Người phụ trách Văn Việt:

Trịnh Y Thư

Web:

vanviet.info

Blog:

vandoanviet.blogspot.com

Danh ngôn

Trong mọi cộng đồng, chúng ta cần một nhóm thiên thần gây rối.

We need, in every community, a group of angelic troublemakers.

(Bayard Rustin – trích bài phát biểu tại New York City 1963)

Trong mọi trường hợp, chắc chắn rằng sự thiếu hiểu biết, đi kèm với quyền lực, là kẻ thù tàn bạo nhất có thể có của công lý.

It is certain, in any case, that ignorance, allied with power, is the most ferocious enemy justice can have.

(James Baldwin - No Name in the Street 1972)

Các cuộc cách mạng và các cá nhân có thể bị giết hại, nhưng bạn không thể giết chết các ý tưởng.

While revolutionaries and individuals can be murdered, you cannot kill ideas.

(Thomas Sankara, một tuần trước khi bị ám sát, 1987)

Không có cảm giác nào cô đơn hơn việc bị chính đất nước mình trục xuất.

There's not a more lonely feeling than to be banished by my own country.

(Kiyo Sato – Kiyo’s Story 2009)

Ban Biên tập

Địa chỉ liên lạc:

1. Thơ

tho.vanviet.vd@gmail.com

2. Văn

vanviet.van14@gmail.com

3. Nghiên cứu Phê Bình

vanviet.ncpb@gmail.com

4. Vấn đề hôm nay

vanviet.vdhn1@gmail.com

5. Thư bạn đọc

vanviet.tbd14@gmail.com

6. Tư liệu

vanviet.tulieu@gmail.com

7. Văn học Miền Nam 54-75

vanhocmiennam5475@gmail.com

Tra cứu theo tên tác giả

Thứ Bảy, 14 tháng 6, 2025

Không khói hoàng hôn (Tập III - kỳ 12)

 Nguyễn Thị Kim Thoa

Hoa cỏ quanh tôi (phần 3)

Cây Cỏ Bạc Đầu

Cỏ bạc đầu, hay cỏ đầu tròn, thủy ngô công, pó dều dều, còn gọi là bạch đầu ông, là loài thực vật có hoa trong họ Cói. Loài này được Dandy Hutch và Dalziel mô tả  đầu tiên năm 1936. 

*Tên khoa học: Kyllinga Nemoralis

Thành phần hoa học: 8,7% protéin, 0,94% chất béo, 45% tinh bột. Ngoài ra còn có Beta Sistosterol, ergosterol, beta sitosterol, vitexin (theo youmed.vn)

Cỏ bạc đầu là loài cây thân thảo mọc hoang, phát triển mạnh, sống lâu năm, cao 7–20 cm. Thân rễ mọc bò. Lá thường ngắn hơn thân. Cây ra hoa vào mùa hè, cụm hoa đầu gần hình cầu, đường kính 4-8mm, 1-3 bông hình trụ hẹp, 3-4 lá bắc hình lá, trải ra, dài tới 10 cm, bông chét có 1 hoa. Quả hình trái xoan ngược, dẹp, trắng vàng, hơi có chấm.

Toàn cây có mùi thơm, thơm nhất là rễ. Trong cây có tinh dầu. Hoạt chất chưa rõ.

Cỏ bạc đầu được biết đến là cây thuốc nam quý. Bộ phận dùng là toàn cây. Cây được rửa sạch, dùng tươi hay phơi khô dùng dần. Để sử dụng có thể thu hái toàn cây quanh năm.

Cây có vị cay, tính bình. Cây có tác dụng khu phong, giải biểu, tiêu thũng, chỉ thống, làm toát mồ hôi, lợi tiểu, trừ ho giảm đau.

Những ngày mưa, khu đất trống trước nhà tôi cỏ bạc đầu lên rậm rạp, làm tôi nhớ về khu vườn của đôi vợ chồng già làm thợ rèn ở cạnh nhà tôi ngày trước.

Hai vợ chồng không con, ngày ngày bà thụt bệ lửa, ông rèn cuốc, xẻn, dao, rựa. Hằng tuần có người đến lấy hàng đi bán. Khu vườn khá rộng, hai ông bà trồng thêm nhiều cây thuốc nam chủ yếu là: Ngãi cứu, cam thảo đất, mã đề, rau má, cây long đàm...riêng cỏ bạc đầu thì mọc tự nhiên trên mô đất cạnh bờ sông. Hai ông bà thu hái theo mùa, phơi khô và bán cho khách quen.

Ngày còn thơ tôi hay trốn ngủ trưa qua chơi cùng ông

bà, mùa đông họ nướng cho tôi mấy củ khoai, ngày hè họ cho tôi mấy chén nước cỏ lá gừng hay nước cỏ bạc đầu để nguội. Tôi lân la nghe hai ông bà kể chuyện chiến tranh nơi vùng quê của họ ở miệt Giáp Bi. Họ có với nhau một người con trai cỡ tuổi anh Hai tôi nhưng đã chết do tên bay đạn lạc trong chiến tranh. Hai ông bà phiêu bạc nhiều nơi để kiếm ăn, cuối cùng họ tá túc trên mảnh đất cạnh nhà tôi, chủ đất là cụ Ưng Phục, người họ hàng xa của ông bà.

Trong biến cố Tết Mậu Thân, gia đình tôi chạy về phía Đập Đá theo quân Cộng Hòa, ông bà thợ rèn chạy về phía chợ Vỹ Dạ theo quân Cộng Sản. Tôi xa ông bà từ ngày ấy nhưng mùi khoai nướng ngày đông lạnh, vị ngọt cay của nước lá cỏ gừng, lá cỏ bạc đầu ngày mùa hạ oi nồng tôi luôn nhớ mãi.

Cây Biến Hoa Sông Hằng

Có một loài hoa bốn mùa lấp ló trong bụi rậm ven đường quê khiến tôi chú ý mỗi lần đi qua. Loài hoa nhỏ chỉ bằng lóng tay út của tôi (1cm x1cm) với hai màu trắng tím đan chen. Cư dân địa phương gọi là “hoa đậu dại”.

Tôi chụp vài tấm ảnh, tra tìm trên Google, biết chúng có tên rất lạ: “Biến hoa sông Hằng” (theo vi.wikipedia.org).

Biến hoa sông Hằng là một loài thực vật có hoa trong họ Ô rô. Loài này được T.Anderson mô tả khoa học đầu tiên năm 1860. Biến hoa Sông Hằng còn có tên khác là: Lá Diễn, Gan heo, rau ngót Nhật, Thập Vạn Thác, violet Tàu (Chinese violet).

“Biến hoa sông Hằng” là tên gọi theo sách Cây Cỏ Việt Nam tập 3 của Phạm Hoàng Hộ. (Vietkipedia tiếng Việt). Không rõ do đâu tác giả Phạm Hoàng Hộ gọi tên loại hoa này như thế?

Tên khoa học: Asystasia Gengetica

Thành phần hóa học: có ít vết alcaloide.

Tác dụng điều trị:  tẩy giun, tiêu sưng, trừ thấp (theo baodanang.vn).

Cánh hoa trắng pha tím, hai màu hoa tôi ưa thích. Hai màu hoa được nhắc đến nhiều trong thơ ca: “Một đàn chim tóc trắng bay về qua trần gian...Người về trong đêm tối ôm cành hoa tả tơi bóng in dài...” (Cành hoa trắng – Phạm Duy).

“Một hôm bước lần theo lối cũ tôi về, thầm mơ giàn hoa tím xưa chưa phai... Hoa nào đợi chờ không phai sắc hương, ngày dài không gieo nhớ thương, dặm trường không gây vấn vương...” (Dưới giàn hoa cũ – Tuấn Khanh) và còn nhiều, nhiều nữa...

Bên bụi cỏ xanh, ở nơi vắng vẻ, một loài hoa âm thầm nở bốn mùa.

Cây Tinh Mảnh Thảo

Trên đường đi dạo quanh bờ đê vào một sáng, tôi gặp bên lề cỏ những cụm bông li ti màu trắng, từng nhánh nhỏ lấm tấm sương mai, óng ánh trong nắng sớm rất đẹp. Tôi hỏi anh chăn bò phía dưới đường đê thì hay rằng đây là cây “cỏ bồ bồ”, anh chăn bò còn cho biết: một nạm cỏ bồ bồ vo nát có thể cầm máu khi bị thương.

Chụp vài tấm ảnh, tìm kiếm trên mạng tôi được biết: đó là hoa Tinh Thảo Mảnh.

Tinh thảo mảnh (danh pháp khoa học: Eragrostis amabilis) là một loài thực vật có hoa trong họ Hòa thảo. Loài này được (L.) Wight & Arn mô tả khoa học đầu tiên năm 1834.

*Thành phần các hoạt chất và công dụng trong điều trị chưa tìm thấy.

Cỏ tinh thảo mảnh có nhiều tên gọi khác nhau tùy vùng miền: bồ bặc, bồ bồ, lưu li, cỏ mùa thu... Cần tìm hiểu thêm.

*Ngày trước cỏ tinh thảo mảnh này cha tôi gọi là cỏ bồ bồ, mẹ tôi gọi là cỏ lưu li.

Loài cỏ có lá nhỏ, hoa nhỏ này nhắc tôi nhớ về bài học Việt Văn ngày xưa của cô, thầy giáo thời trung học: bài Kẻ Sĩ của Nguyễn Công Trứ:

“Tước hữu ngũ sĩ cư kỳ liệt/ Dân hữu tứ sĩ vi chi tiên/ Có giang sơn thì sĩ đã có tên/ Từ Chu, Hán, vốn sĩ này là quý... 

Lúc vị ngộ, hối tàng nơi bồng tất/ Hiêu hiêu nhiên điếu Vị, canh Sằn/ Xe bồ luân dù chưa gặp Thang, Văn/ Phù thế giáo một vài câu thanh nghị...”.

Xe Bồ Luân thời vua Thang vua Văn là xe dùng để đi đón người hiền, người tài giỏi về giúp việc nước. Bánh xe bằng gỗ được bọc bằng cỏ bồ giúp xe di chuyển êm hơn.

Tôi không biết cỏ bồ ngày xưa với cỏ tinh thảo mảnh bây giờ có phải là một hay không, nhưng tôi luôn mơ về một vị vua hiền, một thể chế dân chủ trọng người hiền giỏi và quên đi, quên đi mấy câu khẩu hiệu : “Trí, phú, địa, hào/ Đào tận gốc, trốc tận rễ”.

*

Cỏ tinh thảo mảnh ra hoa vào mùa thu nên có nơi gọi là cỏ mùa thu. Mùa Thu ở quê tôi có nhiều loại hoa nở ngát hương: hoa mộc cuối mùa, ngọc lan, dạ lý giữa mùa, những loại hoa này thu hút sự ngắm nhìn, thưởng ngoạn của nhiều người. Nhưng tinh thảo mảnh bé nhỏ không hương, e lệ, thấp thoáng bên lề cỏ lại làm tôi mê mẩn, đây cũng là loại hoa tôi hái về làm quà sinh nhật cho mẹ, cho chị Hai mỗi mùa thu xưa.

Ôi những bông hoa trắng li ti đáng yêu của tôi!

Cây Chổi Đực Dại

Tôi gặp hoa cây chổi đực dại khi lang thang quanh vùng ngoại ô Sài Gòn. Hoa mọc thành từng bụi cao không quá 6 hoặc 7 tất. Hoa nhỏ chỉ bằng nút áo sơ mi nam, màu sắc thay đổi từ vàng nhạt buổi sáng sang màu vàng lòng đỏ trứng gà buổi chiều. Hoa ở dạng búp buổi sáng, đến chiều khi nắng chực tắt thì hoa nở hết cánh và tỏa hương. Cư dân ở đây cho biết hoa thơm nhiều hơn vào những đêm có trăng nên có nơi gọi là anh thảo chiều.

Tên khoa học là Sida Rhombifolia L

Toàn cây chứa heraclenol, β- sitosterol, ligustrin. Ngoài ra còn có daucosterol, syringing. Toàn cây còn chứa tinh dầu 0,5 – 0,7%.

Tinh dầu chứa 35% thuyon và α -pinen, 4% limonen, 15% cineol, 11% ylangen. Nhiều nguyên tố có trong lá: Cd, Zn, Pb.

Ngày còn thơ, bên cạnh nhà có một vạt đất trống cạnh bờ sông mọc đầy cây chổi đực, ban đêm hương hoa của nó nhẹ nhàng đi vào nhiều khung cửa sổ. Các cô gái trong thôn mê mẩn hương hoa này. Thế rồi một ngày, một người dân ngụ cư ở bên kia đường xóm, đến khai phá, chặt đốn các bụi chổi đực, trồng vào đó mấy luống môn ngọt... Hương chổi không còn và chiến tranh ập đến… các cô gai lần lượt đi xa.

Cây Sài Đất

Cuối con hẻm có một con đường mòn dẫn đến nơi cư trú của những người cùng khổ. Dân ở đây đa phần có đất nằm trong khu qui hoạch treo, sống tạm bợ, chen chúc trong những ngôi nhà đổ nát, và dân tứ phương về che mái tôn sống vất vưởng bên dòng kênh đen.

Hai bên đường mòn có một loại cỏ hoa vàng lá xanh, quanh năm nở rộ: Cỏ Sài Đất. Tôi đã qua lại con đường mòn này nhiều lần, và tôi đã ghi lại hình ảnh của loài hoa mọc rất mạnh mẽ này.

Cây Sài Đất còn gọi là húng trám, ngổ núi, cúc nháp, hoa múc.

Tên khoa học: Wedelia chinensis.

Hoạt chất hóa học: Saponin, Pectin, Mucin, Lignin, Cellulose,3,75% Chlorophylle, 1,14% Caroten, 3,75% phytosterol. Các chất khác: Dầu hòa tan, hợp chất béo, tinh dầu, muối vô cơ, Wedelolacton (theo duoctu.hd.edu.vn).

Vị ngọt, tính hàn, dưỡng âm, thanh nhiệt.

Dùng điều trị: mụt nhọt, viêm da cơ địa, ho gà, viêm gan, sốt xuất huyết, viêm cơ, viêm tuyến vú (theo duoctu.hd.edu.vn).

Mỗi khi đi qua con đường mòn này, tôi vui vẽ lẩm bẩm một mình: Tôi đã thấy “hoa vàng trên cỏ xanh”(1), nhưng lúc đi về tôi buồn bã thì thầm:  Tôi chỉ thấy “hoang tàn trên tuổi xanh”(2).

(1) Tên một cuốn truyện của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh

(2) Tên một bài viết của nhạc sĩ Tuấn Khanh

Cây Đinh Lăng

Khi tôi sinh đứa con đầu, mẹ từ Huế lên Ban Mê Thuột thăm tôi, bà không quên mang theo cho tôi chiếc gối nhỏ độn bông gòn cùng lá đinh lăng phơi khô. Bà bảo: Mùi thơm của lá đinh lăng sẽ làm cho đứa trẻ ngủ ngoan, không khóc đêm. Từ đó tôi rất thích mùi hương nhẹ nhàng dễ chịu này.

Năm tôi sinh đứa con thứ hai, mặc dầu đang bệnh nặng bà cũng gời cho tôi một chiếc gối có lá đinh lăng cho em bé và một chai rượu ngâm củ đinh lăng cho tôi bồi bổ khí huyết.

Tôi trồng cây đinh lăng trong vườn để nhớ mẹ, nhớ ngôi vườn xưa và lấy lá làm gối cho cháu.

*Đinh lăng hay cây gỏi cá, nam dương sâm (danh pháp hai phần: Polyscias fruticosa, đồng nghĩa: Panax fruticosum, Panax fruticosus) là một loài cây nhỏ thuộc chi Đinh lăng (Polyscias) của Họ Cuồng cuồng (Araliaceae). Cây được trồng làm cảnh hay làm thuốc trong y học cổ truyền.

Cây nhỏ, cao từ 1-2 mét. Lá kép lông chim 2-3 lần, mọc so le, lá chét có răng cưa nhọn. Hoa đinh lăng màu lục nhạt hoặc trắng xám, quả dẹt, màu trắng bạc.

Có 8 loại saponin oleanane đã được phân lập từ cây đinh lăng.

Trong rễ đinh lăng có chứa nhiều saponin giống như sâm, các vitamin B1, B2, B6, C và 20 amino acid cần thiết cho cơ thể và những amino acid không thể thay thế được như lyzin, cystein, methionin.

Đinh lăng là loài cây quen thuộc với nhiều gia đình Việt Nam. Ở nước ta, đinh lăng có từ lâu và được trồng phổ biến ở vườn gia đình, đình chùa, trạm xá, bệnh viện để làm cảnh, làm thuốc và gia vị. Trong cuộc sống thường ngày, lá cây được sử dụng như rau sống hoặc có thể ăn kèm trong món gỏi cá.

*Theo y học cổ truyền, rễ cây có vị ngọt, hơi đắng, tính mát, có tác dụng thông huyết mạch, bồi bổ khí huyết; lá đinh lăng có vị đắng, tính mát có tác dụng giải độc thức ăn, chống dị ứng, chữa ho ra máu, kiết lỵ. Toàn cây đinh lăng bao gồm rễ, thân, lá đều có thể sử dụng làm thuốc.

Cây Bạch Trinh Biển

Cây bạch trinh biển còn gọi là cây hoa sao biển, dân gian hay nhầm lẫn với cây đại tướng quân hay cây náng.

Tên gọi khác: Cây thủy tiên

Tên khoa học: Hymenocallis americana Roem

Họ: Thủy Tiên Amaryllidaceae 

Nguồn gốc: Nguồn gốc của cây bạch trinh biển xuất phát từ vùng châu Mỹ, nơi mà nó thường được trồng quanh khu nhà và trong các công viên. Họ cũng sử dụng hoa bạch trinh biển trong nghệ thuật sáng tạo. Hiện nay loài cây này đã được du nhập vào Việt Nam và phân bố khắp đất nước.  

Công dụng và ý nghĩa của bạch trinh biển

*Trang trí đô thị: Ngoài việc có nhiều ưu điểm về hình dáng và màu sắc, khả năng sinh trưởng nhanh chóng và sức sống khỏe mạnh, bạch trinh biển thường được sử dụng để trang trí không gian đô thị, làm đẹp cho môi trường xung quanh.

*Thanh lọc không khí: Không chỉ đóng góp vào việc làm đẹp môi trường, cây bạch trinh biển còn có khả năng thanh lọc không khí, loại bỏ các chất độc hại và khói bụi ô nhiễm, mang lại lợi ích quan trọng cho sức khỏe con người.

*Tượng trưng cho sự thuần khiết: Cây hoa bạch trinh biển, ngoài việc làm đẹp cho cảnh quan, còn mang theo ý nghĩa phong thủy sâu sắc. Màu trắng tinh khôi của hoa bạch trinh biển tượng trưng cho sự trong sáng và thuần khiết.

*Mang đến may mắn và tài lộc: Khả năng sinh sôi mạnh mẽ của cây thể hiện tinh thần quyết tâm và khả năng vượt qua khó khăn. Trồng bạch trinh biển trong vườn nhà được coi là mang lại vượng khí và hứa hẹn may mắn, tài lộc cho gia chủ.

Thời học Đồng Khánh, những đứa học trò ở xa phải ở lại trưa ăn cơm ăn cơm mẹ bới, buổi trưa cô giám thị thường tập trung chúng tôi lại trong một phòng học để chúng tôi an toàn và cũng để chúng tôi bớt phá phách. Nhưng nhất quỉ nhì ma thứ ba học trò, nhóm chúng tôi ngày đó gồm Kim Chi, Cửu Hoa, Sen, Xuân Lộc tôi và một vài bạn nữa thường trốn sau những bụi hoa “lan nhện”. Lan nhện là tên chúng tôi gọi hàng hoa bạch trinh biển trồng ở sân sau của trường, nơi học thể dục, ăn cơm rồi chơi cầu cơ.

Mới đây tôi có đọc được bài “Ngọ Phạn Điếm” quán cơm trưa miễn phí cho nữ sinh Đồng Khánh ở nhà xa, quán ở trên đường Duy Tân (nay là đường Hùng Vương) hoạt động trong những năm 1962, 1963. Thật tiếc thời gian đó chúng tôi là học sinh trung học đệ nhất cấp nhưng không được biết đến.

Cây bọt ếch biển

Một sáng mùa đông, trời Sài Gòn se lạnh, sau bữa ăn sáng, tôi nhận được cuộc điện thoại của một bà mẹ trẻ, nhà ở bên kia con hói nước đen. Chị hỏi tôi có ở nhà không để chị bồng con qua nhờ tôi khám xem vì sao con chị nôn ói nhiều sau khi bú sáng nay.

Đứa trẻ chưa đầy ba tháng, tiết trời khá lạnh, nhiều sương nên tôi quyết định đi sang nhà chị ấy thay vì để chị bồng con đến tôi.

Sau khi thăm khám và chỉ cho bà mẹ những việc cần làm, ra về, trên lối đi, bên bờ rào một khu đất bỏ hoang, tôi gặp những “bông hoa” thật lạ, lần đầu tiên tôi thấy.

“Hoa” có cánh cứng màu hồng, nhụy là những hạt đỏ thắm, tôi chụp mấy tấm ảnh, về tra trên Google thấy đây không phải là hoa mà là trái Bọt Ếch Biển, một cái tên rất lạ. Tôi qua lại nơi đây vài lần để tái khám cho cháu bé và chụp vài tấm ảnh về cây trái này.

Cây Bọt Ếch Biển

Tên tiếng Việt: Bọt ếch biển, Trâm bột, Bòn bọt

Tên khoa học: Glochidion littorale Blume

Họ thực vật: Euphorbiaceae

Phân bố: Cây mọc tự nhiên dọc theo kênh rạch, suối từ Bắc tới Nam Việt Nam.

Hoa cây này rất nhỏ, màu trắng.

Quả có quanh năm từ tháng một đến tháng mười hai

Hiện nay có 3 loài Bọt ếch được biết đến khác, bao gồm:

* Bọt ếch biển (Trâm bột), tên khoa học là Glochidion littorale Blume, thuộc họ Thầu dầu - Euphorbiaceae.

* Bọt ếch lông (Sóc trái có lông), tên khoa học là Glochidion eriocarpum Champ., thuộc họ Thầu dầu - Euphorbiaceae. 

* Bọt ếch lưng bạc (Sóc mốc), tên khoa học là Glochidion lutescens Blume [G. hypoleucum (Miq.) Boerl., G. glaucifolium Muell. - Arg], thuộc họ Thầu dầu - Euphorbiaceae

Cây Trứng Cua Lá Bố

Những ngày cuối năm, bông trứng cua lá bố nở nhiều quanh vườn gợi nhớ bến sông quê nhà mùa nước lớn.

Thuở còn thơ lội sông tắm bến, làm bạn với ếch nhái, chằng hiu, con da xanh, con da vàng, con sọc đen trắng, chẳng sợ sệt gì, đạp lau, vạch cỏ hái cho được những trái mâm xôi chín mọng... Chui hàng rào bắt bướm, hái hoa, ăn trái dại...

Ngày học trung học đệ nhất cấp ở trường Đồng Khánh (cấp hai trung học) y phục của tôi là áo đầm trắng, thế nhưng đôi chân của tôi đầy vết xướt, có nơi còn viêm tấy, mẹ và chị hai thường hái lá và thân cây trứng cua lá bố nấu nước cho tôi ngâm chân mỗi đêm, mẹ và chị luôn quở mắng, nhưng tôi vẫn chứng nào tật ấy: trốn ngủ trưa, lội sông, tắm bến chui hàng rào, hái hoa bắt bướm, ăn trái dại…

Nhờ những đám lá trứng cua lá bố mà đôi chân tôi bớt đen điu, bớt thâm sẹo. Giờ đây nhìn những đám lá xanh bạc, hoa màu hồng tím mọc quanh nhà, tôi nhớ mẹ và chị vô cùng.

*Trứng cua lá bố có danh pháp khoa học: Melochia corchorifolia là một loài thực vật có hoa trong họ Cẩm quỳ. Loài này được L. miêu tả khoa học đầu tiên năm 1753.

*Trứng cua lá bố hay còn được gọi là bái giấy, vải giấy. Theo đông y, trứng cua lá bố có tác dụng tiêu viêm, lợi thấp, chống ngứa, trị viêm gan thể hoàng đản, mẩn ngứa.

Cây Bồ Công Anh

Những bông Bồ Công Anh mọc trên những bãi cỏ xanh mướt hay trên những vạt cỏ úa vàng lay lay trong gió sớm, bắt gặp trong những buổi đi dạo nơi vùng đất mới đến, trong công viên của một khu ngoại ô yên tĩnh, làm tôi nhớ những ngày còn thơ nơi khu vườn êm đẹp của mẹ cha mình.

Ngày còn thơ theo cha ra vườn, đâu đó có những khóm hoa khi còn non có màu vàng nhạt, chúm chím những cánh nhỏ nép vào nhau, khi trưởng thành bung thành những sợi tơ màu trắng rồi khi úa tàn chỉ còn trơ lại cội gắn liền với đài hoa một màu vàng úa trông thật tội nghiệp. Trẻ thơ, trưởng thành rồi già úa, tất cả mọi sinh vật, mọi cây cỏ cũng đều như vậy…

Hình ảnh đứa bé gái chúm miệng thổi những cánh hoa màu trắng mong manh theo hướng gió mà cha chỉ dẫn, hiện về. Cha hay bảo: “Mỗi sợi tơ hoa con thổi đi mang theo bao điều mong ước”.

Có lần tôi hỏi cha: “Thế cha mong ước điều gì khi thổi những sợi tơ bồ công anh”. Cha lắc đầu buồn bã nói: “Cha còn ước được điều gì đây, chỉ mong các con nên người”.

Tôi không còn nhớ ngày đó mình đã ước mong điều gì trong những lần thổi hoa bồ công anh, nhưng chắc chắn là không thể thiếu hình ảnh bà Tiên, ông Bụt.

Lúc là cô bé 13, 15 tuổi, một lần trong lớp học thêm anh văn tại Hội Việt Mỹ Huế, buổi học trao đổi ước mơ, thầy giáo (thầy Summer) gợi ý: “Các bạn muốn làm gì sau chiến tranh”? Lớp học chừng 20 đứa trai có gái có với bao nhiêu là mơ ước được nêu lên, tôi nhớ đa phần các bạn đều mơ là bác sĩ, y tá để đi giúp đỡ người bệnh, có đứa mơ làm thơ, có đứa mơ thành văn sĩ… Và riêng tôi làm ngạc nhiên thầy giáo không ít khi nhớ về những lần thổi bồ công anh trong vườn cùng cha, tôi đã mơ về những con đường thật đẹp, bằng phẳng và đầy hoa: Tôi mơ làm “phu lục lộ”.

Ngày đó những con đường loang lổ ổ voi, ổ gà và tôi mơ là mình có thể làm được những con đường phẳng lì, đẹp đẽ với nhiều hàng cây, bụi cỏ ven đường… Cái buổi “hùng biện anh ngữ” năm ấy tôi đã về đầu.

Đầu năm học đệ tam (lớp 10 bây giờ), bắt đầu học ngoại ngữ 2 tiếng Pháp. Chị hai từ Đà Lạt gởi về cho tôi cuốn tự điển Petit Larousse. Chị giải thích cho tôi biểu tượng của hình người phụ nữ đang thổi hoa bồ công anh ngụ ý như đoạn trích sau:

Cây bồ công anh càng trở nên nổi tiếng khi xuất hiện trên bìa từ điển Petit Larousse qua hình vẽ một người nữ đang thổi hạt bồ công anh. Đây là điều tượng trưng cho phương châm của nhà bách khoa toàn thư Pierre Larousse (1817 - 1875): “Je sème à tout vent” (Tôi gieo hết theo gió), ngụ ý là truyền kiến thức khắp muôn nơi. Phương châm này được lưu giữ trong các ấn phẩm của nhà xuất bản Éditions Larousse và đã truyền cảm hứng cho Eugène Grasset thiết kế ảnh bìa Petit Larousse (xuất bản lần đầu tiên vào năm 1905)”.

Ngày hôm qua đi dạo cùng con gái trong công viên có nhiều hoa bồ công anh đang nở. Tôi hái một cành hoa và thổi, tôi nhớ cha và cũng có y tâm trạng của cha ngày nào: Tôi biết mong gì đây trong một thế giới đang còn nhiều nơi bị chiến tranh tàn phá, nhiều nơi còn đói khát điêu linh, và còn có nơi bị trị thiếu tự do…

Tôi hỏi con đang thổi hạt bồ công anh: "Con đang mong ước gì? Con nói: “Con có rất nhiều mong ước, nhưng bây giờ con chỉ muốn gởi yêu thương”.

Ghi chú:

– Bồ công anh ở Việt Nam là loài bồ công anh (Lactuca indica) không phải là bồ công anh ở xứ ôn đới như trên bìa từ điển Petit Larousse. Cây bồ công anh thật sự trên bìa từ điển Petit Larousse có thể thuộc loài Taraxacum albidum hoặc Taraxacum officinale.

Cây Oải Hương

Buổi sáng thức dậy, thoang thoảng mùi hương lạ. Cạnh bậu cửa sổ có bó hoa oải hương ai đặt để, giấc ngủ thật nhẹ và êm.

Hoa Oải Hương từ xưa đã được xem như một loại thuốc an thần và đêm qua hương thơm đã mang bao nhiêu điều xa xưa về lại trong mơ.

Nhớ về quá khứ với tôi không phải là ôm gặm mối hoài mộng vui buồn, oán trách hay tiếc nuối, tôi luôn cố gắng biến những ký ức của mình thành món ăn tinh thần mới cho tuổi già với những khả năng mình có được, bằng một đoạn viết, đôi lời tự sự, một vài câu văn vần xuôi ngược, một bản vẽ nguệch ngoặc, một bài hát vu vơ, một tấm khăn thêu nho nhỏ và cả một bình hoa dại hái ven đường. Tuổi già nếu không nhờ có quá khứ để bày biện cho hiện tại thì với tôi có lẽ thật buồn chán.

Có những điều đã qua chỉ chợt nhớ đến là nước mắt chảy dài, là oán hờn, là nuối tiếc, là sướng vui, là hân lạc nhưng rồi chỉ là một thoáng, nó chìm đi, có lúc lắng thật sâu, có lúc lơi vơi cạn cạn, và tôi đã níu nó lại, xào nấu, trộn pha, nêm nếm để nó trở thành món ăn hằng ngày, trở thành câu chuyện kể cho con, cho cháu, cho những ai về sau thích nghe, muốn tìm.