Người phụ trách Văn Việt:

Trịnh Y Thư

Web:

vanviet.info

Blog:

vandoanviet.blogspot.com

Danh ngôn

Trong mọi cộng đồng, chúng ta cần một nhóm thiên thần gây rối.

We need, in every community, a group of angelic troublemakers.

(Bayard Rustin – trích bài phát biểu tại New York City 1963)

Trong mọi trường hợp, chắc chắn rằng sự thiếu hiểu biết, đi kèm với quyền lực, là kẻ thù tàn bạo nhất có thể có của công lý.

It is certain, in any case, that ignorance, allied with power, is the most ferocious enemy justice can have.

(James Baldwin - No Name in the Street 1972)

Các cuộc cách mạng và các cá nhân có thể bị giết hại, nhưng bạn không thể giết chết các ý tưởng.

While revolutionaries and individuals can be murdered, you cannot kill ideas.

(Thomas Sankara, một tuần trước khi bị ám sát, 1987)

Không có cảm giác nào cô đơn hơn việc bị chính đất nước mình trục xuất.

There's not a more lonely feeling than to be banished by my own country.

(Kiyo Sato – Kiyo’s Story 2009)

Ban Biên tập

Địa chỉ liên lạc:

1. Thơ

tho.vanviet.vd@gmail.com

2. Văn

vanviet.van14@gmail.com

3. Nghiên cứu Phê Bình

vanviet.ncpb@gmail.com

4. Vấn đề hôm nay

vanviet.vdhn1@gmail.com

5. Thư bạn đọc

vanviet.tbd14@gmail.com

6. Tư liệu

vanviet.tulieu@gmail.com

7. Văn học Miền Nam 54-75

vanhocmiennam5475@gmail.com

Tra cứu theo tên tác giả

Chủ Nhật, 15 tháng 6, 2025

Một tóm tắt về các chế độ hậu Cộng sản (kỳ 2)

 

Tác giả: Magyar Bálint – Madlovics Bálint

Bản tiếng Việt: Nguyễn Quang A

Nhà xuất bản Dân Khí – 2025

  1. CÁC DIỄN VIÊN KINH TẾ CHÍNH TRỞ THÀNH CÁC NHÀ TÀI PHIỆT

(Oligarch) nếu quyền lực kinh tế chính thức của họ đi cùng với quyền lực chính trị phi-chính thức. Các nhà tài phiệt là các diễn viên quan trọng nhất trong lĩnh vực kinh tế, mà không được tách biệt khỏi lĩnh vực hoạt động chính trị. Nhà tài phiệt dùng tài sản hợp pháp của họ để cũng xây dựng quyền lực chính trị: quyền lực kinh tế là công khai, nhưng quyền lực chính trị được che giấu. Trong khi là thông thường để nhắc tới các doanh nhân lớn vận động hành lang của các nền dân chủ tự do như “các nhà tài phiệt,” hai thứ quả thực khác biệt rõ rệt. Thứ nhất, doanh nhân lớn dùng khung khổ được điều chỉnh, được chính thức hóa để vận động hành lang, và bước vào các giao dịch tự nguyện với chính trị gia, trong đó cả hai bên nhắm tới việc củng cố các vị trí elite của mình trong lĩnh vực hoạt động xã hội riêng của họ. Đó là tình hình ở Hoa Kỳ, nơi các nhóm kinh doanh cố gắng ảnh hưởng các quy chế nhà nước với nền kinh tế và đổi lại cung cấp sự hỗ trợ vận động cho đảng của họ theo một hệ thống vận động hành lang được chính thức hóa.

Tuy vậy, các quan hệ ảnh hưởng chủ yếu đến hoạt động kinh tế của nhà tài phiệt là phi-chính thức và bảo trợ. Tại các nước như Nga và Kazakhstan, các nhà tài phiệt không vận động hành lang và đưa ra các lời chào mời cạnh tranh cho các chính trị gia nhưng được người đứng đầu mạng lưới, nhà bảo trợ chóp bu, trao một vị trí từ trên đỉnh xuống. Thứ hai, doanh nhân lớn được hưởng các quy định chuẩn tắc và các ưu đãi không-thể loại trừ của nhà nước. Ví dụ, trong trường hợp thuế quan, mọi nhà sản xuất trong nước được lợi từ cường độ cạnh tranh thấp hơn, và quy định không thể được đưa ra theo cách ưu ái chỉ một số diễn viên được chọn. Ngược lại, một nhà tài phiệt có thể được hưởng các quy chế tùy ý và các ưu ái có thể được loại trừ, với các luật đặc biệt và các thực hành phi-chính thức nhắm tới những người hay công ty nào đó (Mệnh đề 81).

Thứ ba, doanh nhân lớn trên một thị trường tự do trở nên “lớn” nhờ sự đổi mới kỹ thuật/tổ chức, và việc vẫn “lớn” không phụ thuộc vào sự trung thành cá nhân với nhân vật chính trị de jure: họ vẫn có thể sinh lời mà không có sự ưu ái chính trị, nói chi đến sự thiên vị cá nhân của một chính trị gia cá biệt. Các nhà tài phiệt hậu-cộng sản thường nhận được các vị trí dẫn đầu trong nền kinh tế bất chấp sự đổi mới thị trường, có được những trợ cấp độc quyền với sự hỗ trợ chính trị/bảo trợ. Ở Nga, nhiều trong số các nhà tài phiệt ban đầu được chiêu mộ từ nomenklatura cộng sản trước kia, mà các thành viên của nó đã có được các quyền riêng biệt trong các giai đoạn cải cách kinh tế đầu tiên. Theo các nhà xã hội học Iván và Szonja Szelényi (“Circulation or Reproduction of Elites during the Postcommunist Transformation of Eastern Europe”, 1995), 81 phần trăm của nomenklatura kinh tế trước kia đã vẫn trong các vị trí elite kinh tế trong 1993, trong khi đó các con số tương ứng ở Ba Lan và Hungary đã là 57 và 29 phần trăm, một cách tương ứng. Muộn hơn, các nhà tài phiệt ở Nga đã giành được (hay có thể giữ) các vị trí trong media (các phương tiện truyền thông), khai thác tài nguyên thiên nhiên, và các ngành khác bởi quyết định của nhà bảo trợ chóp bu, Vladimir Putin.

Sống trong một hệ thống có chỉ một-kim tự tháp, vị trí tài phiệt của những người này phụ thuộc vào sự trung thành bảo trợ của họ. Nói chung, chúng ta có thể nói rằng thành công kinh tế của một diễn viên càng là kết quả của các phần thưởng tùy ý, bảo trợ hơn là của tính cạnh tranh và thành tích thị trường, thì diễn viên đó càng ít có khả năng giữ và xây dựng cơ ngơi một cách tự chủ. Khi tính sinh lời của một nhà tài phiệt phụ thuộc vào các diễn viên chính trị duy trì các đặc quyền, thì các mối quan hệ chính trị phi-chính thức là cần thiết để duy trì địa vị elite kinh tế của họ—và các mối quan hệ đó có thể bị thu hồi đơn phương khỏi lĩnh vực chính trị. Nói cách khác, các nhà tài phiệt trong một nền chuyên quyền bảo trợ không phải là nhà tư bản theo nghĩa Tây phương: như một lời nói đùa Nga, họ không là các tỷ phú mà là những người làm việc như các tỷ phú. Nhà bảo trợ chóp bu có thể “sa thải” họ, tước đoạt một nhà tài phiệt khỏi các đặc quyền và tài sản de jure của họ. Trong khi các nhà tài phiệt về mặt chính thức là các chủ sở hữu tự trị, địa vị de jure của họ không trùng với thực tế xã hội de facto.

  1. CÁC DIỄN VIÊN CHÍNH TRỊ CHÍNH TRỞ THÀNH CÁC NHÀ CHÍNH PHIỆT

(POLIGARCH) nếu quyền lực chính trị chính thức của họ đi cùng với quyền lực kinh tế phi-chính thức. Khi các diễn viên chính trị trở thành các nhà bảo trợ trong các mạng lưới bảo trợ phi-chính thức, lý do căn bản của họ không còn là logic chính trị được tách biệt nữa mà lý do chính trị-kinh tế căn bản là về sự tập trung quyền lực và sự tích tụ sự giàu có cá nhân. Để diễn giải Max Weber, họ sử dụng thẩm quyền của họ như những cơ hội kinh tế họ chiếm đoạt vì lợi ích tư nhân của họ. Vì thế phạm trù nhà chính phiệt, mà là một khái niệm gương đối với nhà tài phiệt: quyền lực chính trị của họ là công khai, nhưng quyền lực kinh tế của họ bị che giấu.

Mặc dù sự giàu có cá nhân của họ có được từ vị trí và các quyết định chính trị của họ, các lợi thế tài chính bất hợp pháp của nhà chính phiệt vượt quá các giới hạn của các trợ cấp đặc quyền mà có thể liên quan đến vị trí của họ và thu nhập từ tham nhũng cổ điển. Trong một nền dân chủ, một chính trị gia có thể bị hối lộ và dính líu đến những kiểu khác nhau của các hành động tham nhũng. Một cách điển hình, những trường hợp như vậy được đề xướng bởi các diễn viên tư nhân như các doanh nhân (lớn) theo cách từ dưới lên, nhờ đó doanh nhân có được sự đối xử thuận lợi từ nhà nước và một khoản hối lộ được trao cho chính trị gia, người dùng nó cho sự tiêu dùng riêng của mình hay có lẽ để tăng cường vị trí của mình trong lĩnh vực công. Nhưng doanh nhân không trở thành một chính trị gia và chính trị gia không trở thành một doanh nhân. Họ đơn giản trở nên thối nát.

Trong một mạng lưới bảo trợ phi-chính thức, không phải là sự hối lộ kết nối các diễn viên thối nát lại với nhau. Thứ nhất, nhà chính phiệt không nhận tiền hối lộ để thực hiện bất kể hành động tham nhũng nào mà moi tiền bảo kê từ những người được bảo trợ lệ thuộc. Đến lượt, họ có thể không nhận bất kể sự trả tiền thêm nào vì việc thực hiện các quyết định của nhà bảo trợ mà đơn giản tránh những sự trừng phạt tùy ý. Thứ hai, một nhà chính phiệt hùng mạnh có thể tiến hành sự săn mồi, tiếp quản các công ty từ các diễn viên không trung thành hay ngoài cuộc và trao chúng cho những người được bảo trợ trung thành (Mệnh đề 84). Lợi ích của nhà chính phiệt trong trường hợp săn mồi là bản thân công ty, mà trở thành tài sản de facto của ông ta trong lĩnh vực hoạt động thị trường qua những người được bảo trợ bị ông ta ảnh hưởng. Nhà chính phiệt nhận tiền không như hối lộ mà như cổ tức, một tô (rent) được hợp thức hóa qua sự áp dụng các phương tiện bất hợp pháp.

De jure, kẻ chính phiệt xuất hiện như một chính trị gia cấp cao, giới hạn ở lĩnh vực chính trị; de facto, hắn bước vào lĩnh vực kinh tế và cũng thiết lập sự cho thuê đất, tài sản bất động sản, các tổ chức hay các quỹ dân sự-giả, và một mạng lưới công ty qua những kẻ bù nhìn (front men) kinh tế đại diện hợp pháp cho tài sản và quyền lực kiếm được một cách bất hợp pháp của hắn.

16. BÙ NHÌN KINH TẾ là một diễn viên mà có quyền lực kinh tếchính thức nhưng không thể dùng nó theo ý chí riêng của họ.             

Các nền dân chủ tự do không, các chế độ độc tài cộng sản cũng chẳng cần phải có các bù nhìn. Vì trong các chế độ đó, mỗi người đơn giản là người họ là, dù được xác định bởi luật trị (rule of law) hay bởi sự cưỡng chế. Bản chất của quyền lực và tính hợp pháp hóa của nó trùng nhau: điều này là điển hình cả trong các tiền nhiệm lịch sử của các hệ thống bảo trợ nữa. Rốt cuộc, địa chủ phong kiến đã không dựa vào sự thừa nhận của các chư hầu của ông, và một cách tự nhiên ông ta có thể coi tài sản và bất động sản là của riêng ông một cách công khai. Trong một chế độ độc tài cộng sản, những người trong các vị trí được nomenklatura xác định chính xác là vị trí chính quyền chính thức. Không ai cũng chẳng hệ thống nào đòi hỏi các người chơi bổ sung để nối liền khoảng cách giữa vị trí chính thức và thẩm quyền thực sự.

Tuy vậy, trong các chế độ bảo trợ những kẻ bù nhìn được dùng trong cả các lĩnh vực kinh tế và chính trị. Những kẻ bù nhìn kinh tế hoạt động trong lĩnh vực kinh tế nhưng họ là những người được bảo trợ trong một mạng lưới bảo trợ, lệ thuộc vào ý chí của một nhà bảo trợ ảnh hưởng đến sự cho phép chính thức của họ. Không giống các quan hệ tự nguyện giữa các lĩnh vực trong các nền dân chủ tự do, các quan hệ bảo trợ thay đổi tính cách xã hội của các diễn viên chính trị và kinh tế: quyền sở hữu de jure của tài sản của diễn viên kinh tế được thực hiện de facto bởi nhà bảo trợ chính trị của họ (Bảng 2).

Có thể phân biệt vài kiểu lý tưởng của những kẻ bù nhìn, một trong các đặc điểm then chốt phân biệt là các quyền họ có thể sử dụng. Trong trường hợp của những kẻ bù nhìn tầm thấp và trung, các quyền tài sản de jure de facto hoàn toàn bị tách rời: quyền sở hữu chính thức vẫn chẳng hơn bức thư chết vì kẻ bù nhìn không có sự tự chủ nào vis-à-vis nhà bảo trợ của họ mà thực sự sử dụng  các quyền này. Chức năng chính của những kẻ bù nhìn này là sự cá nhân hóa pháp lý của tài sản được tích tụ của nhà bảo trợ: để giữ một cách chính thức sự giàu có của một nhà bảo trợ mà đã không thể sở hữu nó một cách hợp pháp. Tình hình chỉ hơi khác trong trường hợp của kẻ bù nhìn tầm cao, nổi bật, mà cũng đảm nhận vai trò vận hành các công ty bảo trợ. Bằng việc cho phép thực hiện các quyền de jure nào đấy, nhà bảo trợ thực sự ủy quyền của ông để tiếp cận và quản lý tài sản de facto của ông. Nhưng các quyền để thu hồi, loại trừ và chuyển nhượng vẫn trong tay của nhà bảo trợ, người thực hiện chúng nhờ kẻ bù nhìn qua các mối quan hệ phi-chính thức.

Bảng 2: Các quyền tài sản của các diễn viên kinh tế và chính trị trong một nền dân chủ tự do và chế độ chuyên quyền bảo trợ.

17. CHỦ NGHĨA BẢO TRỢ PHI-CHÍNH THỨC CỦA ELITE CAI TRỊ là hiện tượng đặc thù chế độ, phân biệt các chế độ bảo trợ hậu-cộng sản với các chế độ khác. Elite cai trị là mạng lưới quyền lực gồm tất cả các diễn viên có quyền lực chính trị đối với sự hoạt động của bộ máy nhà nước. Nếu tiên đề về sự trùng của địa vị de jure de facto được xác nhận, thì elite cai trị phải gồm những người nắm giữ quyền lực chính thức. Điều này đúng trong trường hợp của hai trong ba kiểu cực của các chế độ từ khung khổ tam giác được nhắc tới ở trên: nền dân chủ tự do và chế độ độc tài cộng sản (Bảng 3). Cả hai được đặc trưng bởi sự chi phối của các định chế chính thức, những người ra quyết định chính trong các các chế độ này là các đảng viên của các đảng chính trị, và thuộc về mạng lưới quyền lực đòi hỏi các mối quan hệ chính trị chính thức với một đảng và/hoặc chính phủ. Tuy vậy, elite cai trị trong một nền dân chủ tự do là có nhiều-kim tự tháp và không-bảo trợ. Nó là một elite chính trị bị ràng buộc với nhiều phe phái tự trị, và các diễn viên buộc phải hoạt động bên trong một khung khổ hiến định. Trong một chế độ độc tài cộng sản, đảng nhà nước Marxist-Leninist nhắm để sắp đặt xã hội bằng các phương tiện nhà nước cưỡng ép, từ đó suy ra sự mở rộng của quyền lực nhà nước dưới hình thức của một mạng lưới bảo trợ quan liêu một-kim tự tháp. Mạng lưới này, nomenklatura cộng sản, là một sổ bộ danh bạ các vị trí cai trị, kể cả các chức vụ đảng—các nhà ra quyết định ở mức quốc gia và địa phương—và các vị trí hành chính—các nhà ra quyết định tại các công ty nhà nước và các chỗ khác nơi những kế hoạch tập trung được thực hiện.

Trong nomenklatura, các chức vụ chính thức tồn tại trước hết và những người được chọn, được phân vào các chức vụ này là thứ yếu. Nói cách khác, sự sắp đặt quan liêu là lâu dài hơn danh sách của những người được chọn để lấp đầy nó. Trong elite cai trị của các chế độ bảo trợ chuyên quyền, tình hình là ngược lại: chính mạng lưới bảo trợ, cái gọi là gia tộc chính trị nhận con nuôi và các thành viên của nó là chủ yếu. Thực ra, một cách điển hình mạng lưới sinh ra bên ngoài nhà nước như một hệ thứ bậc của các diễn viên từ các lĩnh vực khác nhau, và một khi họ chiếm quyền lực, các chức vụ chính thức được may đo cho gia tộc hay ý muốn của các thành viên của nó.

Gia tộc chính trị nhận con nuôi phần lớn là một hiện tượng phi-chính thức, có nghĩa không chỉ rằng hệ thứ bậc có hiệu lực của nó nằm bên ngoài (hay bên trên) các định chế chính thức của nhà nước, mà cả rằng gia tộc chính trị nhận con nuôi không có hình thức hợp pháp nào. Nó là một tập đoàn diễn viên chính trị (các lãnh đạo đảng, các thành viên quốc hội, các thống đốc, các thẩm phán, các tổng chưởng lý, các nhà lãnh đạo sở thuế vân vân) và các diễn viên kinh tế (các nhà tài phiệt các hãng then chốt, các ngân hàng, media, các tổ chức tư nhân và doanh nghiệp từ thiện vân vân), tất cả số đó được gắn kết với nhau bởi một hệ thứ bậc phi-chính thức dựa vào sự trung thành cá nhân vô điều kiện với nhà bảo trợ chóp bu, người ép buộc sự vâng lời bằng việc dùng tùy ý thẩm quyền nhà nước. Các quyết định thực sự bị loại bỏ khỏi các cơ quan—tuy được kiểm soát nghiêm ngặt—của đảng “cai trị” và chính phủ, và các diễn viên với không quyền lực nhà nước chính thức nào nhưng với các mối quan hệ phi-chính thức mạnh với nhà bảo trợ chóp bu có thể có ảnh hưởng lên các quyết định nhà nước hơn những lãnh đạo đảng và bộ trưởng nào đó mà chỉ là những kẻ bù nhìn chính trị (Mệnh đề 19).

Bảng 3: Các đặc điểm chính các elite cai trị trong ba chế độ kiểu-cực.

18. TRUNG TÂM QUYỀN LỰC DE FACTO LÀ NHÀ BẢO TRỢ CHÓP BU, hay là triều đình của nhà bảo trợ trong một nền chuyên quyền bảo trợ. Nhà bảo trợ chóp bu là một nhà chính phiệt và người ra quyết định cuối cùng trong một nền chuyên quyền bảo trợ. Lời của ông là luật trong các vấn đề chính trị và kinh tế, trong khi những người khác có thể quyết định về các vấn đề trong chừng mực chúng được nhà bảo trợ chóp bu cho phép hay hành động dưới radar của ông trong các vấn đề đời thường, ít quan trọng hơn nơi nhà bảo trợ chóp bu quyết định không can thiệp. Vị trí trung tâm này xuất phát không từ địa vị chính thức của ông mà từ địa vị phi-chính thức của ông. Về mặt hình thức, nhà bảo trợ chóp bu thường thực hiện vị trí của người đứng đầu hành pháp, tổng thống hay thủ tướng, trong khi một cách phi-chính thức ông ta là nhà lãnh đạo của mạng lưới bảo trợ có chỉ một-kim tự tháp.

Không giống thủ tướng hay tổng thống của một nền dân chủ tự do, nhà bảo trợ chóp bu không “cai quản”: ông sắp đặt mọi người, địa vị, và tài sản trong tất cả ba lĩnh vực hoạt động xã hội. Sự thực hiện thẩm quyền của ông không phù hợp với hay bị hạn chế bởi sự cho phép chính thức của ông. Một cách tự nhiên, một nhà bảo trợ chóp bu dùng những thẩm quyền de jure của ông cũng như, nhưng chúng là các thẩm quyền de facto được mở rộng khi ông ta thực dân hóa các định chế nhà nước trong tất cả các nhánh quyền lực với những người trung thành cá nhân. Việc có họ như những người được bảo trợ, nhà bảo trợ chóp bu có thể dùng quyền lực nhà nước theo sự bốc đồng của ông ta, và phân phát phần thưởng và sự trừng phạt theo một các tùy ý cho các diễn viên chính trị, kinh tế, và cộng đồng.

Sự gần gũi với nhà bảo trợ chóp bu, đặc biệt sự tiếp xúc trực tiếp với ông có thể trao quyền ra quyết định cho những người khác, có được sự tin cậy và sự cho phép của nhà bảo trợ chóp bu. “Triều đình của nhà bảo trợ” gồm giới thân cận nhất của những người ra quyết định, vài trong số họ với các chức vụ chính trị chính thức (như các nhà chính phiệt) và những người khác không có nó (như các nhà tài phiệt nào đó). Một thí dụ được nghiên cứu kinh điển của Stephen White và Olga Kryshtanovskaya (“Inside the Putin Court (Bên trong Triều đình của Putin),” 2005) cung cấp. Bài báo mô tả ba “bàn” của Putin: thứ nhất, nội các (văn phòng) tổng thống, được Tổng thống tham dự với các thành viên của chính phủ, tức là, một cơ quan ra quyết định phản ánh hình mẫu của cấu trúc chính phủ được chính thức hóa; thứ hai, Hội đồng An ninh, thành phần của nó không trùng với các ranh giới quan liêu, và nó được tham dự bởi những người từ các nhánh quyền lực khác nhau: nội các (văn phòng) tổng thống, chính phủ, các tổ chức mật vụ, văn phòng chưởng lý vân vân; và thứ ba, cái gọi là “nhóm uống trà,” mà gồm “các bạn” cá nhân của Putin, gồm cả các quan chức lãnh đạo lẫn những người không có thẩm quyền chính thức hay chức vụ chính trị nào cả.

Dưới những hoàn cảnh như vậy, các định chế quyền lực-công ngừng là những địa điểm nơi các quyết định thực được đưa ra, những thứ đó bị loại bỏ khỏi các định chế và chuyển tới nhóm ra quyết định của giới nội bộ, mức cao nhất của gia tộc chính trị nhận con nuôi. Triều đình của nhà bảo trợ là trái ngược hoàn toàn với một triều đình hoàng gia, một nội các dân chủ, hay bộ chính trị cộng sản vì nó thiếu cấu trúc chính thức và tính chính danh. Vì gia tộc chính trị nhận con nuôi là một mạng lưới phi-chính thức, triều đình của nhà bảo trợ cũng là một hội đồng phi-chính thức, mặc dù “tư cách thành viên” trong giới nội bộ này là cái quan trọng về mặt quyền lực ra quyết định de facto, không phải vị trí de jure, chính thức của người ta.

 

19. TỔ CHỨC NẮM GIỮ QUYỀN LỰC DE JURE, đảng cai trị trở thành một đảng dây curoa trong một nền chuyên quyền bảo trợ. Trước sự sụp đổ của Liên Xô, đảng Marxist-Leninist, như tổ chức nắm quyền lực, đã có các tổ chức dây curoa mà với chúng nó truyền đạt ý chí của nó tới mọi người và bôi trơn các cơ chế thực hiện (như các công đoàn, hội phụ nữ vân vân). Trong các chế độ bảo trợ chuyên quyền, đảng cai trị trở thành một dây curoa của mạng lưới bảo trợ phi-chính thức, gia tộc chính trị nhận con nuôi. Chức năng của nó là để chuyển các quyết định được đưa ra trong các ban phi-chính thức vào lĩnh vực của các định chế cai quản chính trị chính thức, hợp pháp.

Các luật không được làm, các chính sách không được xây dựng, và đất nước không được lái theo một hướng nào đó bởi đảng. Nó không còn là diễn viên trung tâm của chế độ: vai trò đó được đảm nhận bởi triều đình của nhà bảo trợ, một hội đồng phi-chính thức mà có được tính chính danh chính thức nhờ sự nhận ra ý chí của nó qua sự trung gian của đảng. Rốt cuộc nó hoạt động sau hậu trường của nền dân chủ, nơi bản thân đảng là một kẻ bù nhìn chính trị—một thực thể lệ thuộc, thứ yếu nơi không quyết định tự trị nào được đưa ra. Suy ra từ điều này rằng không có các phe phái nội bộ hay “các sự chia tách” bên trong đảng với tư cách như vậy. Trong khi các phe phái là phổ biến trong một đảng dân chủ, và thậm chí một đảng nhà nước cộng sản đôi khi có thể có một “nhánh cải cách” hay các liên minh phi-chính thức khác dựa vào giá trị hay lợi ích giữa các đảng viên chính thức, các hiện tượng như vậy không-tồn tại trong một đảng dây curoa. Vì đảng là một kẻ thi hành đơn giản: không phải đảng của một chính trị gia mà là một đảng của các chư hầu nơi các đảng viên với chỉ các thẩm quyền de jure không có các quyền lực de facto nào mà có thể được thống nhất cho một mục tiêu chung trong một phe phái. Các xung đột có thể nảy sinh chỉ giữa các thành viên của gia tộc chính trị nhận con nuôi, và những sự lục đục có vẻ là giữa các đảng viên chính thức của đảng, thực ra, liên kết với các vấn đề nội bộ của mạng lưới bảo trợ phi-chính thức.

Sự giàu có của các nhà tài phiệt và các nhà chính phiệt cũng chẳng là sự giàu có của đảng. Họ có sự trung thành cá nhân với nhà bảo trợ chóp bu, không phải sự trung thành quan liêu với ban lãnh đạo đảng. Các vấn đề tích lũy không được quyết định trong các cơ quan đảng chính thức, mà không có quyền tài phán nào đối với tiền hay các công ty thuộc về gia tộc chính trị nhận con nuôi.

20. BỘ MÁY QUAN LIÊU NHÀ NƯỚC CHUYÊN NGHIỆP của các công chức trở thành một lãnh địa của các công bộc bảo trợ trong một nền chuyên quyền bảo trợ. Quy tắc của mạng lưới bảo trợ phi-chính thức và quyền tối cao tương ứng của các tiêu chuẩn phi-chính thức đối với các tiêu chuẩn chính thức gây ra sự phá hủy từ trên xuống của sự quản lý quan liêu chuyên nghiệp, như nó được Max Weber mô tả trong Nền kinh tế và Xã hội.

“Lĩnh vực được xác định rõ ràng về thẩm quyền tuân theo các quy tắc phi-cá nhân” được nới lỏng; những người được chỉ định chính trị đóng rất nhiều vai trò trong gia tộc chính trị nhận con nuôi, bên trong lĩnh vực hợp pháp của chính quyền: các thành ngữ kẻ bù nhìn, người điều hành, ủy viên, quản gia, thủ quỹ,vân vân, mô tả các chức năng thực của các vai trò của họ chính xác về mặt xã hội học, hơn là các định nghĩa chính thức của các vị trí hành chính. “Hệ thứ bậc được thiết lập một cách duy lý” bị phá vỡ; các phụ tá của gia tộc chính trị nhận con nuôi tự do đi qua các khu vực thấp hơn và cao hơn của hành chính công. Hệ thống chuẩn tắc của “một hệ thống bổ nhiệm đều đặn trên cơ sở hợp đồng tự do, và sự thăng tiến có trật tự” bị tháo rời; sự thanh trừng chính trị hoàn toàn được thực hiện, việc sắp xếp lại toàn bộ bộ máy chuyên nghiệp bởi các phương tiện đa dạng, cũng như sự thay thế hệ thống cất nhắc chuẩn tắc bằng các cơ chế ra quyết định tùy ý. “Việc đào tạo kỹ thuật như một đòi hỏi thường xuyên” bị tương đối hóa; khi cần thiết, những sự miễn trừ đặc biệt lót đường cho các vị trí mà trước đó có các điều kiện tiên quyết nghiêm ngặt về đào tạo chuyên nghiệp. Các trợ cấp và các quyền hưởng tài sản được thêm vào “lương cố định” khi chúng ta leo lên qua hệ thứ bậc ngày càng trong lãnh địa vượt quá các nguồn thu nhập hợp pháp.

Bộ máy quan liêu của các công bộc bảo trợ cũng tương phản với bộ máy quan liêu cộng sản của các apparatchik (аппаратчик-quan chức nhà nước). Vượt ngoài sự khác biệt thông thường giữa tính chính thức (chế độ độc tài cộng sản) và tính phi-chính thức (chế độ chuyên quyền bảo trợ), chúng ta cũng nên lưu ý rằng một apparatchik đi theo đường lối mà đảng sai khiến, và họ trung thành với đảng như một tổ chức. Như sử gia Hungari Szabó Miklós thường lưu ý trong các bài giảng của ông, “người cộng sản tốt kiên quyết dao động với đảng.” Đến lượt, nô bộc bảo trợ chứng tỏ tính tốt, và lòng trung thành của họ với nhà bảo trợ (chóp bu), bằng việc bước qua các quy tắc chính thức (hợp pháp) theo lệnh của nhà bảo trợ. Không chỉ là lòng trung thành tổ chức bị thay bằng lòng trung thành cá nhân: khiến cho nô bộc bảo trợ phạm các hành động bất hợp pháp, mà bị ngược đãi nếu nhà bảo trợ chóp bu muốn họ bị, tạo ra sự lệ thuộc phi-chính thức mà mạng lưới patron-client của nhà nước mafia phụ thuộc vào. Trong khi đó trong một nền dân chủ tự do một nhà quan liêu bị sa thải nếu phạm một tội, trong một nền chuyên quyền bảo trợ ông ta bị sa thải nếu không phạm tội mà ông được lệnh để phạm, và như thế không đảm bảo tính có thể thỏa hiệp của riêng mình trong trường hợp bất trung.

21. HOẠT ĐỘNG VÀ SỰ ĐIỀU PHỐI CỦA MẠNG LƯỚI PHI-CHÍNH THỨC cần phải dính líu đến hai kiểu diễn viên phi-chính thức: tay chân của nhà bảo trợ, và những kẻ môi giới tham nhũng. Mặc dù trong một nền chuyên quyền bảo trợ rốt cuộc mọi người đều phải tuân theo ý chí của nhà bảo trợ chóp bu, ông không thể ở mọi nơi. Đúng hơn, sự điều phối mạng lưới chính trị-kinh tế của những người được bảo trợ được điều phối qua những người được ủy thác phi-chính thức. “Tay chân của nhà bảo trợ,” được nhắc đến trong tiếng Nga như smotryasciy (смотрящий-nghĩa đen là “người rình”), hành động nhân danh nhà bảo trợ chóp bu, giám sát và chỉ dẫn các thực thể nhà nước và phi-nhà nước khác nhau thuộc về gia tộc chính trị nhận con nuôi. “Trong hệ thống của Putin,” các nhà xã hội học Alena Ledeneva và Claudia Baez Camargo viết, “các định chế nhà nước được kiểm soát qua  ‘những nhân viên liên lạc cốt lõi’, ‘các giám tuyển’ của ông và các thực hành giám sát và báo cáo hết sức cá nhân hóa bên trong các mạng lưới của Putin. Các thực hành kiểm soát như vậy cũng thấm vào các công ty không-nhà nước, mà chắc bị giám sát một cách phi-chính thức bởi ‘những kẻ nhảy dù’—những người được bổ nhiệm trên đầu của các thủ trưởng chính thức của họ và có quan hệ cá nhân với ban lãnh đạo chính trị.” (“Where Does Informality Stop and Corruption Begin?,” 2017, 63).

Mặt khác, nhà môi giới tham nhũng kết nối những kẻ tham gia một giao dịch tham nhũng như một kẻ môi giới, hay hợp pháp hóa giao dịch kinh doanh bất hợp pháp như một chuyên gia tư pháp. Có thể phân biệt hai kiểu chính theo chức năng và vị trí de jure của họ. Thứ nhất, có cái gọi là những người gác cổng, mà là các nhà môi giới tham nhũng bên trong chính quyền-công được dùng để bảo đảm hậu trường cơ quan và sự bảo vệ các giao dịch bất hợp pháp. Trong tham nhũng không-bảo trợ, cổ điển, họ là các quan chức của bộ máy quan liêu theo nghĩa của Max Weber, mà bị sự đặt làm quyến rũ thi thoảng. Tuy vậy, với việc thiết lập chế độ chuyên quyền bảo trợ, không chỉ sự bổ nhiện quan chức chịu trách nhiệm mà các lệnh cho hoạt động tiếp tục như một nhà môi giới tham nhũng cũng đến từ trên. Những người gác cổng như thế bao gồm những người đứng đầu các cơ quan thực thi pháp luật, các thành viên của các hội đồng đấu thầu, các thẩm phán vân vân.

Kiểu nhà môi giới tham nhũng quan trọng khác là các nhà thiết kế tham nhũng, mà chức năng của họ là tìm thấy và cung cấp hình thức pháp lý-thể chế (de jure) thích hợp cho các ý định tham nhũng (de facto). Các nhà thiết kế tham nhũng có thể là các cá nhân, giống trong trường hợp của các nhà môi giới tham nhũng quản lý các sơ đồ rửa tiền (quốc tế), hay các hãng, mà chức năng chính của nó là để tạo thuận lợi cho quá trình chuyển tiền chính phủ vào tay tư nhân. Trong trường hợp sau, chức năng được thực hiện bởi các hãng luật, các công ty soạn đấu thầu, các công ty quản lý dự án vân vân.

22. Chủ nghĩa bảo trợ phi-chính thức là khác với tính phi-chính thức trong các chế độ độc tài cộng sản bởi vì nó trao quyền lực cho những người ở bên ngoài hệ thứ bậc chính thức. Trong các chế độ độc tài cộng sản, các quan hệ phi-chính thức đã tồn tại giữa các thành viên của nomenklatura dưới dạng các quan hệ cá nhân, các lệnh miệng phi-chính thức, và các thỏa thuận bắt tay. Thế nhưng các quan hệ như vậy được hình thành bên trong mạng lưới chính thức, tức là, giữa các thành viên de jure của nomenklatura và tôn trọng hệ thứ bậc quan liêu của đảng. Văn liệu cổ điển “Kremlin học,” trong khi nghiên cứu xung đột lãnh đạo và các sự khác biệt về mức quyền lực giữa những người trong các vị trí quyền lực mà về mặt chính thức trên cùng mức, không thể bỏ qua sự thực rằng ngay cả chính câu hỏi về quyền lực phi-chính thức có nghĩa chỉ bên trong một cấu trúc đảng được chính thức hóa. Vì việc không là ủy viên bộ chính trị, thì không ai có thể thực hiện quyền lực thật và ảnh hưởng đến việc ra quyết định, và việc bị loại khỏi bộ chính trị đi kèm với sự mất các đặc quyền quyền lực.

Ngược lại, chủ nghĩa bảo trợ phi-chính thức gạt bỏ các định chế chính thức. Các quan hệ phi-chính thức không giả định trước cấp bậc chính thức của diễn viên và có thể cho phép ai đó với không vị trí chính trị nào để có quyền lực chính trị. Các ràng buộc phi-chính thức được hình thành giữa những người có cũng như không có quyền lực chính thức, và mạng lưới nảy sinh mở rộng vượt quá các ranh giới của trật tự thể chế chính thức. Một gia tộc chính trị nhận con nuôi gồm các loại khác nhau của các nhà chính phiệt, các nhà tài phiệt, và những kẻ bù nhìn, thấm vào một dải rộng của các định chế trong lĩnh vực chính trị (từ các phe phái quốc hội qua các cơ quan mật vụ đến các cơ quan tư pháp), lĩnh vực kinh tế (từ các công ty qua các quỹ đến các tập đoàn công nghiệp và tài chính khổng lồ), và lĩnh vực cộng đồng (từ các NGO chính phủ de facto, hay các GONGO, đến giáo hội được bảo trợ). Trong một số trường hợp, tư cách đảng viên chính thức chồng lấn với sự thuộc về gia tộc chính trị nhận con nuôi, nhưng không phải là điều kiện cần thiết. Các mạng lưới bảo trợ phi-chính thức sử dụng các định chế chính thức đến mức chúng cần, nhưng mặt khác tính phi-chính thức thay thế tính chính thức như nhân tố xác định chính của quyền lực, luật, và hành vi elite. Bảng 4 tóm tắt các sự khác biệt chính giữa tính phi-chính thức cộng sản và chủ nghĩa bảo trợ phi-chính thức.

Bảng 4: Tính phi-chính thức trong chế độ độc tài cộng sản và chế độ chuyên quyền bảo trợ.

23. CHỦ NGHĨA BẢO TRỢ PHI-CHÍNH THỨC LÀ KHÁC VỚI TÍNH PHI- CHÍNH THỨC trong các nền dân chủ tự do bởi vì nó tước vai trò ra quyết định de facto của các cơ quan chính thức. Trong các nền dân chủ tự do, tính phi-chính thức có thể xuất hiện ở mức các elite dưới hình thức của các thỏa thuận phi-chính thức, được kết thúc trước các cuộc tranh luận chính thức (ví dụ, nghị viện) giữa các diễn viên chính trị. Tuy vậy, khi các chính trị gia thỏa thuận bên ngoài các cơ quan chính thức, điểm quan trọng là sự bí mật, tức là, để giữ các động cơ và các sự mặc cả khỏi công chúng. Nhưng những người ra quyết định de facto de jure là như nhau: cùng những người có quyền chính thức cũng quyết định các giao dịch phi-chính thức.

Ngược lại, các cơ quan ra quyết định chính thức trong các chế độ chuyên quyền bảo trợ trở thành các tổ chức dây curoa, bị tước mất quyền lực thật để ủng hộ gia tộc chính trị nhận con nuôi. Một nhóm người được kết nối một cách phi-chính thức ra các quyết định, một số với quyền lực chính trị de jure nhưng vượt ra ngoài thẩm quyền chính thức của họ (như một tổng thống/thủ tướng nhà bảo trợ chóp bu) và một số không có quyền lực chính trị de jure (như các nhà tài phiệt thuộc gới thân cận), trong khi những người khác mà đại diện và bỏ phiếu về các quyết định này trong lĩnh vực thể chế chính thức, minh bạch lại không làm vậy một cách tự chủ, phù hợp với sự ủy nhiệm chính thức của họ.

Trong một nền chuyên quyền bảo trợ, vị trí phi-chính thức mới là quan trọng: những người thân cận với nhà bảo trợ chóp bu có quyền ra quyết định, dù có hay không có thẩm quyền chính thức, còn những người bên trong đảng nhưng bên ngoài giới thân cận nhất của nhà bảo trợ chóp bu không phải là những người ra quyết định, và họ cũng chẳng là “các chính trị gia.” Trong khi họ trông giống các chính trị gia, quả thực họ là những kẻ bù nhìn chính trị: những người được bảo trợ mà, hệt như những kẻ bù nhìn kinh tế, không thể sử dụng quyền lực chính thức của họ một cách tự trị, theo ý chí riêng của họ. Trong trường hợp của họ, omertà, luật im lặng áp dụng ngay cả cho sự xuất hiện công khai hiếm hoi của họ, và công luận không, các chính trị gia đối lập cũng chẳng coi họ là các diễn viên chính trị có thẩm quyền, có thể buộc phải chịu trách nhiệm. Những người thực hiện hầu hết chức năng có thẩm quyền công trong một nền chuyên quyền bảo trợ trên thực tế có thể được xem là những kẻ bù nhìn chính trị ở các mức khác nhau của nhà bảo trợ chóp bu. Vai trò của họ là để chuyển các quyết định được đưa ra bên ngoài các định chế hợp pháp vào lĩnh vực hoạt động chính trị hợp pháp. Họ tạo thành sự trưng bày công khai của sự cai quản phi-chính thức, và lấp khoảng trống giữa các lĩnh vực chính thức và phi-chính thức bằng vị trí và địa vị chính thức của họ. Bảng 5 tóm tắt những sự khác biệt chính giữa tính phi-chính thức trong các nền dân chủ tự do và các chế độ bảo trợ chuyên quyền.

Bảng 5: Tính phi-chính thức trong nền dân chủ tự do và chuyên quyền bảo trợ.

 

  1. CHỦ NGHĨA BẢO TRỢ PHI-CHÍNH THỨC KHÁC VỚI CHỦ NGHĨA CÁNH

HẨU bởi vì nó không phải là một sự hợp tác tự nguyện của các bên ngang nhau. “Chủ nghĩa tư bản cánh hẩu (thân hữu)” là một từ khóa cho các hệ thống thối nát như các hệ thống hậu cộng sản, chỉ rõ một chế độ nơi elite chính trị lãnh đạo trao những ưu ái tùy ý cho các bạn hữu và các thành viên gia đình của họ. Nhưng từ “bạn bè” hay “cánh hẩu,” trong khung cảnh của các giao dịch tham nhũng, giả định các bên hay các đối tác ngang hàng (cho dù đóng các vai trò khác nhau) và ngụ ý các giao dịch tự nguyện—thi thoảng, mặc dù có thể lặp lại—mà có thể được chấm dứt hay tiếp tục bởi cả hai bên theo sự tiện lợi của họ, mà không có một bên ép buộc bên kia vào việc tiếp tục mối quan hệ. Có sự bước tự do vào mối quan hệ, và cũng có sự rời đi tự do khỏi nó. Ngược lại, không có sự bước tự do vào mạng lưới bảo trợ, chỉ có sự chấp nhận, được cho sự tiếp cận, hay sự đầu hàng ép buộc; và cũng chẳng có sự rời đi tự do, chỉ có sự loại trừ.

Bên trong mạng lưới bảo trợ, người ta ở trong một hệ thứ bậc gồm các chuỗi chỉ huy dọc với một thành phần mạnh có quyền lực vô điều kiện và bất bình đẳng. Nhà bảo trợ chóp bu có thể sa thải một nhà tài phiệt; một nhà tài phiệt không thể sa thái nhà bảo trợ chóp bu. Trong một quan hệ nhà bảo trợ-người được bảo trợ, một người tham gia—người được bảo trợ—là một chư hầu (tức là, cấp dưới) của người khác, nhà bảo trợ, và người đứng đầu mạng lưới, nhà bảo trợ chóp bu quyết định về sự phân chia tài sản và địa vị giữa những người được bảo trợ.

Trong một nền dân chủ bảo trợ như Ukraina, không mạng lưới bảo trợ nào có toàn quyền đối với nhà nước, và các nhà tài phiệt có nhiều lựa chọn và phương tiện hơn để thực hiện sự kiểm soát đối với các diễn viên chính trị (Mệnh đề 40). Trong một chế độ chuyên quyền bảo trợ như Nga, tuy vậy, không còn là câu hỏi ngỏ nữa về ai là lãnh tụ, ai phụ thuộc vào ai, ai ra các mệnh lệnh và ai thực hiện chúng. Nhà bảo trợ chóp bu hiển nhiên là “ông trùm,” và không có trách nhiệm giải trình elite de facto nào từ phía các nhà tài phiệt. Ngược lại, chủ nghĩa thân hữu không phải là một quan hệ nhà bảo trợ patron-client nữa mà nhiều hơn là một “quan hệ client-client” với các bên ngang nhau sử dụng quan hệ phi-chính thức của họ cho các giao dịch tham nhũng chỉ đôi khi, trên cơ sở từng trường hợp một và không như phần của một mạng lưới tham nhũng của các giao dịch tiền (hối lộ hay bảo kê) thường xuyên. Các chuỗi chư hầu vĩnh viễn là đặc trưng của các mạng lưới bảo trợ, nơi nhà bảo trợ ở trên đỉnh mạng lưới trở thành người tổ chức trung tâm của tham nhũng, hay việc dùng các nguồn lực công cho các lợi ích tư (Mệnh đề 86).

Xóa bỏ Tiên đề #3: Từ Nhà nước Hiến định đến Nhà nước Mafia

CÁC NHÓM KHÁC NHAU CỦA KIỂU NHÀ NƯỚC CÓ THỂ ĐƯỢC XÁC ĐỊNH   25.

bởi động cơ của elite cai trị: lợi ích xã hội, sự thực hiện ý thức hệ, và lợi ích. Nhà nước là định chế mà theo đó elite cai trị thực hiện sự độc quyền dùng hợp pháp bạo lực để trích xuất, quản lý, và phân phối các nguồn lực bên trong biên giới của một lãnh thổ nào đó. Tiên đề dòng chính về nhà nước tận tâm với lợi ích công chỉ là một trong những cơ hội: nhà nước có thể vận hành theo các nguyên tắc chi phối khác nhau, dựa vào các mục đích, cương lĩnh cơ bản, và thái độ của elite cai trị đối với sự cai quản (Bảng 6). Nhận diện các nguyên tắc khác nhau của sự vận hành nhà nước, chúng ta có thể vẽ ra đường phân chia cơ bản nhất giữa các khái niệm khác nhau về nhà nước.

Thứ nhất, các khái niệm như “nhà nước phúc lợi” và “nhà nước gác đêm” dựa vào nguyên tắc lợi ích xã hội. Điều này có nghĩa rằng elite cai trị hướng việc dùng quyền lực chính trị để thực hiện các giá trị, một ý thức hệ, để đẩy mạnh các lợi ích của các nhóm xã hội bên ngoài lĩnh vực chính trị và bản thân elite cai trị (ví dụ, một giai cấp kinh tế). “Lợi ích xã hội” gồm các lợi ích khác biệt của các nhóm xã hội cụ thể mà elite cai trị quyết định ưu tiên, trong khi các lợi ích cá biệt nào do nhà nước phục vụ được quyết định trong trong một quá trình công khai, minh bạch, và được nghi thức hóa của sự thảo luận cân nhắc công (public deliberation), bao hàm mọi nhóm xã hội quan tâm (Mệnh đề 43). Các quyền và các quyền tự do căn bản của toàn bộ dân cư được coi trọng: dưới các nguyên tắc này, các elite cai trị cố gắng giành được quyền lực chính trị để thực hiện các mục tiêu của họ nhưng không nhắm tới việc sở hữu nó một cách độc quyền. Các nhà cai trị cạnh tranh bên trong các ranh giới của sân chơi hiến định, và tranh luận về các vấn đề chính sách-công dựa vào các lập trường ý thức hệ, cánh tả hay cánh hữu nào đó. Nếu xuất hiện phần tử muốn sở hữu độc quyền quyền lực chính trị, chúng ta chuyển từ nguyên tắc lợi ích xã hội sang nguyên tắc thực hiện ý thức hệ. Đấy là trường hợp của đảng nhà nước của một chế độ độc tài cộng sản, nơi lợi ích xã hội tự-xác định được thay thế bằng một loại lợi ích giả định, do bản thân đảng nhà nước bị ý thức hệ dẫn dắt xác định.

Nguyên tắc thứ ba trong khung khổ của chúng ta là lợi ích elite, mà gồm động cơ kép của sự tập trung quyền lực và sự tích tụ tài sản cá nhân. Elite cai trị thử sự độc quyền quyền lực chính trị qua sự mở rộng ảnh hưởng chính thức và phi-chính thức đối với lĩnh vực chính trị, bảo đảm tính không thể bị thách thức (phá vỡ sự tự trị và sức mạnh của các diễn viên cạnh tranh), và quyền lực không bị ràng buộc này được dùng để làm giàu cho elite cai trị trên đỉnh và những người ở các mức thấp hơn của mạng lưới (patron-client) cá nhân của nó. Các khái niệm nhà nước từ “chế độ đạo tặc” qua “chủ nghĩa gia sản mới” đến “nhà nước mafia” tất cả đều thuộc về các nhà nước dựa vào lợi ích-elite, như chúng tôi thảo luận dưới đây. Điểm then chốt ở đây là, do các cấu trúc cứng đầu nảy sinh trong sự gia sản hóa và các mạng lưới bảo trợ phi-chính thức (Mệnh đề 10), các nước hậu-cộng sản có thể được tiếp cận tốt nhất bằng các khái niệm nhà nước dựa vào nguyên tắc lợi ích elite. Các chế độ hậu cộng sản không phải là “các nhà nước phúc lợi” theo nghĩa Tây phương, cũng chẳng là “các đảng nhà nước” cũ theo nghĩa cộng sản: hầu hết chúng được tổ chức và vận hành, với những mức độ khác nhau, bởi logic của chủ nghĩa bảo trợ phi-chính thức.

Bảng 6: Các nguyên lý kiểu lý tưởng của sự hoạt động nhà nước (với các khái niệm nhà nước như các ví dụ).

26. CÁC NHÀ NƯỚC VẬN HÀNH THEO NGUYÊN TẮC LỢI ÍCH ELITE có thể được phân biệt dọc theo bốn chiều cơ bản: diễn viên, hành động nhắm tới các định chế nhà nước, hành động nhắm tới tài sản, và tính hợp pháp. Trong khi các khái niệm như “chế độ đạo tặc (kleptocracy)” và “nhà nước bè đảng (thị tộc, clan)” là quen thuộc, chúng thường được dùng như đồng nghĩa, mà không có một định nghĩa rõ ràng về khung khổ chế độ dưới các nhãn chế độ và cũng không có một trật tự logic rõ ràng giữa các phạm trù này. Một trât tự như vậy có thể được tạo ra cùng với bốn tầng diễn giải cơ bản. Tại mỗi tầng, các khái niệm được diễn giải như các mức độ trên cùng quy mô, nơi các kiểu nhà nước liên tiếp cũng gồm các đặc trưng của các nhà nước trước chúng trong hàng (Bảng 7).

Câu hỏi đầu tiên là bản chất của elite cai trị là gì: trong khung cảnh này chúng ta có thể nói về một nhà nước nơi elite cai trị chủ yếu là phi-chính thức về bản chất (nhà nước mạng lưới); nơi elite cai trị không chỉ là phi-chính thức mà cũng là một mạng lưới bảo trợ (nhà nước bảo trợ); và nơi mạng lưới bảo trợ phi-chính thức này cũng thể hiện các đặc trưng của một gia tộc gia trưởng (nhà nước thị tộc [clan]). Câu hỏi thứ hai là các định chế bị chiếm đoạt thế nào: trong khung cảnh này, chúng ta có thể nói về các nhà nước mà elite cai trị coi như lãnh địa tư của họ nhưng theo một cách hợp pháp (nhà nước gia sản hay sultanistic); và các lãnh địa mà với chúng họ làm cùng thế, nhưng theo một cách bất hợp pháp, giả vờ luật trị (rule of law-nhà nước pháp quyền) đằng sau môi trường thể chế chính thức của nền dân chủ (nhà nước gia sản mới hay sultanistic mới).

Câu hỏi thứ ba là tài sản bị chiếm đoạt như thế nào: trong khung cảnh này, chúng ta có thể nói về một nhà nước đánh thuế quá một cách hợp pháp và phân chia thu nhập từ nó (nhà nước trục lợi [rent-seeking]); mà không phải là cùng như (nhà nước đạo tặc) bất hợp pháp; và mà, thêm vào các phương pháp được nhắc tới ở trên, cũng thực hiện sự săn mồi, tức là, thôn tính bắt buộc các công ty và tài sản không-tiền bạc khác cho các thành viên trung thành của elite cai trị bằng bạo lực nhà nước (nhà nước săn mồi). Cuối cùng, câu hỏi cuối cùng là địa vị pháp lý của hành động dựa vào lợi ích elite là gì: trong khung cảnh này, chúng ta có thể nói về một nhà nước nơi tham nhũng, mặc dù đặc hữu, không gì hơn là sự hối lộ, và được thực hiện thi thoảng và chủ yếu bởi các diễn viên ở các mức thấp hơn của chính phủ (nhà nước tham nhũng [thối nát]); nơi tham nhũng mở rộng ra các diễn viên chính phủ và các luật nào đó được ban hành vì mục đích đó (nhà nước bị bắt giữ [captured state]); và một nhà nước được vận hành bởi bản thân elite cai trị như một tổ chức tội phạm (nhà nước tội phạm).

Điều cần thấy liên quan đến các kiểu nhà nước này là chúng chỉ là các kiểu một phần: chúng nhận diện nhà nước chỉ từ một khía cạnh trong khi không phản ánh các khía cạnh khác. Nhưng chính xác bản chất một phần của chúng cho phép chúng ta dùng chúng đồng thời, hay kết hợp chúng để mô tả toàn bộ một nhà nước dựa vào lợi ích elite.

Bảng 7: Khái niệm hóa các nhà nước lệ thuộc vào lợi ích elite.     

27. Nhà nước mafia, mà đồng thời là một nhà nước thị tộc, nhà nước gia sản mới, nhà nước săn mồi và nhà nước tội phạm. Các nhà báo dùng thuật ngữ “nhà nước mafia” cho các nhà nước với các quan hệ chặt với tội phạm có tổ chức, và/hoặc các nhà nước đặc biệt hung dữ và dùng các phương pháp tàn bạo, “giống-mafia” để giữ vững sự cai trị của chúng. Tuy vậy, trong thảo luận học thuật của chúng ta thuật ngữ được định nghĩa theo cách mà một nhà nước mafia không đòi hỏi bất kể cái nào trong các đặc trưng đó. Một nhà nước mafia không phải là một sự cộng sinh của nhà nước và tội phạm có tổ chức mà là một nhà nước hoạt động giống mafia—và không phải về mặt các hoạt động trái phép per se (tự nó) mà về mặt văn hóa và cai trị nội bộ.

Sử gia Eric Hobsbawn viết trong Primitive Rebels [Những kẻ nổi loạn Sơ đẳng] (1965) rằng mafia là một gia tộc nhận con nuôi, “hình thức họ hàng nhân tạo, mà ngụ ý các nghĩa vụ lớn nhất và trang trọng nhất về sự giúp đỡ lẫn nhau từ các bên ký kết” (55). Đồng thời, mafia do ông mô tả là mafia cổ điển—chúng ta có thể nói, một hình thức của thế giới ngầm có tổ chức—mà tồn tại trong một xã hội được thiết lập dọc theo đường lối của sự bình đẳng các quyền hiện đại. Gia tộc gia trưởng trong khung cảnh này là một kẻ thách thức sự độc quyền bạo lực của nhà nước, trong khi các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ngăn cản càng nhiều càng tốt sự cố gắng để trao quyền lực cho người đứng đầu gia tộc.

Nhà nước mafia—chúng ta có thể nói, là giới thượng lưu có tổ chức—là một dự án để thừa nhận thẩm quyền của kẻ đứng đầu gia tộc ở mức một nước, khắp các cơ quan của hệ thống thể chế dân chủ, với một cuộc xâm lấn các quyền lực nhà nước và bộ công cụ của nó. So với mafia cổ điển, nhà nước mafia thực hiện dứt khoát cùng đặc tính xã hội học trong một khung cảnh khác, làm cho gia tộc gia trưởng không trở thành một kẻ thách thức chủ quyền nhà nước mà là kẻ sở hữu nó. Cái mafia cổ điển đạt được bằng các phương tiện đe dọa, tống tiền, và—nếu cần—sự đổ máu dữ dội, thì nhà nước mafia đạt được qua sự cưỡng ép không đổ máu của nhà nước do gia tộc chính trị nhận con nuôi cai trị.

Về mặt các hình mẫu cai trị, sự thực hiện quyền lực chủ quyền của “Bố già” (nhà bảo trợ chóp bu), thì gia tộc gia trưởng, hộ gia đình, cơ nghiệp, và đất nước là các khái niệm đồng hình, đẳng cấu. Theo cùng các hình mẫu văn hóa của việc áp dụng quyền lực trên tất cả các mức. Hệt như người đứng đầu gia trưởng của gia tộc có tính quyết định trong các trường hợp quyết định các vấn đề cá nhân và tài sản, cũng xác định địa vị (địa vị điều chỉnh tất cả các khía cạnh của vai trò và các thẩm quyền cá nhân giữa “những người của hộ gia đình của ông”), như thế người đứng đầu gia tộc chính trị nhận con nuôi là nhà lãnh đạo của đất nước, nơi quốc gia được diễn giải lại có nghĩa là patrimonium (gia sản) “hộ gia đình” của ông. Ông không cai quản, mà sắp đặt mọi người, ông có một phần, ông phân phát công lý, và chia một số phần và công lý này cho “những người của hộ gia đình” của ông, quốc gia của ông, theo địa vị và công trạng của họ. Hơn nữa, theo cùng cách mà mafia cổ điển loại bỏ “trò ăn cướp tư nhân,” nhà nước mafia cũng bắt đầu chấm dứt sự tham nhũng hỗn loạn, và thay thế nó bằng sự thực thi được tập trung hóa và độc quyền hóa của sự cống nạp được tổ chức từ trên đỉnh. Về bản chất, nhà nước mafia là sự kinh doanh mạo hiểm của gia tộc chính trị nhận con nuôi được quản lý qua các phương tiện của quyền lực công: hình thức được tư nhân hóa của một nhà nước ký sinh. Để là chính xác hơn, nhà nước mafia kết hợp các đặc điểm và các khái niệm trước kia liên kết với các thị tộc chính trị-kinh tế, chủ nghĩa gia sản, sự săn mồi, và sự phạm tội (Bảng 8).

                 Bảng 8: Định nghĩa nhà nước mafia hậu-cộng sản.