Người phụ trách Văn Việt:

Trịnh Y Thư

Web:

vanviet.info

Blog:

vandoanviet.blogspot.com

Danh ngôn

Trong mọi cộng đồng, chúng ta cần một nhóm thiên thần gây rối.

We need, in every community, a group of angelic troublemakers.

(Bayard Rustin – trích bài phát biểu tại New York City 1963)

Trong mọi trường hợp, chắc chắn rằng sự thiếu hiểu biết, đi kèm với quyền lực, là kẻ thù tàn bạo nhất có thể có của công lý.

It is certain, in any case, that ignorance, allied with power, is the most ferocious enemy justice can have.

(James Baldwin - No Name in the Street 1972)

Các cuộc cách mạng và các cá nhân có thể bị giết hại, nhưng bạn không thể giết chết các ý tưởng.

While revolutionaries and individuals can be murdered, you cannot kill ideas.

(Thomas Sankara, một tuần trước khi bị ám sát, 1987)

Không có cảm giác nào cô đơn hơn việc bị chính đất nước mình trục xuất.

There's not a more lonely feeling than to be banished by my own country.

(Kiyo Sato – Kiyo’s Story 2009)

Ban Biên tập

Địa chỉ liên lạc:

1. Thơ

tho.vanviet.vd@gmail.com

2. Văn

vanviet.van14@gmail.com

3. Nghiên cứu Phê Bình

vanviet.ncpb@gmail.com

4. Vấn đề hôm nay

vanviet.vdhn1@gmail.com

5. Thư bạn đọc

vanviet.tbd14@gmail.com

6. Tư liệu

vanviet.tulieu@gmail.com

7. Văn học Miền Nam 54-75

vanhocmiennam5475@gmail.com

Tra cứu theo tên tác giả

Chủ Nhật, 17 tháng 8, 2025

Bài thơ Ngày thường của Ý Nhi và bức tranh về “cộng đồng tưởng tượng” trong văn học Việt Nam hiện đại

 Nguyễn Hồng Anh

Hình tượng cộng đồng (nhỏ thì gia đình, thôn xã, lớn thì quốc gia) trong văn học Việt Nam hiện đại gắn chặt với lịch sử đất nước, đặc biệt từ hai cuộc chiến tranh lớn Việt - Pháp (1945-1954) và Việt - Mỹ (1954-1975) đến giai đoạn hậu chiến. Diễn ngôn về cộng đồng trong văn học, do đó, luôn gắn với cách mạng và dân tộc, biểu đạt cho chân lí, truyền thống, văn hoá. Tuy nhiên, dưới cái nhìn của Benedict Anderson (1936-2015) trong cuốn Những cộng đồng tưởng tượng: Suy nghĩ về nguồn gốc và sự lan truyền của chủ nghĩa dân tộc, không phải lúc nào “cộng đồng” và “dân tộc” cũng đi cùng với nhau một cách vô vị lợi, đặc biệt trong bối cảnh một nhà nước dân tộc trải qua các cuộc chiến tranh, cách mạng và hậu chiến. Công trình nghiên cứu của Anderson dẫn chúng tôi tới khái niệm “chủ nghĩa dân tộc nhà nước” (official nationalism), một mô hình theo kiểu “cộng đồng tưởng tượng” (imagined community), gợi ý cho chúng tôi lí giải về hình tượng cộng đồng chi phối trong văn học Việt Nam thuộc dòng chính một thời[1].

Trong xu hướng chung đó, nhà thơ Ý Nhi nổi lên như một trường hợp đặc biệt, vì phong cách thơ hiện đại, có tính “dự cảm” trước thời đại[2], là lối thơ “hiếm”[3], “riêng biệt”[4], đi ngược lại văn học dòng chính. Bà bắt đầu nổi tiếng trong nước với giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam năm 1985 cho tập thơ Người đàn bà ngồi đan. Cho đến nay, thơ Ý Nhi vẫn là tiếng thơ lớn, không chỉ đại diện cho thơ Việt Nam hiện đại, mà còn cho thi giới châu Á, qua sự khẳng định từ giải thưởng Cikada Thụy Điển năm 2015 “công nhận những bài thơ rất hay của bà đã bảo vệ cho tính bất khả xâm phạm của đời sống” (theo thư thông báo giải thưởng của Đại sứ quán Thụy Điển).

Ở bài viết này, chúng tôi chọn phân tích bài thơ Ngày thường của nhà thơ Ý Nhi, dưới góc độ cộng đồng tưởng tượng theo quan điểm của Anderson, trong sự đối lập với quan niệm cộng đồng của chủ nghĩa dân tộc nhà nước đương thời. Bài thơ nằm trong tập thơ cùng tên, do Nhà xuất bản Đà Nẵng in năm 1987, nhưng đã được sáng tác vào tháng 4 năm 1985. Đây là mốc thời gian quan trọng, vì việc sáng tác ngay trước thời kì Đổi mới (1986) ở Việt Nam khiến bài thơ có giá trị tiên phong về tư tưởng, nội dung và nghệ thuật trong dòng văn học Việt Nam hiện đại giai đoạn 1945-1986.

 

Ngày thường

Tiếng trẻ reo ngoài vườn

láng giềng qua trước ngõ

rau muống đầu mùa lên cao

hoa cuối xuân giá hạ

ai mở phòng tranh trên phố Ngô Quyền

anh bán rắn ngồi bên hồ Thuyền Quang

người ngơ ngẩn bên quầy sổ xố

người xếp hàng mua thuốc lá Sa Pa

Loay hoay trang sách cũ

lời bình từ năm xưa

thơ cộng tác viên dày cộp

đọc từ mùa nắng sang mùa mưa

quần của con cần xuống gấu

gạo hết, lo xếp hàng

cành lá trên rèm cửa sổ

xanh từ ngày sang đêm

Lòng chợt ước ao

một tiếng gõ bất thường

sau cánh cửa.

(4/1985)

 

  1. “Cộng đồng tưởng tượng” hay là chủ nghĩa dân tộc nhà nước trong văn học Việt Nam hiện đại

Theo Anderson, các cộng đồng dân tộc hiện đại đều mang tính chất “tưởng tượng”. “Dân tộc được tưởng tượng ra vì thành viên của ngay cả những dân tộc nhỏ nhất cũng sẽ không hề biết tới phần lớn các thành viên – đồng bào của mình, những người họ chưa từng gặp gỡ hay thậm chí nghe tới, ấy vậy mà trong tâm trí của mỗi người đều tồn tại hình ảnh về một sự hiệp thông giữa họ”[5]. Có nghĩa là, cộng đồng là một ý niệm được sáng tạo ra để các thành viên liên kết với nhau. Do đó, không có căn tính đúng hay sai về cộng đồng, mà chỉ có cách ta hình dung về cộng đồng đó. Điều này có thể thấy rõ trong các tác phẩm văn học dòng chính Việt Nam phản ánh những thời kỳ lịch sử đặc biệt, chẳng hạn văn học chiến tranh. Truyền thống dòng văn học này xiển dương tinh thần yêu nước và ca ngợi chủ nghĩa anh hùng, từ Hịch tướng sĩ, Bình Ngô đại cáo thời trung đại đến Đất nước đứng lên, Nhật ký Đặng Thùy Trâm thời hiện đại. Qua các tác phẩm, ý niệm về đất nước và ngoại xâm giúp gắn kết các nhân vật để tạo lập thành hình tượng cộng đồng dân tộc. Ngoài ra, cộng đồng còn được hiểu là người đọc, tác giả và tác phẩm cùng chia sẻ tiếng nói, lãnh thổ, văn hoá, lịch sử với nhau; và chính tác phẩm văn học đã gợi lên nơi người đọc những hình dung giống nhau đó, giúp họ gắn kết với nhân vật, tác giả, và với nhau mặc dù họ chưa từng có trải nghiệm như nhân vật, chưa quen biết tác giả và không biết đến những người đọc khác.

Tuy nhiên, cũng chính tinh thần dân tộc phát huy cao độ trong chiến tranh đã là điều kiện thuận lợi cho sự ra đời của “chủ nghĩa dân tộc nhà nước”. Theo Anderson, mô hình này xuất hiện khi các nhóm vương triều và quý tộc có nguy cơ bị gạt ra bên lề những cộng đồng tưởng tượng đại chúng (popular imagined communities)[6] nên nhóm thiểu số này tìm cách gắn vấn đề dân tộc vào sự quản trị nhà nước. Đến thời của cách mạng và hậu cách mạng, mô hình này được phát huy: những nhà lãnh đạo cách mạng đã quản lý nhà nước và người dân dựa trên tâm lí dân tộc có tính chất cộng đồng tưởng tượng – chẳng hạn ở Việt Nam là lòng yêu nước, hi sinh cá nhân vì lợi ích chung, tập thể đứng cao hơn cá nhân, v.v. Những điều này “đầu tiên và trước hết là để phục vụ các mục tiêu của nhà nước”[7]. Có thể minh hoạ bằng hai đoạn thơ tiêu biểu sau:

(1) “Đất là nơi anh tới trường

Nước là nơi em tắm

Đất Nước là nơi chúng mình hò hẹn

Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm”

(trích Mặt đường khát vọng – Nguyễn Khoa Điềm, 1971)

(2) “Đất nước theo em ra ngõ một mình

Cau vườn rụng một tàu đã cũ

Đất nước đêm nay năm mươi triệu người không ngủ

Đang bóc đi tờ lịch cuối cùng”

(trích Đường tới thành phố – Hữu Thỉnh, 1979)

Tuy hai bài thơ sáng tác trong hai thời kì khác nhau, bài (1) trong chiến tranh chống Mỹ và bài (2) thời hậu chiến, nhưng tư tưởng vẫn là một: nỗi niềm riêng của tình nhân hay vợ chồng đều được đặt trong hệ quy chiếu “đất nước” - dân tộc. Đoạn (1) là nỗi nhớ người yêu lồng trong tình yêu quê hương, đoạn (2) là nỗi trông ngóng của người vợ chờ chồng từ chiến trường trở về đồng nhất với sự mong chờ giải phóng của toàn dân tộc. Việc người viết dựa vào lịch sử, dân tộc tính để bày tỏ những điều riêng tư cá nhân là do chịu sự chi phối từ hệ hình văn nghệ hiện thực xã hội chủ nghĩa vốn xiển dương chủ nghĩa tập thể. Đó là giọng chủ lưu của văn học miền Bắc từ 1945 và kéo dài đến trước Đổi mới 1986.

Đặc trưng tiếp theo của cộng đồng theo mô hình chủ nghĩa dân tộc nhà nước là tư duy về thời gian. Để gắn kết các thành viên trong cộng đồng thuộc nhiều thế hệ vào lí tưởng dân tộc, thì nhận thức lịch sử – tư duy về thời gian theo trục dọc – đóng vai trò quan trọng. Anderson gọi đó là sự lĩnh hội thời gian theo kiểu “đồng thời” (simultaneity)[8], đặc biệt thể hiện rõ ở những cộng đồng thiêng, ví dụ như cộng đồng tôn giáo. Anderson dẫn ví dụ của Auerbach: sự kiện “hi sinh của Isaac” trong Cựu ước và sự kiện “hi sinh của Chúa Giê-su” trong Tân Ước được lí giải là có mối liên hệ theo kiểu: sự kiện trước báo hiệu cho sự kiện sau, và sự kiện sau thành toàn sự kiện trước. Mối liên hệ này được thiết lập là do sự quan phòng của Thiên Chúa, nên các sự kiện không chỉ diễn ra theo một chuỗi nối tiếp, mà nó “đồng thời” luôn luôn như thế. Tính đồng thời theo nghĩa này tức là “sự đồng hiện của quá khứ và tương lai trong một hiện tại tức thời”[9]. Lối tư duy ấy rất phổ biến trong văn học cách mạng Việt Nam. Ví dụ về hình tượng mùa thu trong thi ca cách mạng:

“Tháng Tám mùa thu xanh thẳm

Mây nhởn nhơ bay

Hôm nay ngày đẹp lắm!

Mây của ta, trời thắm của ta

Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa!”

(Ta đi tới – Tố Hữu, 1954)

“Mùa thu nay khác rồi

Tôi đứng vui nghe giữa núi đồi

Gió thổi rừng tre phấp phới

Trời thu thay áo mới

(Đất nước – Nguyễn Đình Thi, 1948-1955)

Đó là những mùa thu luôn gắn liền với niềm vui và tương lai tươi sáng, vì nó gợi nhắc trở lại một mùa thu cụ thể trong quá khứ: mùa thu diễn ra cuộc Cách mạng tháng Tám 1945, khi Việt Minh giành được chính quyền và thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Tác dụng của kiểu thời gian mang tính đồng thời này ngoài việc kết nối các thế hệ vào một lịch sử chung, còn nhằm tạo nên một vận mệnh dân tộc theo chiều hướng lạc quan. Kiểu tư duy thời gian đồng thời theo trục dọc này, theo Anderson, từng thuộc về thời trung cổ với những cộng đồng thiêng, nhưng vẫn là kiểu thời gian chủ đạo trong văn học cách mạng Việt Nam. Để thay đổi quan niệm thời gian này, văn học Việt Nam cần bước phát triển tiếp theo.

Những cách tân về tư duy cộng đồng, về thời gian, chúng ta sẽ nhận thấy trong bài thơ Ngày thường của Ý Nhi.

 

  1. “Cộng đồng tưởng tượng” trong bài thơ Ngày thường của Ý Nhi

Sau thời kì Đổi mới, ta chứng kiến những sự vượt thoát khỏi hệ hình cũ nơi sáng tác của khá nhiều tài năng như Nguyễn Huy Thiệp, Bảo Ninh, Phạm Thị Hoài, Dương Thu Hương. Sẽ không có gì lạ nếu một quan điểm, lối diễn đạt cách tân ra đời trong bầu không khí mới ấy. Tuy nhiên, trong bài viết này, chúng tôi ghi nhận một điểm mốc khác, từ trước Đổi mới, nhưng tác phẩm đã mang tinh thần phi truyền thống, ở cách tác giả xây dựng một cộng đồng tưởng tượng: Bài thơ Ngày thường của nhà thơ Ý Nhi là một tác phẩm điển hình cho tính chất cộng đồng kiểu mới.

Bối cảnh tác giả khai thác là một không khí chung của Hà Nội thời bao cấp, với những con người nhợt nhạt, hành động tủn mủn, tâm lí đời thường, sự kiện nhỏ nhoi. Và bao trùm lên cả là sự đói nghèo. Cái đói nghèo khiến cho hai hình ảnh tưởng chừng đối nghịch “rau muống đầu mùa lên cao/ hoa cuối xuân giá hạ” có cùng một logic: rau muống là thức ăn dân dã nhưng người nghèo phải để tâm đến sự lên giá, còn hoa cuối mùa đành hạ giá vì có lẽ bị liệt vào hàng xa xỉ ít người mua. Cái đói nghèo ám ảnh cả trong dáng người “ngơ ngẩn bên quầy sổ xố” mong tìm một cơ may đổi vận và hàng người xếp dài để mua thứ thuốc lá Sa Pa, nhãn hiệu thuốc lá vào hàng rẻ tiền nhất thời đó. Cái nghèo cũng kéo cả những hoạt động thanh cao, tri thức như mở phòng tranh, đọc sách, biên tập thơ vào chung một thứ “ngày thường” với bán rắn dạo và xếp hàng mua gạo. Đúng với tên gọi “Ngày thường”, bài thơ không chú trọng khai thác cái gì cao cả, lớn lao, mà ngược lại, là những sinh hoạt tủn mủn, vặt vãnh. Nhưng cái mới lại nằm ở cơ chế gắn nối những điều trên để tạo thành bức tranh chung.

Ba khổ thơ vẽ ra hai bức tranh nhỏ: khổ đầu là một nhóm nhân vật xuất hiện lần lượt từ gần đến xa theo vị trí quan sát của thi nhân, từ không gian hẹp đến rộng (vườn - ngõ - phố - hồ), với đa dạng hoạt động (trẻ chơi, người đi qua, triển lãm, mua bán, người đứng nhìn, xếp hàng); hai khổ sau trở về vị trí hiện tại của người quan sát, cũng với một loạt những hành động và suy nghĩ được cá nhân hoá (hành động: đọc sách, biên tập, nhìn; nghĩ: chuyện may vá, xếp hàng mua gạo, một tiếng gõ cửa). Nhìn qua, đó là những bức tranh rời rạc với những chi tiết đặt cạnh nhau một cách ngẫu nhiên: các nhân vật không có mối liên hệ gì với nhau, hiện lên trong cùng một khúc đoạn thời gian và nhiều mảng không gian theo thủ pháp lắp ghép. Nhưng nhìn kĩ, sự nối kết duy nhất giữa các đối tượng, sự kiện, là cái nhìn của chủ thể trữ tình. Cái nhìn ấy có sự tỉ mỉ để thấy được trạng thái “ngơ ngẩn” của người lạ, có sự chú tâm để nghe tiếng trẻ con reo và giá cả lên xuống của một số mặt hàng (có lẽ) thường mua, có sự “phát hiện” trước phòng tranh mới mở, có sự quen thuộc nơi người bán rắn và những người xếp hàng. Vì vậy, đó là cái nhìn mang tính “toàn tri”, kết nối các cá nhân riêng lẻ thành một cộng đồng trong hình dung của chủ thể.

Tiếp nối với cái nhìn đó, sang đến khổ thứ hai có một sự chuyển đổi: chủ thể nhìn chính mình, nghĩa là chủ thể trở thành đối tượng, thành nhân vật giống như các nhân vật xuất hiện ở khổ thơ thứ nhất. Dễ thấy nhất là ở chi tiết “xếp hàng” cùng lặp lại trong hai khổ thơ, gắn nối nhau vào thành một bức tranh chung, nơi các thành viên cùng có những sinh hoạt giống nhau. Dù hành động có riêng tư hơn (xuống gấu quần cho con), cá nhân hoá hơn (đọc sách và biên tập thơ), có tính tâm lí hơn (hành động thì “loay hoay” có vẻ bận rộn nhưng vẫn nghĩ “lo” việc khác chưa làm), nhưng nhân vật ở khổ thứ hai cũng không rõ căn tính gì hơn các nhân vật xuất hiện ở khổ thơ thứ nhất (người này là ai, tính cách thế nào, cảm xúc ra sao – những thuộc tính giúp xác định căn tính đều vắng bóng). Các câu thơ ở khổ hai vẫn tiếp tục nhịp liệt kê đều đều, chắp nối sự kiện theo mô-típ của khổ thơ đầu, khiến người đọc buộc phải đọc nó (và hình dung về nó) trong sự liên tục ý nghĩa với khổ thơ trên.

Có thể lí giải kiểu “nhìn” này như sau: Người quan sát không hề chú tâm tới danh tính cá nhân của những người xuất hiện trong bức tranh, vì điều chủ thể đang nhìn thấy không phải là “những nhân vật”, mà là “những sinh hoạt” mang mẫu hình chung của bối cảnh cụ thể (Hà Nội thời bao cấp), trong đó mình cũng là một thành viên. Đó là tính chất cấu thành cộng đồng tưởng tượng: sự cấu thành không phải bằng những cách diễn đạt to tát nương tựa truyền thống, lịch sử, văn hoá – như khuôn mẫu của văn học Việt Nam cùng thời – mà bằng sự sắp đặt ngẫu nhiên, không có liên kết cụ thể, giữa người với người.

Thêm vào đó, tính gắn kết cộng đồng ở đây còn được bổ trợ bằng thời gian được tổ chức theo kiểu “đồng nhất và rỗng”. Anderson nói: “tính đồng thời luôn cắt ngang qua thời gian và được đánh dấu không phải bằng sự báo trước hay sự thành toàn, mà bằng sự trùng nhất về mặt thời gian được đo bằng đồng hồ và lịch”[10]. “Báo trước” và “thành toàn” là kiểu thời gian của các cộng đồng thiêng với một trung tâm quyền lực chi phối; trong khi thời gian “đồng nhất và rỗng” của đồng hồ và lịch là đặc điểm của cộng đồng tưởng tượng hiện đại. Trở lại với bài thơ, các sự kiện trong hai bức tranh diễn ra cùng thời điểm nhất định, vì cùng xuất hiện trong một ánh nhìn ngắn ngủi của chủ thể trữ tình. Thời gian này cũng tuyệt nhiên không có “tính đồng thời” theo trục dọc với một quá khứ nào, mà là kiểu thời gian đều đều, lặp lại của tờ lịch, của đồng hồ: “mùa nắng sang mùa mưa”, “ngày sang đêm”, vì vậy nó hoàn toàn “rỗng” nghĩa. Vậy là, tôi gắn kết với anh, bằng những sinh hoạt chung, ngày qua ngày, dù tôi không biết anh, nhưng tôi biết ngày này giờ này có người đang làm cùng những việc như tôi làm. Sự gắn kết đó rất khác với cách xây dựng kết nối xuyên thời gian từ quá khứ đến tương lai và mang tính dự báo, mà văn học cách mạng hay vận dụng, như tôi đã trình bày ở mục 2.

Và điều lạ là, tuy quan hệ “rỗng” và “ngẫu nhiên”, nhưng cộng đồng tưởng tượng trong Ngày thường vẫn rất khép kín và chặt chẽ, khiến cho chủ thể trữ tình cũng phải tự biến mình thành nhân vật/ thành viên trong bức tranh chung đó. Tại đây xuất hiện một cái nhìn thứ hai – cái nhìn của người đọc. Vì khi chủ thể trở thành nhân vật, người đọc trở thành một cái nhìn toàn tri thứ hai, có khoảng cách đủ xa để nhìn được tổng thể cả hai bức tranh. Nói như Anderson, đó là “thao tác đọc kép” (chủ thể trữ tình tạo ra bức tranh thơ, đến lượt người đọc đọc lại bức tranh ấy), xác nhận rõ hơn sự tồn tại của cộng đồng tưởng tượng[11].

Tính chất cộng đồng chỉ chớm bị phá vỡ ở khổ thơ cuối, khi xuất hiện một “ước ao”. Mơ ước, khao khát là địa hạt thuộc về cá nhân (tôi trở thành tôi, phân biệt với anh, từ chính những gì tôi ao ước và khao khát), nó báo hiệu chủ thể đang từ hoà nhập vào bức tranh chung, đến hé ra một thân phận riêng với những niềm riêng. Nhưng mới chỉ “chớm” và “hé” vì câu thơ kết thúc vội với chỉ 12 chữ tách thành ba dòng – quá ngắn ngủi và đột ngột so với bức tranh tổng thể bao trùm phía trên. Nỗi đời riêng vẫn bị nhấn chìm vào mẫu số chung, hoà lẫn, nhoà lẫn, không một ai có tên hay gương mặt, chỉ có hành động lặp đi lặp lại, đúng như tên gọi “Ngày thường”. Khác với Người đàn bà ngồi đan (trong tập thơ cùng tên, xuất bản 1985) – bài thơ nổi tiếng nhất, định hình phong cách thơ Ý Nhi – Ngày thường không đặt dấu ấn ở tính cá thể. Vì vậy, nếu so cái “ước ao” của Ngày thường với tâm trạng lưỡng phân ở Người đàn bà ngồi đan thì tính mới trong bài thơ sau vượt trội. Nhưng chủ đích của Ngày thường không phải là thể hiện một tâm trạng, mà là hình dung/ tưởng tượng một xã hội thu nhỏ trong tầm nhìn, sự hình dung đó có lẽ rất quen thuộc với bất cứ ai đương thời, vì nó chỉ là “ngày thường”. Nhưng chính sự hình dung đó, lại đẩy đến bờ vực đổ vỡ hình ảnh một cộng đồng kiểu cũ.

Ngày thường là một bài thơ độc đáo, cũng độc đáo như phong cách thơ Ý Nhi vốn đã được khẳng định từ tập thơ Người đàn bà ngồi đan. Bài viết này không đi theo hướng phân tích sự độc đáo ở phương diện nghệ thuật thơ hay tính triết luận trong phong cách thơ, như các nhà nghiên cứu đi trước đã bàn, mà nhận diện sự cách tân theo một lối mới mang tính văn hoá: sự hình thành một cộng đồng tưởng tượng. Khái niệm văn hoá hiện đại này có thể soi rọi một ánh sáng khác lạ trong văn chương, cụ thể ở bài thơ này, khi đặt vào bối cảnh bài thơ ra đời: Nó phá vỡ cơ chế hình thành cộng đồng truyền thống. Bề ngoài, con người với những sinh hoạt không có gì đổi khác, nhưng những tưởng tượng về cộng đồng, đặc biệt ở tính chất gắn kết các thành viên và tư duy về thời gian theo kiểu rỗng nghĩa, đồng nhất và ngẫu nhiên, thì thật mới mẻ so với đương thời. Những cách tân này đã tiếp sức (và cả mở đường) cho cơn cuồng phong rồi sẽ tới đổi thay một thời đại.

Chú thích

[1] Huỳnh Như Phương (2019), “Ý Nhi và những bến bờ của sáng tạo”, trong Ý Nhi, Ngọn gió qua vườn – Tuyển tập Thơ, Truyện ngắn, Nxb Phụ Nữ Việt Nam, TP.HCM, tr.6.

[2] Hoàng Hưng (2019), “Thơ Ý Nhi”, trong Ý Nhi, Ngọn gió qua vườn – Tuyển tập Thơ - Truyện ngắn, Nxb Phụ Nữ Việt Nam, TP.HCM, tr.706.

[3] Lại Nguyên Ân (2022), “Ý Nhi, từ thơ đến truyện”, http://baovannghe.com.vn/y-nhi-tu-tho-den-truyen-24667.html

[4] Anderson, B. (2019), [5], [6], [7], [8], [9], [10] Sđd, tr.150, 217, 39, 39, 40, 50. Những cộng đồng tưởng tượng: Suy nghĩ về nguồn gốc và sự lan truyền của chủ nghĩa dân tộc (Nguyễn Thu Giang, Vũ Đức Liêm, Phạm Văn Thủy và Nguyễn Thanh Tùng dịch). Hà Nội: Đại học Sư phạm, tr.15.

[1] Ở đây, chúng tôi chỉ khảo sát văn học miền Bắc, mà ý thức hệ của nền văn học này rồi sẽ trở thành dòng chính của văn học Việt Nam từ 1975. Còn văn học miền Nam trước 1975, vốn mang hệ tư tưởng khác, chúng tôi không đề cập tới trong bài viết này.

[2] Huỳnh Như Phương (2019), “Ý Nhi và những bến bờ của sáng tạo”, trong Ý Nhi, Ngọn gió qua vườnTuyển tập Thơ, Truyện ngắn, Nxb Phụ Nữ Việt Nam, TP. HCM, tr. 6.

[3] Hoàng Hưng (2019), “Thơ Ý Nhi”, trong Ý Nhi, Ngọn gió qua vườn – Tuyển tập Thơ - Truyện ngắn, Nxb Phụ Nữ Việt Nam, TP.HCM, tr.706.

[4] Lại Nguyên Ân (2022), “Ý Nhi, từ thơ đến truyện”, http://baovannghe.com.vn/y-nhi-tu-tho-den-truyen-24667.html

[5] Anderson, B. (2019). Những cộng đồng tưởng tượng: Suy nghĩ về nguồn gốc và sự lan truyền của chủ nghĩa dân tộc (Nguyễn Thu Giang, Vũ Đức Liêm, Phạm Văn Thủy và Nguyễn Thanh Tùng dịch). Hà Nội: Đại học Sư phạm, tr.15.

[6] Anderson, B. (2019), sđd, tr. 150.

[7] Anderson, B. (2019), sđd, tr. 217.

[8] Anderson, B. (2019), sđd, tr. 39.

[9] Anderson, B. (2019), sđd, tr. 39.

[10] Anderson, B. (2019), sđd, tr. 40.

[11] Anderson, B. (2019), sđd, tr. 50.