Người phụ trách Văn Việt:

Trịnh Y Thư

Web:

vanviet.info

Blog:

vandoanviet.blogspot.com

Danh ngôn

Trong mọi cộng đồng, chúng ta cần một nhóm thiên thần gây rối.

We need, in every community, a group of angelic troublemakers.

(Bayard Rustin – trích bài phát biểu tại New York City 1963)

Trong mọi trường hợp, chắc chắn rằng sự thiếu hiểu biết, đi kèm với quyền lực, là kẻ thù tàn bạo nhất có thể có của công lý.

It is certain, in any case, that ignorance, allied with power, is the most ferocious enemy justice can have.

(James Baldwin - No Name in the Street 1972)

Các cuộc cách mạng và các cá nhân có thể bị giết hại, nhưng bạn không thể giết chết các ý tưởng.

While revolutionaries and individuals can be murdered, you cannot kill ideas.

(Thomas Sankara, một tuần trước khi bị ám sát, 1987)

Không có cảm giác nào cô đơn hơn việc bị chính đất nước mình trục xuất.

There's not a more lonely feeling than to be banished by my own country.

(Kiyo Sato – Kiyo’s Story 2009)

Ban Biên tập

Địa chỉ liên lạc:

1. Thơ

tho.vanviet.vd@gmail.com

2. Văn

vanviet.van14@gmail.com

3. Nghiên cứu Phê Bình

vanviet.ncpb@gmail.com

4. Vấn đề hôm nay

vanviet.vdhn1@gmail.com

5. Thư bạn đọc

vanviet.tbd14@gmail.com

6. Tư liệu

vanviet.tulieu@gmail.com

7. Văn học Miền Nam 54-75

vanhocmiennam5475@gmail.com

Tra cứu theo tên tác giả

Thứ Bảy, 14 tháng 6, 2025

Ta thấy hình ta những miếu đền!

 Phạm Hiền Mây

I. MAI THẢO, NGƯỜI CÔ ĐƠN TIÊU BIỂU

Mai Thảo sinh năm 1927 tại Nam Định và mất năm 1998 tại Hoa Kỳ, thọ bảy mươi mốt tuổi. Ông là nhà văn, nhà thơ, và là người cầm chịch tên tuổi trong giới làm văn nghệ, cả trước 1975 tại Sài Gòn và sau 1975 tại hải ngoại.

Không chỉ thế, ông còn là một người cô đơn, tiêu biểu:

Sớm ra đi sớm hoa không biết

Đêm trở về đêm cành không hay

Vầng trăng đôi lúc tìm ra dấu

Nơi góc tường in cái bóng gầy

(Không tiếng)

Cuộc đời ông là trường thiên vũ khúc của một mình, phòng trà, vũ trường, quán bar, văn chương, bạn bè, và, rượu:

Ngồi tượng hình riêng một góc quầy

Tiếng người: kia, uống cái chi đây?

Uống ư? Một ngụm chiều rơi lệ

Và một bình đêm rót rất đầy.

(Một mình)

Thiệt ra, không chỉ Mai Thảo, hay bất kỳ một thiên tài thi ca, văn chương, nhạc họa nào, mới cảm ra rằng mình cô đơn. Sự cô đơn là món quà miễn phí từ thượng đế, được phân phối đến đều khắp cho thiên hạ. Nhưng dù sao thì, với những tâm hồn nhạy cảm, đầy chất thơ, đầy sự bay bổng và lãng mạn, nỗi cô đơn cũng vẫn thích vào khu trú, rồi tấn công, và chiếm lãnh thổ nhiều hơn. Chúng thường trực, gặm nhấm triền miên, từ buổi sinh ra cho đến lúc chết đi, vì chất nghệ sĩ có trong người ta, vốn là thứ thức ăn ngon miệng nhứt của chúng:

Nửa đêm đợi bạn từ xa tới

Cửa mở cầu thang để sáng đèn

Bạn tới lúc nào không biết nữa

Mưa thả đều trong giấc ngủ đen

(Đợi bạn)

******

II. KHÔNG CHỈ CON NGƯỜI, MÀ TRƯỜNG HỌC CŨNG DI CƯ VÀO NAM

Mai Thảo học Chu Văn An - Hà Nội. Có lẽ chuyện này, cũng nên nói thêm một chút, trước là cho vui, sau là để các em tuổi nhỏ hơn, có thể hiểu thêm một vài điều trước đây, thuộc thế hệ cha anh, cũng không gì là vô ích, phí uổng.

Trường Chu Văn An cũng “di cư” vào miền Nam năm 1954. Đến năm 1978 thì bị xóa bỏ hoàn toàn.

Trường nữ Trưng Vương, cũng là trường “di cư”. Trường Trưng Vương và trường Chu Văn An, như một cặp bài trùng, xứng đôi, sánh đôi nhau, thời trước năm 1975.

Các bạn có biết bài hát Trưng Vương khung cửa mùa Thu, nhẹ nhàng, thơ mộng, lãng mạn và tình tứ do nhạc sĩ Nam Lộc viết lời Việt từ ca khúc gốc Tell Laura I Love Her, không? Đó đó, Trưng Vương này, chính là nói đến trường Nữ Trung học Trưng Vương Sài Gòn khi xưa đó.

Còn “một cặp” trường “con nhà” nữa, đó là trường Nam Trung Học Pétrus Ký, tức trường Lê Hồng Phong bây giờ và trường Nữ Trung học Gia Long, nay đã đổi tên thành Nguyễn Thị Minh Khai.

Danh giá lắm, nổi tiếng lắm, bốn trường trên. Mười tuổi, học xong lớp Nhứt, là cha mẹ, là con cái, vắt giò lên cổ, học thêm học bớt, thức đêm thức hôm, sĩ tử dùi mài kinh sử, chờ ngày ứng thí, chính là đây.

Cũng lại nói thêm chỗ này, từ hồi xửa hồi xưa, từ cái thời xa lắc xa lơ xưa, người ta đã có dạy thêm rồi. Học phí cao, nhưng không phải là cao quá mức, con nhà không khá giả, khi cần thiết, cũng vẫn có thể học được, chớ không đến nỗi. Không học thêm, sao chen chân vô được lớp đệ thất trường công?

Cha mẹ thì toàn các ông các bà ít chữ, thời xưa, đầu thế kỷ XX, mấy ai được ăn học đến nơi đến chốn? Con là con đầu, lấy ra anh chị nào để kèm cặp em? Thì phải đi học thêm thôi. Xưa, thi là thi tuyển. Trường lấy năm mươi em chẳng hạn, mà số thí sinh nộp đơn xin thi vào lên đến một ngàn, là nó chặt phăng chín trăm năm mươi đứa thấp điểm. Đứa nào bị rớt, là từ cha mẹ đến chúng, khóc ròng ròng luôn. Ra trường tư, tiền đâu mà chịu cho nổi?

Nhà nào, ít nhứt, cũng ba, bốn đứa con. Nhà đông thì chín, mười đứa con. Học trường tư, sao chịu nổi?

Giải thích thêm, trung học hồi xưa là học liền tù tì, từ lớp sáu lên đến lớp mười hai, chớ không chia ra cơ sở, phổ thông, cấp hai, cấp ba bát nháo, loạn xà ngầu, như bây giờ đâu. Thi một lần, năm vào đầu cấp, tức lớp Đệ Thất, học một lèo lên lớp Đệ Nhị, thi Tú Tài Một, học xong lớp Đệ Nhứt, lấy Tú Tài Hai.

Có Tú Tài Một thôi, tức học xong lớp Đệ Nhị, ngang với lớp mười một bây giờ, cũng đủ xài rồi. Đi xin việc, nhiều nơi họ chấp nhận bằng cấp Tú Tài Một này.

Ngày xưa, người ta học chất lượng lắm, không có như bây giờ. Lấy xong Tú Tài, là có thể đi làm. Ngoại ngữ của họ đủ để nói chuyện với người nước ngoài, hiểu biết về khoa học và văn chương của họ, rộng và sâu.

Bây giờ, học xong lớp mười hai, viết một bản tường trình hay viết một lá đơn xin học, xin việc làm, hay một lá thư tay, bằng tiếng Việt thôi, là cũng đủ cho các anh chị ngồi thừ ra nửa ngày, mà vẫn không sao viết được phần mở đầu. Chỉ còn cách là nhờ cậy hết vào người máy google. Chớ còn gì nữa.

Các bạn có khi nào nghe câu cải lương: Rớt Tú Tài anh đi Trung Sĩ / Em ở nhà lấy Mỹ nuôi con không? Tú Tài là học lực của tuổi mười bảy, mười tám thời ấy đấy.

Mấy chuyện trường nhứt nhì này, cũng thăng giáng, cũng nhiều đảo lộn ngoạn mục lắm. Cho tôi khoe chút, như trường tôi từng học, xưa lắc xưa lơ có tên Tân Bình, thời tụi tôi học, đã đổi thành Nguyễn Thượng Hiền (mà tụi tui hay nói lén là Ngu Thượng Hạng), nằm khỉ ho cò gáy tuốt miệt Bảy Hiền, không sang như mấy trường tôi vừa kể ở trên đâu. Vậy mà năm tôi thi vào, trường tôi lấy điểm cao nhứt Sài Gòn. Đậu vào đây là hãnh diện lắm luôn. Trường tôi, cũng nằm trong vành đai, thuộc về Dân Ông Tạ, mà nhà văn Cù Mai Công đã ra một bộ sách khủng về xứ này. Trang FB của tôi, cũng có những người “nổi tiếng” học ở đó ra, như ca sĩ Nhật Hạ, như nhà văn Cù Mai Công, nhà văn Phạm Công Luận. Còn bạn nào xuất thân từ đây ra không, xin vào góp mặt, nhận bà con luôn cho dzui.

Chèn ơi, là tôi đang ở chốn nào rồi, tôi hôm nay đang viết về Mai Thảo mà. Thiệt là.

******

III. MAI THẢO VÀ TẬP THƠ TA THẤY HÌNH TA NHỮNG MIẾU ĐỀN

Từ năm mười sáu, mười bảy tuổi, Mai Thảo đã làm thơ. Di cư vào Nam, chẳng hiểu sao, ông bỏ hẳn thơ. Cả cuộc đời ông, chỉ xuất bản duy nhứt một tập thơ mang tên Ta thấy hình ta những miếu đền tại Cali năm 1989.

Còn các tác phẩm khác của ông thì được in thành sách, xuất bản và đăng trên báo, nhiều lắm, với đủ thể loại, truyện dài, đoản thiên, hồi ức, nhận định và cả kịch bản phim truyện nữa.

Trong Chuyện Làng Văn của mình, Phạm Chu Sa kể: Trần Phong Giao, người tạo dựng và điều hành bán nguyệt san Văn, đã mời nhà văn rong chơi Mai Thảo về cầm chịch tờ Văn. Và ông Nguyễn Đình Vượng, chủ nhiệm bán nguyệt san Văn, rất thích văn phong của Mai Thảo và Nguyễn Thị Hoàng. Sách của hai nhà văn thời thượng này là ưu tiên xuất bản của ông Vượng.

******

IV. BÀI THƠ TA THẤY HÌNH TA NHỮNG MIẾU ĐỀN

Chữ của Mai Thảo giống mặt nước lặng yên, tưởng bình an mà đáy ngầm sóng cuộn. Lời thơ của Mai Thảo, thống trầm kiếp khổ, tựa khuôn mặt ông, ai mang khắc vào đó những vạn cổ sầu, những điệp trùng quan san, những muôn ngàn thiên lý.

TA THẤY HÌNH TA NHỮNG MIẾU ĐỀN

Ta thấy tên ta những bảng đường

Đời ta, sử chép cả ngàn chương

Sao không, hạt cát sông Hằng ấy

Còn chứa trong lòng cả đại dương

Ta thấy hình ta những miếu đền

Tượng thờ nghìn bệ những công viên

Sao không, khói với hương sùng kính

Cháy được lên từ đáy thẳm khơi

Ta thấy đường ta Chúa hiện hình

Vườn ta Phật ngủ, ngõ thần linh

Sao không, tâm thức riêng bờ cõi

Địa ngục ngươi là, kẻ khác ơi

Ta thấy nơi ta trục đất ngừng

Và cùng một lúc trục trời ngưng

Sao không, hạt bụi trong lòng trục

Cũng đủ vòng quay, phải đứng dừng

Ta thấy ta đêm giữa sáng ngày

Ta ngày giữa tối thẳm đêm dài

Sao không, nhật nguyệt đều tăm tối

Tự thuở chim hồng, rét mướt bay

Ta thấy nhân gian bỗng khóc òa

Nhìn hình ta khuất, bóng ta xa

Sao không, huyết lệ trong trời đất

Là phát sinh từ huyết lệ ta

Ta thấy rèm nhung khép lại rồi

Hạ màn, thế kỷ hết trò chơi

Sao không, quay gót, tên hề đã

Chán một trò điên diễn với người

Ta thấy ta treo cổ dưới cành

Rất hiền giấc ngủ giữa rừng xanh

Sao không, sao chẳng không là vậy

Khi chẳng còn chi ở khúc quanh.

******

IV.1. SAO KHÔNG, HẠT CÁT SÔNG HẰNG ẤY

Ta thấy tên ta những bảng đường

Đời ta, sử chép cả ngàn chương

Sao không, hạt cát sông Hằng ấy

Còn chứa trong lòng cả đại dương

Trong thơ Mai Thảo, tôi không hề thấy bóng dáng của tự kiêu, hay ngông cuồng, hay ngạo mạn. Tôi chỉ thấy đó là những câu thơ nhỏ nhẹ, hiền lành. Dường như là những câu thuộc thể nghi vấn nhưng lại được viết dưới một câu xác định.

Kiểu như là, có phải thế không, tên ta là những bảng đường, là cả ngàn trang sử.

Có thể lắm chứ, phải không, như hạt cát sông Hằng kia, nó đang chứa trong lòng mình, cả một đại dương. Như tôi, tôi cũng đang chứa trong lòng tôi, quê hương và đất nước.

******

IV.2. SAO KHÔNG, KHÓI VỚI HƯƠNG SÙNG KÍNH

Ta thấy hình ta những miếu đền

Tượng thờ nghìn bệ những công viên

Sao không, khói với hương sùng kính

Cháy được lên từ đáy thẳm khơi

Thơ Mai Thảo không chỉ dịu dàng mà còn mượt mà rất đỗi. Ông làm thơ mà giống như đang vuốt ve người tình mình vậy đó.

Những hỏi, rồi những tự đáp, mới dễ thương gì đâu, và mắc cười nữa, khi tôi tưởng tượng ra khuôn mặt nghiêng nghiêng của ông, con mắt nheo nheo của ông, sao không?

Ta là miếu đền, ta là tượng thờ, được triệu triệu người, tự đáy lòng, sùng kính, lễ bái, hương khói quanh năm. Có được không? Thì ta ước vậy thôi mà. Có được không? Chỉ vì ta biết ta một mình, ta cô đơn, nên khi rời xa thế giới này rồi, ta mơ mình cũng được yêu thương, cũng được tưởng nhớ. Có được không. Có được không vậy, người ơi.

******

IV.3. SAO KHÔNG, TÂM THƯỚC RIÊNG BỜ CÕI

Ta thấy đường ta Chúa hiện hình

Vườn ta Phật ngủ, ngõ thần linh

Sao không, tâm thức riêng bờ cõi

Địa ngục ngươi là, kẻ khác ơi

Tôi không thấy Mai Thảo đang thậm xưng hay tự trào ở đây. Tôi cũng không thấy những đề cập của Mai Thảo là tự lừa mình, lừa người hay huyễn hoặc. Trước đến sau, tôi chỉ thấy một Mai Thảo rất hồn nhiên khi làm thơ.

Như một bài hát của Phạm Duy, các bạn còn nhớ không, Tuổi mộng mơ đó, với những câu như: em được là tiên nữ, được chắp cánh bay giữa trời, được mang hồn thi sĩ, được xây mộng cho đời.

Vậy tại sao, lại không cho Mai Thảo quyền có được đức tin, tin rằng, sẽ thấy Chúa hiện hình nơi con đường mình đi, thấy Phật nằm ngủ trong khu vườn thần linh tâm thức, và bờ cõi này, không dành cho địa ngục, cho những kẻ tà tâm.

******

IV.4. SAO KHÔNG, HẠT BỤI TRONG LÒNG TRỤC

Ta thấy nơi ta trục đất ngừng

Và cùng một lúc trục trời ngưng

Sao không, hạt bụi trong lòng trục

Cũng đủ vòng quay, phải đứng dừng

Ta là trung tâm của quả đất này, như ngày xưa, ta nằm trong bào thai của mẹ, ta trung tâm lòng mẹ. Điều ấy có gì sai? Trục đất ta mà ngừng, thì bầu trời, sao có thể quay. Một con ngựa đau, cả tàu còn bỏ cỏ kia mà.

Mất ta, là mất đi một hạt bụi. Trục quay, thiếu đi dù một hạt, cũng phải dừng, cũng phải đứng lại thôi. Đó vốn dĩ không phải là nguyên lý xưa nay sao?

******

IV.5. SAO KHÔNG, NHẬT NGUYỆT ĐỀU TĂM TỐI

Ta thấy ta đêm giữa sáng ngày

Ta ngày giữa tối thẳm đêm dài

Sao không, nhật nguyệt đều tăm tối

Tự thuở chim hồng, rét mướt bay

Càng đọc, lại càng thấy thơ Mai Thảo hay. Càng đọc, lại càng thấy thơ Mai Thảo rất thơ. Chất thơ của giấc mơ. Chất thơ của giấc mộng. Mai Thảo mơ rằng, ta là đêm giữa sáng ngày. Mai Thảo lại mộng rằng, ta là ngày giữa thẳm đêm. Không có Mai Thảo ư? Mặt trời, mặt trăng đều tắt ánh. Như buổi hồng hạc không về, rét mướt sẽ tràn lan.

******

IV.6. SAO KHÔNG, HUYẾT LỆ TRONG TRỜI ĐẤT

Ta thấy nhân gian bỗng khóc òa

Nhìn hình ta khuất, bóng ta xa

Sao không, huyết lệ trong trời đất

Là phát sinh từ huyết lệ ta

Những tưởng tượng của ông, những giấc mơ của ông, không chỉ thơ mà còn rất đẹp, không chỉ thơ mà còn rất tình. Đó chính là tình người, tình nhân quần, tình đồng loại.

Ngày Mai Thảo rời xa cõi sống này, ông tin nhân gian sẽ khóc òa, như mất đi một người thân, như mất đi một ruột thịt. Sao không? Bởi vì máu của anh, của chị, của bạn, của em, không phải là dòng máu đang chảy trong châu thân của Mai Thảo sao? Chúng ta không phải là anh em một nhà sao?

******

IV.7. SAO KHÔNG, QUAY GÓT, TÊN HỀ ĐÃ

Ta thấy rèm nhung khép lại rồi

Hạ màn, thế kỷ hết trò chơi

Sao không, quay gót, tên hề đã

Chán một trò điên diễn với người

Nhưng rồi tất cả những giấc mơ, tất cả những giấc mộng của Mai Thảo, dường, đã tới hồi phải khép lại, như tấm rèm nhung của vở tuồng đời chấm dứt. Trăm năm chấm dứt. Trò chơi chấm dứt. Thì cũng có sao đâu. Ta biết, ta chỉ là một tên hề, mà cũng vừa lúc, ta chán cái tích điên, cứ diễn đi diễn lại này mãi rồi. Và ta muốn quay về nơi bắt đầu một trò chơi mới. Sao không?

******

IV.8. SAO KHÔNG, SAO CHẲNG KHÔNG LÀ VẬY

Ta thấy ta treo cổ dưới cành

Rất hiền giấc ngủ giữa rừng xanh

Sao không, sao chẳng không là vậy

Khi chẳng còn chi ở khúc quanh.

Đọc bốn câu này, mới thấy hết được, mới cảm hết được chất giọng hiền lành và rất mực nhún mình, lui về, như tánh cách Mai Thảo mà bạn bè ông thường mô tả, nhắc nhở, kể lại.

Đến cái ra đi, đến cái chia lìa, vĩnh biệt, lần cuối cùng cũng nhẹ nhàng, cũng dịu dàng quá thể. Không chút buồn. Không chút sầu. Không than van. Không khóc lóc.

Treo cổ là một lối nói, là một cách nói, thay cho phút từ giã. Treo cổ để không phải thốt lên lời từ tạ với những người thương. Nhắm mắt, như ngủ vậy đó mà. Đời có bao lối thẳng, bao nẻo quanh cần đi, cần trải, thì Mai Thảo cũng đi đủ, trải đủ rồi. Hồi nhỏ, ngủ, có mẹ đưa nôi. Giờ, không còn mẹ, ngủ, có rừng xanh che nắng.

Khổ thứ tám, khổ cuối trong bài thơ, là khổ thơ hay nhứt. Và hai câu kết thúc, cũng chính là hai câu hay nhứt trong toàn bài thơ:

Sao không, sao chẳng không là vậy

Khi chẳng còn chi ở khúc quanh.

**

V. MAI THẢO, “TA THẤY” VÀ “SAO KHÔNG?”

Bài thơ Ta thấy hình ta những miếu đền có tám khổ thì Mai Thảo sử dụng đủ tám lần điệp “ta thấy” và “sao không”. Lặp đi lặp lại mà nghe vẫn rất dễ chịu, mà nghe vẫn rất thơ, mà nghe vẫn rất hay, các bạn có biết tại sao không?

Thì tại vì Mai Thảo là nhà thơ mà. Là nhà thơ, kiểu gì kiểu, cũng phải viết được thơ cho ra thơ chớ.

Là tôi nói đùa chút cho vui thôi.

Kiếp người, nhỏ nhoi và hữu hạn, nhưng Mai Thảo, nhưng tất cả chúng ta, luôn có khát vọng để lại dấu vết của mình trong dòng trôi của thời gian và không gian, trong vô biên, vô tận.

Là dấu vết, các bạn nha. Nó khác lắm với danh vọng, tiếng tăm, tên tuổi, những ngôn từ kêu rất to vì trống rỗng.

Why not? Sao không? Không gì là không thể, phải không các bạn. Ngay cả khi, Mai Thảo thấy mình là Ta thấy hình ta những miếu đền!

******

VI. MAI THẢO TRONG CHUYỆN LÀNG VĂN CỦA PHẠM CHU SA

Trong Chuyện Làng Văn, Phạm Chu Sa kể: Mai Thảo sống độc thân, ở Apartment, ăn cơm tiệm, đi xích lô. Thỉnh thoảng, tình cờ gặp ở quán ăn, bao giờ anh cũng giành trả tiền.

Cũng vẫn là Phạm Chu Sa kể: Mai Thảo là cây bút viết Feuilleton ăn khách, rất được các nhật báo săn đón. Mỗi sáng cà phê, ăn sáng xong, nhà văn rong chơi, tay cầm gói thuốc Salem, lững thững leo lên chiếc xích lô quen đợi sẵn, đi một vòng mấy tòa soạn. Đến tòa soạn nào, Mai Thảo thường đi thẳng lên phòng sắp chữ, kêu anh xếp ty-pô hỏi, kỳ trước viết tới đâu rồi, để anh viết tiếp.

Phạm Chu Sa mô tả: Nhà văn thời thượng vớ một tờ giấy in thử một mặt, lật mặt trắng phía sau bắt đầu viết. Viết chừng mười dòng, anh xếp ty-pô, xin xé đoạn đó, đưa cho một anh sắp chữ. Rồi nhà văn viết xong đoạn kế, xếp ty-pô lại xin xé tiếp đưa người thợ khác xếp chữ cho kịp.

Phạm Chu Sa kể tiếp: Mai Thảo hầu như cầm bút, chỉ bằng hai ngón tay cái và trỏ, chữ viết lướt nhẹ trên giấy có khi không ăn mực, nét chữ lại rất mềm, như chữ con gái, nên rất khó đọc. Thợ sắp chữ rất sợ đọc chữ Mai Thảo, vì có khi đọc không ra. Mà nhà văn thì, viết vừa đủ số chữ, là liền vất bút giấy, lên xích lô đến tòa soạn khác. Thầy cò sửa lỗi có khi phải đoán mò.

Trong một đoạn khác, Phạm Chu Sa nhận định: Mai Thảo viết văn như thơ, rất phiêu. Đặc biệt, nhan đề các tựa sách của Mai Thảo rất lãng đãng, thơ mộng: Tình yêu màu khói nhạt, Cũng đủ lãng quên đời, Mười đêm ngà ngọc, Tháng Giêng cỏ non, Gần mười bảy tuổi, Ôm đàn tới giữa đời. Mai Thảo cũng là vua đặt tên phim bằng tiếng Việt cho các phim Tây nhập khẩu. Tên phim do ông đặt, luôn hấp dẫn và ăn khách. Như phim Doctor Zhivago chẳng hạn, Mai Thảo chuyển thành Vĩnh biệt tình em.

******

VII. MAI THẢO, NGHỆ SĨ, THỦ LĨNH BẨM SINH, TÀI HOA, LỊCH LÃM, BIẾT SỐNG

Đọng trong tôi là điều gì, khi nhắc về nhà văn, nhà thơ mang tên Mai Thảo?

Dạ thưa, đó là sự lớn lao. Dù vẻ như có nói quá lên một chút, thì Mai Thảo trong tôi, là một người có tầm vóc lớn lao.

Tầm vóc ở đây, không mang nghĩa đen, là số đo, chiều cao hay cân nặng. Tầm vóc hiểu theo nghĩa bóng, có nghĩa là tầm cỡ. Ông tầm cỡ, đầy tư chất nghệ sĩ, tư chất thủ lĩnh bẩm sinh, tài hoa, lịch lãm, biết sống.

Biết sống, quan trọng lắm. Có những người, cả một đời, vẫn loay hoay mãi, không biết phải sống làm sao, không biết phải sống theo kiểu nào bây giờ. Mai Thảo khác, ông biết sống. Không chỉ là người tự trọng, ông còn biết cách tử tế với đời và với người.

Ngắm những bức chân dung để lại của Mai Thảo, không biết các bạn có cảm giác sao, chớ còn riêng tôi, tôi thấy khuôn mặt ổng buồn kinh khủng. Cái buồn toát ra từ vẻ người mang tâm sự hoài niệm, của những âm trầm, thâm u, lặng lẽ, ngắm xác thời gian trôi trên dòng sông dài của đời người hữu hạn. Âm trầm của miếu. Thâm u của đền. Như ông tự nhận – Ta thấy hình ta những miếu đền.

******

VIII. MAI THẢO, TUYỆT TÀI, NGÒI BÚT VĂN XUÔI ĐẬM CHẤT THƠ

Cõi không là thơ. Không còn gì nữa hết là thơ. Nơi không còn gì nữa hết là khởi đầu thơ. Một xóa bỏ tận cùng. Từ xóa bỏ chính nó. Tôi xóa bỏ xong tôi. Không còn gì nữa hết. Tôi thơ.”

Đoạn trích trên, tôi lấy từ trong bài thơ Bờ cõi khởi đầu, được Mai Thảo dùng thay cho lời vào tập thơ Ta thấy hình ta những miếu đền. Bài thơ được viết dưới dạng văn xuôi. Thế mà đọc lên, nghe nhịp điệu của nó, nghe những lên bỗng xuống trầm của nó, tôi thấy nó còn hay hơn cả một bài thơ có vần.

Đó chính là tuyệt tài của Mai Thảo.

Thế nên Mai Thảo, trong cương vị nhà văn, ông được giới phê bình đánh giá là ngòi bút văn xuôi đậm chất thơ nhứt nước. Văn xuôi mà còn như vậy, huống hồ gì, khi làm thơ có vần có điệu. Thơ người khác, có khi phải chờ được gợi mở, được phân tích, được giải thích đến hết hơi, thì mới may ra tìm được một, hai, nét thơ. Còn thơ Mai Thảo, thì chỉ cần đọc lên thôi, cũng đã đủ chất thơ rồi.

Khi Mai Thảo mất, anh Khánh Trường có đề nghị với thân nhân và bạn bè của nhà thơ Mai Thảo, khắc lên mộ bia của ông, bài thơ tuyệt cú Không hiểu:

Thế giới có triệu điều không hiểu

Càng hiểu không ra lúc cuối đời

Chẳng sao, khi đã nằm trong đất

Đọc ở sao trời sẽ hiểu thôi.

Không hiểu là một bài thơ vừa đậm chất thiền, lại cũng vừa rất triết. Đó là một bài thơ rất dễ hiểu, nhưng đọc tới đọc lui một hồi, thì lại thấy mình không hiểu gì hết.

Có phải chăng, hiểu và không hiểu ấy, mới tạo thành chất thơ cho thơ. Và bài Không hiểu này cùng với Có lúcTa thấy hình ta những miếu đền, là bộ ba bài thơ, mà tôi cho rằng hay nhứt, đặc sắc nhứt, trong tập thơ mà Mai Thảo để lại cho đời:

Có lúc nghĩ điều này điều nọ

Cảm thấy hồn như một biển đầy

Có khi đếch nghĩ điều chi hết

Hệt kẻ ngu đần cũng rất hay.

Sài Gòn 13.06.2025