúng tôi phải chịu sự bảo hộ của nước Pháp. Chúng tôi muốn được nước Pháp giúp đỡ trong cuộc cải cách, bởi nước Pháp là một cường quốc, thông qua lịch sử, luôn luôn góp phần vào công cuộc tranh đấu giải phóng con người[12]. Lời lẽ cực kỳ khôn khéo, không hề khuất phục mà vẫn chinh phục được những người Pháp có lòng.

Hai năm sau, 1924, chính phủ Pháp cho lập bậc ấu học, trong ba năm hoàn toàn học tiếng Việt để lấy bằng Sơ học Yếu lược, ở Trung và Bắc; nhờ đó, chúng ta không trở thành những người Pháp da vàng, và đó là công lao của Phạm Quỳnh. Phạm Thế Ngũ viết:

Đến năm 1924 vì nhiều nguyên nhân chánh trị và cũng vì chiến dịch vận động của Phạm Quỳnh, người Pháp lần đầu ở Bắc và Trung, lập ra một bậc ấu học Việt Nam trong 3 năm hoàn toàn học bằng tiếng Việt để thi lấy bằng Sơ học yếu lược [...] riêng Phạm Quỳnh coi đó như là một thắng lợi trong công cuộc vận động giáo dục, thực hành chủ nghiã quốc gia về đường văn hoá. Cũng như một thắng lợi khác nữa của ông là việc mở một khoa “Ngôn ngữ và văn chương Hán Việt” ở trường Cao đẳng mà ông được cử phụ trách giảng dạy, một thứ mầm mống của Đại Học Văn Khoa sau này.”[13]

Sự khác biệt sâu xa giữa Trương Vĩnh Ký và Phạm Quỳnh là ở chỗ: Trương Vĩnh Ký theo lệnh Pháp, thi hành việc phục hồi chữ quốc ngữ và nêu cao khẩu hiệu “quốc ngữ là chữ nước ta”. Phạm Quỳnh cho rằng: Sự bắt buộc phải dùng chữ quốc ngữ là một điều ô nhục, nhưng ta phải tìm cách để xây dựng một nền Quốc học, dựa trên di sản Hán Nôm, với chữ quốc ngữ.

Trương Vĩnh Ký và Phạm Quỳnh

Rất khó bênh vực việc Trương Vĩnh Ký cộng tác với Pháp, nên hầu như tất cả mọi sự tôn sùng ông đều quy tụ vào điểm: ông có công đầu với chữ quốc ngữ.

Nguyễn Háo Vĩnh là một trường hợp khá tiêu biểu của thời đại ấy, mà văn bản còn tồn tại đến ngày nay. Ông đã từng theo phong trào Duy Tân và Đông Du, rồi trở về nước viết báo và làm chủ nhà xuất bản Xưa Nay, in sách Trương Vĩnh Ký hành trạng của Đặng Thúc Liêng năm 1927. Nhờ bài ông viết, kịch liệt công kích Nam Phong, gửi đến toà báo và được Phạm Quỳnh cho in toàn bộ trên tạp chí Nam Phong số 16, tháng 10-1918 (trang 198-209) mà chúng ta có thể biết được nồng độ của sự tôn sùng này. Bài này được in dưới tựa Thư ngỏ cho chủ bút Nam Phong với lời giới thiệu của Phạm Quỳnh, như sau:

Bản báo mới tiếp được cái thư ngỏ sau này của ông Ng.-H-V, người Nam kỳ, trong thư hết sức bài bác cái lối văn của bản báo, bài bác cả cái Hán-học của nước ta. Tuy lời lẽ lắm chỗ quá đáng -nôm na mách qué- song bản báo cũng vui lòng mà đăng, để cho các bạn đọc báo biết cái dư luận người Nam kỳ thế nào. Vả bản báo muốn giữ cái tôn chỉ mở rộng cho hết thảy mọi người có tư tưởng trong Nam ngoài Bắc, ai muốn nghị luận về đường nào cũng được, dù cái ý kiến trái với bản báo cũng mặc lòng. Ý kiến của người ta mỗi người một khác […] Nay có một ông Nam kỳ  bàn về cái vấn đề ấy rất kỳ khôi […] Cứ in ông ra cho thiên hạ biết, tức là phản đối ông rồi […]

Giọng Phạm Quỳnh hơi có ý chế nhạo, giới thiệu nhưng không trả lời. Bài viết của Nguyễn Háo Vĩnh rất dài (11 trang Nam Phong) chúng tôi xin trích một đoạn tiêu biểu dưới đây:

Khi nhà nước Langsa qua giao thông với nước ta thì trong cõi Nam kỳ nổi lên một người là ông Trương Vĩnh Ký mượn cái xát [xác] Latin mà đựng cái hồn của tiếng Annam còn sót lại. Cái xát Latin ấy là chữ quốc ngữ bây chừ!

Cái hồn của tiếng ta còn sót lại lần lần nhập vào xát mới và trong khoảng năm sáu mươi năm vừa qua rồi, cái xát mới với cái hồn xưa vừa ưa nhau, vừa quen hơi nhau, hiệp sức mà tiêu hóa cái sự phát-ách-tiếng-Chệt ngày xưa vừa được – những người có bụng nước nhà, những người muốn cho tiếng nước ta đứng vững riêng một cõi, chẳng còn làm mọi Tàu nữa, vừa mới hởi lòng khoái dạ, mừng chưa no nổi mừng, nay Chủ bút Nam Phong và các ngài là người chi mà dám gieo sự lo, sự buồn lộn với cái sự vui mừng rất phải, rất đáng khen của ngoài 3 triệu đồng bào trong xứ Nam Kỳ và Nam Vang vậy? Các ngài là người chi mà ra công làm tiếp cái đều [điều] đáng chê, đáng ghét, đáng trừ của người Tàu đã khởi sự mấy nghìn năm trước vậy? Các ngài là người chi mà dám đem chữ Tàu mà thồn, mà nhét, mà ém, mà nện vô trong tiếng Annam, buộc trẻ con Annam phải chịu lấy mà làm tiếng của chúng nó vậy?...[14]

Phạm Quỳnh không trả lời. Chắc ông không muốn “hạ mình” để trả lời một người viết những câu như: “Khi nhà nước Langsa qua giao thông với nước ta”, coi cuộc xâm lăng của Pháp chỉ là cuộc “giao thông” giữa hai nước. Rồi lại viết: “Trương Vĩnh Ký mượn cái xác Latin mà đựng cái hồn của tiếng Annam còn sót lại”, vì ông tưởng tiếng Annam [tiếng Việt] đã chết, phải nhờ cái xác Latin để nhập hồn vào! Ý tưởng này ở một nhà báo kỳ cựu là rất lạ, không lẽ ông Háo Vĩnh lại lầm lộn tiếng Việt với chữ Việt. Bởi tiếng Annam hay tiếng Việt, không bao giờ chết, trừ khi không còn người Việt nào trên trái đất; còn chữ Việt, theo lối viết hình tượng như chữ Nôm, hay theo mẫu tự La tinh như chữ quốc ngữ, chưa chắc chữ nào hay hơn chữ nào; chữ nào đựng được “cái hồn tiếng Annam” như Nguyễn Háo Vĩnh muốn nói.

Phạm Quỳnh không trả lời gì cả, nhưng ông viết trong chú thích số 1, trang 199, về chữ Trương Vĩnh Ký, câu này:

Chưa từng thấy ai nói ông Trương Vĩnh Ký là người đặt ra chữ quốc ngữ. Ông Trương chẳng qua là một nhà làm sách giáo khoa thường cho con nít học mà thôi, đã có công nghiệp gì với tổ quốc, đã từng bao giờ đem cái xác la-tinh mà đựng cái hồn Nam-Việt? Chẳng dám khinh gì người trước, nhưng những bậc danh sĩ nước Nam cứ như ông Trương cả thì cũng không lấy gì làm vẻ vang cho nước lắm” (Q.)[15]

Vì câu này mà Phạm Quỳnh bị “phê bình” trong nhiều năm. Nhưng bây giờ nhìn lại, nhận định của Phạm Quỳnh chưa chắc đã xa rời sự thực.

Phạm Quỳnh và việc xây dựng một nền Quốc học quốc ngữ

Cuộc tranh luận về chữ quốc ngữ trở thành sôi nổi, trên các số Nam Phong 17, 18, 19, trong mục Lời Công Luận. Cuối cùng Phạm Quỳnh đúc kết các ý kiến tham dự trong bài tiểu luận quan trọng tựa đề: Bàn về sự dùng chữ nho trong văn quốc ngữ in trên Nam Phong số 20, tháng 2, 1919 (trang 83-97). Ông tóm tắt vấn đề trong một câu hỏi cần phải trả lời:

Có thể bỏ hết chữ Hán mà chỉ dùng tiếng nôm được không? Nếu không thể bỏ được, thì cách dùng chữ Hán trong quốc văn phải thế nào cho thích hợp?[16]

Nhưng trước khi đi xa, ông giải thích tại sao không thể bỏ chữ Hán được, bằng cách duyệt lại lịch sử nước nhà trong hai ngàn năm dùng chữ Hán:

Trước kia quốc văn tức là Hán văn, Hán văn tức là quốc văn, tự nhiên như vậy, không ai bận lòng mà phân biệt chữ nào là chữ ngoài, tiếng nào là tiếng mình, chỉ biết có văn thì duy có Hán văn mà thôi, mà nôm là lời tục trong dân gian của những kẻ không biết chữ” (trang 85).

Ngày nay, khi ta dùng Đại Nam Quấc Âm tự vị của Huỳnh Tịnh Của, bên cạnh mỗi chữ ông đều ghi rõ nguồn gốc là Hán hay nôm, ta mới thấy, tiếng nói của chúng ta nhiều Hán hơn nôm!

Bài luận trình của Phạm Quỳnh khá dài, phần nào đọc cũng lôi cuốn, không thể trích dẫn hết được, ý chính của ông: Chữ Hán đã đi sâu vào lòng dân tộc trong hai ngàn năm và trở thành “chữ ta”, “Con khóc cha cũng làm văn tế bằng chữ nho, chồng dặn vợ cũng viết thơ từ bằng chữ nho” (trang 85), vậy nếu muốn xây dựng một nền Quốc học quốc ngữ, không thể bỏ chữ Hán, vì chữ nho (Hán) là chữ nước ta từ hai ngàn năm nay, ông viết:

Ngày nay [1919] những người phản đối chữ nho thường lấy hai cớ như sau này:

- Một là, chữ nho là chữ của người Tàu, người Tàu trong bao lâu đã áp chế dân mình […] cớ chi lại còn học chữ Tàu, dùng chữ Tàu, để chịu lấy cái áp chế vô hình của chúng nó nữa? Người nào bàn như vậy là lẫn lộn việc văn tự với chính trị và kinh tế [...] Ta đã giải rõ trên kia rằng chữ nho là một thứ “tử văn” chung có cả các nước Á Đông đã chịu văn hóa của nho học. Ta học chữ nho không phải là chịu áp chế của người Tàu, tức cũng như người Âu châu học chữ La-tinh không phải là chịu áp chế của người Ý Đại Lợi ngày nay. Ta học chữ nho mà thử giở trong quốc sử coi, biết bao phen ta đánh Tàu siểng liểng, đuổi nó ra khỏi bờ cõi nước ta? Xét đến cái vấn đề này phải phân biệt rõ ràng, không nên lẫn việc nọ với việc kia mà làm cho người ta rối trí.

- Hai là, nước ta trong hai nghìn năm theo đòi nho học của Tàu, mà đến đời nay trước khi nước Đại Pháp sang khai hóa, thế nước yếu hèn như vậy, dân trí bán khai như vậy, phần nhiều là tại nho học. Nho học đã chẳng ra gì, mình còn đâm đầu vào học chữ nho làm gì nữa?

Những người nào nói như thế thật là không có cái tư tưởng gì về lịch sử. Và là bội bạc với tiền nhân. Không biết rằng nước mình được như ngày này, đã từng có một cuộc lịch sử cũng lắm đoạn vẻ vang chẳng kém gì người, thật là nhờ ở nho học nhiều. Những bậc anh hùng hào kiệt, chí sĩ, cao nhân, hiển vinh cho nước, bởi đâu mà đã làm nên sự nghiệp to lớn, bởi đâu mà đã để lại danh tiếng thơm tho? Chẳng phải là nhờ nho học mấy đời đoàn luyện mới nên ư? Chẳng phải là nho học đã gây dựng ra gia tộc, ra xã hội, ra quốc gia ta ư?”.[17]

Trong những lập luận hoàn toàn theo Pháp (ở miền Nam), có những ý muốn chối bỏ hẳn nền văn hoá Việt Nam và đề nghị học thẳng tiếng Pháp từ nhỏ để được “tiến bộ” nhanh hơn, cho nên trên Nam Phong số 21 có bài Chữ Pháp có dùng làm quốc văn An nam được không? của quan Tri phủ Hà Đông, Nguyễn Tất Tế; bài này ông viết từ năm 1915, nay nhân dịp tranh luận, cho in trên Nam Phong, nội dung bác bỏ việc chính quyền Pháp dự định cho chữ Pháp thay thế chữ nho. Ông dùng sử để chứng minh: nước ta học chữ Hán mà không hề theo Tàu, từ đời Sĩ Nhiếp. Ông đề nghị một chính sách giáo dục: dạy trẻ nhỏ chữ quốc ngữ, nhưng mỗi tuần phải có vài giờ học chữ nho, vài giờ học chữ Pháp. Trong bài này có một câu ông kể lại tình hình năm 1919, ở ngoài Bắc, đối với chữ quốc ngữ:

Nhiều khi tôi bảo các tổng sư dạy trẻ thuần bằng quốc ngữ, cho trẻ chóng khôn, không cần học nho, thì bố mẹ đem ngay con về tìm thầy khác dạy; hỏi cớ sao thế? Người ta đáp rằng: “Quốc ngữ mất dấu, chữ nọ ra chữ kia, nếu không học nho, chắc sau con cháu lẫn cả tên ông vải”. Thế mới biết chữ nho có nhiều mối vấn vít, làm cho dân gỡ không ra[18].

Phạm Quỳnh chủ trương: phải học chữ Hán nhưng không học lối phiền phức của các cụ thời trước, cũng không cần học nhiều, chỉ “học sơ sơ cho biết những chữ cần dùng cùng những lề lối thường của Hán văn mà thôi, để lâm thời có thể mượn mà dùng trong quốc văn được, và khi đọc những thơ văn nôm của người trước để lại có thể thông hiểu được. Phép học như vậy tưởng không khó gì, chỉ một vài năm là thông thông, đủ đọc được những sách tầm thường bằng Hán văn. Thế là đủ, không cần phải học hơn nữa[19].

Và đó cũng là cách người Pháp học chữ La Tinh, Hy Lạp, để biết sâu hơn về chữ Pháp.

Tóm lại, theo Phạm Quỳnh, biết chữ Hán để hiểu Kim Vân Kiều, Lục Vân Tiên và để viết tiếng Việt... cho giỏi. Sau đó, ông chỉ cách đưa một chữ Hán như thế nào vào văn nôm cho hay, cho hợp, tức là: viết văn, nếu bạn biết đưa vào một vài chữ Hán đúng chỗ, câu văn sẽ sang trọng hơn. Và khi phải viết những bài luận văn có trình độ khoa học về bất cứ ngành nào, càng phải biết dùng chữ Hán, mới có những chữ chính xác và phù hợp.

Những lời khuyên của Phạm Quỳnh ngày nay vẫn còn nguyên giá trị. Ngày trước, Khái Hưng trong Tự Lực văn đoàn, vì biết chữ Hán, văn ông có trình độ cao hơn văn những người trong văn đoàn chỉ biết chữ Tây, điều này rất rõ trong Hồn bướm mơ tiên, Tiêu Sơn tráng sĩ...

Một vấn đề lớn hơn: Tại sao chữ quốc ngữ khởi phát trở lại ở trong Nam, với Gia Định Báo, nửa thế kỷ trước ngoài Bắc, mà văn chương quốc ngữ ở trong Nam, không phát triển được như ngoài Bắc, trừ Hồ Biểu Chánh, thâm nho. Phải chăng vì người Nam bị đô hộ trước, rồi lại bị ảnh hưởng mạnh dòng tư tưởng cực đoan của những người như Nguyễn Háo Vĩnh, muốn thủ tiêu hoàn toàn nền nho học, thậm chí có người còn muốn bỏ hẳn chữ quốc ngữ để chỉ học chữ Tây tân tiến mà thôi, cho nên miền Nam đã không phát triển được nền văn học quốc ngữ như miền Bắc từng làm trong nửa đầu thế kỷ XX? Câu hỏi này thuộc về lịch sử.

Khi tìm tài liệu về Trương Vĩnh Ký, chúng tôi để ý đến sự kiện này: Tại sao Trương Vĩnh Ký, được giới văn học một thời tôn là một “nhà bác học lừng danh”, mà trong toàn bộ Tập san  Bulletin de la Société des Amis du Vieux Huế (BAVH, Tập san Đô Thành Hiếu Cổ) do linh mục học giả Cadière chủ biên, suốt 30 năm hiện diện, từ 1914 đến 1944, không có bài nào viết về Trương Vĩnh Ký, mặc dù Cadière là một học giả uyên thâm và Trương Vĩnh Ký đã tích cực quảng bá chữ quốc ngữ, dù làm theo chỉ thị của Pháp. Và cũng không thể tin một người như Cadière lại không biết đến Trương Vĩnh Ký như một cộng sự viên đắc lực của Pháp, về mọi mặt từ những ngày đầu cuộc chiến. Vì vậy, chúng tôi đoán rằng: sự cộng tác với đối phương, trong khi hai bên đánh nhau, với bất cứ cá nhân nào, ở bên này hay bên kia, đều khó chấp nhận được. Ngoài ra có lẽ Cadière cũng như Phạm Quỳnh, chỉ coi Trương Vĩnh Ký, như người viết sách giáo khoa cho trẻ nhỏ.

Bây giờ, xin bàn đến chủ đề thứ hai của chương này: Cho tới nay, Trương Vĩnh Ký vẫn được coi là người chủ trương việc phục hồi chữ quốc ngữ, nhưng sự thật ai là người quyết định việc này?

 

Thống sứ de la Grandière quyết định phục hồi chữ quốc ngữ

Paulin Vial (1831-1907), tốt nghiệp Trường Hải quân (Ecole Navale) năm 1847. Lên chức Đại úy Hải quân (Lieutenant de vaisseau) ngày 26-8-1861. Không biết rõ ông đến Nam Kỳ ngày nào, nhưng chắc chắn vào khoảng cuối năm 1865, vì ngày 15-1-1866, ông đã viết lá thư gửi quan bố Sài Gòn, về việc chữ Hán, như ta sẽ thấy ở dưới. Ngày 1-1-1869, ông nhậm chức Giám đốc Nội Vụ (Directeur de L'Intérieur) dưới quyền Thống sứ Trung tướng de la Grandière. Là Giám đốc Nội vụ, tiếng Việt gọi là quan Thượng Thơ, Vial có quyền hành bao trùm cả xứ Nam Kỳ. Sau khi Pháp chiếm Bắc Kỳ, ông làm Công sứ Bắc kỳ. Rồi khi Thống sứ Paul Bert từ trần, ông thay thế, làm Thống sứ từ 12-11-1886 đến 28-1-1887. Sau đó ông trở lại Hải quân. Có thể nói Paulin Vial đã ở vị trí những người cầm quyền tại Việt Nam khoảng 22 năm. Paulin Vial là người đã loại Trương Vĩnh Ký khỏi chính trường thuộc địa năm 1886.

Ông còn là tác giả bộ sử Les premières années de la Cochinchine, Colonie française (Những năm đầu tiên của Nam Kỳ, Thuộc địa Pháp), gồm hai tập, do Nxb Challamel Ainé, in năm 1874 ở Paris, tập hai viết về Bắc Kỳ, in sau, chỉ có tập 1 được đưa lên thư viện Gallica Pháp.

Cuốn Những năm đầu tiên của Nam Kỳ, Thuộc địa Pháp, chứng tỏ Vial biết rất rõ Nam Kỳ, biết sự giàu có về tài nguyên và địa lý thuận lợi nhiều sông ngòi của nước ta, đồng thời ông phô trương tính cách thượng đẳng của người Âu và cuộc đi thực dân đã đem lại tất cả những loại “thức ăn” bổ dưỡng dồi dào như thế nào cho nước Pháp, ông kiêu hãnh viết: “Việc chiếm Nam Kỳ là một trong những dữ kiện quan trọng nhất của lịch sử hàng hải nước ta” (L'occupation de la Basse Cochinchine est un des faits les plus considérables de notre histoite maritime) (trang 25).

Là Giám đốc nội vụ dưới thời de la Grandière, Vial là người đầu tiên ghi chép nhiều thông tin nhất về thời kỳ này, đặc biệt vai trò của de la Grandière trong việc truyền bá chữ quốc ngữ.

Pierre-Paul de la Grandière (1807-1876) Trung tướng, Thống đốc Nam Kỳ từ 1863 đến 1868[20], người đã chiếm nốt ba tỉnh Vĩnh Long, Châu Đốc, Hà Tiên, năm 1867, và được các tác giả Pháp đồng loạt coi là người có đại công “tạo ra Nam Kỳ” cho nước Pháp.

Tuy ngày 1-1-1869, mới nhận chức Giám đốc Nội vụ, nhưng Paulin Vial đến Nam Kỳ từ năm 1865. Tác phẩm của ông, quyển 1, phản ảnh toàn bộ bối cảnh lịch sử ấy và đưa ra nhiều thông tin quan trọng, chúng ta sẽ có dịp dùng tới, nhưng ở đây, chúng tôi chỉ chú ý đến những điều ông viết về chữ quốc ngữ, và qua đó, ta thấy Thống sứ de la Grandière là nguời đã quyết định việc hồi sinh chữ quốc ngữ và chắc chắn cũng là người quyết định cho ra đời Gia Định Báo, tờ báo quốc ngữ đầu tiên ở Nam Kỳ, số 1 ra ngày 15-4-1865.

Có hai tài liệu do Paulin Vial viết về vấn đề phục hồi chữ quốc ngữ:

1- Jean Bouchot, trong cuốn Un savant et un patriote cochinchinois - Petrus J.B Truong Vinh Ky (1837-1898) (Một nhà bác học và nhà ái quốc Nam Kỳ - Petrus J.B Trương Vĩnh Ký 1837-1898), cho in lại lá thư của Giám đốc Nội vụ Paulin Vial gửi cho quan bố Sài Gòn (quan-bo de Saigon) đề ngày 15-1-1866, trong có câu:

Ngay từ những ngày đầu, chúng ta đã nhận thấy rằng chữ Hán là một rào cản nữa giữa chúng ta và người bản xứ; giáo dục bằng chữ tượng hình hoàn toàn ngoài khả năng của chúng ta, thứ chữ này rất khó chép lại để chuyển cho dân chúng những điều họ cần biết, về  tình trạng chính trị và thương mại mới của họ... Vì thế chúng ta bắt buộc phải theo truyền thống giáo dục riêng của ta: đó là lối duy nhất có thể làm cho chúng ta gần người Annam ở thuộc địa bằng cách in vào trí họ những nguyên tắc của nền văn minh Âu châutách họ ra khỏi ảnh hưởng thù nghịch của các nước láng giềng.[21]

Đoạn thư này nói lên nguyên nhân tại sao người Pháp phải dùng chữ quốc ngữ:

1- Chữ Hán [và chữ nôm] người Pháp không thể học, để cai trị được.

2- Họ muốn thay văn hoá cổ truyền Việt Nam bằng văn hóa Pháp.

3- Bằng cách tiêu diệt nho học, để người dân không còn cách tiếp cận, và vô hiệu hoá thành phần nhà nho.

Nhưng Paulin Vial đã lái câu văn: “thứ chữ quốc ngữ này sẽ tách người bản xứ ra khỏi ảnh hưởng của các nhà nho là kẻ thù nghịch của chúng ta” thành câu: thứ chữ quốc ngữ này sẽ tách họ ra khỏi ảnh hưởng thù nghịch của các nước láng giềng, để nếu, tài liệu này lọt ra ngoài, cũng không ai có cớ cáo buộc nhà nước Pháp muốn diệt chữ nôm, chữ Hán để triệt hạ nhà nho, mặc dù ai cũng biết: ngoài nhà nho thì làm gì có những “nước láng giềng thù nghịch” với Pháp ở cạnh Việt Nam lúc bấy giờ.

Cho nên ta có thể coi lá thư của Paulin Vial là bằng chứng về nguồn gốc của lệnh truyền bá chữ quốc ngữ tại Nam Kỳ.

Trong cuốn sử Les premières années de la Cochinchine, Colonie française (Những năm đầu tiên của Nam Kỳ, Thuộc địa Pháp), Paulin Vial trình bày sâu rộng hơn về tiến trình thực hiện việc truyền bá quốc ngữ, từ giữa năm 1864, tại Nam Kỳ, ông viết:

Việc thành lập những trường tiểu học đầu tiên của ta ngày 16-7-1864 là một biến cố quan trọng. Cũng như vị tiền nhiệm [Bonard] Đô đốc de la Grandière đã bị tổn hại nặng nề vì những khó khăn cực kỳ mà người Pháp gặp phải khi muốn tiếp xúc trực tiếp với người bản xứ.

Tiếng Annam viết bằng chữ Hán [chinois], theo lối tượng hình Ai Cập [hiéroglyphique] hay nói đúng hơn là lối tượng hình biểu ý [idiographique] mà mỗi chữ có nghiã riêng để diễn tả một tiếng hay một ý, lại bội phân. Phải nhiều năm học cật lực mới có thể đọc và viết được chữ Hán. Người ta kể chỉ có ba hay bốn người Âu đạt được tri thức này mà chính người Tàu cũng không hoàn toàn thành thạo. Vì vậy, các nhân viên cai trị và quan toà, cần phải có thông ngôn để nói với người An Nam và cần nho sĩ để hiểu được những văn bản chính thức liên quan đến công việc của họ; những người trung gian này là người Á châu, không bảo đảm và dùng họ rất mất thì giờ.

Từ lâu, trong gần hai thế kỷ, những vị thừa sai của chúng ta đã phát minh ra việc dùng mẫu tự La tinh để ghi âm tiếng Việt. Họ đã bổ túc vào số mẫu tự La-tinh nhỏ bé bằng những dấu để biểu hiện những âm thanh khác nhau và đa diện [multipliées] của tiếng Việt. Họ đã dạy lối viết này trong các cơ sở, các trường trung học của họ ở Pulo-Pinang, và nhờ sự giúp đỡ của họ, những thừa sai từ châu Âu đến, đã học nói khá nhanh ngôn ngữ thông thường; phần đông không phải mất thì giờ học chữ Hán nữa; lại có một tủ sách đạo quan trọng do Hội Thừa Sai in ra, công trình lớn lao này biểu dương việc làm vất vả của nhiều thế hệ tông đồ cam đảm của chúng ta, mới đủ đảm bảo việc dạy dỗ cả một giáo đoàn đông đảo có trách nhiệm cai quản gần sáu trăm nghìn giáo dân.

Đô đốc de la Grandière nhất quyết truyền bá chữ viết mới này cho dân chúng ở thuộc địa, chỉ cần học vài bài là lãnh hội được; họ có thể giao tiếp dễ dàng và trực tiếp với những công chức Pháp, mà phần lớn đều biết thứ chữ này rồi, và họ sẽ thoát khỏi ảnh hưởng thù nghịch của bọn nhà nho.

Đô đốc quyết định mở trường học miễn phí, dưới sự chăm sóc của chính quyền tại những nơi quan trọng nhất. Phải dạy đọc và viết tiếng thông tục bằng lối viết với mẫu tự Âu châu, và cho học thêm một vài khái niệm cơ bản về số học và đo lường.

Nhờ sự khuyến khích của quan toàn quyền, nhờ vào những cố gắng kiên trì của những sĩ quan tuỳ viên trực thuộc chính quyền, ta đã hình thành trong vài năm một nền giáo dục hữu ích và thực tiễn mà kết quả thấy rõ. Những ngày đầu, ta còn phải tranh đấu chống lại sự phản đối và ngờ vực, nhưng dần dần người bản xứ đã tách rời chữ viết cổ xưa và thành kiến do văn minh Hán đem lại, càng ngày họ càng gần hơn với tư tưởng của chúng ta và nền văn minh phương Tây, họ bỏ rơi không thương tiếc sợi dây xích trói họ với quá khứ”.[22]

Những dòng trên đây mô tả rất rõ chính sách và tình trạng truyền bá quốc ngữ thời đó: xác định việc bắt buộc học chữ quốc ngữ là quyết định của chính quyền thuộc địa, với một sách lược rõ ràng, bắt đầu học ở các lớp tiểu học, với sự cộng tác của các thừa sai, và là một chính sách toàn diện, vì việc dạy chữ quốc ngữ không chỉ thực hiện ở toàn thể Nam Kỳ thuộc địa, mà như ta sẽ thấy, tại Paris bảy năm sau, ngày 8-11-1871, Pháp cũng mở lớp dạy tiếng Việt ở trường Sinh ngữ Đông phương Paris (l'École des Langues Orientales Vivantes) nên phần lớn công chức Pháp sang Việt Nam, không cần phải học tiếng Việt tại trường đạo Pinang nữa.

Những khó khăn trong việc “hồi sinhchữ quốc ngữ

Phạm Thế Ngũ tóm tắt tình hình tái hiện chữ quốc ngữ, như sau:

Người Pháp đến Nam Kỳ trước. Đến để dựng cuộc đô hộ nhưng cũng đến để bảo vệ giáo dân, để đưa đạo Gia Tô lên một địa vị chính thức. Và cũng đến để đưa thứ Việt tự la tinh, sáng chế riêng của mấy ông giáo sĩ người Âu lên địa vị văn tự quốc gia Việt Nam sau này. Chủ tâm của người Pháp ngay sau khi mới bước chân vào xứ này là cắt đứt những liên lạc văn hóa giữa người Việt với người Tàu, với quá khứ Việt Nam nặng nề Hán học. Đối với họ, chữ Hán, chữ Nôm cũng vậy mà thôi, là chữ Tàu hết. Họ thấy muốn kéo tinh thần dân chúng về với người Tây, cần phải triệt bỏ thứ văn tự kỳ khôi ấy, dạy cho dân chúng chữ Pháp, hoặc nếu cần một văn tự cho tiếng nói bản xứ thì là chữ quốc ngữ đã sẵn sàng đó và cùng một họ mẫu tự la tinh.

Trong chủ trương ấy, việc đầu tiên của họ là dựng những cơ sở văn hóa để truyền bá chữ Pháp và chữ Việt la tinh. Ngay năm 1861, đô đốc Charner đã ký nghị định (ngày 8-5) lập trường Collège d'Adran để đào luyện người Việt Nam làm thông ngôn và cả người Pháp muốn học tiếng Việt. Trường này trước giao cho linh mục Croc là viên thông ngôn của chính đô đốc Charner, sau từ 1866 đến 1868 [1869] giao cho Trương Vĩnh Ký quản đốc. Năm 1865, chính phủ Sài gòn lại cho ra đời tờ Công báo Việt Nam đầu tiên viết bằng tiếng Việt quốc ngữ (Gia Định báo) và đến năm 1868 [1869] cũng giao cho Trương Vĩnh Ký trông nom. Văn quốc ngữ từ đây chính thức ra đời. Chữ quốc ngữ được tuyên truyền và ca tụng. Cả những người thuộc phái cựu học như Tôn Thọ Tường cũng quay ra học. Người ta đọc thấy trong Gia Định báo số 4 ngày 15-4-1867:

“Thầy Ký dạy học có làm sách mẹo dạy tiếng Lang Sa, có làm ra chữ quốc ngữ (sic) để người ta dễ học. Những người ký lục giỏi cùng siêng năng sẽ lo mà học chữ quốc ngữ vì có hai mươi bốn chữ mà viết đặng muôn ngàn chuyện, chữ chi mắc rẻ cũng viết đặng, không phải như chữ Tàu học già đời mà còn có chữ lạ viết không ra, ở đây có Phủ Tường đã học đặng chữ quốc ngữ, viết đặng đọc đặng. Chữ ấy chẳng khó đâu, ra công học một đôi tháng thì thuộc hết.’[23]

Những lời viết trên Gia Định báo ra ngày 15-4-1867, được Phạm Thế Ngũ trích dẫn trên đây, rất đáng chú ý, nhất là câu: “Thầy Ký dạy học có làm sách mẹo dạy tiếng Lang Sa, có làm ra chữ quốc ngữ (sic) để người ta dễ học”, như vậy thời ấy người ta tưởng Trương Vĩnh Ký làm ra chữ quốc ngữ.

Theo Phạm Thế Ngũ, việc truyền bá quốc ngữ ở Nam Kỳ gặp nhiều khó khăn, một số người Việt gọi là “quốc ngữ Tàu” bởi thay vì phiên âm tiếng Việt (ròng), thì lại đi phiên âm một lô chữ Tàu (chữ nho), nếu không học trước thì không hiểu gì cả.

Báo Le Saigonnais ngày 10-12-1885 đăng một kiến nghị của người bản xứ xin Hội đồng thuộc địa can thiệp để triệt bỏ nó.

Một giới Pháp cũng không ngớt đả đảo nó, bởi vì nó không giúp ích cho việc truyền bá chữ Pháp. Nó được người Bồ chế ra theo lối ghép vần Bồ ngữ. Người Việt biết nó không thể lợi dụng để đọc chữ Pháp được. Ngược lại, người Pháp đọc nó theo vần Pháp cũng đọc trật hết, do đó gây ra những lầm lộn buồn cười (nhất là đối với những địa danh nhân danh). Nhiều người như E. Aymonier, đề nghị một cách ghép vần mới, Dumuotier gọi nó là một thứ con hoang [système bâtard][24]

Phạm Quỳnh trong bài diễn văn đọc tại trường Thuộc địa ở Paris năm 1922 (đã trích dẫn ở trên) nói thẳng rằng: “Sự căm thù khiến chúng tôi coi việc học tiếng Pháp và học vần quốc ngữ do người Tây phương đem lại là một cái nhục”.

Trần Văn Chi, trong bài Gia Định Báo[25]  tìm được hai câu ca dao, xuất hiện trong Nam, chống lại việc [bị bắt] học chữ quốc ngữ:

Anh về học lấy chữ Nhu [Nho],

Chín trăng em đợi, mười thu em chờ[26]

Như thế, trong thời điểm 1864, khi người Pháp ra lệnh bắt học chữ quốc ngữ, không mấy ai coi chữ quốc ngữ là phương tiện “tiếp nhận văn hóa Tây phương”, như một số người sau này hằng tuởng. Chỉ vì bị bắt buộc phải học chữ quốc ngữ, cho nên chúng tôi đã xây dựng thành một nền Quốc học, đúng như lời Phạm Quỳnh.

Trương Vĩnh Ký  và Richard Cortambert

Như Paulin Vial đã trình bày rõ ràng: Chỉ thị của de la Grandière cho mở trường tiểu học, dạy chữ quốc ngữ ở trong Nam từ 1864. Nhưng dân chúng và dường như cả phần đông giới nghiên cứu cũng không biết sự thực này, nên vẫn tin rằng đó là do Trương Vĩnh Ký “làm ra” để “hội nhập Việt Nam vào với thế giới”, nói theo ngôn ngữ bây giờ.

Vì vậy, trước khi đi xa hơn, còn có một vấn đề, tưởng như ngoài lề, không cần nói tới, nhưng xét kỹ lại là cơ bản, vì đã làm cho nhiều người Việt tin rằng Trương Vĩnh Ký đã “bàn luận” với “học giả” Richard Cortambert từ chuyến đi Pháp, 1863, về việc “tái lập” chữ quốc ngữ nên chúng tôi thấy cần phải trở lại với chuyến đi Pháp này.

Thực vậy, Trần Văn Chi, trong bài nghiên cứu Gia Định Báo, đã viết một câu quả quyết: “Thái độ ủng hộ việc truyền bá học thuật bằng ký tự La tinh này đã được ông [Trương Vĩnh Ký] thể hiện với Richard Cortambert ngay từ chuyến công du sang Pháp”.[27] Và có những bài viết khác trong cùng chiều hướng. Cho nên ta cần phải tìm hiểu rõ: Trương Vĩnh Ký đã làm gì cùng Richard Cortambert trong chuyến đi Pháp với phái đoàn Phan Thanh Giản.

Trước tiên, đây là cuộc gặp gỡ có thật của Trương Vĩnh Ký với một người Pháp trong giới cầm bút, Richard Cortambert đã hết sức ca tụng thiên tài Trương Vĩnh Ký, từ năm 1863, tức là trước Jean Bouchot 62 năm, với ý đồ hoàn toàn khác.

Vậy nếu muốn hiểu sự ca tụng này, ta cần phải đọc bài: Impressions des Annamites en Europe: L'interprète Trương Vĩnh Ký (Cảm tưởng của những người An Nam ở Âu châu: Nhà thông ngôn Trương Vĩnh Ký) của Richard Cortambert, in trong cuốn Impressions d'un japonais en France, suivies des impressions des annamites en Europe (Cảm tưởng của một người Nhật ở Pháp, kèm theo bài Cảm tưởng của những người An Nam ở Âu châu), do Nhà xuất bản Achille Faure in tại Paris năm 1864.

Richard Cortambert, là nhà địa dư, sinh năm 1836, hơn Trương Vĩnh Ký một tuổi (năm 1863, Cortambert 27, Ký 26 tuổi). Cortambert lúc đó còn là nhà báo, có lẽ đang tìm một đề tài “ăn khách”; và loại ký sự về người Á châu là một thứ của lạ (exotique) khan hiếm ở Âu châu. Cortambert bèn nhờ một người bạn tên là Henri Bineteau giới thiệu với phái đoàn Phan Thanh Giản, hiện đang ngụ tại một khách sạn ở đường Lord Bryon, Paris. Nói là để “gặp gỡ phái đoàn”, nhưng rút cục Cortambert chỉ nhắm vào Trương Vĩnh Ký, người thông ngôn, mà qua câu chào hỏi đầu tiên, đã thấy Ký nói tiếng Pháp khá (il m'adresse une phrase d'accueil en français très correct). Cuốn sách Cảm tưởng của một người Nhật ở Pháp, kèm theo bài Cảm tưởng của những người An Nam ở Âu châu được hình thành như thế này: Cortambert, tìm cách giao du thân mật với Trương Vĩnh Ký để có đủ tài liệu viết bài về An Nam. Mấy tuần sau, tìm gặp tay thông ngôn của sứ thần Nhật, người Hoà Lan, nhờ hắn mà anh ta “xoáy” được tập bản thảo của vị sứ thần, rồi chập cả hai lại và in thành sách.

Cortambert không ngần ngại kể lại câu chuyện lừa đảo này trong bài Tựa: Tên thông ngôn Hòa Lan cho anh ta biết sứ thần Nhật, Kouen-fou, có tập hồi ký viết về nước Pháp, giữ kín, định đem về Nhật đăng báo Myako. Anh ta bèn mua ba giỏ (panier) rượu champagne hạng sang, đút lót tên Hoà Lan này, nhờ hắn “mượn giùm” bản thảo đọc nghe chơi; tay thông ngôn dẫn vị đại sứ đến nhà Cortambert, anh ta bố trí cho người dẫn ông đại xứ đi xem Opéra, còn anh ta và vài người thân ở nhà nghe tên thông ngôn đọc (và dịch) hồi ký, anh ta đã mượn sẵn một người viết tốc ký ngồi sau màn, nghe và chép lại, thế là xong.

Phái đoàn Phan Thanh Giản phải chờ 2 tháng mới được tiếp kiến Napoléon III; trong thời gian này, Cortambert làm thân với Trương Vĩnh Ký. Ký kể cho anh ta nghe: “Các thừa sai dạy tôi tiếng La Tinh và Hy Lạp từ thủa nhỏ; sau đó tôi học tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Y Pha Nho với các cha người ba xứ này, và dĩ nhiên, tôi thêm vào tiếng Tàu, một chút tiếng Phạn và vài thổ ngữ của nước tôi” (trang 183), và còn cho anh ta xem bản dịch sang tiếng La tinh một cuốn sách, ban đầu Ký viết tiếng Việt, về bản chất Thánh thiện của chúa Giê-su và nhờ anh ta tìm nơi in. Cortambert viết:

Anh ta trở lại với thần học, và, cho tôi xem một tập bản thảo dày khoảng ngàn trang, văn phong vững vàng và điêu luyện, anh ta nói với tôi bằng một giọng khiêm tốn tuyệt vời của một tác giả trẻ – một thứ khiêm tốn nhẹ pha chút tự ái – rằng để chuẩn bị cho chuyến đi đến một xứ văn học và công giáo như nước Pháp, anh ta đã dịch sang tiếng La tinh một tác phẩm mà ban đầu anh viết bằng tiếng Việt. Anh ta nói thêm rằng cuốn sách của anh ta chủ yếu viết về tính thánh thiện của chúa Giê-su.[28]

Cortambert cảm thấy buồn: Cuộc đời của thánh Chúa được đứa con yêu, ở Viễn Đông xa xăm, ngoại giáo, tôn vinh, nhưng ở Pháp người ta lại chỉ tranh nhau mua những sách tố giác Đức Thánh Cha, nên Cortambert phải giải thích cho Ký hiểu: anh chỉ có thể trích vài đoạn đăng báo chứ chẳng ai mua một cuốn sách tiếng La tinh viết về chúa Giê-su trong lúc này!

Bài viết Cảm tưởng của những người An Nam ở Âu châu: Nhà thông ngôn Trương Vĩnh Ký của Cortambert, có hai phần:

Phần đầu tác giả viết về thiên tài Trương Vĩnh Ký. Cortambert có vẻ rất phục người thông ngôn trẻ này, khen ngợi hết mình, bởi Ký có văn hóa, bề ngoài nho nhã. Cortambert đã thấy Ký trao đổi với một “nhà ngữ học chuyên về lịch sử Phật giáo” và đã cho ông này những “bài học” quý giá. Rồi Ký lại được một ông Bộ trưởng giới thiệu với nhà La tinh học hàng đầu của Pháp, chỉ qua một lúc đàm luận, ông này ú ớ không nói được tiếng La tinh nữa, phải quay về tiếng Pháp, trong khi Ký vẫn tiếp tục nói tiếng La Tinh một cách thoải mái và thắng thế trong cuộc tranh luận.

Phần sau, là bản “tường trình” của Trương Vĩnh Ký viết cảm tưởng của mình và của những người Việt, đến Pháp.

Cortambert đề cao Trương Vĩnh Ký hết mực, còn những người trong phái đoàn, được mô tả rất khác. Khi đến khách sạn, trước hết, Cortambert nhìn thấy: “Một người Nam Kỳ nét mặt xảo trá, mắt hấp háy, dẫn tôi qua nhiều phòng, thấy những thằng cu-li nằm ngủ trong góc như những con chó trong chuồng” (Un jeune Cochinchinois à la physionomie chafouine au yeux clignotants me conduisit à travers plusieurs chambres où des coulis dormaient dans les coins comme des chiens au chenil) (trang 181). Những “thằng cu li nằm ngủ như chó trong chuồng” này là 25 người lính và nhân công (khuân vác và làm bếp) của phái đoàn Phan Thanh Giản. Trương Vĩnh Ký hiện ra, khác hẳn những người đồng loại: một người nho nhã, một nhà bác học (un savant) đã viết ngàn trang sách về Đức Chúa Giê-Su bằng chữ La tinh. Nhưng khi Ký giới thiệu với Cortambert một “người em” (mon frère)[29] mà Ký khen là đẹp, người em này được mô tả như sau:

Người em Trương Vĩnh Ký mập ú như mắc chứng béo phì, hai con ngươi tối tăm bơi lội trong một thứ màng mắt vàng khè thể hiện sự vô cảm. Má và trán in dấu bệnh đậu mùa. Một thứ nước đỏ lòm vì ăn trầu lấm tấm từng giọt trên môi, và khi anh ta đáp lại những lời khen mà tôi lịch sự nói với anh ta, tôi thấy những chiếc răng kinh tởm tôi chưa từng thấy bao giờ, tất cả đều lung lay và đen như mực.[30]

Người em “mập ú”, “răng đen”, “bụng phệ” này lại còn ngớ ngẩn đến nỗi được cô gái điếm ở nhà đối diện, gửi cho vài chữ “mời mọc” lại tưởng là mình quá đẹp trai, được con gái Pháp mê, Trương Vĩnh Ký cũng tin như thế, nên đã viết thư cho cô gái khuyên không nên yêu anh chàng này, vì anh ta đã có vợ và vài hôm nữa họ sẽ về xứ, v.v. Cortambert giải thích thế nào, hai “anh em” cũng không chịu tin cô kia là gái điếm! Trương Vĩnh Ký lại còn giữ cả bản nháp lá thư, đưa cho Cortambert coi và chép lại trong sách! Rút cục, nhà địa dư học cảm thấy “Tôi phải cố gắng lắm mới giữ được bình tĩnh. Thằng Nam Kỳ kinh tởm này mà là một Céladon! Cha bụng phệ kia là một Adonis! Tất cả quy luật về sắc đẹp như đã bị tiêu diệt.” (J'eus grand' peine à garder mon sang-froid. Cette affreux cochinchinois un Céladon! Cet homme à gros ventre un Adonis! Toutes les lois de la beauté me paresssaient détruites) (trang 186). Céladon là nhân vật si tình trong truyện L'Astrée của Honoré Urfé, Pháp, thế kỷ XVII, Adonis là vị thần Hy Lạp, người tình của Aphrodite, nổi tiếng đẹp trai. Câu này để lộ ý nghĩ thầm kín của Cortambert: khoe kiến thức văn hóa rộng rãi, lấy quy luật văn hóa và sắc đẹp của người Âu làm chuẩn, đưa ra một nhân vật “kinh tởm” người Việt để so sánh. Hiềm vì: Adonis, Céladon, không có nghiã gì đối với một người Á Châu, và răng đen là một “chuẩn đẹp” khác ở người Việt mà người Pháp không thể hiểu.

Tiếp đó là câu chuyện “mua vợ”: trong lúc chuyện vãn về đề tài con gái nhà giàu ở bên Tây, có thể chọn chồng, Trương Vĩnh Ký khoe: Bên xứ tôi hay hơn, đàn ông có thể mua vợ và Ký  cho biết rõ giá cả: đàn bà đẹp giá khoảng 300 quan; cu li mua vợ chỉ tốn 12 quan! Đều là con nhà tử tế! (trang 194). Rồi đến chuyện cả phái đoàn đi xem tuồng cổ tích Peau-d'Âne (Áo da lừa), ở nhà hát Gaité: khi tay phù thuỷ làm phép thần thông biến hoá ma quỷ, và y cho một người Việt lên sân khấu làm “ma”, cử tọa An Nam hết hồn, tưởng bọn phù thủy bay đầy trên vòm nhà hát thật, họ táng đởm kinh hoàng vì thấy ma quỷ cướp cả bạn mình, tất cả cho là bị rơi vào ổ phục kích (un guet-apens) có kẻ muốn ám sát họ (on prépare à les assassiner), họ nắm chặt vũ khí để tự vệ. Đến lúc người bạn lù lù trở về, mọi người mới hoàn hồn! (trang 197). Hoặc khi phái đoàn đến Toulon, người ta bắn súng đại bác chào mừng, chỉ mình Sứ thần giữ được vẻ điềm tĩnh, còn bọn cu li chạy trốn vào những góc Tàu như những con chó gặp bão (quant aux coulis, ils se blotissaient dans des coins du navire comme des chiens par un temps d'orage).

Những giai thoại này được kể lại một cách vui vẻ, như chuyện thật, qua nét bút nhẹ nhàng, tinh quái của Cortambert. Người đọc bàng quan có thể thích; nhất là người Pháp; nhưng một người Việt mẫn cảm phải cố gắng lắm mới đọc tiếp được. Bởi tác giả đã tinh vi trình bày bản chất của những người trong phái đoàn Phan Thanh Giản, không xảo trá, là chó thì cũng là cả một bọn ngu khờ. Đó là sự pha trò rất tinh xảo của người Pháp thời ấy về những người bị trị, mà Cortambert là một đại diện có tay nghề. Tiếc rằng Trương Vĩnh Ký ngây thơ, không nhìn ra hậu ý, nên đã vô tình góp phần không nhỏ vào việc hạ thấp dân tộc mình, làm trò cười cho kẻ khác. Riêng ông đại sứ Nhật, sau khi bị ăn cắp bản thảo, còn được Cortambert kết luận bằng một câu khôi hài át-xít: ông này về nước sẽ mổ bụng, đố bạn biết tại sao? Không phải vì đã trót lỡ lời trong hồi ký, mà vì đã ở 3 tiếng đồng hồ với cô vũ nữ Opéra! Dĩ nhiên cuốn sách chỉ được in ra sau khi ông đại sứ Nhật và Trương Vĩnh Ký đã về nước. Bouchot đã nhìn ra “giá trị” của cuốn sách, nên không có một dòng giới thiệu nào. Vậy mà “tác phẩm” của Cortambert lại được trân trọng dịch sang tiếng Việt.

Tập bản thảo ngàn trang về đời chúa Giê-Su, bằng tiếng La tinh mà Cortambert “đã đọc” và thấy “văn phong vững vàng và điêu luyện”, chắc y “phóng tác” từ bài luận văn tiếng La tinh về Chúa Giê-Su mà Ký làm hồi còn ở Penang và đã được nhận phần thưởng của Anh. Nghe Ký kể lại chuyện này, Cortambert đôn lên thành cuốn sách ngàn trang; nay không còn dấu vết, cả bản chữ Việt lẫn bản dịch La-tinh trong Thư mục Trương Vĩnh Ký viết tay.

Cortambert không nói gì đến chữ quốc ngữ, có lẽ anh ta cũng chẳng tha thiết gì với thứ chữ, dù tượng hình hay mẫu tự la tinh của cái xứ “mọi rợ” này, mà chỉ nhắm vào “nhà thông thái” Trương Vĩnh Ký, biết nói tiếng Tây, tiếng La tinh và mười thứ tiếng khác. Cuốn sách ngàn trang về đời chúa Giê Su bằng chữ La tinh, chính là cái cớ để y khoe rằng: tôi đã gặp người thông minh nhất của dân tộc này, nhưng khi hắn biết tôn sùng Chúa, thì người Pháp đã sa thải Chúa rồi (Pháp trở thành nhà nước thế tục sau cách mạng 1789). Vậy cái exotisme của dân tộc này mà tôi muốn trình bày ở đây, chỉ là sự ngu xuẩn, chậm tiếnmọi rợ, cần được khai hóa.

Tóm lại, ta có thể chắc chắc chắn rằng: Sự “cộng tác” với Cortambert của Trương Vĩnh Ký chỉ dừng lại ở văn bản Cảm tưởng của những người An Nam ở Âu châu: Nhà thông ngôn Trương Vĩnh Ký, và Cortambert đã cảm ơn “bạn hiền” bằng cách đưa bài Notice sur le royaume Khmer ou de Kambodge (Ghi chú về vương quốc Khmer hay Cam-bốt) của Trương Vĩnh Ký, viết trước khi chia tay, đăng trên Bulletin de la Société de Géographie (Tập san Địa dư) (Volume 6, trang 326-332) do cha anh, ông Eugène Cortambert cai quản.

Bởi vì Richard Cortambert (1836-1884), là con ông Eugène Cortambert (1805-1881) nhà địa dư học nổi tiếng, Giáo sư Địa dư, Tổng thư ký Hội Địa dư học (Secrétaire général de la Société de Géographie) từ năm 1853, Giám đốc Phân khu Địa dư của Thư viện Quốc gia Pháp từ năm 1863. Ông là tác giả nhiều công trình điạ lý trong đó có Géographie Universelle (Địa chí thế giới), Éléments de Géographie (Nguyên tố Điạ lý học), Atlas de l'Europe (Điạ đồ Âu châu), v.v. Richard Cortambert, làm việc từ năm 1860, trong phân khu Địa dư của Thư viện  Quốc gia Pháp, do cha điều khiển từ năm 1863, cho nên Trương Vĩnh Ký được Richard Cotambert thường xuyên dẫn đến Thư viện quốc gia Pháp. Và anh ta cũng không phải là “học giả” như nhiều người lầm tưởng, vì lẫn với người cha Eugène Cortambert.

Câu chuyện khôi hài cay đắng này, là một kinh nghiệm, để thấy rằng: không cứ bài nào được sách báo Pháp in là lập tức có giá trị. Khi ta tìm sự xác định giá trị một tác giả Việt Nam ở người ngoại quốc, ta hãy nghĩ: người nước ấy có cần người Việt khen ngợi tác giả của họ không? Vì vậy, nếu ta cứ phải dựa vào lời khen của người Pháp để xác định giá trị của Trương Vĩnh Ký, tức là ta vẫn chưa gột rửa được đầu óc bị trị qua một trăm năm Pháp đô hộ. Ta đã đuổi Pháp khỏi nước từ 1954, ngày nay không thể tiếp tục mãi thái độ cầu Pháp ấy. Ta phải tự tìm kiếm xem Trương Vĩnh Ký có những giá trị đích thực gì, nếu muốn tôn vinh ông. Và cũng đừng vội mừng khi ai đó có tên được đưa vào từ điển này, kia ở Pháp: Trong nhiều thập kỷ, tên vua Gia Long trong từ điển Larousse luôn luôn đi kèm với câu: đã nhờ nước Pháp mới được trở lại ngai vàng.

Tóm lại, Richard Cortambert không có liên hệ gì tới việc tái lập chữ quốc ngữ.

Việc truyền bá quốc ngữ là lệnh của Thống sứ de la Grandière, bằng hai con đường: trường học và sách báo.

1-Trường học: Dạy chữ quốc ngữ trong các trường tiểu học ở Nam Kỳ, mở cửa từ ngày 16-7-1864.

2- Sách báo: Phổ biến chữ quốc ngữ trên Gia Định Báo, tờ báo quốc ngữ đầu tiên, do Ernest Potteaux làm quản lý. Số 1 phát hành ngày 15-4-1865.

Gia Định Báo sẽ là chủ đề được bàn đến trong kỳ tới.

(Còn tiếp)

 

[1] Nguyễn Văn Trung, Trương Vĩnh Ký nhà văn hoá, Nxb Hội Nhà Văn 1993, trang 44-45-46.

[2] Nguyễn Văn Trung, Chủ đích Nam Phong, Trí Đăng, Sài Gòn, 1972.

[3] Thụy Khuê, Nhân Văn giai phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc, Tiếng Quê Hương, Virginia 2012, Chương 22: Vụ án Nam Phong, trang 646-676.

[4] Theo Phạm Thế Ngũ, Việt Nam văn học sử giản ước tân biên, tập 3, Đại Nam in lại tại Mỹ, chú thích trang 128.

[5] Hoàng Văn Chí, Từ thực dân đến cộng sản, chương IV, chú thích trang 83, Chân trời mới, 1962, có bản điện tử trên Talawas.

[6] Hồi ký Đặng Thai Mai, Tác Phẩm Mới, 1985, trang 355-356.

[7] Đào Hùng, Phụ Nữ Tân Văn từ Nam ra Bắc, Ông Phạm Quỳnh và vấn đề lập hiến ở nước Nam, Phụ Nữ Tân Văn số 87 (18/6/1931), đăng lại trên 13 năm tranh luận văn học, sưu tập Thanh Lãng, trang 252-261.

[8] Trí Đăng, Sài Gòn, 1972.

[9] Dương Bá Trạc là anh Dương Quảng Hàm.

[10] In trên Nam Phong số 1 (7/1917).

[11] In trên Nam Phong số 17 (11/1918).

[12] Bốn bài diễn văn này in lại trong Nam Phong phụ lục tiếng Pháp các số: 66 (tháng 12-1922), 67 (tháng1-1923), 69 (tháng 3-1923) và 70 (tháng 4-1923), sưu tập Nam Phong, có thể đọc được trên mạng.

[13] Phạm Thế Ngũ, Việt Nam văn học sử giản ước tân biên, tập 3, trang 150.

[14] Nam Phong số 16, tháng 10-1918, trang 199.

[15] Nam Phong số 16, tháng 10-1918, trang 199.

[16] Nam Phong số 20, tháng 2, 1919, trang 84.

[17] Nam Phong số 20, tháng 2, 1919, trang 86- 87.

[18] Nguyễn Tất Tế, Chữ Pháp có dùng làm quốc văn An nam được không?, Nam Phong số 21, tháng 3, 1919, trang 199.

[19] Phạm Quỳnh, Bàn về sự dùng chữ nho trong văn quốc ngữ, Nam Phong số 20, tháng 2, 1919, trang 89.

[20] Hai nhiệm kỳ cách nhau mấy tháng: từ 1-5-1863 đến 31-3-1865. Sau đó có thể ông về Pháp nghỉ, nên Trung tướng Roze thay thế từ 1-4-1865 đến 30-10-1865, và de la Grandière trở lại chức, từ 28-11-1865 đến 1868.

[21] Nguyên văn tiếng Pháp: “Dès les premiers jours, on a reconnu que la langue chinoise était une barrière de plus entre nous et les indigènes; l'instruction donnée par le moyen de caractères hiéroglyphiques nous échappait complètement; cette écriture ne permet que difficilement de transmetre à la population les notions diverses qui lui sont nécessaires, au niveau de leur nouvelle situation politique et commerciale... Nous sommes obligés en conséquence de suivre les traditions de notre propre enseignement: c'est le seul qui puisse nous rapprocher des Annamites de la colonie en leur inculquant les principes de la civilisation européenne et en les isolant des influences hostiles de nos voisins.” Bouchot, trang 48, chú thích số (1), Phạm Thế Ngũ in lại đoạn thư này trong Việt Nam văn học sử giản ước tân biên, tập 3, chú thích số 1, trang 66.

[22] Paulin Vial, Les premières années de la Cochinchine, Colonie française (Những năm đầu tiên của Nam Kỳ, Thuộc địa Pháp), tập 1, Nxb Challamel Ainé, Paris, 1874, trang 311-313.

[23] Phạm Thế Ngũ, Việt Nam văn học sử giản ước tân biên, tập III, trang 66-67.

[24] Phạm Thế Ngũ, Việt Nam văn học sử giản ước tân biên, tập III, Chú thích 2, trang 67.

[25] Trần Văn Chi, Gia Định báo, in trong Kỷ yếu triển lãm và hội thảo Trương Vĩnh Ký, tháng 12-2018 tại Nam California, do Ban tổ chức xuất bản, năm 2019.

[26] Trần Văn Chi, Gia Định báo, in trong Kỷ yếu triển lãm và hội thảo Trương Vĩnh Ký, trang 37.

[27] Trần Văn Chi, Gia Định Báo, in trong Kỷ yếu triển lãm và hội thảo Trương Vĩnh Ký, trang 39.

[28] Nguyên văn tiếng Pháp: “Il revint à la théologie, et, me montrant un énorme manuscrit d'environ mille pages, écrit d'une main ferme et exercée, il me dit avec une délicieuse modestie de jeune auteur modestie tempérée d'une légère pointe d'amour propre qu'en prévision d'un voyage dans un pays lettré et catholique comme la France, il avait traduit en latin un ouvrage par lui composé d'abord en annamite. Il ajouta que son livre avait exclusivement trait à la divinté de Jésus”.  (trang 184)

[29] Trương Vĩnh Ký là con út, không có em. Chữ em ở đây người Việt dùng để chỉ người nhỏ tuổi hơn mình, dịch sang tiếng Pháp thành mon frère (em trai tôi).

[30] Nguyên văn tiếng Pháp: “Le frère de Trương Vĩnh Ký avait un embonpoint qui confinait l'obésité; ses prunelles sombres nageaient dans une choroide jaunâtre et ne révélaient que l'indolence. Ses joues et son front étaitent fortement marqués de la petite vérole. Une sorte de jus rougeatre du au bétel perlait sur ses lèvres, et lorsqu'il répondit au compliment que j'eus la politesse de lui adresser, je vis les plus affreuses dents que j'ai jamais appercus, elles étaient toutes déchausées et noires comme de l'encre.”  (trang 185, bản điện tử)