Người phụ trách Văn Việt:

Trịnh Y Thư

Web:

vanviet.info

Blog:

vandoanviet.blogspot.com

Danh ngôn

Trong mọi cộng đồng, chúng ta cần một nhóm thiên thần gây rối.

We need, in every community, a group of angelic troublemakers.

(Bayard Rustin – trích bài phát biểu tại New York City 1963)

Trong mọi trường hợp, chắc chắn rằng sự thiếu hiểu biết, đi kèm với quyền lực, là kẻ thù tàn bạo nhất có thể có của công lý.

It is certain, in any case, that ignorance, allied with power, is the most ferocious enemy justice can have.

(James Baldwin - No Name in the Street 1972)

Các cuộc cách mạng và các cá nhân có thể bị giết hại, nhưng bạn không thể giết chết các ý tưởng.

While revolutionaries and individuals can be murdered, you cannot kill ideas.

(Thomas Sankara, một tuần trước khi bị ám sát, 1987)

Không có cảm giác nào cô đơn hơn việc bị chính đất nước mình trục xuất.

There's not a more lonely feeling than to be banished by my own country.

(Kiyo Sato – Kiyo’s Story 2009)

Ban Biên tập

Địa chỉ liên lạc:

1. Thơ

tho.vanviet.vd@gmail.com

2. Văn

vanviet.van14@gmail.com

3. Nghiên cứu Phê Bình

vanviet.ncpb@gmail.com

4. Vấn đề hôm nay

vanviet.vdhn1@gmail.com

5. Thư bạn đọc

vanviet.tbd14@gmail.com

6. Tư liệu

vanviet.tulieu@gmail.com

7. Văn học Miền Nam 54-75

vanhocmiennam5475@gmail.com

Tra cứu theo tên tác giả

Thứ Ba, 10 tháng 6, 2025

Tóm lược 50 năm văn học Việt nhập cư 1975-2025 (kỳ 3)

 Ngu Yên

 

Nhà văn Monique Truong

Monique T. D. Truong (sinh ngày 13 tháng 5 năm 1968) là một nhà văn người Mỹ gốc Việt sống tại Brooklyn, New York. Cô tốt nghiệp Đại học Yale và Trường Luật Đại học Columbia. Cô đã viết nhiều cuốn sách và cuốn tiểu thuyết đầu tiên của cô, The Book of Salt, được Houghton-Mifflin xuất bản năm 2003. Đây là một cuốn sách bán chạy nhất toàn quốc và đã được trao Giải thưởng tiểu thuyết Bard năm 2003 và Giải thưởng sách Stonewall, Giải thưởng văn học Barbara Gittings. Cô cũng đã viết Watermark: Vietnamese American Poetry & Prose, cùng với Barbara Tran và Luu Truong Khoi, và nhiều bài tiểu luận và tác phẩm truyện ngắn. (Wikipedia)

Tác phẩm:

2025, Mai’s Áo Dài (cùng với Thái Nguyễn).

2019, The Sweetest Fruits.

2010, Bitter in the Mouth.

2003, The Book of Salt.

Tóm lược tiểu thuyết The Book of Salt

Tôi đã nhận được, hoặc đã lấy, cuốn sách này tại “Bookswap Club” vào tháng trước. Cuốn sách kể về một đầu bếp người Việt làm việc cho Gertrud Stein và Alice B. Toklas và diễn ra vào cuối những năm 1920, đầu những năm 1930. Có vẻ như đây là một cuốn sách hoàn hảo để đọc cho hoạt động Paris vào tháng 7. Đây là nội dung trên bìa sau:

Paris, 1934, Binh đã đi cùng các ông chủ của mình đến nhà ga để khởi hành đến Mỹ. Điểm đến của riêng anh ta vẫn chưa rõ: anh ta sẽ đi cùng ‘Mesdames’ của mình, ở lại Pháp hay trở về quê hương Việt Nam? Binh đã trốn khỏi quê hương trong sự ô nhục, bỏ lại người cha lừa đảo độc ác và người mẹ hy sinh bản thân. Trong năm năm, anh ta đã trở thành đầu bếp riêng tại căn hộ nổi tiếng trên phố rue de Fleurus. Binh là một linh hồn lạc lối, một kẻ lưu vong và xa lạ, một người đàn ông của những suy tư, ký ức và có thể là cả những lời nói dối… Hương vị, đại dương, mồ hôi, nước mắt – The Book of Salt là một tiểu thuyết đầy cảm hứng về ẩm thực và sự lưu vong, tình yêu và sự phản bội.

Tôi đã nghiên cứu một chút trên internet, vì suy nghĩ đầu tiên của tôi là đây là một tác phẩm hư cấu lịch sử về một con người có thật và cuộc đời của người đó. Sau khi đọc cuốn sách, tôi có chút nghi ngờ. Tôi tìm thấy một bài báo từ tờ The New York Times và ở đó, bài báo cho chúng ta biết rằng Stein và Toklas đã thuê một số đầu bếp, và một trong số họ là một người đàn ông Việt Nam tên là Trac. Tất cả đều được đề cập trong The Alice B. Toklas Cook Book. Từ dòng này trong cuốn sách, nhà văn người Mỹ gốc Việt Monique Truong đã dựa trên câu chuyện của mình.

Binh là tên của người đàn ông trong cuốn sách. Anh ta phải, ít nhiều, chạy trốn khỏi nhà của mình. Anh ta lên một chiếc thuyền và đến Marseille, từ đó anh ta đi đến Paris. Anh làm đủ nghề cho đến một ngày anh tìm thấy một mẩu quảng cáo trên báo:

ĐẦU BẾP SỐNG TẠI NHÀ

Hai phụ nữ Mỹ muốn

thuê một đầu bếp – 27 rue de

Fleurus. Gặp người gác cổng.

Anh nộp đơn xin việc và được nhận. Hai người phụ nữ đó là Gertrude Stein và Alice B. Toklas. Qua góc nhìn của Binh, chúng ta thoáng thấy cuộc sống của họ. Alice Toklas là người đảm nhiệm việc nấu nướng và cô ấy có ý tưởng rõ ràng về cách nấu nướng. Có rất nhiều mô tả về đồ ăn trong sách và thỉnh thoảng bạn sẽ thấy đói. Tôi thậm chí còn ghi chú một mẹo nhỏ về cách làm món crème brulée có hương vị tuyệt vời!

Qua những cái nhìn ngược lại, Binh kể cho chúng ta nghe câu chuyện của anh; cuộc sống thời thơ ấu ở Việt Nam, về người cha nghiện rượu, theo Công giáo, về người mẹ đau khổ, ba người anh em trai, công việc đầu tiên của anh tại văn phòng Thống đốc và mối quan hệ với người đầu bếp, người sau này trở thành tình nhân. Khi cha anh phát hiện ra Binh là người đồng tính, ông đã yêu cầu anh rời khỏi nhà và không bao giờ quay lại. Anh là một người đàn ông có đầu óc cởi mở, vì vậy dù ở đâu, cũng có những mối quan hệ thú vị. Ví dụ như 'Người đàn ông trên cầu' và 'Người đàn ông chủ nhật'. Anh ấy đặt tên cụ thể cho những người anh gặp. Chủ yếu vì anh không biết tên thật của họ hoặc không thể phát âm được. Theo Wikipedia, người đàn ông trên cầu có thể là Hồ Chí Minh, người đã dành một thời gian ở Paris trong thời gian này. Binh bắt đầu mối quan hệ với người đàn ông chủ nhật (gọi như vậy vì họ gặp nhau vào Chủ nhật khi Binh được nghỉ). Anh ta là một bác sĩ chuyên khoa mống mắt lai (họ hành nghề y học thay thế và nói rằng họ có thể biết bệnh bằng cách nhìn vào mống mắt). Họ có một mối quan hệ đặc biệt, kết thúc theo một cách không ngờ tới.

Binh làm việc cho Stein và Toklas trong năm năm, cả trong căn hộ ở Paris và trong ngôi nhà nông thôn của họ ở Bilignin. Cuộc sống ở ngôi nhà nông thôn rất khác so với cuộc sống ở Paris. Binh kết bạn với những người hàng xóm và nếm thử rượu vang địa phương. Năm 1934, Stein và Toklas đi Hoa Kỳ để diễn thuyết và công việc của Binh đã kết thúc. Cuốn sách để lại Binh như khi anh bước vào; một mình, vẫn đang tìm kiếm cuộc sống riêng.

Tôi thực sự không biết phải nghĩ gì về cuốn sách này. Câu chuyện rất thú vị, đặc biệt là phần tiếng Việt mô tả rất tốt (tôi nghĩ vậy) cuộc sống của những người dân nghèo bình thường vào thời điểm đó. Ngoài ra, những người khác nhau mà Binh gặp trên đường đi cũng được mô tả rất hay và đặc trưng. Văn xuôi rất đẹp, gần giống như thơ, và đó là nơi tôi gặp vấn đề. Trước hết, không hoàn toàn thực tế khi người đầu bếp tội nghiệp này lại có tất cả những ý tưởng và suy nghĩ thực sự mang tính triết học này về mọi thứ trong cuộc sống. Thứ hai, câu chuyện cứ lặp đi lặp lại, và khi bạn 'quay lại', vẫn có những hướng đi phụ cho câu chuyện này. Những sự thay đổi thường xuyên và rất nhiều, vì vậy bạn có xu hướng mất phương hướng câu chuyện chính.

Món ăn được mô tả rất hay trong sách. Ngay cả những thứ đơn giản nhất, nghe giống như thơ và được mô tả rất đẹp đến nỗi bạn muốn thử mọi thứ. Bình có cách gọi tên đồ ăn, trái cây hoặc những thứ tương tự rất hay, nhờ vào vốn tiếng Pháp tệ của mình.

“Thưa bà, tôi muốn mua một quả lê… không phải một quả lê.” Cô Toklas nhìn tôi, đôi mắt không còn nhận ra tôi. Đúng vậy, tôi đã quên mất từ ​​tiếng Pháp “dứa” ngay khi tôi mở miệng. Rời đi theo ý muốn, những từ ngữ của ngôn ngữ này chế giễu tôi bằng sự vắng mặt ngẫu hứng của chúng. Khi tôi ở một mình, chúng tự đưa cho tôi, những đồng xu lẻ trong một chiếc túi nông, nhưng ngay khi tôi với lấy một quả, tôi lại làm rơi những quả khác. Điều này đã xảy ra với tôi nhiều lần trước đây. Ít nhất thì bây giờ tôi biết phải làm gì, tôi nghĩ. Tôi lặp lại câu hỏi của mình, nhưng lần này tôi đặt tay lên đầu, chỉ có lòng bàn tay chạm vào tóc. Các ngón tay của tôi xòe ra như hai chiếc quạt dựng đứng, mở hé. Với vương miện trên đầu, tôi đứng trước Madame mới của mình và Madame là hiện thân của “một-quả-lê-không-phải-một-quả-lê”. Tôi nhớ đã thấy Gertrude Stein mỉm cười. Madame của tôi đã tự giải trí với tiếng Pháp của tôi. Cô ấy quấn những từ ngữ của tôi quanh lưỡi, giữ lại chúng để sau này nghiên cứu cẩn thận hơn về những đột biến của chúng.”

Đây cũng là một ví dụ về cách một điều đơn giản như cố gắng khiến bản thân được hiểu, mở rộng thành những từ và câu 'thơ mộng', nhưng đồng thời đưa văn bản lên một tầm cao hơn. Sẽ ổn nếu nó ở đây và ở đó, nhưng toàn bộ cuốn sách thì như thế này, và tôi thấy khá mệt mỏi khi đọc. Mặc dù vậy, tôi chưa bao giờ nghĩ đến việc không đọc hết cuốn sách. Nó khá hấp dẫn, một câu chuyện được kể theo một cách khác. Nó cho thấy Paris từ một góc độ khác; từ góc nhìn của một người nước ngoài Việt Nam, đồng tính luyến ái vào thời điểm điều này rất khó khăn, không có việc làm, không có triển vọng, nhưng anh ấy vẫn phải sống sót bằng cách nào đó. Anh ấy có một kỹ năng từng cược vào để kiếm tiền khi thời cuộc khó khăn. Sau khi đi bộ khắp Paris, anh biết tất cả các con phố. Bất kỳ ai cũng có thể nói tên đường và anh ấy có thể nói đó là khu vực nào.

Nhà văn Lan Cao

Lan Cao sinh năm 1961, là giáo sư và tác giả người Mỹ gốc Việt. Cô là giáo sư luật tại Trường Luật Đại học Chapman, chuyên về kinh doanh và thương mại quốc tế, luật quốc tế và phát triển. Cô nhận bằng Tiến sĩ Luật từ Trường Luật Yale và đã giảng dạy tại Trường Luật Brooklyn, Trường Luật Duke, Trường Luật Michigan và Trường Luật William & Mary.

Lan Cao là một giáo sư luật tài năng, người đã biến kinh nghiệm của mình với tư cách là một người tị nạn Nam Việt Nam trong Chiến tranh Việt Nam thành những tiểu thuyết được giới phê bình đánh giá cao: Monkey BridgeThe Lotus and the Storm.

Năm 1991, cô được vinh danh là Học giả của Quỹ Ford. Cô phục vụ tại khoa Luật William & Mary trong hơn một thập kỷ và hiện đang là Giáo sư Luật Kinh tế Quốc tế Betty Hutton Williams tại Khoa Luật Dale E. Fowler của Đại học Chapman, chuyên về kinh doanh và thương mại quốc tế, luật và phát triển quốc tế.

Tác phẩm:

2020, Family in Six Tones: A Refugee Mother, an American Daughter.

2016, Culture in Law and Development: Nurturing Positive Change.

2014, The Lotus and the Storm.

1997, Monkey Bridge.

1996, Everything You Need to Know about Asian-American History.

1991, Wildland Fire.

Tóm lược tiểu thuyết Monkey Bridge

“Được xuất bản vào năm 1997, Monkey Bridge là tiểu thuyết đầu tay của nhà văn người Mỹ gốc Việt Lan Cao. Lấy bối cảnh năm 1975, câu chuyện kể về Mai và mẹ cô, Thanh, khi họ chạy trốn khỏi Việt Nam đến Hoa Kỳ vào cuối Chiến tranh Việt Nam.

Tại Hoa Kỳ, cả hai gặp phải xung đột giữa văn hóa Việt và Mỹ trong khi cùng nỗ lực để liên hệ với nhau. Mai và mẹ cô phải đối mặt với những bí mật từ quá khứ xuất hiện và thay đổi toàn bộ câu chuyện về lịch sử gia đình.

Monkey Bridge được coi là một cuốn sách quan trọng về văn học Chiến tranh Việt Nam và phản ánh quá khứ của chính tác giả khi chính bà di cư đến Hoa Kỳ từ Việt Nam vào năm 1975.

Mai mười ba tuổi đến Hoa Kỳ vào năm 1975, đúng vào ngày Sài Gòn sụp đổ, và chuyển đến sống với Đại tá Michael MacMahon, một người lính Mỹ, và gia đình của ông. Mẹ của Mai, Thanh, đến Hoa Kỳ vài tháng sau đó. Người đọc biết rằng cha của Thanh, Baba Quan, cũng sẽ đến Mỹ nhưng đã không xuất hiện ở nơi họ sẽ gặp nhau. Thanh cảm thấy cô chưa bao giờ hoàn toàn bình phục sau sự mất tích bí ẩn của ông. Mai và Thanh định cư ngay bên ngoài Washington, D.C., trong một khu vực có đông người Việt Nam khác sinh sống. Khu vực này được gọi là "Little Saigon".

Mai hòa nhập với cuộc sống ở Mỹ khá nhanh chóng và dễ dàng. Cô học tiếng Anh và bắt đầu nắm bắt được các quy ước của xã hội Mỹ. Tuy nhiên, Mai cảm thấy xấu hổ vì mẹ cô không thể thích nghi với cuộc sống mới ở Hoa Kỳ. Điều này khiến Mai cảm thấy bị chia rẽ giữa văn hóa Việt Nam, nơi cô cảm thấy tình cảm và lòng trung thành, và nền văn hóa Mỹ mới đầy thú vị. Điều này không chỉ làm nổi bật sự xung đột giữa các nền văn hóa mà còn là sự xung đột giữa các thế hệ khi Mai trẻ tuổi thích nghi dễ dàng, và người mẹ truyền thống hơn của cô dường như không thể thoát khỏi các quy ước văn hóa của mình. Hai người trở nên khó khăn hơn để liên hệ với nhau.

Ngay sau khi họ đến nơi, Mai xác định rằng có điều gì đó bí ẩn về hoàn cảnh xung quanh người cha và ông nội mất tích. Cô nhận thấy mẹ cô có vẻ phiền muộn về quá khứ. Thanh sớm phải nhập viện sau cơn đột quỵ. Bà gọi tên cha mình, Baba Quan, trong lúc bà ngủ. Mai gạt cảm xúc về sự đồng hóa của mẹ mình sang một bên vì giờ mẹ cô đã bị liệt và Mai phải chăm sóc bà.

Thanh bắt đầu kể cho Mai nghe về quá khứ của mình, khi bà còn là một cô gái nghèo, một địa chủ giàu có đã nhận nuôi bà, cuối cùng bà đã kết hôn với một người đàn ông đẹp trai, trí thức và sinh ra Mai. Mai trở nên rất tò mò về những người quen của mẹ mình, bao gồm bà Bay, và chú Michael, một cựu chiến binh Chiến tranh Việt Nam, là bạn của cha cô và đã đưa cô đến Mỹ sau khi Sài Gòn sụp đổ.

Mai phát hiện ra những lá thư mà mẹ cô đã giấu, và chúng dường như tiết lộ một lịch sử cá nhân rất khác với những gì Mai biết về mẹ mình. Những lá thư kể chi tiết về việc Baba Quan, cha của Thanh, đã sử dụng vợ mình làm gái mại dâm để trả tiền thuê nhà cho chủ nhà giàu có, chú Kahn. Vợ của chú Kahn không thể sinh con, và vợ của Baba Quan đã bị chú Kahn làm cho có thai và sinh ra Thanh. Kahn và vợ sau đó đã nhận nuôi Thanh, và cô được gửi đến trường nội trú Công giáo. Xấu hổ vì hành động của mình, Baba Quan trở nên giận dữ và lên kế hoạch trả thù chú Kahn bằng cách giết chú, mặc dù ông không thành công.

Khi Chiến tranh Việt Nam nổ ra, Baba Quan đã gia nhập Việt Cộng. Sau khi ngôi làng của ông trở thành vùng chiến sự, gia đình ông đã rời bỏ quê hương và chuyển đến một khu định cư gần đó. Tuy nhiên, Baba Quan vẫn ở lại với Việt Cộng để chiến đấu như một phiến quân.

Hiện tại, bà Thanh đã khỏe và rời khỏi bệnh viện. Mai và người bạn của cô, Bobby, quyết định đến Canada với kế hoạch gọi Baba Quan và thuyết phục ông ta gia nhập với họ ở Mỹ. Tuy nhiên, Mai đã thay đổi suy nghĩ vì sợ bị trục xuất trở lại Việt Nam. Cô nhớ lại những gì cha cô từng nói: "Một động thái sai lầm… toàn bộ tiến trình của một đất nước đã thay đổi", ám chỉ đến quyết định quan trọng của Hoa Kỳ khi cam kết tham gia Chiến tranh Việt Nam.

Qua những lá thư, người đọc biết trong quá trình chuyển đổi của gia đình Baba Quan đến khu định cư mới, mẹ của Thanh đã qua đời. Theo phong tục Việt Nam, hài cốt của bà phải được đưa về quê hương để làm tang lễ. Khi trở về làng, Thanh chứng kiến ​​Baba Quan giết chú Kahn trên bờ sông. Hoảng sợ, Thanh bỏ chạy, bỏ lại thi thể mẹ mình.

Mang trong mình vết sẹo về mặt cảm xúc vì không chôn cất mẹ tử tế, Thanh tiếp tục sống ở Mỹ, mặc dù cô không bao giờ có thể quen với lối sống của người Mỹ”. (Supper Summary, https://www.supersummary.com/monkey-bridge/summary/)

Nhà thơ Đinh Linh

Linh Dinh (tiếng Việt: Đinh Linh, sinh năm 1963, Sài Gòn, Nam Việt Nam) là một nhà thơ, nhà văn tiểu thuyết, dịch giả và nhiếp ảnh gia người Mỹ gốc Việt.

Dinh đến Hoa Kỳ vào năm 1975, chủ yếu sống ở Philadelphia. Từ năm 2018, ông sống ở Đông Nam Á, nhưng cũng sống ở Châu Âu và Châu Phi.

Năm 2005, ông là nghiên cứu viên David Wong tại Đại học East Anglia, ở Norwich, Anh. Ông đã dành năm 2002–2003 ở Ý với tư cách là khách mời của Nghị viện Nhà văn Quốc tế và thị trấn Certaldo. Ông là giảng viên thỉnh giảng tại Đại học Pennsylvania. Từ năm 2015–2016, Dinh là Giáo sư thỉnh giảng Picador về Văn học tại Viện Nghiên cứu Hoa Kỳ của Đại học Leipzig tại Leipzig, Đức.

“Thơ của Linh Đinh đào sâu hơn nữa vào lĩnh vực ngôn ngữ và nội dung có chủ đích gây kích động trong thơ và truyện ngắn của ông. Thơ của ông tìm cách nắm bắt sự dịch chuyển và chứng tâm thần phân liệt mà những người ‘không được lựa chọn’ của chủ nghĩa tư bản tân tự do trải qua, phần lớn dân số toàn cầu ‘những người mà cuộc sống không thể được gói gọn trong tuyên truyền của quốc gia hoặc doanh nghiệp’. Nhà phê bình Susan Schultz lập luận rằng "thơ ca của sự ghê tởm" này nhấn mạnh vào sự tham gia dữ dội, bản năng vào nỗi kinh hoàng, khiến người đọc ‘trở thành một nhân chứng, thay vì là một khán giả chứng kiến’.” (Janette, Michele. 2003: Oxford Literature)

Tác phẩm:

2017, Postcards from the End of America.

2017, A Mere Rica. Thơ.

2008, Love like Hate.

2007, Jam Alerts. Thơ

2006, Factory School. Thơ

2005, American Tatts. Thơ.

2003, All around What Empties out. Thơ.

2004, Blood and Soap.

2000, Fake House.

Nhà văn Andrew Lam

Andrew Lam là một nhà văn người Mỹ gốc Việt. Ông sinh ra ở Nam Việt Nam, nơi ông có một cuộc sống đầy đủ tiện nghi với tư cách là con trai của Tướng Lâm Quang Thi của Quân đội Việt Nam Cộng hòa, theo học tại Đại học California, Berkeley, chuyên ngành hóa sinh. Hiện tại, ông là biên tập viên web của New America Media.

Ông cũng là một nhà báo và nhà văn viết truyện ngắn. Năm 2005, ông đã xuất bản một tập tiểu luận, Perfume Dreams: Reflections on the Vietnamese Diaspora, về vấn đề bản sắc của một người Việt Nam sống tại Hoa Kỳ. Lam đã nhận được Giải thưởng PEN/Beyond Margins năm 2006 cho tác phẩm Perfume Dreams: Reflections on the Vietnamese Diaspora.

Ông là cộng tác viên thường xuyên của chương trình All Things Considered của Đài phát thanh công cộng quốc gia. Cuốn sách thứ hai của ông, East Eats West: Writing in Two Hemispheres, là một bài suy ngẫm về mối quan hệ Đông-Tây và cách mà làn sóng nhập cư của người châu Á đã thay đổi phương Tây.

Cuốn sách được Tạp chí Shelf Unbound bình chọn là Top Ten Indies năm 2010. Birds of Paradise Lost, cuốn sách thứ ba của ông, là một tập hợp các truyện ngắn về những người Việt Nam mới đến đang đấu tranh để làm lại cuộc sống của họ ở Vịnh San Francisco sau một cuộc di cư dài và đau đớn khỏi Việt Nam.

Tác phẩm:

2025, Stories from the Edge of the Sea.

2013, Birds of Paradise Lost.

2010, East Eats West: Writing in Two Hemispheres.

2005, Perfume Dreams: Reflections on the Vietnamese Diaspora.

Nhà văn Kim Thúy

Kim Thúy, nhà văn (sinh ngày 18 tháng 9 năm 1968 tại Sài Gòn, Việt Nam). Là người lãnh một số giải thưởng văn học danh giá cho tiểu thuyết đầu tay của mình, Ru, nhà văn gốc Việt người Quebec này được biết đến với những câu chuyện ngắn và tao nhã. Các tiểu thuyết của bà đề cập đến trải nghiệm di cư và những thách thức khi thích nghi với một nền văn hóa mới. Được viết bằng tiếng Pháp, mà Thúy gọi là "tiếng mẹ đẻ thứ hai", chúng đã được dịch sang 15 thứ tiếng.

Năm 10 tuổi, Kim Thúy rời Việt Nam cùng cha mẹ và hai anh trai, chạy trốn khỏi chế độ cộng sản đàn áp của đất nước. Giống như hơn một triệu người Việt Nam, gia đình Thúy đã ra khơi trên một chiếc thuyền tạm bợ. Sau khi ở Malaysia trong một trại do Cao ủy Liên Hợp Quốc về người tị nạn điều hành, gia đình đã được tái định cư tại Canada. Gia đình định cư tại Granby, Quebec. Tại thị trấn nhỏ này ở Eastern Townships, cha mẹ và con cái đã học được các quy tắc văn hóa mới. Một cách dịu dàng và hài hước, những cuốn sách của Thúy mô tả cú sốc văn hóa và sự giáo dục của người mới đến về môi trường văn hóa mới của cô: mùa đông và tất cả các loại quần áo, mỗi loại lại nhiều màu sắc hơn loại trước, phải mặc chồng lên nhau, sự chào đón nồng nhiệt từ người Québécois (bao gồm cả những cái ôm trìu mến trái ngược hẳn với sự kiềm chế theo phong cách Việt Nam), sự tò mò của những người bạn mới, vẻ đẹp, nhưng cũng là những khó khăn khi học tiếng Pháp.

Giải thưởng và danh hiệu:

Grand Prix RTL-Lire (Ru), Paris Salon du livre (2010)

Grand Prix La Presse, hạng mục Tiểu luận/Sách thực hành (Ru), Montreal Salon du livre (2010)

Giải thưởng văn học của Toàn quyền cho tiểu thuyết tiếng Pháp (Ru) (2010)

Grand prix littéraire Archambault (Ru) (2011)

Giải thưởng Mondello cho chủ nghĩa đa văn hóa (Premio Modello per la Multiculturalità, Ý) (Ru) (2011)

Giải thưởng Paul-Gérin-Lajoie cho sự khoan dung, Fondation Ensemble (2013)

Người chiến thắng Canada Reads (Ru), Canadian Broadcasting Corporation (CBC) (2015)

Hiệp sĩ Huân chương Quốc gia Québec (Ordre national du Québec) (2015)

Giải thưởng Quốc tế NordSud 2017 (dành cho Il mio Vietnam, bản dịch tiếng Ý từ tiểu thuyết Vi của bà), Quỹ Pescarabruzzo

Tiến sĩ danh dự, Đại học Concordia (2017)

 (Trích: The Canadian Encyclopedia)

Tác phẩm:

2020, Em.

2019, Le poisson et l’oiseau.

2017, Le secret des Vietnamiennes.

2016, Vi.

2013, Mãn.

2011, À toi.

2009, Ru.

Nhận xét về tiểu thuyết Ru

Ru, tiểu thuyết bán tự truyện đầu tiên của Kim Thúy, xuất bản năm 2009, khác biệt với các câu chuyện di cư thông thường bằng cách tập trung vào việc xây dựng bản sắc của một cá nhân xuyên văn hóa tên là Nguyễn An Tịnh trong điều kiện chiến tranh và lưu vong. Là tác phẩm đoạt Giải thưởng Toàn quyền danh giá năm 2010, cuốn tiểu thuyết được mô tả là một nỗ lực để “réinventer complètement le récit immigrant traditionnel, le rendant à nouveau pristine et extraordinaire.” (tái tạo hoàn toàn câu chuyện nhập cư truyền thống, khiến nó trở lại nguyên sơ và kỳ diệu). Lời khen ngợi của ban giám khảo tương ứng với cái kết đầy hy vọng của câu chuyện với hình ảnh tái sinh và đổi mới: “un phénix renaissant de ses cendres” (con phượng hoàng tái sinh từ tro tàn) (tr. 138), ám chỉ đến sức phục hồi và thành công chung của cộng đồng người Việt lưu vong trong cuốn sách. Một ghi chú kết thúc đầy chiến thắng như vậy là một ví dụ tiêu biểu cho tác phẩm của Thúy, một tác phẩm có cách tiếp cận không theo khuôn mẫu để khám phá những chủ đề chung của văn học di cư, chẳng hạn như đấu tranh dữ dội, mất mát, chấn thương và cái chết.

Bị chế độ cộng sản nhắm đến vì địa vị thượng lưu của họ ở Việt Nam sau chiến tranh, gia đình An Tịnh buộc phải bắt đầu một chuyến đi tàn khốc và chịu đựng nhiều tháng trong trại tị nạn Malaysia trước khi xây dựng lại cuộc sống của họ ở Québec, Canada. Trong lần trở về Việt Nam khi đã trưởng thành, An Tịnh nhanh chóng nhận ra rằng “je n’avais plus le droit de me announcementer vietnamienne parce que j’avais perdu leur fragilité, leur incertitude, leurs peurs” (tr. 84) (Tôi không còn quyền tự xưng là người Việt Nam nữa vì tôi đã đánh mất sự mong manh, sự bất định và những nỗi sợ hãi của họ). Đồng thời, cô được ông chủ của mình nhắc nhở về thực tế tàn khốc rằng cô sẽ không bao giờ thực sự trở thành một phần của “nation québécoise” (quốc gia Québec) (tr. 85) vì cô có dòng máu Á Đông. Một mặt, việc người kể chuyện không thể đồng nhất hoàn toàn bản thân với bất kỳ nền văn hóa nào đã xác nhận lập luận của Dupuis rằng trở thành người xuyên văn hóa là một “cuộc đàm phán đau đớn về Sự khác biệt” (tr. 500). Mặt khác, khi điều hướng các dòng chảy văn hóa, ký ức và thế giới, nhân vật chính đã trải qua một loạt các chuyển đổi ở cả cấp độ bên ngoài và bên trong, một quá trình cuối cùng dẫn đến sự cởi mở của cô với Người khác. Quyết định “aimer tous, sans appartenir à aucun” (Yêu tất cả, mà không thuộc về bất kỳ ai) (tr. 85) của cô làm sáng tỏ cuộc tìm kiếm liên tục của cô cho một ý nghĩa mới về bản thân không bị ràng buộc bởi một nền văn hóa hay thế giới quan duy nhất. Dựa trên lập luận của Dupuis, bài viết này coi Ru là một văn bản dịch quá trình thực sự trở thành xuyên văn hóa thông qua cuộc phiêu lưu phi thường của người kể chuyện-nhân vật chính và đặc biệt là ảnh hưởng quan trọng của một số nhân vật nữ đối với quá trình này trong suốt cuốn sách.

Trên hết, Ru không phải là sử thi về những anh hùng chiến tranh mà là lời ru về di sản của người mẹ. Trong bài viết Ru de Kim Thúy ou l’alchimie de l’épreuve (Ru của Kim Thúy hay phép thuật của thử thách), Anthony Soron lưu ý rằng Thúy thích giai thoại hơn sử thi, tạo thành một “anti-épopée [dans laquelle] il n’y a pas de héros” (Một phản sử thi [trong đó] không có anh hùng) (Soron, tr. 6). Ví dụ, thông qua việc miêu tả hấp dẫn một số nhân vật nữ, tác giả đặc biệt tôn vinh những người phụ nữ đã ảnh hưởng đến hành trình tìm kiếm bản sắc của cô, đầu tiên là với tư cách là một người nhập cư, và sau đó là một người mẹ. Trong một cuộc phỏng vấn, Thúy tuyên bố rằng thay vì trở thành người phát ngôn của lịch sử Việt Nam, cô muốn trở thành “une admiratrice ou quelqu’un qui a une grande gratitude  envers elles [ces femmes]” (Một người ngưỡng mộ hoặc một người mang lòng biết ơn vô hạn [đối với những người phụ nữ này]) (Valérie Dusaillant-Fernandes, 2012, tr. 171.). Ý định của tác giả được thể hiện rõ qua việc chọn từ “ru” làm tựa đề cuốn sách vì cách diễn giải kép của nó: “petit ruisseau, écoulement (de larmes, de sang, d’argent)” (dòng suối nhỏ, sự chảy trôi (của nước mắt, máu, tiền bạc)) trong tiếng Pháp và “berceuse, bercer” (ru) trong tiếng Việt. […]

(Trích: Ru by Kim Thúy: A Transcultural Tale of Mother-Daughter Lineage and Maternal Legacy của Xinyi Tan, Coastal Carolina University.)

Một số tác giả / tác phẩm khác

Inside Out and Back Again (2011) của Thanhhà Lại đoạt National Book Award for Young People's Literature năm 2011. Inside Out and Back Again kể về một cô gái trẻ tên Ha sống ở Việt Nam mà người cha mất tích trong chiến tranh Việt Nam. Mẹ cô, Ha, và ba anh trai của cô chạy trốn qua biển đến Alabama sau khi Sài Gòn sụp đổ. Chính tại Alabama, Ha phát hiện ra rằng cuộc sống không giống như cuộc sống ở Việt Nam. Bỏ lại cây đu đủ của mình, cô thương tiếc sự mất mát của cha mình và đấu tranh để hòa nhập với các bạn cùng lớp ở Alabama khi họ gọi cô bằng những cái tên phân biệt chủng tộc và bắt nạt cô vì ngoại hình và Việt Nam nơi cô rời bỏ.

Thousand Star Hotel, 2017 của Bảo Phi được Chicago Review of Book viết: “Cuốn sách này không phải là một cuộc hành trình mà là một sự đắm chìm. Phi đã khai thác một giếng kinh nghiệm vô cùng hữu hình. Thousand Star Hotel là một bản cáo trạng dữ dội, nóng bỏng về nạn phân biệt chủng tộc và bài ngoại. Như Phi nhắc nhở chúng ta, đặc biệt là trong những bài thơ về con gái ông, chúng ta được tạo ra bình đẳng nhưng sinh ra không bình đẳng. Theo lời ông, "Sự may mắn không phải là sự may mắn, mà là chiếc bánh quy. / Những người có thể ăn sẽ ăn."

The Gentle Order of Boys and Girls (2006) của Dao Strom "lấy cảm hứng từ làn sóng di cư của người Việt Nam vào những năm 1970 nhưng lại chứa đầy những quan sát xã hội về văn hóa trung lưu đương đại và cảm xúc độc lập... Những câu chuyện của Strom đẹp một cách lặng lẽ nhưng hợp thời mà không hề mỉa mai." – The New Yorker.

Sự chỉ trích về món quà tự do của nước Mỹ dành cho người tị nạn thậm chí còn rõ ràng hơn trong tác phẩm We Should Never Meet (2004) của Aimee Phan và Grass Roof, Tin Roof (2002) của Dao Strom.

Trong tác phẩm Short Girls (2009) nhà văn Bich Minh Nguyen đã để lại dấu ấn riêng của mình trong một câu chuyện đặc trưng của nước Mỹ về nhập cư, tham vọng và gia đình. Với sắc thái cảm xúc và nhân vật được khắc họa tinh tế, tiểu thuyết đầu tay tuyệt đẹp của cô đã hoàn thành dự đoán của tờ Chicago Tribune nhận định rằng Nguyen thực sự là "một nhà văn đáng chú ý".

Khả năng tạo ra muôn màu sắc trong các tác phẩm người Mỹ gốc Việt, cho thấy sự trưởng thành của các nhà văn nhà thơ Việt 1.5 và 2.0. Rõ ràng là họ thao thức và suy gẫm vấn đề bản sắc Việt lai trong một bản sắc áp đảo của xã hội họ đang định cư và Vững vàng, họ được học tập, trải nghiệm và tự thức nghệ thuật và kỹ thuật sáng tác. Trong cùng giai đoạn, họ vượt trội hơn các nhà văn nhà thơ sáng tác bằng tiếng Việt về đề tài, lý luận, quan điểm, cấu trúc và ý nghĩa của văn bản.

Nhà văn nhà thơ của thế hệ 1.5 và 2.0 theo sát những vấn đề của xã hội bản xứ và thế giới, họ nỗ lực phá vỡ những chuẩn mực về nữ quyền và dị tính. Những bài thơ của Truong Tran nén giữ bí mật về khuynh hướng tình dục của mình với mẹ và việc anh công khai với bà trong tác phẩm Placing the Accents, 1999; Dust and Conscious, 2002.

Tình yêu và nỗi khao khát tính dục kỳ lạ được mô tả với vẻ đẹp đau đớn trong thơ của Ocean Vuong, Nigh Sky …, 2016 và Hieu Minh Nguyen, This Way, 2014.

Truyện ngắn Georgia Red Dirt (2000) của Andrew Spieldenner khám phá sự giao thoa giữa chủ nghĩa phân biệt chủng tộc và chủ nghĩa dị tính khi nhân vật chính phải đối mặt với sự kỳ thị người đồng tính của chị gái, ngay cả khi họ cùng hiểu về chủ nghĩa phân biệt chủng tộc của Mỹ.

Nhà viết kịch Qui Nguyen đã viết lại một số phụ nữ dị tính nổi tiếng nhất trên sân khấu truyền thống thành những người yêu đồng tính nữ. Trong tác phẩm Living Dead in Denmark (2006), JulietLady Macbeth của Shakespeare được ghép đôi nhau. “Living Dead là sự kết hợp giữa các nhân vật của Shakespeare với cốt truyện về thây ma, được nêm nếm bằng một chút rùng rợn không thể nhầm lẫn của Buffy the Vampire Slayer. Kịch có những khoảnh khắc thông minh và một số câu thoại hài hước khiến tôi mỉm cười, nhưng tất cả đều phục vụ cho một cốt truyện lộn xộn về cuộc chiến khó hiểu giữa con người, thây ma và các sinh vật kỳ diệu/siêu nhiên (Titania, Puck, Caliban) không bao giờ thực sự ăn khớp.” (Theatre Review. NYC.)

Monique Truong cũng tham gia vào lịch sử văn học đồng tính, bằng cách tiếp nhận một trong những nghệ sĩ đồng tính nổi tiếng nhất của chủ nghĩa hiện đại Mỹ, Gertrude Stein. Cuốn tiểu thuyết năm 2003 của bà, The Book of Salt, tưởng tượng về cuộc đời của Binh, một đầu bếp người Việt Nam được Gertrude Stein và Alice B. Toklas thuê ở Paris những năm 1920.

Tiểu thuyết thứ hai của Truong, Bitter in the Mouth là một tác phẩm văn học viễn tưởng đương đại được xuất bản lần đầu vào năm 2010. Cuốn tiểu thuyết được viết theo phong cách dòng ý thức, trong đó nhân vật chính, Linda Hammerick, kể lại trải nghiệm lớn lên của cô với tư cách là một cô gái Mỹ gốc Việt mắc chứng liên hợp cảm giác được một gia đình da trắng ở Boiling Springs, Bắc Carolina nhận nuôi vào những năm 1970. Cuốn tiểu thuyết khám phá các vấn đề về chủng tộc, giới tính, tình dục, gia đình, sự thật và chấn thương… Do phong cách tường thuật theo dòng ý thức, cốt truyện không tuân theo trình tự thời gian nghiêm ngặt mà nhảy cóc theo thời gian, đan xen những ký ức lại với nhau dựa nhiều hơn vào kinh nghiệm và cảm xúc hơn là diễn biến của cốt truyện.” (Supper Summary, https://www.supersummary.com/bitter-in-the-mouth/summary/).

Bich Minh Nguyen cũng lấy cảm hứng từ văn học Mỹ chính thống với Pioneer Girl (2014), đan xen câu chuyện gia đình di cư từ Sài Gòn đến Chicago với những câu chuyện tiên phong trong loạt truyện Little House. Qui Nguyen, Monique Truong và Bich Minh Nguyen do đó gắn kết văn học Mỹ gốc Việt với văn học phương Tây chính thống.

Đề cập đến sự căng thẳng giữa sự mong muốn lên tiếng của nhóm người thiểu số và sự phủ nhận tiếng nói của họ, kho tàng người di dân được xây dựng từ khái niệm “thế hệ hậu ký ức” (concept of the postmemory) của Marianne Hirsch, khái niệm này theo dõi các chiều kích tình cảm và thẩm mỹ của chấn thương và mất mát mà những người trưởng thành sau chiến tranh nhận lãnh và nhận thức. Như Hirsch viết, mối liên hệ của thế hệ hậu ký ức này với quá khứ không được trung gian hóa bằng cách nhớ lại toàn bộ quá khứ mà thấm nhuần trong "sự đầu tư, dự đoán và sáng tạo giàu trí tưởng tượng... bị chi phối bởi các câu chuyện trước khi một người sinh ra hoặc ý thức của một người... được định hình, tuy nhiên gián tiếp, bởi các sự kiện chấn thương vẫn thách thức sự tái tạo câu chuyện và vượt quá sự hiểu biết" (Bui, Long. 2016:113.) Quan điểm này dẫn đến hệ quả rối rắm và sâu sắc trong vô thức lẫn ý thức sáng tác gốc Việt. Vì vậy, hầu hết những tác phẩm của hai thế hệ này được xây dựng trên nhiều lớp ẩn.

Về tiểu thuyết lịch sử, Kien Nguyen qua tác phẩm The Tapestries (2002) mô tả câu chuyện kéo dài trong thế kỷ 20 về sự thăng trầm trong chuyện tình của ông nội ông. Còn tác phẩm Le Colonial (2004) Kien đi sâu hơn vào lịch sử, kể câu chuyện về hai nhà truyền giáo Cơ đốc tìm cách định hình nền chính trị Việt Nam thế kỷ 18.

Dragonfish (2015) của Vu Tran lấy tiểu thuyết trinh thám gay cấn, một thể loại nổi tiếng về sự phức tạp về mặt đạo đức, và tái hiện nó bằng các nhân vật và trải nghiệm của người Mỹ gốc Việt. Bí ẩn trung tâm của Dragonfish xoay quanh sự mất tích của người vợ cũ của thám tử, một người tị nạn Việt Nam bị ám ảnh bởi những mất mát mà cô đã trải qua khi chạy trốn khỏi Việt Nam.

Trong Birds of Paradise Lost (2013) của Andrew Lam là một chuyến đi đầy cảm xúc, tái hiện một cách phức tạp những khởi đầu sai lầm và những tiết lộ trong cuộc đấu tranh cho sự hòa nhập của trái tim con người. Mười ba câu chuyện trong Birds of Paradise Lost lấp lánh sự hài hước và cảm động khi chúng ghi lại nỗi thống khổ, niềm vui và lòng dũng cảm của những người Mỹ mới đến, cuộc sống đầy rắc rối của những người chạy trốn khỏi Việt Nam và tái tạo bản thân ở vùng Vịnh San Francisco. Andrew Lam đã đưa sự phi lý vào hài kịch. Những câu chuyện của ông bao gồm một người bà thực sự bị "đóng băng" sau khi chết, người đã hồi sinh, bước ra khỏi tủ đông và đi sống một cuộc sống độc lập mới. Một diễn viên hài độc thoại có thói quen bao gồm những giả định phân biệt chủng tộc (như ăn thịt chó) và những cảm xúc đáng xấu hổ (như hy vọng rằng những tên cướp biển Thái Lan tấn công trong cuộc trốn chạy khỏi Việt Nam của anh ta sẽ chọn một người khác trên thuyền để cướp và giết người). Lam sử dụng cả sự mỉa mai và sự chua chát, gây ra cả sự rùng mình và kinh ngạc khi theo đuổi ẩn dụ hoặc sự thật trần trụi.

Các nhà văn đương đại khác trải dài trên cả địa lý và thể loại. Tiểu thuyết hiện thực huyền ảo của Quan Barry, She Weeps Each Time You’re Born (2014), kể về một cô gái (có thể cũng là sự tái sinh của Phật bà từ bi Quán Âm) được sinh ra với khả năng nghe và giải thoát ma quỷ. Barry đưa vào các chủ đề quen thuộc về cuộc di cư, thảm sát, đàn áp chính trị và bóc lột, nhưng tránh xa trình tự thời gian và quan hệ nhân quả; thay vào đó, câu chuyện của cô ấy bao gồm những ám ảnh và sự quái dị như nguồn sức mạnh, sự gắn bó và khởi đầu mới.

Tác phẩm We Were Meant to Be a Gentle People (2015) của Dao Strom cũng thử nghiệm với nội dung thần thoại và cá nhân cũng như hình thức và phương thức phi truyền thống. Tác phẩm của Strom—nhiếp ảnh và thơ ca, kèm theo một đĩa CD nhạc gốc—lý thuyết hóa các đại diện điện ảnh về quốc gia và gia đình và ngược lại, vừa mời gọi vừa phản đối sự tham gia.

Thể loại tiểu thuyết kỳ quái (Fantasticism) hoặc những thể loại tương tự như Chủ nghĩa hiện thực huyền ảo (Magic Realism), Siêu thực (Surrealism), đòi hỏi một tài năng khác và ngược với sáng tác kiểu hiện thực. Tác giả viết những thể loại này cần một khả năng tưởng tượng mạnh mẽ, biến hóa, khả năng chọn lựa biên tập và kiềm chế khi thực hiện hư cấu.

Trong 35 năm, văn học Mỹ gốc Việt đã phát triển thành một số tác phẩm có ý nghĩa về mặt thẩm mỹ và văn hóa nhất của thời đại đương đại. Cho dù là giáo điều công khai khi tìm cách phơi bày lịch sử đã mất hay có ảnh hưởng tinh tế hơn khi cung cấp các góc nhìn và hiểu biết về văn hóa xuất phát từ quan điểm phê phán về người tị nạn; dù là tưởng tượng ra các điệp viên ngầm, người cá có cánh hay các nhà phát triển bất động sản xuyên quốc gia; dù là biến tiếng Anh thành những nét phức tạp của vẻ đẹp, biểu cảm kinh dị hay những nét hài hước, những nhà văn này đều thúc đẩy chúng ta nhìn thế giới rõ ràng hơn và tưởng tượng ra nó một cách rộng rãi hơn. (Trích và biên tập từ Janette Michele. 2003: Oxford Literature.)

Kết luận

Những tác phẩm viết bằng ngoại ngữ bởi người Việt di dân thuộc về văn học nào, có lẽ không quan trọng. Câu trả lời dành cho các nhà nghiên cứu phê bình văn học. Còn người đọc như chúng ta, đọc những tác phẩm này để thưởng thức điều hay vẻ đẹp, những cao quí của văn chương; để chia sẻ tâm trí của người viết qua nhiều chủ đề khác biệt và nhiều phạm vi rộng rãi, để suy nghĩ, tự vấn về những gì họ gửi đến dù hài lòng hay không thỏa thuận, dù mâu thuẫn, bất đồng hay công nhận, dù thích hay yêu quí, chúng ta trải nghiệm một quá trình tính và chất Việt đã sẵn có trong tâm tư được phân lý và tâm sự qua một đồng hương khác.

Đọc những tác phẩm đa dạng này với những suy nghĩ tân thời, những gợi ý cập nhật cuộc đời, và những tình cảm phù hợp nhịp sống, không những chỉ giải trí, mà theo chân tác giả đi tìm căn cước của họ, người đọc chúng ta sẽ có cơ hội nhìn thấy một phần bản sắc Việt mà đôi khi chúng ta đã lãng quên hoặc không ngờ.

Hơn nữa, không chắc gì lâu dài, những nghiên cứu về di dân cho biết: thế hệ đầu tiên 1.0 là thế hệ hy sinh xuơng máu và đời sống để tạo ra cơ hội cho thế hệ thứ hai, 2.0. Thế hệ này sẽ xông xáo, tìm đủ mọi cách hòa nhập và thành đạt, có xu hướng trở thành hoặc giống như người bản xứ. Thế hệ thứ ba, 3.0, thế hệ trở về nguồn. Đây là lúc chúng ta có thể chứng kiến nhiều tác phẩm và tác giả nổi bật tính và chất Việt một cách khác. Rồi từ thế hệ thứ tư, 4.0 trở đi, bản sắc Việt sẽ nhạt nhòa, tuy vẫn còn đó mà phôi pha. Chắc chắn lúc đó, họ hoàn toàn thuộc vào dòng văn học chính thống.

Tài liệu tham khảo

Alison, Johnson M. (2016). Herstories of War: Representations of Silence in Women’s Vietnam/American War Narratives.  PhD diss. University of North Carolina

August, Timothy K. (2014).  Postcolonial Appetites: Vietnamese American Literature and Refugee Aesthetics. PhD diss. University of Minnesota.

Berntsen, D., & Rubin, D.C. (2006). The Centrality of Event Scale: A Measure of Integrating a Trauma into One's Identity And Its Relation to Post-traumatic Stress Disorder Symptoms. Behaviour Research and Therapy, 2006 Feb; 44(2), pp. 219–231.

https://pmc.ncbi.nlm.nih.gov/articles/PMC3974102/

Bui, Long (2016). The Refugee Repertoire: Performing and Staging the Postmemories of Violence. Wesleyan University. Project Muse. Melus: Multi-Ethnic Literature of the U.S., Volume 41, number 3, Fall 2016, pp. 112-132. Oxford Unviversity Press.

Cao, Thanh Hai Le. (2013). Crafting a New Self in Diaspora A Study of the 1.5 Generation of Vietnamese Americans.  PhD diss. University of Kansas.

Dusaillant-Fernandes, Valérie. (2012). Habiller le vécu de mots et d’images: le projet de Kim Thúy. Entretien avec Kim Thúy, 20 juillet (Toronto, Canada), Voix plurielles 9.2.

Kolcún, Dušan (2016). Good Death in Vietnam War Literature. PhD diss. Masaryk Universit..

Hall, S. (1995). New Cultures for Old. In D. Massey & P. Jess (Eds) A Place in the World? (pp. 175-213). Oxford University Press.

Heberle, Mark. (2004) Thirty Years After: New Essay on Vietnam War Literature, Film, and Art. Cambridge Scholars Publishing.

Hidle, Jade Tiffany. (2014). Bound by Water: Inquiry, Trauma, and Genre in Vietnamese American Literature.  PhD diss. University of California.

Huỳnh, Kim Quang. (2024). Những đóng góp của người Mỹ gốc Việt cho văn học Hoa Kỳ. Việt Báo, May 24. https://vietbao.com/a319108/nhung-dong-gop-cua-nguoi-my-goc-viet-cho-van-hoc-hoa-ky

Janette, Michele. (2003). Vietnamese American Literature in English, 1963-1994. Amerasia Journal 29:1, pp. 267-286.

Martin, Carole. We Had No Belonging Except Our Stories. In Chowdhury, Touhid Ahmed (Hrsg.), Displacement, Emplacement, and Migration : an Interdisciplinary Collection of Essays. Bamberg: University of Bamberg Press, 2024, p. 27-40. 2024. DOI: 10.20378/irb-58625

https://fis.uni-bamberg.de/server/api/core/bitstreams/09f67654-380c-4b3e-92e6-945a58fb6c41/content

Nguyễn, Hồng Anh và Phan Thu Vân. (2014). Diasporis Vietnamese Literature in the U.S. From the Perpective of Identity, and the Case of Viet Thanh Nguyen. The Paris Conference on Arts & Humanities.

Nguyen, Marguerite and Catherine Fung (2017). On Writing, Radicalism, and Literary Value: An Interview with Viet Thanh Nguyen. MELUS, Vol. 42, No. 3, The World, The Multi-Ethnic Text, and the Critic (FALL 2017), pp. 201-221. Oxford University Press.

Nguyen, Thanh Viet, Andrew Lam, Aimee Phan. (2016). A Conversation with Authors Viet Thanh Nguyen, Andrew Lam, and Aimee Phan. Diasporic Vietnamese Artists Network. https://dvan.org/2016/09/new-voices-in-vietnamese-american-literature-a-conversation-with-viet-thanh-nguyen-andrew-lam-and-aimee-phan/

Nguyen, Thuy Vi. (2020). Cultivating Identities in a Place Called Home: Intersectional, Ever Changing Identities of Vietnamese American Youth in Culturally Sustaining Spaces. Journal of Southeast Asian American Education and Advancement: Vol. 15: Iss. 1, Article 6.

Quan, Manh Ha. (2016). When Memory Speaks: Transnational Remembrances in Vietnam War Literature. Southeast Asian Studies, Vol.5, No.3. Center for Southeast Asian Studies, Kyoto University.

https://englishkyoto-seas.org/2016/12/vol-5-no-3-quan-manh-ha/

- Schafer, John C. Võ Phiến and the Sadness of Exile. Centre for Southeast Asian Studies, Illinois: Southeast Asia Publications, 2006.

Soron, Anthony.  Ru de Kim Thúy ou l’alchimie de l’épreuv, http://uranus.msha.fr/msha/exmsha/recherche2011-2015/transformation/antony_soron/alchimie_epreuve.pdf

- Stefani, Debora (2017). Fighting against Post-Colonial Optimism: In Search of Subaltern and Diasporic Agency in Vietnamese American Fiction. In Diasporas, Cultures of Mobilities, ‘Race’ 2 Diaspora, Memory and Intimacy. Presses universitaires de la Méditerranée.

https://books.openedition.org/pulm/9193?lang=en

Tran, Paul. (2015). Anger in the Asian American Novel: An Interview with Viet Thanh Nguyen. Diasporic Vietnamese Artists Network. Sep 7.

https://dvan.org/2015/09/anger-in-the-asian-american-novel-an-interview-with-viet-thanh-nguyen/

Tran, Qui Phiet. (1989). Exiles in the Land of the Free: Vietnamese Artists and Writers in America, 1975 to the Present. JASAT 20, October.

Tuon, Bunkong. (2012). An Outsider with Inside Information: The 1.5 Generation in Lan Cao’s Monkey Bridge. Postcolonial Text, Vol 7, No. 1. Union College.

https://www.postcolonial.org/index.php/pct/article/view/1114/1291

- Vu, Chi. (2014). The 1.5 Generation Vietnamese-American Writer as Post-Colonial Translator. The AALITRA Review: A Journal of Literary Translation, No. 9 (Melbourne: Monash University, 2014), pp. 5-18.

https://ojs.latrobe.edu.au/ojs/index.php/AALITRA/article/view/722