Người phụ trách Văn Việt:

Trịnh Y Thư

Web:

vanviet.info

Blog:

vandoanviet.blogspot.com

Danh ngôn

Trong mọi cộng đồng, chúng ta cần một nhóm thiên thần gây rối.

We need, in every community, a group of angelic troublemakers.

(Bayard Rustin – trích bài phát biểu tại New York City 1963)

Trong mọi trường hợp, chắc chắn rằng sự thiếu hiểu biết, đi kèm với quyền lực, là kẻ thù tàn bạo nhất có thể có của công lý.

It is certain, in any case, that ignorance, allied with power, is the most ferocious enemy justice can have.

(James Baldwin - No Name in the Street 1972)

Các cuộc cách mạng và các cá nhân có thể bị giết hại, nhưng bạn không thể giết chết các ý tưởng.

While revolutionaries and individuals can be murdered, you cannot kill ideas.

(Thomas Sankara, một tuần trước khi bị ám sát, 1987)

Không có cảm giác nào cô đơn hơn việc bị chính đất nước mình trục xuất.

There's not a more lonely feeling than to be banished by my own country.

(Kiyo Sato – Kiyo’s Story 2009)

Ban Biên tập

Địa chỉ liên lạc:

1. Thơ

tho.vanviet.vd@gmail.com

2. Văn

vanviet.van14@gmail.com

3. Nghiên cứu Phê Bình

vanviet.ncpb@gmail.com

4. Vấn đề hôm nay

vanviet.vdhn1@gmail.com

5. Thư bạn đọc

vanviet.tbd14@gmail.com

6. Tư liệu

vanviet.tulieu@gmail.com

7. Văn học Miền Nam 54-75

vanhocmiennam5475@gmail.com

Tra cứu theo tên tác giả

Thứ Sáu, 13 tháng 6, 2025

Một tóm tắt về các chế độ hậu Cộng sản (kỳ 1)

 

Tác giả: Magyar Bálint – Madlovics Bálint

Bản tiếng Việt: Nguyễn Quang A

Nhà xuất bản Dân Khí – 2025

 

Mục lục

LÒI GIỚI THIỆU:…………………………………………………………… vii

LỜI NÓI ĐẦU: Một paradigm mới để hiểu các chế độ hậu-cộng sản của Oleksandr Fisun........................................................................................... xiii

Hướng dẫn người dùng cuốn sách.......................................................................... xvii

  1. Khung khổ khái niệm: 120 Mệnh đề................................................................ 1

Bị bẫy trong ngôn ngữ của nền Dân chủ Tự do.................................................. 3

Xóa bỏ Tiên đề #1: Các cấu trúc cứng đầu và sự Phát triển của Khu vực....... 8

Xóa bỏ Tiên đề #2: Tính chính thức và Tính phi-chính thức.......................... 19

Xóa bỏ Tiên đề #3: Từ Nhà nước Hiến định đến Nhà nước Mafia................... 36

Một Hiện tượng Sui Generis: Gia tộc Chính trị Nhận con nuôi..................... 45

Môi trường thể chế chính thức: Hình mẫu thay đổi của Tính Chính danh. 61

Lập pháp và Hệ thống pháp luật: Từ Luật trị đến Luật của sự Cai trị............ 82

Các Cơ chế Phòng vệ: sự Ổn định và Xói mòn của các nền Dân chủ và các Chế độ Chuyên quyền.............................................................................................................. 93

Kinh tế học quan hệ: Tham nhũng, Săn mồi, và Tái phân phối các Thị trường…110

Chế độ Độc tài-Khai thác Thị trường: sự Cùng tồn tại của Ba Cơ chế Kinh tế ở Trung Quốc………………………………………………………..  131

Xã hội Bảo trợ và sự Ổn định Xã hội của nền Chuyên quyền Bảo trợ....... 141

Chủ nghĩa dân túy: một Công cụ Ý thức hệ cho Cương lĩnh Chính trị của Tính ích kỷ Tập thể không bị Ràng buộc về Đạo đức ………………….151

Vượt quá các Tính đặc thù  Chế độ: Các nét đặc thù Quốc gia, Chính sách, và Thời đại....................................................................................................................... 164

Các quỹ đạo Chế độ Hậu-cộng sản: Một Khung khổ Tam giác......................... 186

  1. Quỹ đạo của Mười hai Chế độ Hậu-cộng sản.............................................. 193

Estonia: Thay đổi Chế độ sang Nền Dân chủ Tự do...................................... 195

Rumania: Thay đổi Chế độ sang Nền dân chủ bảo trợ.................................. 198

Kazakhstan: Thay đổi Chế độ sang Nền Chuyên quyền Bảo trợ.................. 201

Trung Quốc: Thay đổi Mô hình sang Chế độ Độc tài Khai thác Thị trường 206

Cộng hòa Czech: Quay lại theo hướng Nền dân chủ bảo trợ........................ 209

Ba Lan: Quay lại theo hướng Nền chuyên quyền bảo thủ............................. 213

Hungary: Quay lại Nền Chuyên quyền Bảo trợ từ Nền Dân chủ Tự do ……217

Nga: Quay lại Nền Chuyên quyền Bảo trợ từ sự Vô Chính phủ Tài phiệt… 222

Ukraina: Các Chu kỳ Chế độ với các Cách mạng Màu................................. 227

Bắc Macedonia: Chu kỳ Chế độ với Xung đột Bên trong-Elite............... 231

Moldova: Các Chu kỳ Chế độ với sự Can thiệp Nước ngoài......................... 234

Gruzia: Một Cố gắng để phá vỡ Chu kỳ chế độ.............................................. 239

Ghi chú................................................................................................................... 243

Về các Tác giả........................................................................................................ 252

LỜI GIỚI THIỆU

Bạn đọc cầm trên tay cuốn thứ 72 của tủ sách SOS2,* cuốn Một tóm tắt cô đọng về CÁC CHẾ ĐỘ HẬU-CỘNG SẢN (A Concise Field Guide to POST-COMMUNIST REGIMES) của Magyar Bálint và Maldovics Bálint (Nhà xuất bản Đại học Trung Âu 2022). Đây là cuốn tóm tắt cô đọng của cuốn Giải phẫu các Chế độ Hậu-Cộng sản (The Anatomy of Post-Communist Regimes) dài hơn nhiều (gần 900 trang) của họ được cùng nhà xuất bản ấn hành hai năm trước, và được dành cho công chúng rộng hơn cuốn trước. Hy vọng bạn đọc sau khi đọc cuốn ngắn này sẽ có hứng để tìm đọc kiệt tác dài hơn của họ.

Sau sự sụp đổ của chế độ cộng sản cuối các năm 1980 và đầu các năm 1990, hầu hết các nước cộng sản trước kia đã trải qua sự chuyển đổi chế độ và lúc đó do ảnh hưởng của Tây phương, các nhà nghiên cứu đã nghĩ các nước này đều sẽ chuyển đổi sang các nền dân chủ (với tư duy một chiều với hai kiểu chế độ điển hình: dân chủ và độc tài cộng sản, ở hai thái cực); và tình hình thực tế trong đầu những năm 1990 có vẻ xác nhận cách tiếp cận này. Đó thời kỳ nở rộ của chuyển đổi học (transitology): ga cuối của sự chuyển đổi từ chế độ độc tài cộng sản chỉ có thể là chế độ dân chủ.

Tuy nhiên, với thời gian tình hình có vẻ phức tạp hơn nhiều: Trung Quốc, Việt Nam và vài nước xã hội chủ nghĩa trước kia đã dần dần từ bỏ nền kinh tế kế hoạch hóa và xây dựng nền kinh tế thị trường, tức là đi theo con đường tư bản chủ nghĩa, nhưng không có chuyển đổi dân chủ mà chỉ có sự thay đổi mô hình độc tài. Trong số các nước đã chuyển đổi thành công sang nền dân chủ, ở Trung-Đông Âu cũng như Liên Xô trước kia, chỉ có một vài nước bước vào sự củng cố dân chủ và vẫn là dân chủ tự do cho đến tận nay (như Estonia chẳng hạn), một số khác đã biến thành cái gì đó không dân chủ tự do cũng chẳng quay lại chế độ độc tài cộng sản, mà thường được gọi là chế độ-lai với rất nhiều tên gọi kỳ lạ (dân chủ phi-tự do, chế độ độc đoán cạnh tranh,…). Đấy là cách tiếp cận của hybridology (lai học). Cả lai học lẫn chuyển đổi học bị mắc kẹt trong hệ thống ngôn ngữ Tây phương quen thuộc nên không mang lại những sự giải thích mạch lạc, nhất quán và không thực sự phù hợp với diễn biến thực tế của các nước hậu-cộng sản.

Các tác giả đã bắt tay vào xây dựng một ngôn ngữ mới mà với nó họ có thể xây dựng một khung khổ mạch lạc, nhất quán mô tả tốt các chế độ hậu-cộng sản. Họ từ bỏ ba tiên đề ngầm định trong cách tiếp cận Tây phương (1) sự tách biệt giữa các lĩnh vực hoạt động xã hội: chính trị, kinh tế và cộng đồng; (2) vị trí (chức vụ) de jure (luật định) của các cá nhân và các định chế trùng với vị trí de facto (thực tế); và (3) nhà nước là một diễn viên theo đuổi lợi ích chung. Ba tiên đề ngầm này ít nhiều sát với các nền dân chủ tự do Tây phương, nhưng không đứng vững trong khu vực hậu-cộng sản. Trong cuốn sách này các tác giả xây dựng một ngôn ngữ mới tạo thành một khung khổ đề cập đến cả ba lĩnh vực hoạt động xã hội chứ không chỉ đến lĩnh vực chính trị; đến các vị trí luât định không trùng với các vị trí thực tế; và nhà nước có thể không theo đuổi lợi ích chung và được tóm tắt trong 120 mệnh đề (trong đó họ phân biệt các định chế chính thức (formal) với các định chế phi-chính thức (in-formal); đưa ra khái niệm gia tộc chính trị nhận con nuôi (adapted political family) có vai trò trung tâm trong hệ thống khái niệm của họ; làm rõ các khái niệm nhà tài phiệt (oligarch), nhà chính phiệt (poligarch), nhà nước bị bắt giữ (captured state) từ dưới lên và từ trên xuống, các loại nhà nước (đạo tặc, thị tộc, gia sản, săn mồi, tội phạm) để định nghĩa nhà nước mafia. Các tác giả cũng làm rõ chủ nghĩa dân túy và cho nó một định nghĩa hết sức súc tích và độc đáo “chủ nghĩa dân túy là một công cụ ý thức hệ cho chương trình chính trị của chủ nghĩa vị kỷ tập thể không bị ràng buộc về đạo đức.”

Với khung khổ khái niệm được trình bày trong 120 mệnh để các chế độ hậu-cộng sản có thể được mô tả một cách mạch lạc, rất tiện cho so sánh. Các tác giả mở rộng khung khổ hệ thống của Kornai János có hai kiểu lý tưởng chính (các chế độ dân chủ và độc tài) và một kiểu lý tưởng trung gian nền chuyên quyền (autocrcay) ở giữa, tăng gấp đôi các kiểu lý tưởng  (với ba kiểu chính mà họ gọi là kiểu cực [polar]: dân chủ tự do, độc tài cộng sảnchế độ chuyên quyền bảo trợ; và ba kiểu lý tưởng trung gian là: chế độ chuyên quyền bảo thủ, dân chủ bảo trợđộc tài cộng sản khai thác thị trường) tạo thành khung khổ tam giác của họ như được minh họa trong hình dước đây (Hình 6 trong văn bản, chúng tôi dùng các màu sơ cấp xanh, đỏ và vàng để mã hóa chế độ dân chủ tự do, chế độ độc tài cộng sản và chế độ chuyên quyền bảo trợ, và các chế độ trung gian: chuyên quyền bảo thủ với màu tím (xanh +đỏ), dân chủ bảo trợ với màu xanh chanh, và chế độ độc tài khai thác thị trường với màu cam (đỏ+ vàng). Cạnh ngang trên cùng của tam giác (khi bỏ các tính từ, chúng ta thấy đó chính là khung khổ hệ thống của Kornai với các chế độ dân chủ, chuyên quyền và độc tài). Màu tương ứng là sự pha trộn của xanh và đỏ với các tỷ lệ khác nhau. Các tác giả lưu ý một ẩn dụ giúp chúng ta có thể hình dung khung khổ của họ với ba chế độ cực (tại các đỉnh của tam giác với ba màu sơ cấp xanh (Blue) đỏ (Red) và vàng (Yellow) mà tất cả các màu con người có thể thấy với sự kết hợp của chúng. Mỗi điểm bên trong tam giác sẽ có màu khác nhau theo tỷ lệ B, R, Y (tỷ lệ với độ gần của nó đến ba đỉnh B, R, Y.) Với ẩn dụ này chúng ta có thể dễ thấy vì sao khung khổ mới phong phú hơn rất nhiều so với các khung khổ cũ (trắng-đen, hai cực, hay khung khổ lai với chỉ phổ màu của cạnh trên cùng của tam giác.

 Các chế độ trung gian với các màu thứ cấp (tím, xanh chanh, và cam cho các chế độ chuyên quyền bảo thủ, dân chủ bảo trợ và độc tài khái thác thị trường) là các màu được pha trộn với tỷ lệ ngang nhau của hai màu sơ cấp tương ứng. Đáng tiếc chúng ta không thấy vị trí của Việt Nam trong hình trên.

Các tác giả chứng minh khá chặt chẽ rằng các kiểu chế độ lý tưởng này là ổn định và những thay đổi cấu trúc bên trong và ảnh hưởng bên ngoài có thể dẫn tới sự chuyển đổi chế độ (tức là sự chuyển đổi vị trí của nước đó từ lân cận của một trong 6 kiểu lý tưởng sang lân cận của một kiểu lý tưởng khác). Họ cũng phân biệt chuyển đổi chế độ với các chu kỳ chế độ được xác định bởi lịch sử, các nét đặc thù quốc gia, (tức là những thay đổi vị trí của một nước xung quanh vị trí mà nó chiếm gần một trong 6 chế độ lý tưởng, tức là không có sự thay đổi chế độ).

Các tác giả có đề cập đến việc có thể mở rộng khuôn khổ của họ (Mệnh đề 116) cho các vùng khác, nhưng tôi nghĩ cũng có thể mở rộng theo hướng nhân đôi khuôn khổ của Kornai (cạnh trên cùng của tam giác trên để có 6 chế độ lý tưởng hãy gọi tên như Kornai đã gọi Dân chủ (Xanh [Lam]), Chuyên Quyền (Tím), và Độc tài (Đỏ); và những kiểu lý tưởng mới Dân chủ Lục, Chuyên quyền (Vàng), và Độc tài (Cam) bằng cách chỉ sửa và bớt các điều kiện để khung khổ mở rộng có thể mô tả cả các nước không phải hậu-cộng sản để xem xét các sự thay đổi (hay mưu toan thay đổi chế độ dân chủ sang độc tài, v.v). Tất nhiên, việc này nghe có vẻ ngược với tinh thần của các tác giả, nhưng khả năng “chỉnh” những khái niệm là có thể và đây chỉ là gợi ý chủ quan của tôi, nhưng nếu làm được sẽ có thể có ý nghĩa và đó là công việc dài hơi, tốn nhiều công sức của các nhà nghiên cứu.

Tại mỗi thời điểm (hay thời kỳ) vị trí của một nước cho trước được xác định bởi 11 chiều: (1) chủ nghĩa bảo trợ của elite cai trị; (2) đảng cai trị; (3) tính chính thức-phi chính thức của các định chế; (4) cơ chế kinh tế chi phối;  (5) tham nhũng; (6) ý thức hệ (xem các chiều từ 1-6 tại Mệnh đề 117, Hình 19-24) ; (7) chức năng của đảng cầm quyền; (8) bản chất từ hạn chế đến toàn trị của elite chính trị; (9) tính đa nguyên của mạng lưới quyền lực/tính chính danh; (10) sự tự trị của xã hội dân sự; và (11) kiểu chế độ lai (các chiều từ 7-11 không được trình bày rõ trong Mệnh đề 117 nhưng bạn đọc có thể tham khảo trong cuốn Anatomy của các tác giả (chương 7, nhất là 7.2.2 tr. 627-634). Mỗi chiều chia tam giác của nước đó thành ba phần khác nhau (trừ chiều 9 chia tam giác thành 2 phần và chiều 11 chia tam giác thành 5 phần). Tại mỗi thời điểm vị trí của một nước hậu-cộng sản do 11 phần của 11 tam giác ứng với 11 chiều nói trên cùng xác định một cách nhất quán. Theo thời gian, các điểm này tạo thành quỹ đạo chế độ  của nước đó trên tam giác (với tham số thời gian cho mỗi điểm). Trong phần thứ hai của cuốn sách này các tác giả trình bày quỹ đạo (gồm các thay đổi chế độ và các chu kỳ chế độ) của 12 nước hậu cộng sản, thí dụ của Trung Quốc như hình dưới đây (Hình 29, có thêm phần phỏng đoán của chúng tôi về quỹ đạo chế độ của Việt Nam 1975-2025).

Trong số 12 nước hậu-cộng sản được thảo luận trong cuốn sách này không có Việt Nam. Tuy vậy, rõ ràng Việt Nam hiện nay trong chế độ “độc tài khai thác thị trường” như Trung Quốc. Hình trên sao lại quỹ đạo của Trung Quốc (Hình 29), từ 1949-2012, và chúng tôi đặt quỹ đạo phỏng đoán của Việt Nam (1975-2024) như một minh họa giợi ý để nghiên cứu kỹ hơn. Giai đoạn 1975-1986 rõ ràng Việt Nam vẫn ở góc độc tài cộng sản trên tam giác (sở dĩ vị trí của Việt Nam nằm ở bên trái hơn vì ảnh hưởng của miền Nam nơi đã có một nền dân chủ sơ khai trước 1975 và từ 1976-1986 cả nước đã rất gần với chế độ lý tưởng độc tài cộng sản; từ 1986 Việt Nam từ từ chuyển sang mô hình độc tài khai thác thị trường, sự thay đổi từ 2005-2011 theo hướng đó rất rõ rệt, nhưng giống Tập Cận Bình ở Trung Quốc, ông Nguyễn Phú Trọng đã chuyển theo hướng cứng rắn hơn cho đến khi ông chết 2024. Từ khi ông Tô Lâm lên làm tổng bí thư ĐCSVN đã có những sự thay đổi lớn trong hơn nửa năm qua, nhưng còn chưa rõ sẽ đi theo hướng nào. Chắc chắn sẽ không tiếp tục con đường của ông Trọng. Năm khả năng còn lại đều có thể: 1) ở nguyên trong chế độ độc tài khai thác thị trường; chuyển đổi chế độ sang: 2) chuyên quyền bảo thủ; 3) dân chủ tự do; 4) dân chủ bảo trợ; và 5) chuyên quyền bảo trợ và nhà nước mafia. Tất nhiên, khả năng 2), 4) và 3) sẽ tốt hơn bây giờ (tốt nhất là khả năng 3) nếu chúng ta đọc cuốn sách Từ Phát triển đến Dân chủ của Dan Slater và Joseph Wong) cho thấy có khả năng đó nhìn từ một cách tiếp cận khác. Khả năng 1) và 5) là rất xấu nhưng là dễ cho bộ máy hiện hành. Mọi thứ đều có thể và tương lai là sự lựa chọn của chính chúng ta trong đó có các nhà lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam (và họ phải chịu trách nhiệm trước lịch sử về các chính sách của họ. Tất nhiên chúng ta cũng thế.)

Khi dịch cuốn này, tôi dựa vào bản tiếng Anh là chính, có tham khảo bản tiếng Hungari và thấy các tác giả có thêm nhiều đoạn, và đôi khi tôi có thêm một vài câu của bản tiếng Hungari vào bản dịch này.

Tôi chân thành giới thiệu cuốn sách rất quan trọng này của Magyar Bálint và Maldovics Bálint cho tất cả các bạn đọc Việt Nam, nhất là học sinh, sinh viên, các nhà báo, các doanh nhân, các nhà nghiên cứu chính sách, các chính trị gia nhất là các đảng viên của ĐCSVN để hiểu chúng ta đang ở đâu và nên hành động theo hướng tốt nhất cho dân tộc và đất nước.

                                                                                                                   Hà Nội 9-6-2025

                                                                                                                   Nguyễn Quang A  

 

* Những cuốn trước của tủ sách SOS2:

  1. Kornai János, Con đường dẫn tới nền kinh tế thị trường, Hội Tin học Việt Nam 2001, Nhà Xuất Bản Văn hóa Thông tin 2002.
  2. Kornai János, Hệ thống xã hội chủ nghĩa, Nhà Xuất Bản Văn hóa Thông tin 2002.

……….

  1. Daron Accemoglu, James A Robinson, Vì sao các Quốc gia Thất bại, 2012 (NXB trẻ có bản dịch khác được xuất bản 2013)

…….

  1. Timothy Snyder, Chống Chuyên chế (On Tyranny), NXB Dân Khí, 2017

…….

  1. Triệu Tử Dương, Tù nhân bí mật của Nhà nước – Nhật ký bí mật của Triệu Tử dương, NXB Dân Khí, 2019
  2. Gabriel Zucman, Của cải Giấu giếm của các Quốc gia, NXB Dân Khí, 2019
  3. Emmanuel Saez và Gabriel Zucman, Chiến thắng của sự Bất công:

………

  1. Amartya Sen, Quê Nhà trong Thế giới, NXB Dân Khí, 2021
  2. Desmond Shum, Roulete Đỏ, NXB Dân Khí, 2021
  3. Katherine M. Gehl và Michael E. Porter, Ngành Chính trị, NXB Dân Khí, 2021
  4. Ronald Inglehart và Christian Welzel, Hiện đại hóa, sự Thay đổi Văn hóa và Dân chủ, NXB Dân Khí, 2022
  5. Ronald Inglehart, Sự Tiến hóa Văn hóa, NXB Dân Khí, 2022
  6. Blanko Milanovic, Bất bình đẳng Toàn cầu, NXB Dân Khí, 2022
  7. Blanko Milanovic, Chủ nghĩa tư bản, Một mình, NXB Dân Khí, 2022
  8. Julia Cagé, Cứu Media, NXB Dân Khí, 2022
  9. Moisés Naím, Sự Trả thù của Quyền lực, NXB Dân Khí, 2022
  10. David Van Reybrouck, Chống Bầu cử - Biện hộ cho Dân chủ, NXB Dân Khí, 2022
  11. John Gastil và Eric Olin Wright biên tập, Cơ quan Lập pháp bằng rút Thăm, NXB Dân Khí, 2023
  12. Timothy Snyder, Đường tới không-Tự do, NXB Dân Khí, 2023
  13. Yves Sintomer, Chính phủ Tình cờ, NXB Dân Khí, 2023
  14. Daron Accemoglu và Simon Johnson, Quyền lực và Tiến bộ, NXB Dân Khí, 2024
  15. Jason Hannan, Trolling bản thân chúng ta đến chết, NXB Dân Khí, 2024
  16. David Daokui Li, Thế giới quan của Trung Quốc, NXB Dân Khí, 2024
  17. Fareed Zakaria, Thời đại cách mạng, NXB Dân Khí, 2024
  18. Dan Slater và Joseph Wong, Từ Phát triển đến Dân chủ, NXB Dân Khí, 2024
  19. Timothy Snyder, Về Tự do, NXB Dân Khí, 202

LỜI NÓI ĐẦU

Một paradigm mới để hiểu các chế độ hậu-cộng sản

Ngày 24 tháng Hai 2022, Ukraina bị Nga xâm lấn. Sự xâm lược quân sự do Vladimir Putin gây ra đã mang lại cái chết, sự phá hủy, và sự di tản của hàng trăm ngàn người từ các vùng bị chiến tranh tàn phá—kể cả bản thân tôi, nhà và đại học của tôi ở Kharkiv bị san bằng. Sự xâm lược Nga không chỉ phá hủy trật tự quốc tế mà cũng buộc chúng ta tìm một câu trả lời mới cho câu hỏi: Làm sao chúng ta có thể giải thích bản chất của các chế độ hậu-cộng sản như nước Nga của Putin? Những công cụ khái niệm cho việc giải thích hành vi của chúng là gì?

Sự thiếu hiểu biết, đặc biệt sự bất lực để thấy bản chất thật sự của chế độ Putin, đã đóng góp cho sự leo thang của các sự kiện dẫn đến điểm này. Trong khoa học chính trị dòng chính, chế độ được mô tả bằng một hệ thống các phạm trù có gốc rễ chủ yếu ở phương Tây, như ‘nền dân chủ phi-tự do’ hay ‘các chế độ lai’. Các phạm trù như vậy là không xác đáng để hiểu bản chất của các diễn viên và các định chế hậu-cộng sản, các động cơ, và các phương thức hoạt động của chúng. Sự thiếu ngôn ngữ thích hợp dẫn đến sự hiểu thiếu sót, và sự hiểu thiếu sót dẫn đến những quan niệm sai lầm về hành động và kế hoạch của những người như Putin. Những sự kiện bi thảm ở Ukraina phải buộc các nhà quan sát Tây phương để tìm kiếm một ngôn ngữ, các từ, và các khái niệm đích thực có thể giải thích thế giớ hậu-cộng sản, các tính đăc thù, và các xu hướng của nó.

Khung khổ khái niệm do Magyar Bálint và Madlovics Bálint phác họa, được trình bày ở đây trong 120 mệnh đề ngắn, cung cấp đúng một ngôn ngữ như vậy. Lý thuyết chế độ hậu-cộng sản của họ cung cấp một quan điểm mới và độc đáo về việc giải thích bản chất của động học hậu-cộng sản. Chúng ta đang nói về một paradigm (mẫu hình, hệ hình) mới cho việc giải thích các chế độ hậu-cộng sản, mà xem xét vai trò của các định chế chính thức (formal) và phi-chính thức (in-formal). Sự thiếu sót đáng kể của các khái niệm trước để phân tích các chế độ hậu-cộng sản là chúng dùng ngôn ngữ khái niệm được phát triển để phân tích sự chuyển đổi cổ điển từ chủ nghĩa độc đoán sang dân chủ

từ quan điểm về các định chế chính thức đang biến đổi. Tuy vậy, thế giớ hậu-cộng sản không thể được hiểu qua ngôn ngữ của các chuẩn mực pháp lý và hiến định chính thức, các hành động hợp pháp-duy lý, và ngôn ngữ của tính duy lý quan liêu. Ngôn ngữ này đề cập chỉ đến phần có thể thấy của thực tế chính trị, mà không thể nắm bắt được bản chất và các động cơ thật của các hành động của các nhà lãnh đạo hậu-cộng sản. Thực ra, cái là một sự lệch lạc từ quan điểm của dòng chính cổ điển lại là nguyên tắc hoạt động chính của các hệ thống này.

Cuốn sách ngắn gọn này của Magyar và Madlovics đề xuất một một ngôn ngữ mới cho việc mô tả các chế độ hậu-cộng sản, ngôn ngữ tích hợp các định chế phi-chính thức và làm cho có thể để xem xét việc chúng là nguyên tắc hoạt động cơ bản chủ yếu của các hệ thống hậu-cộng sản như thế nào, ở đâu và vì sao. Giả thuyết cơ bản của các tác giả là, quỹ đạo chính trị hậu-cộng sản sau sự sụp đổ của chủ nghĩa cộng sản dẫn đến các hệ thống cai trị ‘bảo trợ (patronal) phi-chính thức’, và chẳng hề đến sự thiết lập nền dân chủ tự do luật định-duy lý kiểu Tây phương. Cách tiếp cận này là giai đoạn thứ ba trong sự tiến hóa của các paradigm cho việc hiểu các chế độ hậu-cộng sản, tiếp sau chuyển đổi học (transitology) của các năm 1990 (khi sự chuyển đổi từ độc tài cộng sản sang nền dân chủ tự do được coi là nghiễm nhiên) và ‘nghiên cứu các chế độ lai (hybridology)’ (sự kết hợp của chủ nghĩa độc đoán và nền dân chủ). Nhưng các paradigm này đã thử đặt các chế độ trên một trục dân chủ-độc tài và tập trung chủ yếu vào các định chế chính trị trong khi coi tất cả những thứ khác như sự can thiệp bên ngoài hay ‘hộ mệnh.’ Ngược lại, Magyar và Madlovics bắt đầu sự trình bày của họ bằng việc nghi vấn ba tiên đề cơ bản của paradigm so sánh dòng chính và phát triển một không gian khái niệm tam giác với sáu kiểu lý tưởng của các chế độ chính trị-kinh tế: ba kiểu cực (nền dân chủ tự do, chế độ độc tài cộng sản, nền chuyên quyền bảo trợ) và ba kiểu trung gian hay lai (nền dân chủ bảo trợ, chế độ độc tài khai thác thị trường, nền chuyên quyền bảo thủ). Kết thúc 120 mệnh đề, bạn đọc sẽ có được sự hiểu rõ về các kiểu này, những sự khác biệt của chúng, và quan trọng nhất hoạt động bên trong của chúng về mặt chính trị, kinh tế, và xã hội.

Cuốn sách đóng góp cho sự phát triển một ngôn ngữ mới cho sự mô tả các thực tế hậu-cộng sản. Theo họ, các chế độ hậu-cộng sản được đặc trưng bởi một sự tập trung quyền lực trong tay của một nhà bảo trợ chóp bu (chief patron), một tổng thống hay thủ tướng bảo trợ mà duy trì sự kiểm soát bằng việc phân các phần thưởng và sự trừng phạt cho các diễn viên trục lợi của một mạng lưới của một gia tộc chính trị nhận nuôi [adopted-political-family] (các nhà tài phiệt [oligarch] và các nhà chính phiệt [poligarch], các nam tước vùng và các elite trung thành, họ hàng và những kẻ bù nhìn). Mối liên hệ giữa trung tâm, tức là, triều đình của nhà bảo trợ sự tham gia chính trị được thực hiên qua việc gia nhập mạng lưới bảo trợ một kim tự tháp duy nhất, các sắp xếp nghiệp đoàn chủ nghĩa

khác nhau, đảng dây curoa (transmission-belt party) chính thức. Gia tộc chính trị nhận con nuôi giữ vị trí then chốt trong chính thể và kiểm soát các ngành sinh lời của nền kinh tế quốc gia. Yếu tố trung tâm của mạng lưới này là một hệ thống quan hệ cá nhân, tập trung vào nhà bảo trợ chóp bu và dựa chủ yếu vào sự thống nhất vùng hay “bè đảng”, cũng như vào các (nhóm) lợi ích trục lợi (rent-seeking) hiện hành. Nhà cai trị, nhà bảo trợ chóp bu không cai quản nhưng sắp đặt tài sản mọi người: họ hoàn toàn chi phối và kiểm soát elite chính trị, hành chính, và kinh tế xung quanh họ.

Cách tiếp cận này là rất sát với diễn giải neopatrimonial, tân di (gia) sản chủ nghĩa, của tôi về sự phát triển hậu cộng sản. Dòng chính của những nghiên dân chủ hóa phần lớn đã bỏ qua vai trò của lý luận di sản của Max Weber, nhất là magnum opus (kiệt tác) của ông Economy and Society (Nền kinh tế và Xã hội), cho việc hiểu các quá trình hậu-cộng sản. Max Weber đã dùng rộng rãi khái niệm về ‘chủ nghĩa gia (di) sản-patrimonialism,’ mà ông đối sánh với cả các hình thức phong kiến và quan liêu luật định-duy lý của chính phủ. Đặc điểm chính của chủ nghĩa di sản là sự tước đoạt tư nhân của một lĩnh vực chính phủ bởi những người nắm quyền lực chính trị, và cả tính không thể phân chia của các lĩnh vực công và tư của xã hội. Điều này là thiết yếu cho việc hiểu cả chính trị hậu-cộng sản và động học chế độ: chính trị hậu-cộng sản không phải là một cuộc đấu tranh của các lựa chọn chính trị thay thế trong khung cảnh của sự tranh đua nghị viện, mà là một cuộc đấu tranh của các phái khác nhau của các doanh nhân trục lợi để độc quyền hóa các mảng chính của các mạng lưới patron -client (nhà bảo trợ-người được bảo trợ).

Magyar và Madlovics hiểu khái niệm chủ nghĩa gia sản và kết hợp nó vào khung khổ của họ như một trong bốn chiều của nền chuyên quyền bảo trợ. Việc kết hợp khái niệm chính trị (neopatrimonial state-nhà nước tân gia sản) với một khái niệm xã hội học (clan state-nhà nước thị tộc, bè đảng), một khái niệm chính trị kinh tế học (predatory state-nhà nước săn mồi), và một khái niệm pháp lý (criminal state-nhà nước tội phạm), họ đi đến định nghĩa thực thể phức tạp của mafia state (nhà nước mafia). Thuật ngữ này là một trong những thông điệp then chốt của cuốn sách, cụ thể là, các lĩnh vực chính trị, kinh tế, và cộng đồng của hoạt động xã hội là không được tách biệt trong các chế độ hậu-cộng sản, và chúng không được phân tích một cách tách biệt nếu người ta muốn hiểu phần này của thế giới.

Ngoài chủ nghĩa gia sản mới ra, paradigm được Magyar và Madlovics trình bày tìm thấy gốc rễ của nó trong ba kiểu thống trị của Weber (truyền thống, có sức lôi cuốn [charismatic], luật định-duy lý [rational-legal]), những kiểu trao đổi (thị trường, tái phân phối, có đi có lại) của Polányi Karl, cũng như công trình của Henry E. Hale về chính trị bảo trợ hậu-Soviet. Hale đã viết một trong những lời giới thiệu cho cuốn sách trước của các tác giả, Giải phẫu các Chế độ Hậu-cộng sản (The Anatomy of Post-Communist Regimes; CEU Press, 2020), mà cuốn sách hiện thời là một bạn đồng hành cô đọng. Tại đó, Hale đã viết: “Cuốn sách tham vọng này cung cấp không chỉ một từ vựng tốt hơn, mà toàn bộ một ngữ pháp mới cho việc mô tả những chế độ chính trị đã xuất hiện trong sự thức canh cái chết của chủ nghĩa cộng sản.” Masha Gessen, nhà báo của tờ New Yorker, tuyên bố: “Việc đọc cuốn sách này cảm giác như màn che đã mở ra, để cho ánh sáng rực rỡ ập vào.” Và Iván Szelényi, Giáo sư Emeritus của Đại học Yale và một nhân vật trí tuệ quan trọng về khối phương Đông, đã viết: “Cuốn sách này hay hơn và quan trọng hơn bất cứ thứ gì tôi đã làm trong 30 năm qua.” Những lời tôn vinh áp dụng cho cuốn sách này cũng nhiều vậy—nếu không hơn thế, vì nó ngắn hơn và có lẽ dễ tiếp cận hơn cho các bạn đọc ngày nay.

Trong khi The Anatomy of Post-Communist Regimes là một đột phá trong những nghiên cứu hậu-cộng sản, Concise Field Guide mang lại những sự đổi mới đó cho một công chúng rộng hơn. Sự trình bày lý thuyết hết sức có cấu trúc về 120 mệnh đề đi cùng với 12 nghiên cứu quốc gia ngắn trong nửa thứ hai của cuốn sách. Những nghiên cứu này không chỉ làm sáng tỏ sự mô tả của họ về sự phát triển 30 năm qua của Ukraina, Nga, Ba Lan, Hungary, và các nước khác, mà chúng cũng minh họa ngôn ngữ thích hợp có thể dẫn đến những phân tích sâu sắc thế nào. Đấy là cái khiến cho cuốn sách này hết sức quan trọng giữa những khó khăn của thế giới ngày nay.

Oleksandr Fisun Bộ môn khoa học chính trị, Đại học Quốc gia V.N. Karazin Kharkiv, Ukraina

Hướng dẫn người dùng cuốn sách

Cuốn sách này là một tóm tắt súc tích của những đóng góp lý thuyết chính được trình bày trong cuốn sách trước của các tác giả, The Anatomy of Post-Communist Regimes:A Conceptual FrameworkGiải phẫu các Chế độ hậu-Cộng sản: Một khung khổ Khái niệm (Budapest–New York: CEU Press, 2020). Trong khi Anatomy là một cuốn sách dày, hơn 800-trang với hơn 2.000 ghi chú và 50 trang tài liệu tham khảo, cuốn sách ngắn này nhắm mục tiêu trở thành một bộ công cụ khái niệm dễ dùng cho sự phân tích các diễn viên, các định chế, và các động lực của các nền dân chủ, các chế độ chuyên quyền, và các chế độ độc tài hậu-cộng sản.

Cuốn sách được chia thành hai phần. Phần thứ nhất gồm 120 mệnh đề, tóm tắt khung khổ khái niệm, các khái niệm và các loại hình học (typology) chính của nó. Phần này chứa chỉ các tham chiếu trong-văn bản đến các cuốn sách và các bài báo, với tiêu đề, ngày xuất bản, và tên của (các) tác giả. Không ghi chú dưới trang nào được bao gồm trong phần này: một QR-code ở đầu của Ghi chú chỉ đến tài liệu tham khảo của Anatomy, chứa văn liệu được dùng để phát triển khung khổ khái niệm được trình bày này.

Các QR-code sẽ được đặt cùng với văn bản. QR-code đầu tiên, trên trang này, chỉ đến website của các tác giả, www.postcommunistregimes.com

Nhờ Knowledge Unlatched, cuốn Anatomy là truy cập-mở (open-access), và nó có thể được tải về miễn phí từ website. Website cũng chứa các tư liệu liên quan thêm, kể cả một mô hình 3D của các quỹ đạo chế độ và bản thảo của một seminar với sự trình bày PowerPoint cho mức MA (thạc sĩ) hay PhD (tiến sĩ). Các QR-code trong cuốn sách sẽ chỉ đến hoặc một bài trình bày của, hay mô hình 3D. 

Khung khổ lý thuyết gồm các kiểu lý tưởng (ideal type), theo khuôn đúc của Max Weber. Trong khi những ví dụ kinh nghiệm sẽ được cung cấp để định hướng bạn đọc, điểm quan trọng là các khái niệm trong cuốn sách này được dùng như các điểm tham chiếu. Chúng là các mô hình: những sự mô tả “thuần khiết,” không tưởng của các diễn viên, các định chế, và các động lực, mà có thể được dùng để mô tả các đối tác thế giới thực của chúng về mặt phù hợp và sai lệch. Ví dụ, chúng tôi sẽ liên kết Estonia với “nền dân chủ tự do,” còn Nga và Hungary với “nền chuyên quyền bảo trợ.” Điều này không có nghĩa các nước này luôn luôn hoạt động phù hợp với các kiểu lý tưởng của chúng, hoặc rằng các hoạt động của chúng phù hợp với mô hình mà không có ngoại lệ nào.

Nhưng việc dùng một kiểu lý tưởng cho chúng muốn để nhấn mạnh logic chi phối và các hình thức tổ chức chính trị, kinh tế, và xã hội trong các nước này. Quả thực, các khái niệm trong cuốn sách này được tạo ra, không phải bằng việc tính đến mọi đặc tính của các hiện tượng thế giới thực, chúng tôi chỉ nêu vài đặc tính phân biệt, được sắp xếp trong hình thức thuần khiết và lý tưởng— như Weber viết—thành một cấu trúc (khái niệm) giải tích thống nhất.

Cuốn sách này cung cấp, không đơn thuần các khái niệm cho việc hiểu hậu-chủ nghĩa cộng sản, mà các khía cạnh của sự phân tích. Mỗi loại hình học trong cuốn sách nên được xem như những cố gắng để tìm, giữa những kiểu khác nhau, các đường phân cách xác đáng mà bản thân chúng cũng là quan trọng cho sự phân tích so sánh như các kiểu. Tầm quan trọng của các khái niệm giải tích rõ ràng được làm nổi bật trong cuốn sách bằng số lớn của các bảng và các hình, mỗi trong số chúng chứa các khái niệm chính và các khía cạnh giải tích phân biệt chúng.

Phần thứ hai của cuốn sách là một sự áp dụng khung khổ khái niệm, với mười hai quỹ đạo được mô hình hóa của mười hai nước hậu-cộng sản. Các quỹ đạo này được phác họa một cách tổng quát; chúng tôi giải thích chúng được xây dựng thế nào trong “các nghiên cứu quốc gia” ngắn, nhưng các nghiên cứu này không nên được xem như những nghiên cứu tình huống, chỉ như những bản phác thảo minh họa. Chúng được làm cho mục đích định hướng và minh họa, để cho bạn đọc thấy khung khổ giải tích có thể được dùng thế nào để mô tả những sự phát triển hậu-cộng sản trong ba mươi năm qua. Một mô tả chính xác, định lượng của các quỹ đạo có thể tìm thấy trên website (Supplementary Material / Appendix—Tư liệu Bổ sung/Phụ lục) của cuốn sách.

I.

Khung khổ

khái niệm: 120 Mệnh đề

Bị bẫy trong Ngôn ngữ của nền Dân chủ Tự do

1. SAU SỰ SỤP ĐỔ CỦA ĐẾ CHẾ SOVIET, một ảo tưởng thịnh hành là các chế độ độc tài cộng sản sẽ nhất thiết được các nền dân chủ tự do kiểu-Tây phương thay thế. Kết luận hiển nhiên từ sự tan rã của trật tự thế giới hai cực của Chiến tranh Lạnh là các nước liên kết với cực sụp đổ—Liên Xô và chế độ độc tài cộng sản—không có lựa chọn khác nào trừ để đi sang cực thắng cuộc—Hoa Kỳ và nền dân chủ tự do. Nền dân chủ vẫn là “trò chơi duy nhất trong thị trấn,” mà cũng trùng với một lập trường tự do, chuẩn tắc: động lực đạo đức cho sự mở rộng phổ quát của các quyền con người, và một sự ức chế đạo đức với việc tính toán đầy đủ bối cảnh lịch sử và văn hóa của các xã hội hậu-cộng sản.

Như một kết quả, đã có một sự đồng thuận rằng các nước hậu-cộng sản là phần của một quá trình phát triển tiến bộ tuyến tính theo hướng dân chủ tự do, và những sự lệch lạc ad hoc khỏi các tiêu chuẩn dân chủ ban đầu có vẻ là “những vấn đề mọc răng” hơn là các tính cách “người lớn” của các chế độ. Văn liệu khoa học chính trị của các năm 1990 bị chi phối bởi các nhánh khác nhau của chuyển đổi học (transitology): môn học về các nước chuyển đổi đi con đường tới nền dân chủ tự do thế nào, và chúng đối phó ra sao với những khó khăn chúng đối mặt trên con đường đó. Các chế độ hậu-cộng sản được coi như các hệ thống quá độ, hơn là các ga cuối.

2. KỂ TỪ SỰ CHUYỂN GIAO THIÊN NIÊN KỶ, các nước hậu-cộng sản được coi như “các chế độ lai” ở đâu đó giữa nền dân chủ và chế độ độc tài. Cuối cùng được nhận ra rằng các chế độ “không độc tài cũng chẳng dân chủ” mà đã nổi lên sau khi thay đổi chế độ không nhất thiết tiến hóa tới lý tưởng Tây phương. Đây là thời điểm khi, trong văn liệu khoa học chính trị, chuyển đổi học bị “lai học (hybridology)” thay thế: khi được thừa nhận rằng những yếu tố thể chế của các chế độ mới có khả năng tạo thành các hệ thống sui generis (riêng biệt), ổn định. Các hệ thống này được diễn giải dọc theo trục dân chủ-độc tài, nơi giữa hai kiểu cực—nền dân chủ tự do kiểu-Tây phương và chế độ độc tài toàn trị, áp bức công khai—có một “vùng xám” lâu dài được thừa nhận (Hình 1).

Các thử nghiệm ngôn ngữ mô tả của lai học đã cố gắng diễn giải các quá trình chính trị của các nhà nước hậu-cộng sản riêng lẻ như phần của vùng xám này: một mặt, nền dân chủ phi-tự do, nền dân chủ thiếu sót, nền dân chủ được quản lý, vân vân, và mặt khác các chế độ nửa-độc tài, chủ nghĩa độc đoán bầu cử, chủ nghĩa độc đoán cạnh tranh, vân vân. Các tính ngữ trong các nhãn này bày tỏ một loại nào đó của sự lệch lạc khỏi các kiểu lý tưởng của nền dân chủ và chế độ độc tài. Lai học, và khung khổ diễn giải của trục dân chủ-độc tài tạo thành paradigm so sánh dòng chính ngày nay.

Hình 1: Trục dân chủ-độc tài, với một vùng xám giữa hai cực.

 

3. LAI HỌC CHỈ THAY ĐỔI các nhãn chế độ, không phải khung khổ  chế độ. Một mặt, lai học rõ ràng là một bước tích cực từ chuyển đổi học. Lai học đã thoát khỏi một bộ giả định sai, và cho thấy rằng “các ga quá độ” quả thực có thể là các ga cuối. Nó dựa vào ý tưởng rằng các chế độ mới không phải là những gì chúng thể hiện chúng là: đằng sau một mặt tiền dân chủ, có nền chính trị phản-dân chủ. Lai học dựa vào chính sự khác biệt này, đoạn tuyệt với cách tiếp cận chuyển đổi học mà lẽ ra đã giải thích hiện tượng này như một vấn đề mọc răng của “nền chính trị chưa có văn hóa,” hay một sự lệch lạc tạm thời nảy sinh từ “các định chế chưa được phát triển.”

Mặt khác, rất nhiều nhãn mới cho chế độ như một toàn thể vẫn đi cùng với các khái niệm được phát triển để phân tích các yếu tố của các nền dân chủ tự do. Các nhà lai học nói về “các chính phủ,” “các đảng,” “các chính trị gia,” “các kiểm tra và đối trọng” và vân vân. Khi Vladimir Putin của nước Nga hay Viktor Orbán của Hungary được gọi là các chính trị gia, họ ngay lập tức được đặt vào cùng nhóm với những người như Joe Biden, Emmanuel Macron, và Angela Merkel. Trong khi họ là các loại diễn viên hoàn toàn khác, thực hiện các vị trí khác trong các chế độ của họ, và thực hiện những quyền hạn khác nhau đối với một phạm vi khác nhau của các diễn viên và các định chế.

Việc dùng bừa bãi ngôn ngữ của các nền dân chủ tự do mang lại một số giả định ngầm, hay các tiên đề mà chẳng bị nghi vấn cũng không được thực hiện chút nào. Hệt như nếu một nhà động vật học thử dùng ngôn ngữ được phát triển để mô tả cá—như “mang,” “vảy,” và “vây”—để mô tả một con voi: việc nói rằng nó không có mang và vây không nói nhiều về con voi thực chất là gì, và việc nhận ra nó như một con voi “khiếm khuyết” hay thậm chí “con cá phi-tự do” không sống dưới nước cũng chẳng có mấy ý nghĩa.

4. KHUNG KHỔ THUẬT NGỮ GÂY LẦM LẠC duy trì mãi sự hiểu lầm, thay thế sự phân tích chính xác bằng sự kể chuyện vô tận. Lai học cho rằng, trong các chế độ lai, các định chế dân chủ bị giảm xuống một vai trò mặt tiền. Nói cách khác, điều này có nghĩa rằng có cái gì đó trong hậu trường xác định động học thật sự của hệ thống chính trị. Nhưng cái gì đó này không thể được dòng chính, các phạm trù Tây phương, nắm bắt một cách thích hợp. Bên trong ngôn ngữ của nền dân chủ tự do, một học giả có thể giải thích các hiện tượng đặc thù của hậu-chủ nghĩa cộng sản chỉ qua những sự xấp xỉ gần đúng: họ phải kể cho các bạn đọc của họ “câu chuyện” về hiện tượng, tức là, khung cảnh cụ thể và tất cả các thành phần mà họ có thể dùng các thuật ngữ Tây phương chỉ với các tính từ và tiếp đầu ngữ định rõ. Chính phương pháp kể chuyện này dẫn đến sự dùng thái quá các phương pháp định tính như việc theo dõi quá trình, cố gắng thu hẹp khoảng cách giữa các giả định Tây phương và thực tế hậu-cộng sản. Và trong khi những đánh giá định tính có thể cung cấp những mô tả đích thực và các sự thấu hiểu có giá trị vào sự hoạt động của các chế độ hậu-cộng sản, những kết quả của chúng thường không thể so sánh được vì chúng không được dữ liệu so sánh, có thể diễn giải được về mặt thống kê sắp đặt. Mặt khác, sự thu thập dữ liệu định lượng cũng bị khung khổ thuật ngữ gây lầm lạc làm cho méo mó. Khi các tổ chức như Polity và Freedom House công bố cái gọi là các số đo liên tục để cho biết trạng thái và xu hướng của “tính dân chủ” của các nước trên thế giới, các tiêu chuẩn thể chế họ tập trung vào lại dựa trên thuật ngữ Tây phương. Các tiêu chuẩn này được dùng để đánh giá mức độ sai lệch khỏi nền dân chủ tự do, trên cơ sở đó mỗi nước được gán một chỗ trên trục dân chủ-độc tài. Thứ nhất, chúng ta có thể thấy ở đây mục đích luận công khai của chuyển đổi học được thay thế ra sao bởi mục đích luận che giấu của lai học. Trong khi sự tiến bộ nhất thiết tới nền dân chủ không còn được giả định nữa, các chế độ hậu-cộng sản vẫn bị đánh giá dựa vào một lý tưởng dân chủ. Việc nhận ra “sự thiếu” đặc điểm dân chủ nào đó ngụ ý một sự kỳ vọng, đưa sự thiên vị chuẩn mực vào phân tích thực chứng, mô tả. Thứ hai, việc tập trung vào một bộ định trước của các đặc điểm dân chủ che giấu các sự khác biệt cấu trúc khả dĩ của các chế độ được phân tích. Ngôn ngữ của nền dân chủ tự do cản trở sự nhận ra các đặc điểm sui generis thật, và nó cho phép sự phân tích các chế độ hậu-cộng sản chỉ giả như chúng là các chế độ Tây phương.

5. BA TIÊN ĐỀ CẦN BỊ XÓA BỎ để đặt nền móng của một khung khổ khái niệm cho sự phân tích các chế độ hậu-cộng sản. Tiên đề thứ nhất của cách tiếp cận so sánh dòng chính cho rằng sự tách biệt của các lĩnh vực hoạt động xã hội đã hoàn thành. Trong nghiên cứu “Tham nhũng Chính trị (Political Corruption)” của ông (2004), nhà xã hội học Đức Claus Offe phân biệt ba lĩnh vực hoạt động xã hội: chính trị, kinh tế, và cộng đồng. Khi lai học tập trung chỉ vào các định chế chính trị, nó ngầm giả định rằng trung tâm của một chế độ, như trong các xã hội Tây phương, là một lĩnh vực chính trị với logic riêng, tự trị của nó. Nếu sự tách biệt đã hoàn thành, logic kinh tế tách biệt khỏi logic chính trị, và nó ám chỉ đến lý do cụ thể của các doanh nhân, mà có thể hợp tác với các chính trị gia như các diễn viên tự trị qua các kênh minh bạch, được điều chỉnh, và quy chuẩn. Nếu không có các lĩnh vực kinh tế và chính trị tự trị, và các hành động và động cơ của các diễn viên chính trị không bị giới hạn trong lĩnh vực chính trị thì sao?

Tiên đề thứ hai cho rằng vị trí (chức vụ) de jure (luật định) của các cá nhân và các định chế trùng với vị trí de facto (thực tế) của  họ (của chúng). Khi lai học thừa nhận các diễn viên như Putin và Orbán là “tổng thống” và “thủ tướng,” một cách tương ứng, nó ngầm giả định rằng họ có thể được mô tả bằng các tước hiệu pháp lý của họ, hay rằng những quyền hạn họ có và chức năng họ thực hiện trong chế độ là những thứ được gán cho vị trí chính thức de jure của họ trong hiến pháp. Tương tự, các khái niệm như “doanh nhân” hay “nhà tư bản” được dùng cho các diễn viên kinh tế hậu-cộng sản ngụ ý họ có thể thực sự sử dụng vốn của họ, hay thực hiện các quyền tài sản de jure của họ một cách tự do. Nếu địa vị chính thức, pháp lý của người ta không trùng với thực tế xã hội thì sao?

Tiên đề thứ ba cho rằng nhà nước là một diễn viên theo đuổi lợi ích công. Khi lai học nói về các diễn viên “cánh-hữu” hay “cánh-tả,” nó ngầm giả định rằng họ được ý thức hệ dẫn dắt, và nhắm tới việc thực hiện một tầm nhìn xã hội, mà đến lượt có thể dẫn đến “những sai lầm” chính sách công. Đồng thời, tham nhũng cũng được đối xử như một sự lệch lạc: một kết quả của các khung khổ pháp lý sai hay thiếu sót mà bị các nhà quản lý và các diễn viên tư nhân bất lương khai thác. “Cơ hội tạo ra kẻ cắp,” chúng ta có thể nói. Nếu không phải thế thì sao: nếu kẻ cắp tạo ra cơ hội, tức là, nếu elite cai trị tổ chức sự tham nhũng, và vì thế “các sai lầm chính sách” và các hành động thối nát của “hành vi xấu” không phải là những sự lệch lạc bị chính phủ cố gắng loại bỏ mà là các đặc điểm cấu thành-hệ thống thì sao?

Xóa bỏ Tiên đề #1: Các Cấu trúc Cứng đầu và sự Phát triển của Vùng

6. KIỂU CHẾ ĐỘ PHỤ THUỘC VÀO  sự tách biệt của các lĩnh vực hoạt động xã hội như được thể hiện trong văn hóa và các tiêu chuẩn của các diễn viên trong chế độ. Mức tách biệt của các lĩnh vực có vẻ khác nhau trên mức của các diễn viên và mức của các định chế. Khi chúng ta nói về các diễn viên, sự tách biệt của các lĩnh vực có nghĩa sự hiểu phi-chính thức của các vai trò, các hành động và các động cơ của họ bị hạn chế trong các lĩnh vực nhất định. Ví dụ, trong một nền dân chủ tự do, có một sự phân biệt giữa nghĩa vụ của một chính trị gia với nhà nước và bổn phận với gia đình.

Loại tách biệt này được tăng cường trên mức các định chế: vai trò được phân chính thức của một chính trị gia là tham gia vào sự tiếp nhận và sử dụng thẩm quyền hợp pháp, trong khi các doanh nhân tiến hành sự theo đuổi các lợi ích thu được dựa vào hợp đồng bên trong khung khổ của các quy tắc pháp lý. Mối quan hệ giữa hai lĩnh vực được điều chỉnh, và các diễn viên cũng hành động với logic tách biệt của họ: chính trị gia tập trung vào quyền lực chính trị, doanh nhân tập trung vào tính sinh lời.

Tuy nhiên vẫn cần thấy rằng chế độ được bản thân các diễn viên vận hành, và các định chế của nó có thể hoạt động chỉ chừng nào chúng được tôn trọng bởi các diễn viên cần để vận hành chúng. Nếu các tiêu chuẩn của các diễn viên chủ yếu phản ánh cùng sự tách biệt như các định chế chính thức của chế độ, chế độ bền vững. Mặc khác, các diễn viên sẽ vận hành các định chế chính thức theo các tiêu chuẩn phi-chính thức của riêng họ—như thường xảy ra khi các định chế chính thức của nền dân chủ tự do được thiết lập sau khi thay đổi chế độ. Nếu chế độ thịnh hành giả định mức độ tách biệt khác với các diễn viên của nó, thì nó sẽ (a) hoặc là yếu và dễ bị thoái hóa thành một kiểu khả thi hơn hay (b) phải thiết lập các cơ chế cụ thể (hiệu quả) để tránh sự thoái hóa.

Thiếu sự tách biệt các lĩnh vực hoạt động xã hội xuất hiện trong hình thức của các cấu trúc xã hội cứng đầu nào đó, tồn tại chỉ phi-chính thức trong các nước của vùng.

7. CÁC CẤU TRÚC CỨNG ĐẦU ĐƯỢC XÁC ĐỊNH bởi quá khứ: không chỉ là di sản của chủ nghĩa cộng sản, nhưng cả văn hóa của vùng mà các nước được liên kết với sự thuộc về nền văn minh của chúng. Khi chúng ta nói về các nền văn minh, chúng ta xem xét các ranh giới được Samuel P. Huntington mô tả trong The Clash of Civilizations (Sự Đụng độ của các Nền văn minh) (1996), nhưng chúng ta hiểu thấu sự hoạt động của các nền văn minh qua lý thuyết được xét lại, hợp lệ hơn của Peter J. Katzenstein.

Trong Civilizations in World Politics (Các nền văn minh trong Thế giới Chính trị) (2010), Katzenstein giải thích rằng có nhiều nền văn minh trên thế giới, nhưng chúng cũng đa dạng về mặt nội bộ và trong sự thay đổi liên tục. Những gì vẫn thống nhất các nước của mỗi nền văn minh dưới khẩu hiệu “thống nhất trong sự đa dạng” là hai thứ: (1) các tương tác cụ thể của các elite của các nước khác nhau; và (2) bản sắc văn minh chung được dân cư chia sẻ. Cho cái trước (1), Katzenstein nêu bật vai trò của các diễn viên thuộc nền văn minh (các nhà nước, các đế chế, các liên hiệp chính trị) và những kỹ thuật họ dùng cho “sự lây lan âm thầm,” sự sao chép, và xuất khẩu; cho cái sau (2), ông cho thấy rằng những người thuộc về mỗi nền văn minh phát triển một sự diễn giải cá biệt về thực tế, mà vẽ cho họ các đường nét giữa “chúng ta” và “những người khác,” cũng như giữa hành vi “tốt” và “hành vi xấu.” Sự thuộc về nền văn minh vì thế xác định văn hóa, và nó cũng là một yếu tố xác định mạnh của chuẩn mực xã hội của sự tách biệt (hay sự thiếu tách biệt) giữa các lĩnh vực.

Áp dụng lý thuyết văn minh cho vùng của chúng ta, chúng ta có thể theo bước chân của sử gia Hungari Jenő Szűcs, nói về ba vùng được xác định về mặt lịch sử của châu Âu (“The Three Historical Regions of Europe,” 1983). Theo cách tương tự, chúng ta nói về ba vùng lịch sử của đế chế Soviet trước kia: vùng Kitô giáo phía Tây, mà đã gồm các nhà nước Baltic và Trung Âu bên ngoài Liên Xô; vùng Chính thống giáo (Orthodox) phương Đông, gồm các nước cộng hòa Soviet của châu Âu và Macedonia, Bulgaria, Serbia, Rumania, và Gruzia; và cuối cùng vùng Islamic lịch sử, gồm các nước cộng hòa Soviet trước kia ở Trung Á (Hình 2). Về mặt tách biệt các lĩnh vực hoạt động xã hội, chúng ta đi càng sâu vào các nền văn minh Orthodox và Islamic, có thể thấy càng ít sự tách biệt giữa các nhà cai trị [rulers] và các công cụ cai trị [ruled  assets] (để dùng các phạm trù của Weber). Ba vùng lịch sử đã chấp nhận hệ thống cộng sản theo những cách khác nhau, và muộn hơn, sau sự sụp đổ của nó, chúng cũng đã có tiềm năng chấp nhận khác nhau cho sự thiết lập hệ thống thể chế của nền dân chủ tự do.

Hình 2: Các nền văn minh ở Eurasia (Lục địa Âu-Á) hậu-cộng sản. (Chú giải: Đường chéo phải-sang-trái: Kitô giáo Tây phương; ngang: Chính thống giáo Đông phương; dấu chấm: Islamic; dọc: Hán; chéo trái-sang-phải: Phật giáo; xám: bên ngoài vùng hậu-cộng sản được chúng tôi xem xét.)

8. TRONG THỜI TRƯỚC-CỘNG SẢN, SỰ TÁCH BIỆT CỦA CÁC LĨNH VỰC đã theo các ranh giới văn minh. Một so sánh các xã hội phong kiến trong ba vùng lịch sử cho đến các thế kỷ thứ 19 và 20 tiết lộ rằng các nước thuộc về Kitô giáo Tây phương cho thấy một mức độ lớn hơn của sự tách biệt các lĩnh vực hoạt động xã hội so với các nhà nước phong kiến thuộc về các nền văn minh Chính thống giáo Đông phương và Islamic.

Chính thể chuyên chế đã có thể bén rễ chắc trên lãnh thổ của nước Nga đế quốc, cũng như Đế chế Trung hoa mà là lõi của nền văn minh Hán. Ngược lại, sự tôn trọng lớn hơn của sự tự trị của các nhóm xã hội nào đó (như giới quý tộc, tăng lữ, và thương gia), của chủ nghĩa cá nhân, và các cấu trúc quyền lực đa nguyên (như chủ nghĩa đa nguyên của quyền lực tâm linh và thế tục) đã là các phần cấu thành của hầu hết các xã hội của nền văn minh Kitô giáo Tây phương. Vì thế sự nổi lên của quyền lực tuyệt đối của một chúa tể duy nhất đã bị cản trở.

Mặt khác, sự thiếu tách biệt các lĩnh vực hoạt động xã hội đã xuất hiện trong hình thức được chính thức hóa trong tất cả các nhà nước phong kiến của vùng. Các cấu trúc này thể hiện trong một loạt hiện tượng liên quan lẫn nhau và ủng hộ lẫn nhau, được mô tả trên Hình 3. Ở bên trái của hình, chúng ta có thể theo chuỗi của các hiện tượng về các quan hệ cá nhân: các mạng lưới truyền thống (phong kiến), mà cho biết một phiên bản được hình thức hóa của sự thiếu tách biệt các lĩnh vực với các định chế kinh tế vẫn bị nhúng trong các cấu trúc chính trị và pháp lý phong kiến; và chủ nghĩa bảo trợ (bảo trợism), mà nhắc đến một hệ thứ bậc giống kim tự tháp với sự trao đổi bị cá nhân hóa của các phần thưởng và các trừng phạt cụ thể qua các chuỗi quen biệt thực sự (ngược với các khái niệm trừu tượng, phi-cá nhân (impersonal) như niềm tin ý thức hệ hay giai cấp kinh tế). Ở bên phải của hình, chúng ta có thể theo chuỗi của các hiện tượng thể chế: sự câu kết của quyền lực và quyền sở hữu, mà có nghĩa là sự thiếu tự trị của nền kinh tế khỏi nhà cai trị, thường dựa vào sự độc quyền của nhà cai trị về đất; và chủ nghĩa gia (di) sản (patrimonialism), mà nhắc đến sự đối xử với xã hội như một lãnh địa tư của những người nắm quyền lực chính trị.

Hình 3: Logic của các cấu trúc cơ bản của các xã hội trước-cộng sản. (Xám thẫm là nguyên nhân chính, xám vừa là các hệ quả của các quan hệ cá nhân, và xám nhạt là các hệ quả thể chế.)

9. TRONG THỜI CỘNG SẢN,  CÁC NƯỚC THUỘC CÁC NỀN VĂN MINH khác nhau bị đặt dưới “cái nắp chính trị” của chế độ độc tài. Hệ thống cộng sản mang lại một loạt hiện tượng liên quan đến nhau của riêng nó sáp nhập các lĩnh vực hoạt động xã hội, tăng cường các hình mẫu có trước của (sự thiếu) tách biệt (Hình 4). Khung khổ của ý thức hệ cộng sản toàn trị và trật tự được thiết lập đã tiêu diệt tính độc lập của ba lĩnh vực hoạt động xã hội, sở hữu tư nhân, lĩnh vực tư, và các cộng đồng tự trị, thống nhất chúng trong một hình thức quan liêu duy nhất. Các mạng lưới bảo trợ truyền thống của chủ nghĩa phong kiến bị thay thế bởi một mạng lưới bảo trợ quan liêu, nomenklatura (bảng chức danh), còn sự câu kết của quyền lực và tài sản của sự độc quyền chính thức của sở hữu nhà nước về các tư liệu sản xuất.

Các loại khác nhau của chủ nghĩa cộng sản đã phát triển trong các nền văn minh, phù hợp với Mệnh đề 6. Đáng chú ý nhất là các mô hình cải cách của chủ nghĩa cộng sản đã xuất hiện trong vùng Kitô giáo Tây phương lịch sử: mô hình Nam tư, mà trong đó hầu hết doanh nghiệp được sở hữu quốc gia bởi các tập thể nhân viên, cũng có được các quyền tự-quản trong các năm 1950; và mô hình Hungari, nơi quyền sở hữu của một số chủ sở hữu nhỏ được khoan dung và thậm chí các quyền tài sản được bảo vệ ở mức độ nào đó sau các cải cách 1968. Cả hai mô hình cải cách đã nhắm giải quyết tính cứng nhắc nảy sinh từ sự điều phối quan liêu của nền kinh tế.

Tuy vậy, hệ thống độc-đảng và nền kinh tế kế hoạch tập trung, bị nhà nước chi phối rõ ràng đã gây ra các hiện tượng xã hội giống nhau, và các nước bị đồng đều hóa ở mức độ nào đó. Về mặt sự tách biệt của các lĩnh vực hoạt động xã hội, trong khi sự thiết lập hệ thống cộng sản đã tác động đến Đông Trung Âu như một sự thụt lùi, đi xa hơn về phía Đông nó đã có nghĩa rằng quá trình tách biệt bị chặn lại và bị đóng băng.

Hình 4: Logic bên trong của các hệ thống cộng sản. (Xám đậm: nguyên nhân chính; xám vừa: các hệ quả của các quan hệ cá nhân; và xám nhạt: các hệ quả thể chế.)

10. TRONG THỜI HẬU-CỘNG SẢN, NHỮNG SỰ THAY ĐỔI CHẾ ĐỘ kéo theo sự thay đổi môi trường thể chế chính thức, nhưng không phải sự hiểu phi-chính thức của các diễn viên về sự tách biệt của các lĩnh vực hoạt động xã hội. Tính sơ đẳng hay sự thiếu tách biệt các lĩnh vực hoạt động xã hội là lý do cơ bản vì sao các chế độ hậu-cộng sản không nên được đối xử một cách tự động cứ giả như chúng là Tây phương. Quả thực, một quan điểm giải tích như vậy mang một ảo tưởng, một định đề không có quá khứ, bỏ qua lịch sử xã hội của các chế độ hậu-cộng sản và giả định rằng một hệ thống chính trị lý tưởng, kiểu Tây phương của nền dân chủ tự do có thể được nuôi dưỡng trên đống đổ nát của chủ nghĩa cộng sản. Giả thiết là, bất chấp các cấu trúc giá trị phổ biến, một công việc như vậy sẽ chỉ là vấn đề của một thời khắc lịch sử thuận lợi và ý chí chính trị. Nhưng “các mảng kiến tạo” dịch chuyển tự động của các cấu trúc giá trị được xác định về mặt lịch sử không hậu thuẫn bất kể công trình chính trị kỳ lạ nào mà người ta có thể muốn thiết lập.

Nền dân chủ tự do đã chỉ khả thi trong các nước nơi sự hiểu biết phi-chính thức của các diễn viên là để tách biệt các lĩnh vực hoạt động xã hội (Mệnh đề 6). Các lĩnh vực càng không được tách biệt bởi sự thuộc về nền văn minh (Mệnh đề 7-8) và ảnh hưởng của chế độ cộng sản lên mức của các diễn viên (Mệnh đề 9), thì các cấu trúc độc đoán và xã hội của các hệ thống trước hiện diện càng ngang bướng trong hệ thống mới. Các cấu trúc cứng đầu lấy các hình thức mới trong việc thích nghi với hệ thống thể chế của nền dân chủ: các mạng lưới phi-chính thức, trái ngược với các mạng lưới truyền thống và quan liêu; các gia tộc chính trị nhận con nuôi, mà là các hệ thứ bậc bảo trợ phi-chính thức trái ngược với chủ nghĩa bảo trợ sớm hơn liên kết với chủ nghĩa bảo trợ chính thức, phong kiến, và nomenklatura đảng; sự câu kết của quyền lực và tài sản cũng tiếp tục tồn tại một cách phi-chính thức, bất hợp pháp, lách qua khung khổ pháp lý; và sự gia sản hóa, có nghĩa là elite cai trị coi các định chế công như lãnh địa tư trong khi duy trì mặt tiền dân chủ (Hình 5).

Hình 5: Mô tả sơ đồ tác động của các cấu trúc cứng đầu. (Xám đậm: nguyên nhân chính; xám vừa: các hậu quả của các quan hệ cá nhân; xám nhạt: các hậu quả thể chế; và xám nhạt nhất: sự méo mó có tính hệ thống tiếp theo hai tuyến hậu quả.)

Sự thiếu tách biệt các lĩnh vực thể hiện rõ trong sự phổ biến của quyền-lực & sở-hữu (vlast & sobstvenost власть & собственность): không có quyền lực nào mà không có sở hữu (tài sản) và không có tài sản nào mà không có quyền lực. Khi các mạng lưới bảo trợ phi-chính thức chi phối phong cảnh chính trị, thì tham nhũng không được loại trừ hoặc được coi như một sự lệch lạc khỏi các tiêu chuẩn mà bị độc quyền hóa và được vận hành tập trung.

11. SỰ HIỆN DIỆN MẠNH CỦA CÁC CẤU TRÚC CỨNG ĐẦU xác định sự nổi lên của các chế độ bảo trợ—chứ không phải dân chủ hay chuyên quyền. Một chế độ bảo trợ có thể có “chỉ một-kim tự tháp,” mà nhắc đến một mạng lưới bảo trợ chi phối với các mạng lưới khác bị chinh phục, bị gạt sang lề hay bị loại trừ; hoặc “nhiều-kim tự tháp,” nơi nhiều mạng lưới cạnh tranh, mỗi đại diện quyền lực đại thể ngang nhau và chẳng mạng nào đủ mạnh để chi phối các mạng khác. Các chế độ bảo trợ có chỉ một-kim tự tháp, như Hungary, Nga, và Kazakhstan, có thể được coi như các chế độ chuyên quyền; trong khi các chế độ bảo trợ đa nguyên, nhiều-kim tự tháp như Bulgaria, Rumania, và Ukraina là các nền dân chủ.

Một nước di chuyển đến kiểu nào sau sự sụp đổ của chủ nghĩa cộng sản phụ thuộc vào các nhân tố khác nhau. Trên mức các định chế, hai yếu tố cản trở sự đột phá chuyên quyền: sự hiện diện của quyền lực hành pháp được phân chia và hệ thống bầu cử tỷ lệ. Ngược với cơ cấu tổng thống thuần túy, một hệ thống với quyền lực hành pháp được phân chia có thể cung cấp nhiểu khả năng thể chế hơn cho các mạng lưới cạnh tranh để kiểm soát lẫn nhau, thiết lập nhiều điều kiện dân chủ hơn khi chúng bố trí thoải mái quanh các chức vụ tổng thống và thủ tướng như các ghế then chốt của quyền lực hành pháp. Tương tự, một hệ thống bầu cử tỷ lệ thông thường có khả năng làm cho chắc chắn rằng không diễn viên chính trị duy nhất nào giành được đa số lập hiến, hay có cơ hội độc quyền để quyết định ai là nhân viên của các định chế then chốt nên đảm bảo hệ thống kiểm soát và đối trọng.

Sự phát triển dân chủ của một số nước trong vùng được ủng hộ thêm bởi các liên kết và tác dụng đòn bẩy Tây phương, chủ yếu qua sự hỗ trợ dân chủ của Hoa Kỳ, các luồng vốn nước ngoài chảy vào, và các điều kiện gia nhập EU. Sau khi gia nhập, tuy vậy, hệ thống các điều kiện của EU mất sức mạnh kỷ luật của chúng, và thậm chí trước khi gia nhập, chúng dẫn đến nền dân chủ tự do chỉ trong những nước nơi các cấu trúc cứng đầu đã không mạnh. Nơi di sản bảo trợ chi phối, sự liên kết và tác dụng đòn bẩy Tây phương đã sinh ra các kỹ thuật khác nhau để ngụy trang hơn là thực sự dân chủ hóa.

12. CẦN MỘT LOẠI HÌNH HỌC CHẾ ĐỘ MỚI cho khu vực hậu-cộng sản để đồng thời ngẫm nghĩ về trật tự của các định chế chính trị và các cấu trúc cứng đầu. Để nắm bắt hình thức của các định chế chính trị, chúng ta có thể dùng các kiểu chế độ lý tưởng cơ bản của Kornai János (“System Paradigm Revisited,” 2019): nền dân chủ, nơi chính phủ có thể bị hạ bệ qua một thủ tục yên bình và văn minh, và các định chế mà cùng nhau đảm bảo trách nhiệm giải trình được thiết lập tốt; chế độ chuyên quyền, nơi các định chế mà cùng nhau có thể đảm bảo trách nhiệm giải trình là yếu; và chế độ độc tài, nơi không có đối lập nghị viện hợp pháp (chỉ một đảng ứng cử cho các cuộc bầu cử). Như Hình 1 cho thấy, các kiểu lý tưởng này có thể được đặt trên trục dân chủ-độc tài và được dùng như các điểm tham chiếu cho sự nhận diện các chế độ cụ thể.

Để suy nhẫm vể cả các cấu trúc cứng đầu nữa, chúng ta cần mở rộng trục dân chủ-độc tài, mà có thể được làm bằng việc nhân đôi các phạm trù chế độ của Kornai. Do đó chúng ta tới một loại hình học gồm sáu kiểu chế độ lý tưởng: nền dân chủ tự do kiểu-Tây phương dựa vào quyền lực đa nguyên và sự chi phối của các định chế chính thức (ví dụ, Estonia); nền dân chủ bảo trợ dựa vào sự cạnh tranh đa nguyên nhưng của các mạng lưới patron-client (nhà bảo trợ-người được bảo trợ, ví dụ, Rumania, Ukraina); nền chuyên quyền bảo trợ, bị chi phối bởi một mạng lưới bảo trợ chỉ một-kim tự tháp mà phá vỡ chủ nghĩa đa nguyên và thể hiện quyền lực phi-chính thức không bị ràng buộc của một nhà bảo trợ chóp bu trong các lĩnh vực chính trị và kinh tế (ví dụ, Hungary, Nga); chế độ chuyên quyền bảo thủ nơi lĩnh vực chính trị được bảo trợ hóa nhưng lĩnh vực kinh tế thì không (ví dụ, Ba Lan); chế độ độc tài cộng sản mà đã sáp nhập chính trị và nền kinh tế qua mạng lưới bảo trợ quan liêu, cổ điển (ví dụ, Liên Xô trước 1989); và cuối cùng, chế độ độc tài khai thác thị trường mà duy trì hệ thống độc-đảng nhưng vận hành nền kinh tế tư nhân trong các hình thức khác nhau (ví dụ, Trung Quốc).

Với sự giúp đỡ của sáu kiểu lý tưởng, chúng ta có thể mở rộng thể liên tục dân chủ-độc tài thành một không gian khái niệm tam giác, mà các nước của khu vực có thể được đặt vào đó (Hình 6).

Hình 6: Không gian khái niệm của các chế độ, với sáu kiểu lý tưởng và mười hai ví dụ hậu-cộng sản (vào 2022).

Xóa bỏ Tiên đề #2: Tính chính thức và Tính phi-chính thức

 13. CÁC VỊ TRÍ DE JUREDE FACTO của các elite hậu-cộng sản không  trùng nhau vì chủ nghĩa bảo trợ phi-chính thức, mà cho phép họ hành động vượt ngoài lĩnh vực hoạt động xã hội chính thức của họ. Sự tách biệt của các lĩnh vực hoạt động xã hội được bảo đảm nếu các diễn viên của các lĩnh vực khác nhau tôn trọng sự tự trị của nhau. Nếu các quan hệ giữa các diễn viên vẫn tự nguyện, chẳng ai trong số họ bị lệ thuộc vào ý chí của người khác, và vì thế họ có thể theo các lý do cơ bản tách biệt của họ. Tình hình thay đổi nếu các mối quan hệ ngang được thay thế bằng các quan hệ dọc, quan hệ nhà bảo trợ-người được bảo trợ. Bảng 1 tóm tắt các chiều chủ chốt theo đó các quan hệ bảo trợ hậu-cộng sản có thể được phân biệt với các quan hệ không-bảo trợ kiểu-Tây phương.

Thứ nhất, các quan hệ bảo trợ hậu-cộng sản chủ yếu là phi-chính thức: chúng tồn tại không phải bởi vì đức hạnh của tính độc lập quan liêu, được xác định về mặt pháp lý mà bởi vì quyền lực de facto một nhà bảo trợ (patron) sắp xếp đối với và có thể dùng để bóp nặn người được bảo trợ của họ. Điều này dẫn chúng ta đến điểm thứ hai: các quan hệ không-bảo trợ gồm các quy tắc chuẩn tắc và cung cấp các lợi ích hay các trừng phạt một cách vô nhân xưng (phi-cá nhân) cho các nhóm nhất định, trong khi các nhà bảo trợ trong các quan hệ bảo trợ chọn giữa các diễn viên trên cơ sở cá nhân và tùy ý. Các phần thưởng cũng như các sự trừng phạt được đưa ra với sự cho phép riêng, cá nhân của nhà bảo trợ và bằng việc nhắm trực tiếp người hay một tổ chức được bảo trợ.

Thứ ba, các hệ thống bảo trợ đặt quyền ra quyết định vào tay của một diễn viên duy nhất, nhà bảo trợ, và vì thế sự cho phép được nắm giữ hay được cho trong các hệ thống này có tính cá nhân. Điều này trái ngược với các nền dân chủ tự do kiểu-Tây phương, mà được đặc trưng bởi sự cho phép và sự ra quyết định tập thể (tức là, các hội đồng quyết định hơn là những người cá biệt) chính xác để giữ vững tính vô nhân xưng (phi-cá nhân) và tránh việc ra quyết định tùy ý. Cuối cùng, trong các nền dân chủ tự do các tổ chức tư hay công đều phát triển qua các chuỗi thể chế, quan liêu với vài mức diễn viên được xác định một cách chính thức và với các thủ tục tương ứng.  Ngược lại,  trong các chế độ bảo trợ thì các tổ chức được đặc trưng bởi các quan hệ bảo trợ phi-chính thức phụ thuộc vào các chuỗi bảo trợ chủ nghĩa, cá nhân.

Như kết quả của chủ nghĩa bảo trợ phi-chính thức, các diễn viên mà de jure bị giới hạn trong lĩnh vực chính trị có thể hoạt động vượt ngoài các thẩm quyền chính thức của họ, và thực hiện quyền lực ở các lĩnh vực khác nơi có thể thấy những người được bảo trợ của họ. De facto, các diễn viên như vậy hoạt động như các thành viên của một mạng lưới phi-chính thức cùng tồn tại với các định chế chính thức, và họ theo các tiêu chuẩn bất thành văn và các lợi ích của mạng lưới hơn là các kỳ vọng của trật tự hiến định, chính thức.

Bảng 1: Đối sánh các quan hệ không-bảo trợ và bảo trợ.