Người phụ trách Văn Việt:

Trịnh Y Thư

Web:

vanviet.info

Blog:

vandoanviet.blogspot.com

Danh ngôn

Trong mọi cộng đồng, chúng ta cần một nhóm thiên thần gây rối.

We need, in every community, a group of angelic troublemakers.

(Bayard Rustin – trích bài phát biểu tại New York City 1963)

Trong mọi trường hợp, chắc chắn rằng sự thiếu hiểu biết, đi kèm với quyền lực, là kẻ thù tàn bạo nhất có thể có của công lý.

It is certain, in any case, that ignorance, allied with power, is the most ferocious enemy justice can have.

(James Baldwin - No Name in the Street 1972)

Các cuộc cách mạng và các cá nhân có thể bị giết hại, nhưng bạn không thể giết chết các ý tưởng.

While revolutionaries and individuals can be murdered, you cannot kill ideas.

(Thomas Sankara, một tuần trước khi bị ám sát, 1987)

Không có cảm giác nào cô đơn hơn việc bị chính đất nước mình trục xuất.

There's not a more lonely feeling than to be banished by my own country.

(Kiyo Sato – Kiyo’s Story 2009)

Ban Biên tập

Địa chỉ liên lạc:

1. Thơ

tho.vanviet.vd@gmail.com

2. Văn

vanviet.van14@gmail.com

3. Nghiên cứu Phê Bình

vanviet.ncpb@gmail.com

4. Vấn đề hôm nay

vanviet.vdhn1@gmail.com

5. Thư bạn đọc

vanviet.tbd14@gmail.com

6. Tư liệu

vanviet.tulieu@gmail.com

7. Văn học Miền Nam 54-75

vanhocmiennam5475@gmail.com

Tra cứu theo tên tác giả

Thứ Năm, 5 tháng 6, 2025

Trần Mộng Tú ngỡ ngàng dung dị đời thơ

Nguyễn Nguyên

Đọc thơ Trần Mộng Tú tôi như được nghe câu chuyện cuộc đời bà đang kể với với chính mình. Bà thành thực, tĩnh lặng, dung dị nâng niu mỗi khoảnh khắc sự sống trên suốt chiều dài một cuộc đời vừa là nhân chứng, vừa là nạn nhân trong một cuộc chiến không người Việt nào mong đợi. Trái tim bà rung lên nỗi đau mất mát và khát vọng được sống trong yêu thương theo cách riêng mình khiến ta không khỏi ngỡ ngàng…

Trần Mộng Tú gửi đời mình vào thơ. Đó là điều duy nhất không bị cắt chia, lìa xa dẫu bà ở đâu, làm gì. Có thể gọi đó là một niềm hạnh phúc trọn vẹn của bà.

Hơi thở của mặt trời/Đẹp như hơi thở của một câu thơ/Tôi mở bàn tay hứng/Bàn tay đầy mặt trời/Bàn tay đầy thơ (Thơ mùa Covid 2019)

Thơ vẫn lung linh ngay khi bà viết về cái chết.

“Áo trên vai người lạ/Hơi chị còn vương hương/Bài Thơ chắc đang khóc/Khói nhang nào còn thơm” (Áo và Thơ – 14/7/2022)

Bà thật trẻ trung khi ao ước kiếp sau vẫn là thi nhân cùng với một người chồng thi sĩ “thơ chàng dán lên vách, thơ em che trời mưa”
“Ngoài vườn đầy hoa nở/Trong lòng ngập mộng mơ/Cửa lều thường không khép/Nên Xuân đến bốn mùa”
(Kiếp sau)

-Nguyễn Nguyên-

Tình yêu, đương nhiên rồi, đó là điều người đàn bà nào cũng khát khao, ấp ủ từ khi mái tóc đang xanh tới khi lộng gió pha sương. Những bài thơ tình của bà, dẫu là nỗi nhớ, niềm mong đợi, chia lìa hay hạnh phúc, đều lắng sâu vào tĩnh tại với ngôn từ dung dị đời thường. Bà khiến người đọc bất ngờ bởi những cấu tứ bất chợt làm nên dấu ấn riêng biệt.

Cả một dòng sông đứng lại chờ là nỗi nhớ người yêu không lẫn vào đâu được của Trần Mộng Tú.

Giữa bộn bề cảm xúc xa người như xa mùa xuân, xa mưa, xa quê hương, với môi thơm mùi thuốc, hàng cây bâng khuâng, tóc mưa còn ướt, hương trầm đọng ngực; bán tín bán nghi liệu người có ngậm ngùi nhớ về dòng sông trắng, ngóng trông bóng chim cuối rừng, có châm điếu thuốc, có đi trong mưa… Trần Mộng Tú đột ngột buông lời

“Người xa tôi gió cũng lặng thinh/Tôi rung nỗi nhớ ở quanh mình/Người như suối chảy qua rừng vắng/Cả một dòng sông đứng lại chờ”

Một nỗi nhớ như muôn ngàn nỗi nhớ bỗng thanh cao dịu ngọt bất ngờ. Âm hưởng này còn được thể hiện trong nhiều bài thơ tình khác của bà. Ở Trái tim hồng có một khoảng trống trong hồn như cây mùa thu đứng chờ lá vàng về phủ trăm năm; có tóc hờn giận chia nghìn sợi chờ người về đo dài đo ngắn; có tay thủy chung đáy túi cô đơn chờ ngón tay người; có giày con gái bỏ quên trong góc tủ, người không về chân chẳng muốn đi; có trán tương tư mùi thuốc, mắt nhạt màu, môi bớt đỏ suốt đêm thâu khóc nhớ… Để rồi

“Em sẽ chết với mảnh hồn trống đó/Chúa đứng đón em ở cổng Thiên Đàng/Xin trả Chúa trái tim hồng lãng mạn/Dưới thế gian con dại dột cho chàng…”

Gọi anh mùa xuân cũng là nỗi đợi chờ miên man bao dung ấy; nhưng ở cung bậc mới cho thấy một tình yêu phóng khoáng không tưởng của bà.

“Đã lâu quá anh không về gõ cửa/lồng ngực em. Trái đỏ vẫn còn nguyên/mùa xuân đến em lên đồi gọi gió/thả đam mê và buông những ưu phiền”.

Bà “mở áo cho xuân coi lồng ngực” – như “một trái tim như vườn cũ quê nhà, cành mai chiết tay ai còn in dấu”; như ngọn hải đăng “lửa sinh diệt thắp hoài không dám tắt” đợi chàng biệt tăm không biết bến bờ nào; như trầm quế đợi xông hương chờ “con chim nhỏ đã bay qua biển Bắc/ai tìm ai ngậm ngải giữa mù sương”…Vẫn là một mực thủy chung giữa mông lung thương nhớ.

Trần Mộng Tú hồn hậu trong tình yêu, kể cả nỗi “ngẩn ngơ” đầu đời. Bông hoa đỏ là một vết thương ngọt ngào như vậy. E sợ hương bay theo gió, bà gói đóa hồng vào lòng. Nào ngờ người đến đặt hoa như xuân không trở lại, khiến bà rơi lệ với vết thương của tuổi dậy thì trước khi lành lặn hồi sinh.

“Tháng năm tàn như mộng/Chảy một dòng sóng đời/Anh trở về đòi lại/Bông hoa anh bỏ rơi/ Anh ơi hoa đã héo/Vết thương xưa đã lành/Vuông lụa chồng em giữ/Không còn gì cho anh.”

Lòng nào như suối cạn cũng là một bài thơ cho thấy sự tinh tế của những cuộc chia tay buồn mà không oán hận. Như những nét chấm phá đối lập của một bức tranh quán nhỏ ngày xưa, ngày nay với giọt cà phê trên môi, giọt tình nồng trong mắt, nếp nhăn trên trán, sắc hồng trên má ngược chiều cùng những vết thương ngọt trong đời, bà khiến giọt tình cuồng trong mắt tan theo nỗi sầu đọng mãi trong lòng người đọc.

Dẫu vậy, tình yêu của bà luôn nồng nàn, ở mọi lúc, mọi nơi.

“Đang giữa hạ anh sắp về chưa nhỉ/Tháng sáu nghiêng vai nhớ một bàn tay/Em nghiêng tình rót đầy ly trong suốt/Ong có về nhỏ mật để cùng say” (Đang giữa hạ chim bay về đầy phố – 6/2015)

“đố anh trong tách trà buổi tối/có bao nhiêu ngụm trong tách trà/mỗi ngụm trà có bao nhiêu giọt/và giọt nào nhỏ xuống tình ta.” (Đố anh – 2014)

Hơn thế, tình yêu của bà lồ lộ một niềm hoan lạc lạ.

“em đến đó nhưng em không ở lại/anh tặng cho em những mảnh linh hồn/vai em nhỏ mảnh hồn anh sáng quá/em ngỡ em đang gánh một vầng trăng”

“vầng trăng sáng đan sợi vàng sợi bạc/em mê đi như ở giữa chiêm bao/trái tim em hoang mang trong lồng ngực/nhưng thân em thì lấp lánh đầy sao” (Đến)

Khát khao một cuộc tình trọn vẹn, bà lưu giữ tất cả những gì thuộc về chàng, từ sợi tóc bạc, trái tim, môi mắt, tay chân, hơi thở vào chính mình để được hiến dâng, hạnh phúc cùng chàng suốt đêm ngày, năm tháng.


“đôi mắt anh em giấu vào trong mắt/lệ riêng em trong suốt mắt hai ta/môi của anh em giấu vào trong miệng/ngậm hương thơm của một mối tình xa/bàn tay anh em giấu vào trong áo/ngực rất hiền nở vội một đóa hoa”

“hơi thở anh em giấu vào hơi thở/đời sống chia nhau từng sợi mong manh/mình hà cho nhau một linh hồn mới/Chúa sẽ kêu lên… thôi thế cũng đành.” (Giấu)

Đặt tình yêu sánh bằng tín ngưỡng, bà nguyện ước

“Chúa Phật đều từ tâm/Tình yêu như tín ngưỡng/Hãy rót vào đời nhau/Nước sông hằng vô lượng.” (Vẽ hộ em nét mày – 2009)

Nhưng chính người đàn bà hiền thục, đầm ấm, tươi tắn đó đã để lại cho dòng chảy thơ ca Việt một cuộc tình đau đớn không thể phai mờ. Quà tặng chiến tranh được biết đến như một dấu mốc sâu đậm nhất trong sự nghiệp thơ của Trần Mộng Tú. Nó là duy nhất chưa từng có, chí ít tại nền thi thơ Việt cho tới thời điểm này. Chúng ta từng có một Chinh phụ ngâm, một Màu tím hoa sim chẳng bao giờ phai nhạt. Nhưng chưa từng có một thi nhân viết về nỗi đau đớn này của chính mình theo một cách dị biệt như vậy. Dường như không phải bà đã viết ra, mà đang nghĩ về nó. Những ý nghĩ không âm thanh ấy tạc thành một bức tranh tĩnh vật với tất cả sự thực khủng khiếp giết chết hạnh phúc đẹp nhất của tình yêu ngay khi vừa đơm hoa kết nụ. Hoa hồng, áo cưới, tuổi ngọc, mắt vương nắng hạ, đông giá tuổi xuân của người con gái vừa làm vợ xuống mồ cùng chồng. Bội tinh, mùi máu, môi không cười, tay không nắm, mắt không nhìn, mảnh đạn di vật của người chồng trao lại vợ. Không nước mắt, không kêu gào mà sao tức tưởi tàn nhẫn. Không thêm, không bớt, tất cả chỉ là sự thật trần trụi, phũ phàng. Chiến tranh xé nát cuộc đời như hương như hoa của một người con gái vừa độ trưởng thành. Chiến tranh cướp đi một một ngôi nhà, một gia đình vừa được xây cất với bao mong chờ tương lai ngày mới. Nỗi đau này lấy đi nước mắt của người đọc, nhất là không ít những người phụ nữ mất chồng trong chiến tranh như bà ở cả hai đầu cuộc chiến. Hệt như điều bà rung cảm “Máu anh và máu địch/xin em cùng xót thương”.

Năm ấy bà mới 26 tuổi, cưới chồng được hơn 3 tháng, ở với nhau được 2 tuần nếu tính theo ngày. Nỗi đau không nước mắt đọng trong tim, trong tâm tưởng, chi phối bà cả suốt cuộc đời.

Trước Quà tặng chiến tranh, Trần Mộng Tú có một Buổi trưa Sài Gòn (1968) thấm nước mắt. Cầm trái tim bằng cả hai tay đi dưới cơn mưa đầy bong bóng nhớ về người lính mới đang cầm cây súng đen sì ở một nơi xa lắc Trà Bồng, lòng bà không ngừng tự hỏi

“Sao anh còn trẻ thế/Sao em còn trẻ thế/Sao tình yêu hai ta còn trẻ thế/Lại lăn vào/Một cuộc chiến già nua”

Sau Quà tặng chiến tranh, bà còn rất nhiều bài thơ về nỗi đau thương này.

“Không bao giờ em quên/trái tim anh lãng mạn/chỉ một bóng hình em giờ nhận thêm mảnh đạn” (Huyệt mộ)

Nỗi bi thương đó theo bà suốt 50 năm sống cuộc đời không súng đạn ở xứ Cờ Hoa. Bà Tạ tình với người chồng bởi giây phút hoảng loạn bỏ chạy không kịp tới mộ phần nói lời từ biệt.

“Hãy tha thứ cho em/Một đi không ngoảnh lại/Để sỏi đá mỏi mòn/Để cho anh ngóng đợi”/“Hãy tha thứ cho em/Núi sông ngàn cách trở/Tình đã phụ tình rồi/Xin đừng mong ngóng nữa” (Tạ tình)

Vết thương chiến tranh, vết thương di tản dù xảy ra ở bất cứ quốc gia nào, cho bất cứ dân tộc nào cũng là những vết thương khó lành nhất” là điều bà viết vào tháng Tư 2025. Là sự nhìn nhận sâu thẳm nhất sau một chặng đường 50 năm bà phải từ bỏ quê hương vì cuộc chiến ý thức hệ.

Bài thơ viết ở Pendleton, California là bài thơ bà viết về Tháng Tư khi vừa đặt chân lên đất nước Hòa Kỳ (21/4/1975). Đó là nỗi đau đớn bàng hoàng ở cả hai đầu đi và đến. Đi như mất tất cả, từ trời đất, quê hương, dân tộc, người tình đến dòng sông, sóng nước tang thương. Đến chỉ là hồn thất lạc, nghẹn ngào tiếng nấc gọi tên nhau trong áo khăn, chăn người tủi lạnh…

Bà đã chia sẻ, đã nói thay nỗi đau này với những người cùng cảnh ngộ vừa dạt trôi tới căn lều Tỵ nạn mới dựng lên.

“Khi tôi đi một mặt trời vừa rụng/ Một kinh thành vừa sụp đổ sau lưng/ Một quê hương vừa thở nhịp cuối cùng/ Một dân tộc vừa ly khai dân tộc”

Thời gian qua đi, nỗi đau vẫn không qua, dẫu đất trời, quê hương sông núi tưởng chừng tan biến vẫn còn ở đó

 “Tháng Tư/Tôi chạm/những ngón tay gầy trên tờ lịch/đếm thật chậm những con số/đếm thật chậm đời tha hương/Tụ rồi tan/Mỗi người rẽ một ngã/rẽ ngã nào cũng gặp Tháng Tư” (Tháng Tư có nhận ra tôi – 22/4/2023)

50 mươi năm sau

Sợi tóc nào vừa nhuộm/ Vẫn trắng với thời gian/ Giọt nước mắt nào tan/ Vẫn đầm đìa muối mặn”/“Một mai khi nằm xuống/ Cờ nào phủ thịt da/ Một mai khi nhắm mắt/ Ta có xót thương Ta” (Viết tiếp vào năm 50).

Bà còn thảng thốt đến mức

“tháng này không phải tháng ba/cũng chẳng phải tháng tư,/tại sao Huy chết”/“Tại sao Huy lại rơi/như tiếng rơi/của vỏ đạn tháng ba vào cùng tiếng lá thu/sao Huy gãy ngang như báng súng/ai bẻ Huy đâu mà Huy gẫy thế này” (Hỏi Huy, sao chết tháng này – 11/2010)

Như lời của chính bà, vết thương đau đến mức bà đem cả chồng con về nhà họ Thái. Sống trên đất nước có cây cầu nạm vàng, bà vẫn đau đáu nhớ về cây cầu bê tông, cầu khỉ quê nhà với dòng nước tan tác. Trăng xứ lạ cũng làm bà động lòng trắc ẩn.

“Tôi cúi xuống hồn tôi/nhặt mảnh trăng vừa vỡ/mảnh trăng nhòe trên tay/hạt lệ vàng nức nở” (Tôi cúi xuống hồn tôi – 30/7/2015)

Một con mèo sưởi nắng cũng khiến bà liên tưởng tới nỗi cô đơn trong lòng

“Mèo có góc sân nhỏ/Tôi có khung kính mờ/Hai ta cùng bé nhỏ/Niềm cô đơn vô bờ”/“Mèo ơi phơi trong nắng/Khô hộ tôi nỗi buồn/Quê xưa, người tình cũ/Vẫn ướt sũng trong hồn.” (Con Mèo cô đơn)

Quà tặng chiến tranh ghi dấu ấn của bà vào nền thi ca dân tộc. Bà có không ít bài thơ thuộc “nhánh” này. Nhân chứng, Mẹ, con và hoa cúc, Tháng 10 hoa cúc, Có phải tôi không, Tháng Tư quê tôi, Lòng nào như suối cạn, Phía Tây mặt trời lặn, Buổi trưa Sài Gòn, Chiều 30 quét lá, Hoa tai, Trăng xanh, Vàng thu… là những bức họa khiêm nhường phía sau, phía xa Quà tặng chiến tranh, cho thấy một Trần Mộng Tú biệt tài trong việc sử dụng hình ảnh thực, ngôn từ chuẩn xác để “vẽ” nên những bức bích họa thơ. Nó khiến cho người ta cùng lúc nhìn thấy, nghe thấy, cảm thấy điều bà muốn gửi gắm. Dường như bà chỉ muốn để sự thật tự lên tiếng. Có thể điều đó khiến cho thơ bà tĩnh lặng, từng trải ngay khi mới lộ diện mà vẫn giữ được tươi trẻ khi đã thành danh. Vẻ đẹp của thanh âm, đa chiều của ngữ nghĩa tiếng Việt cũng nhờ đó mà lộ diện. Khiến bà đứng riêng ra/Rực chất sáng của mình/Như khối tượng lân tinh/ngời ngời tiêu hủy lấynhư cách nói của Tô Thùy Yên.

Một bức họa như vậy cho nghiệp văn chương

“Tiếng sách rơi khô trong hạ/thả vào võng gió chênh vênh/một chút âm dư vương lại/cũng tan theo nắng, nhẹ tênh”

“Văn chương theo người thinh lặng/chữ nghĩa theo người bốc hơi/giấy mực theo người khô cạn/bạn ơi sách ơi… mây trôi” (Như tiếng sách rơi – 2/7/2012)

Một bức cho tình mẫu tử
“Con đốt một nén nhang/nghe hồn mình cháy đỏ/ôi tàn tro nhỏ nhoi/bay về đâu theo gió
Mẹ đã bước ra đây/ngồi bên con một lúc/cả con và hoa cúc/cùng được Mẹ cầm tay.”
(Mẹ, con và hoa cúc – 14/10/2015)

Thêm một bức cho các bé gái tới khi phơ phơ đầu bạc chốn thôn quê không biết có bao nhiêu chiều 30 quét lá sân nhà, mà không biết mình đã quét đi cả giây phút thi nhân
“Lá ơi lá cứ rụng/chổi ơi chổi cứ xoay/gió ơi gió cứ thổi/tình ơi tình cứ bay”
“nhát chổi thay nét bút/đăm đắm chiều ba mươi/vạch một đường hư ảo/giữa thơ và đất trời”
(Chiều 30 Giáp Ngọ)

-Nguyễn Nguyên-

Người đàn bà thi sĩ Việt Nam dường như là một tổng kết về tâm trạng ấy. Cuộc đời thi sĩ của bà bắt đầu bằng tiếng khóc oe oe trên chiếc xe bò chở gia đình bà rời Hà Nội tránh làn đạn giặc Nhật. Để rồi, từ bỏ quê nội Nam Định, quê ngoại Thanh Hóa, nơi sinh Hà Đông, gót son tuổi thơ bà dạt trôi không ngừng nghỉ theo ngả đường Thái Bình, Hải Phòng, Sài gòn. Để rồi người đàn bà thi sĩ Việt Nam ấy bỏ lại quê hương, bỏ lại mối tình được gắn bội tinh, gói trong quốc kỳ nơi mộ huyệt. Bà di tản trước ngày 30/4, không phải chịu cảnh thuyền nhân tang tóc. Bà có một cuộc sống êm đềm với chồng con trên đất Hoa kỳ “Chồng yêu vợ, mẹ yêu con”, ngày ngày chồng đi làm, con đi học, bà “ở nhà nấu ăn, làm bánh, làm thơ”. Bà cũng thấy mình hạnh phúc.

“Nhưng sao lòng vẫn không vui/ Vẫn thấy nhớ/Vẫn thấy thương/Một điều gì/Ở chốn rất xa xôi/Và đêm đêm/Hồn vẫn thả trôi về quá khứ/Tôi người đàn bà thi sĩ Việt Nam/Đang sống đời biệt xứ”

Trần Mộng Tú còn có nỗi đau của một người nhìn thấy những trang sử “viết trên xác chết” của một cuộc chiến ngàn đời không đáng có. Cuộc chiến dẫn đến một “đám tang mẹ già/hải tặc là phu đám/biển xanh là mộ sâu”; “Chàng chết chưa kịp thấy/Vùng Đất Hứa Tự Do/Mắt hãy còn mở lớn/Đại dương đã là mồ”; những thân phận đàn bà tủi nhục“Gọi tên chồng lần cuối/Ôi ngọc nát vàng son” (Nhân chứng)

Nỗi đau Quà tặng chiến tranh khiến cho trái tim bà không chỉ xót thương mình, thương tộc Việt, mà còn thương bất cứ dân tộc nào rơi vào cảnh thịt nát xương rơi.

“Tháng Tư/Tiếng đạn ở Ukraine/tiếng khóc ở Ukraine/sao giống tiếng đạn ở quê mình/sao giống tiếng khóc ở quê mình/những trái tim chảy máu/sao trông rất giống trái tim mình” (Tháng Tư có nhận ra tôi – 22/4/2023)

Chứng kiến vụ khủng bố tòa nhà thương mại ngày 11/9/2001 tại Hoa kỳ, bà muốn đòi lại người mẹ trẻ cho đứa con thơ chờ đợi nơi cổng trường, người con trai duy nhất người mẹ luôn giữ trong lòng, cô con gái xinh đẹp cho người yêu hẹn tới, người cha cho đứa con có câu hỏi đang chờ, người vợ, mẹ của đàn con ngóng đợi trong căn bếp, người chồng kính yêu linh hồn của cả gia đình …

“Tôi sẽ trả lại anh/Con dao không có lưỡi/Súng không đạn trong nòng/Bàn tay không nắm đấm/Tôi sẽ trả lại anh/Tình yêu cho nỗi ghét/Băng bó cho vết thương/Đắp bồi cho mảnh vỡ/Và rồi anh sẽ có/Một trái tim an bình” (Trả lại cho tôi – 26/9/2001)

Bà xót thương những người đàn bà, đàn ông, người già, em bé bỏ chạy khỏi cuộc chiến Syria không tránh được chết thảm trên con đường tìm miền đất hứa.

“xác thân đã nẫu chín/thành nước và bốc hơi/ứa ra cùng hy vọng/nhỏ giọt xuống mặt đường/giọt chảy như giọt lệ/ướt sũng thềm lưu vong”;

“những thân xác da đen, nhuộn đen vùng biển mặn, cánh tay nào giơ lên, vẫy vào bờ tuyệt vọng”. (Vết thương nội chiến – 30/8/2015)

“Người di tản/của bất cứ quốc gia nào/trái tim cũng mất dần từng mảnh/nên khi chết/họ chết với một trái tim không nguyên vẹn./Có người chết/với lồng ngực rỗng/họ mất nguyên cả trái tim” (Tháng Ba và Tháng Tư ở đây – Vào xuân 20/3/2023)

Nhưng nỗi đau đã giúp bà nhận ra sự thật.

“Những cường quốc mang ân huệ của mình/rắc trên những mảnh đất chiến tranh/Họ chẳng cho không bao giờ/Họ lấy về hơn cả những gì họ mặc cả”

“Và những điều này/cả thế giới đều biết/cả anh và em đều biết/Biển và núi
hạt cát/những viên sỏi/muông thú/chúng đều biết hết”

“Chúa và Phật nhìn nhau/rồi cả hai cùng nhắm mắt/Chúa có hối hận vì đã sinh ra loài người/Phật có hối hận vì đã bao bọc chúng sinh” (Chỉ có thượng đế biết –9/3/2025)

Chúa và Phật cùng nhắm mắt, nhưng chắc hẳn Chúa và Phật không hối hận đã sinh ra và bao bọc chúng sinh. Bởi các Ngài đều biết con người cũng cần đi qua những khốn khổ, oan khiên, lầm lạc để thấu hiểu đạo sống. Không ngẫu nhiên “cánh chim giang hồ” Phạm Duy bay suốt một vòng đã quay về cố quốc với những trường ca bất hủ nhất đời mình. Ông trở về với Đàn chim Việt thảnh thơi thả hồn lên bầu trời với lời ca nồng nàn hào sảng, trong trẻo ân tình về dân tộc, non sông đất nước, tiếng Việt thiêng liêng. Bằng những ngôn từ đẹp nhất, Trần Mộng Tú đã gửi tri ân vào thời khắc ông thanh thản ra đi. Ông đã được “sống và chết trên quê hương, nước Việt Nam”.

50 năm qua biết bao người con di tản từ ngày tháng Tư năm ấy đã trở về quê hương tìm lại cha mẹ; bao cựu chiến binh Hoa Kỳ trở lại Việt Nam tìm mối tình đầu, tìm đứa con chưa từng biết mặt, tìm ân nhân cứu mạng trong cuộc chiến… Họ trở thành những người nỗ lực nhất trong cuộc hòa giải người Việt với người Việt, người Mỹ với người Việt và hai quốc gia cựu thù trở thành đối tác cùng phát triển như ngày hôm nay.

Cuối thu năm 2000, Trần Mộng Tú đã “Chia nhau Hà Nội” với tình yêu của mình. Bà đã không quên những gì đã làm nên hạnh phúc tuổi thơ – chiếc lá bàng cuối thu, hồi chuông giáo đường tinh mơ sáng, tơ tằm mới dệt giăng từ Hàng Đào đến phố Hàng Bông, ly cà phê buổi tối, mùi ngô non nướng dưới cột đèn, chiếc kiềng nạm bạc phố Hàng Gai giống hệt chiếc kiềng mẹ đeo trong ảnh nhiều năm trước… Giữ cho mình“những con ngõ hẹp/những bàn chân vội vã/ giẫm lên nhau/những cánh cửa/ bàn tay ai quên mở/rặng sấu già nua/vẫn lặng lẽ cúi đầu”; bà gửi cả đất trời, cả trái tim Hà Nội để người yêu cất “vào chỗ giấu trái tim em”. Hà Nội mà Trần Mộng Tú muốn được cất giấu cùng trái tim mình vẫn ở đó, nơi cư ngụ muôn đời tộc Việt hình chữ S vẫn ở đó, thấu hiểu tiếng lòng từ những bài thơ chân thành cảm xúc của bà.

Tiếng thơ dung dị ngỡ ngàng của bà đã góp vào nền thơ ca Việt một sắc thái khó phai mờ bởi một cuộc chiến đau thương không bao giờ phai mờ trong tiến trình hoàn thiện vóc dáng dân tộc Việt.

Hà Nội, 5/2025