Người phụ trách Văn Việt:

Trịnh Y Thư

Web:

vanviet.info

Blog:

vandoanviet.blogspot.com

Danh ngôn

Trong mọi cộng đồng, chúng ta cần một nhóm thiên thần gây rối.

We need, in every community, a group of angelic troublemakers.

(Bayard Rustin – trích bài phát biểu tại New York City 1963)

Trong mọi trường hợp, chắc chắn rằng sự thiếu hiểu biết, đi kèm với quyền lực, là kẻ thù tàn bạo nhất có thể có của công lý.

It is certain, in any case, that ignorance, allied with power, is the most ferocious enemy justice can have.

(James Baldwin - No Name in the Street 1972)

Các cuộc cách mạng và các cá nhân có thể bị giết hại, nhưng bạn không thể giết chết các ý tưởng.

While revolutionaries and individuals can be murdered, you cannot kill ideas.

(Thomas Sankara, một tuần trước khi bị ám sát, 1987)

Không có cảm giác nào cô đơn hơn việc bị chính đất nước mình trục xuất.

There's not a more lonely feeling than to be banished by my own country.

(Kiyo Sato – Kiyo’s Story 2009)

Ban Biên tập

Địa chỉ liên lạc:

1. Thơ

tho.vanviet.vd@gmail.com

2. Văn

vanviet.van14@gmail.com

3. Nghiên cứu Phê Bình

vanviet.ncpb@gmail.com

4. Vấn đề hôm nay

vanviet.vdhn1@gmail.com

5. Thư bạn đọc

vanviet.tbd14@gmail.com

6. Tư liệu

vanviet.tulieu@gmail.com

7. Văn học Miền Nam 54-75

vanhocmiennam5475@gmail.com

Tra cứu theo tên tác giả

Thứ Sáu, 13 tháng 6, 2025

Giữ hộ anh màu áo lụa Hà Đông!

 Phạm Hiền Mây

 

I. NGUYÊN SA – THẦN TƯỢNG THƠ CỦA HỌC SINH, SINH VIÊN MIỀN NAM CẢ TRƯỚC VÀ SAU 1975

Khoảng mười tuổi, tôi đã bắt đầu biết đọc thơ.

Thưa, đọc thơ chớ không phải là đọc chữ. Đọc chữ thì bé nào lên sáu, cũng đều biết, và bắt đầu xem truyện hình. Truyện chữ, thì còn tùy, tùy sở thích đặc biệt của trẻ. Có trẻ, chín tuổi, đã chui xuống gầm giường, đọc một mạch truyện Vòng tay học trò của Nguyễn Thị Hoàng trong vòng hai, ba ngày, như tôi, chẳng hạn.

Cũng chẳng hay ho gì chuyện ấy, là chuyện của tôi đấy mà, đọc truyện người lớn, lúc tuổi còn quá nhỏ. Đọc là đọc thôi, vớ được gì đọc nấy, chớ có hiểu gì đâu. Phụ huynh bây giờ, nên cố gắng theo sát trẻ, trong khả năng cho phép và hết sức tế nhị của mình. Trường hợp của tôi là vì, ba tôi mất sớm, má tôi cả ngày tảo tần ngoài chợ, các anh tôi để truyện trên bàn, và tôi thì, có được cái gì trên tay, là đọc tất tần tật cái ấy.

Tôi ham đọc.

Quay trở lại chuyện đọc thơ. Đọc thơ khác lắm đọc truyện, cả truyện hình lẫn truyện chữ. Đọc truyện, là ta đọc một mạch, không dừng, hoặc ít dừng. Còn thơ, thì hay dừng đột ngột lại lắm, vì bất ngờ với một chữ, một từ nào đó, hoặc không hiểu, hoặc hay quá, hay đến mức phải đột ngột dừng lại, để đắm chìm trong không gian suy tưởng và liên tưởng.

Đọc thơ, là đọc chậm, đọc nghiền ngẫm từng dòng. Đọc thơ, là đọc đi đọc lại. Những bài hay, những bài mình thích, là thuộc luôn, nằm lòng.

Tôi biết đọc thơ sớm và yêu thơ, hệt như các bạn cùng trang lứa của tôi vào những năm mười bốn, mười lăm tuổi. Khi ấy, đứa nào cũng ráng kiếm cho mình, hoặc sổ tay, hoặc quyển vở, để nắn nót ghi vào những bài thơ, những tác giả thơ mà mình thích.

Tất nhiên, trong sổ ghi chép thơ của tôi có Nguyên Sa và hai bài thần thánh: Tuổi mười baÁo lụa Hà Đông.

Nói thần thánh là vì lúc ấy, tôi và các bạn tôi, vẫn còn đương tuổi lớn, nghĩa là, chưa lớn hẳn, chưa trưởng thành. Thì loại tình yêu như hoa như mộng, thật thật ảo ảo, kín kín hở hở, vừa cảm được vừa mơ hồ, vừa gần vừa xa, vừa mới chớm vừa ngại ngùng như Tuổi mười baÁo lụa Hà Đông, là vừa vặn với tạng chúng tôi.

Bài thơ mô tả, diễn tả, nói hộ được tâm hồn của bọn học sinh chúng tôi, nên thích, nên nâng niu, quý báu!

******

II. NGUYÊN SA – DẠY HỌC VÀ LÀM THƠ

Nguyên Sa không chỉ làm thơ. Ngoài thơ, ông còn dạy học, làm chủ bút tập san và xuất bản các tác phẩm thuộc thể loại bút ký, hồi ký, truyện ngắn, tiểu thuyết, triết học, tâm lý học, luận lý học.

Trong hồi ký của mình, ông viết: Tôi mơ hồ cảm thấy, tôi không muốn trở thành một nhà thơ dấn thân. Tôi cũng mơ hồ cảm thấy, tôi không phải là một đệ tử trung thành của nghệ thuật vị nghệ thuật. Tôi là người làm thơ, thơ tình, mà vẫn xúc động trước những khổ đau của quê hương, dân tộc tôi.

Giới văn nghệ thì cho rằng, Nguyên Sa chơi rất thân với Mai Thảo, dẫu hai người là hai thái cực. Một ông thì sống với rượu, bạn bè, quán xá. Ông còn lại thì mẫu mực, nghiêm chỉnh, dạy học, làm thơ.

Đời, những trái ngược nhau, thường hay hút nhau như vậy lắm!

******

III. BÀI THƠ ÁO LỤA HÀ ĐÔNG

Nắng Sài Gòn anh đi mà chợt mát

Bởi vì em mặc áo lụa Hà Đông

Anh vẫn yêu màu áo ấy vô cùng

Thơ của anh vẫn còn nguyên lụa trắng

Anh vẫn nhớ em ngồi đây tóc ngắn

Mà mùa thu dài lắm ở chung quanh

Linh hồn anh vội vã vẽ chân dung

Bày vội vã vào trong hồn mở cửa

Gặp một bữa anh đã mừng một bữa

Gặp hai hôm thành nhị hỷ của tâm hồn

Thơ học trò anh chất lại thành non

Và đôi mắt ngất ngây thành chất rượu

Em không nói đã nghe lừng giai điệu

Em chưa nhìn mà đã rộng trời xanh

Anh đã trông lên bằng đôi mắt chung tình

Với tay trắng em vào thơ diễm tuyệt

Em chợt đến, chợt đi, anh vẫn biết

Trời chợt mưa, chợt nắng chẳng vì đâu

Nhưng sao đi mà không bảo gì nhau

Để anh gọi, tiếng thơ buồn vọng lại

Để anh giận mắt anh nhìn vụng dại

Giận thơ anh đã nói chẳng nên lời

Em đi rồi, sám hối chạy trên môi

Những ngày tháng trên vai buồn bỗng nặng

Em ở đâu, hỡi mùa thu tóc ngắn

Giữ hộ anh màu áo lụa Hà Đông

Anh vẫn yêu màu áo ấy vô cùng

Giữ hộ anh bài thơ tình lụa trắng.

******

III. 1. ANH VẪN YÊU MÀU ÁO ẤY VÔ CÙNG

Nắng Sài Gòn anh đi mà chợt mát

Bởi vì em mặc áo lụa Hà Đông

Anh vẫn yêu màu áo ấy vô cùng

Thơ của anh vẫn còn nguyên lụa trắng

Như rất đông các chàng trai những năm 50 của thế kỷ XX, theo gia đình di cư vào Nam, bỏ lại quê hương, bỏ lại xứ sở, bỏ lại ngôi nhà, bỏ lại ngôi trường cùng bạn bè thời cắp sách, bỏ lại hàng cây, bỏ lại con đường, Nguyên Sa vào Sài Gòn.

Vào Sài Gòn, đi học. Vào Sài Gòn, đi làm. Vào Sài Gòn, bắt đầu một cuộc đời mới. Và dù có mới đến đâu, thì cũng chẳng sao quên được ngoài kia, quên những quen thuộc, quên những dấu yêu, đã từng cùng anh, một thuở.

Anh đi giữa nắng Sài Gòn mà nghe đất trời vô vàn dịu mát. Vì sao ư? Vì em, vì em mặc chiếc áo dài may bằng lụa Hà Đông, thứ lụa cao sang, quý phái, nền nã, con nhà, như cha mẹ, như cậu mợ, từng dạy chúng mình, phải giữ lấy gia phong, nề nếp.

Dẫu như thời cuộc có thay đổi đến thế nào, thì: Anh vẫn yêu màu áo ấy vô cùng / Thơ của anh, vẫn còn nguyên lụa trắng.

Trắng tinh khôi nên xinh đẹp một cách hồn nhiên, ngây thơ, trinh trắng – như em vậy!

******

III. 2. LINH HỒN ANH VỘI VÃ VẼ CHÂN DUNG

Anh vẫn nhớ em ngồi đây tóc ngắn

Mà mùa thu dài lắm ở chung quanh

Linh hồn anh vội vã vẽ chân dung

Bày vội vã vào trong hồn mở cửa

Tóc em thì ngắn, nhưng mùa thu của chúng ta, mùa tình của chúng ta, dài dằng dặc, như không bao giờ dứt, như không thể nào đứt.

Anh đang ngắm em đây, em đẹp quá. Vẻ đẹp em làm chết sững tim anh. Anh phải ghi lại thôi, anh phải vẽ lại ngay thôi, chân dung em, lúc này, không thì không kịp mất. Cửa linh hồn anh mở toang, và bày ra la liệt, lỉnh kỉnh, nào là bút, nào là cọ, và anh nữa, chân tay thì líu quíu, lóng nga lóng ngóng, vụng về, trước em.

Em, một chân dung thuần khiết, đã mở toang linh hồn anh, vội vã!

******

III. 3. THƠ HỌC TRÒ ANH CHẤT LẠI THÀNH NON

Gặp một bữa anh đã mừng một bữa

Gặp hai hôm thành nhị hỷ của tâm hồn

Thơ học trò anh chất lại thành non

Và đôi mắt ngất ngây thành chất rượu

Nguyên Sa tài thơ thật. Không biết các bạn thì sao, chớ với tôi, cho vế “hai hôm” đối với vế “nhị hỷ” thì quả là Nguyên Sa quá giỏi, chớ chẳng phải chơi.

Thơ là phải như thế. Thơ, không phải là một văn bản, mà khi đọc xong rồi, bạn đọc cứ ngồi ngay người ra, nghệt người ra, vì chẳng hiểu gì.

Không hiểu nhiều, thì cũng phải hiểu sơ sơ, phải hiểu tối thiểu, rằng, tác giả, qua bài thơ, đã muốn gởi gắm điều gì đến với người đọc.

Thơ, sẽ càng trở nên thơ hơn, khi tác giả mang đến cho người yêu thơ những thi vị, những sáng tạo, những hình ảnh, những nội dung, vừa mới lạ, vừa độc đáo, lại vừa bất ngờ, như câu so sánh trong khổ thơ thứ ba này: Gặp hai hôm thành nhị hỷ của tâm hồn.

Không dùng từ so sánh, nhưng vẫn là biện pháp tu từ so sánh, thì đấy mới là tài, thì đấy mới xứng đáng để gọi là thơ: Thơ học trò anh chất lại thành non / Và đôi mắt ngất ngây thành chất rượu.

Thơ tình anh viết cho em, nay đã cao thành núi. Và đôi mắt si tình em, đôi mắt say tình em, giờ đây, đã thành hồ chứa rượu!

******

III. 4. ANH ĐÃ TRÔNG LÊN BẰNG ĐÔI MẮT CHUNG TÌNH

Em không nói đã nghe lừng giai điệu

Em chưa nhìn mà đã rộng trời xanh

Anh đã trông lên bằng đôi mắt chung tình

Với tay trắng em vào thơ diễm tuyệt

Em không nói gì, anh cũng đã nghe quanh đây vang lừng giai điệu. Em chưa nhìn anh, mà trời xanh đã lộng gió ngàn mây. Em làm tiên nhé, nàng tiên chỉ của riêng anh thôi, cho anh được rước em lên bệ cao ngồi, và độc quyền anh, quỳ xuống dưới chân, trông lên em, bằng đôi mắt chung tình nhất mực.

Em đã vào thơ anh, mà không cần mang theo gì, không cần mang thêm gì.

Em lên ngôi diễm tuyệt!

******

III. 5. NHƯNG SAO ĐI MÀ KHÔNG BẢO GÌ NHAU

Em chợt đến, chợt đi, anh vẫn biết

Trời chợt mưa, chợt nắng chẳng vì đâu

Nhưng sao đi mà không bảo gì nhau

Để anh gọi, tiếng thơ buồn vọng lại

Ai nói nhỉ: Tình mất vui khi đã vẹn câu thề/ Đời chỉ đẹp những khi còn dang dở?

À, là nhà thơ Hồ Dzếnh trong bài thơ Ngập ngừng.

Những đến đi, được mất, có không, vẫn luôn là thường tình của cuộc đời. Sống lâu, sống dài, sẽ thấm hơn ai hết những éo le, trắc trở này.

Nguyên Sa, như bao người, ông cũng biết: Trời chợt mưa, chợt nắng chẳng vì đâu. Chỉ có điều, ông lại không thể nào tưởng tượng ra được: Nhưng sao đi mà không bảo gì nhau?

Câu: Nhưng sao đi mà không bảo gì nhau, đọc lên, nghe xót xa thật các bạn nhỉ. Buồn nữa. Mới đọc, thì tưởng như là lời trách nhẹ, nhưng đọc đi đọc lại nhiều lần, mới hiểu, ông chẳng trách ai cả, không trách người tình, không trách mình, mà chỉ là tiếng khóc của trái tim: Để anh gọi, tiếng thơ buồn vọng lại.

Em đi rồi. Em đi thật rồi. Em đã rời anh thật rồi.

Em đi, thơ cũng theo em. Nên khi gọi, chỉ nghe tiếng thơ anh, từ xa tít, vọng lại, mơ hồ, mênh mang, không dấu vết!

******

III. 6. EM ĐI RỒI, SÁM HỐI CHẠY TRÊN MÔI

Để anh giận mắt anh nhìn vụng dại

Giận thơ anh đã nói chẳng nên lời

Em đi rồi, sám hối chạy trên môi

Những ngày tháng trên vai buồn bỗng nặng

Không còn dấu vết em nữa. Bặt cả tiếng em rồi.

Em đi, anh tự mình giận mình. Giận mắt anh, đôi mắt từng nhìn em si mê, sao mà vụng dại. Giận thơ anh, những vần thơ từng ngợi ca em, sao lại có những lúc, thốt chẳng nên lời.

Em đi rồi. Anh xin quỳ xuống đây mà sám hối. Sám hối với em. Sám hối với chính mình.

Sám hối vì anh đã tự gây ra lỗi với chính mình, khi biết, từ đây, những ngày tháng trên vai buồn anh, sẽ nặng!

******

III. 7. GIỮ HỘ ANH BÀI THƠ TÌNH LỤA TRẮNG

Em ở đâu, hỡi mùa thu tóc ngắn

Giữ hộ anh màu áo lụa Hà Đông

Anh vẫn yêu màu áo ấy vô cùng

Giữ hộ anh bài thơ tình lụa trắng.

Khi còn em bên, thì mùa thu, mùa tình của chúng ta, rất dài. Khi em đi rồi, anh mới biết, thì ra, mùa thu ngắn lắm, mùa tình chúng ta – ngắn lắm.

Ngày xưa, lúc yêu em, mỗi khi nhớ về em, thì hình ảnh đầu tiên, là chiếc áo lụa Hà Đông, em thường vẫn mặc. Bây giờ, em đi rồi, mỗi khi nhớ về em, anh cũng y hệt vậy, nhớ về chiếc áo lụa Hà Đông.

Bao năm rồi, và cho đến muôn ngàn năm sau, anh tin chắc chắn thế, anh cũng sẽ mãi chỉ yêu màu áo ấy, màu áo lụa Hà Đông.

Giữ hộ anh, em ơi, màu áo lụa Hà Đông.

Và giữ hộ anh, em ơi, tình yêu của anh ơi, bài thơ tình lụa trắng!

******

IV. NGUYÊN SA – LÀM THƠ HAY DỄ LẮM

Một ngày của tháng 05. 2025, tôi nhận cuộc gọi của Hoàng Nhơn, chủ nhà sách Khai Tâm. Cầm điện thoại lên, tôi nghe giọng Nhơn: Chị nói chuyện với anh Phạm Chu Sa nhé.

Trong cuộc trò chuyện, anh Phạm Chu Sa cho tôi biết, ảnh mới vừa từ Mỹ trở về. Khi về lại Việt Nam, anh có cầm theo ít quyển sách vừa in và ra mắt tại Mỹ. Anh ngỏ ý muốn tặng tôi một quyển, nên xin tôi địa chỉ.

Chuyện Làng Văn, đúng như tên của nó, nơi đây, anh kể lại những câu chuyện người thật, việc thật của giới làm văn nghệ, trong và ngoài nước, mà anh có quen biết và từng tiếp xúc.

Tôi cảm ơn anh và nói, khi nào có dịp, Mây sẽ giới thiệu về cuốn sách rất hay và thú vị này của anh.

Thời may, dịp ấy, đến vào hôm nay, khi viết về Nguyên Sa. Trong Chuyện Làng Văn, Phạm Chu Sa cũng có viết một bài về Nguyên Sa, bài có nhan đề: Nguyên Sa – Làm thơ hay dễ lắm.

Phạm Chu Sa dành đến sáu trang để kể về người thơ đặc biệt này.

******

IV. 1. NGUYÊN SA – GIÁO SƯ DẠY TRIẾT GIỎI VÀ THÀNH ĐẠT

Phạm Chu Sa cho biết, Nguyên Sa dạy Triết lớp Đệ Nhất (tương đương lớp 12 ngày nay. Tương đương đây là tương đương theo thứ tự, cấp bậc lớp học, chớ tôi không chắc, tương đương này là tương đương về kiến thức đâu nha các bạn. Đệ Nhất ngày xưa, họ giỏi đều các môn học, và chững chạc, trưởng thành lắm) tại các trường danh tiếng như Chu Văn An, Văn Lang, Nguyễn Bá Tòng, Hưng Đạo…

Thầy giáo dạy Triết, và ở biệt thự, và mở được trường Trung học Văn Học. Mới thấy, thầy giáo trước năm 1975, không bán cháo phổi, không đạp xe đạp lóc cóc, không nhếch nhác ôm bụng đói vào lớp giảng bài, với cường độ 18 tiết/ 1 tuần (chưa kể các đầu việc kiêm nhiệm), như chúng tôi, những năm 90.

******

IV. 2. NGUYÊN SA – THẬT RA, KHÔNG CÓ THƠ DỞ, CÁI GỌI LÀ THƠ DỞ KHÔNG PHẢI LÀ THƠ

Trong Chuyện Làng Văn, Phạm Chu Sa cho biết, khi trả lời phỏng vấn cho tuần báo Tuổi Ngọc, Nguyên Sa từng nói: “Làm thơ hay dễ lắm, như một đường gươm bén. Làm thơ dở mệt lắm, giống như đi cày.”

Nguyên Sa nói thêm: “Thật ra, không có thơ dở. Cái gọi là thơ dở không phải là thơ”.

B. của tôi, mười năm trước, cũng từng nói câu để đời này: “Không có thơ dở. Chỉ có thơ và không phải là thơ”.

******

IV. 3. NGUYÊN SA VÀ NGƯỜI HỌC TRÒ CŨ, NHÀ THƠ TRẦN TUẤN KIỆT

Cũng trong Chuyện Làng Văn, Phạm Chu Sa cho biết thêm, Nguyên Sa từng trong nhóm chủ trương Trình Bầy cùng với Giáo sư Nguyễn Văn Trung, LM. Thanh Lãng và nhà văn Thế Nguyên.

Năm 1966, Nguyên Sa bị động viên, sau khi ra trường. Ông chỉ ở trong quân ngũ một thời gian ngắn, rồi được biệt phái về dạy lại. Ông xuất bản tập thơ Những năm sáu mươi với nhiều bài thơ đau đáu về thời cuộc, chiến tranh và thân phận con người thời chiến.

Nguyên Sa từng có cuộc bút chiến ầm ĩ một thời với Trần Phong Giao. Ông cũng từng là thành viên ban giám khảo bộ môn thơ của Giải Tổng Thống trao tặng hàng năm.

Năm 1972, ông chấm cho nhà thơ Sa Giang - Trần Tuấn Kiệt, giải nhứt với tập thơ Niềm hoan lạc, thần linh và ngục tù. Nhưng cuối cùng thì nhà thơ Trần Dạ Từ đoạt giải nhứt năm ấy với tập thơ Thuở làm thơ yêu em.

Thơ Sa Giang Trần Tuấn Kiệt rất lạ, độc đáo, và nhiều thi vị. Tôi cũng đã từng viết về ông. Hy vọng sẽ có dịp quay trở lại với nhà thơ, làm thơ hay, nhưng cuộc đời thì lại chẳng hay chút nào. Cuộc đời Trần Tuấn Kiệt, rất vất vả và long đong.

******

IV. 4. NGUYÊN SA – VUA THƠ TÌNH ĐƯƠNG ĐẠI

Cũng trong Chuyện Làng Văn, Phạm Chu Sa cho biết, cuối năm 1974, Nguyên Sa thành lập tạp chí Nhà Văn. Ông sang Pháp vào tháng 04.1975, và ba năm sau thì sang Mỹ. Tại đây, ông chủ trương tạp chí Đời, và xuất bản Thơ Nguyên Sa 2, 3, 4, và Thơ Nguyên Sa toàn tập.

Cũng theo Phạm Chu Sa, rất nhiều nhà thơ cùng các nhà phê bình văn học, đều đồng ý cho rằng, Nguyên Sa, chính là Vua Thơ Tình Đương Đại.

******

V. GIỮ HỘ ANH MÀU ÁO LỤA HÀ ĐÔNG

Nguyên Sa, trong suốt hai mươi năm, trước khi xảy ra biến cố 1975, là một trong những nhà thơ hàng đầu thời bấy giờ. Ông viết nhiều bài thơ hay lắm: Áo lụa Hà Đông, Tuổi mười ba, Nga, Paris có gì lạ không em, Vết sâu, Màu kỷ niệm, Mai tôi đi, Tiễn đưa, Tình khúc tháng Sáu, Tháng Sáu trời mưa, Hư ảo trăng, Cần thiết

Những bài mà tôi vừa nhắc tới, đã được các nhạc sĩ danh tiếng như Phạm Duy, Anh Bằng, Phạm Đình Chương, Ngô Thụy Miên, Song Ngọc, Hoàng Thanh Tâm, Phạm Anh Dũng phổ thành nhạc. Và các ca khúc được phổ từ thơ của Nguyên Sa, đến nay, sau gần sáu mươi năm ra đời, vẫn còn đang được ưa chuộng, trong và cả ngoài nước.

Đã mấy mươi năm rồi, vậy mà khi đọc lại những dòng thơ này, tôi vẫn thấy ùa về những rung động, xao xuyến, bâng khuâng một thuở.

Những dòng thơ mà, những câu thơ mà, dầu có thêm bao năm nữa, khi đọc lại, khi nghe lại, những thiết tha, những cháy lòng, những xót xa gan ruột ấy, tôi vẫn mãi một rung động, một xao xuyến, một bâng khuâng, như thời còn thơ dại:

GIỮ HỘ ANH MÀU ÁO LỤA HÀ ĐÔNG!

Sài Gòn 12.06.2025