Người phụ trách Văn Việt:

Trịnh Y Thư

Web:

vanviet.info

Blog:

vandoanviet.blogspot.com

Danh ngôn

Trong mọi cộng đồng, chúng ta cần một nhóm thiên thần gây rối.

We need, in every community, a group of angelic troublemakers.

(Bayard Rustin – trích bài phát biểu tại New York City 1963)

Trong mọi trường hợp, chắc chắn rằng sự thiếu hiểu biết, đi kèm với quyền lực, là kẻ thù tàn bạo nhất có thể có của công lý.

It is certain, in any case, that ignorance, allied with power, is the most ferocious enemy justice can have.

(James Baldwin - No Name in the Street 1972)

Các cuộc cách mạng và các cá nhân có thể bị giết hại, nhưng bạn không thể giết chết các ý tưởng.

While revolutionaries and individuals can be murdered, you cannot kill ideas.

(Thomas Sankara, một tuần trước khi bị ám sát, 1987)

Không có cảm giác nào cô đơn hơn việc bị chính đất nước mình trục xuất.

There's not a more lonely feeling than to be banished by my own country.

(Kiyo Sato – Kiyo’s Story 2009)

Ban Biên tập

Địa chỉ liên lạc:

1. Thơ

tho.vanviet.vd@gmail.com

2. Văn

vanviet.van14@gmail.com

3. Nghiên cứu Phê Bình

vanviet.ncpb@gmail.com

4. Vấn đề hôm nay

vanviet.vdhn1@gmail.com

5. Thư bạn đọc

vanviet.tbd14@gmail.com

6. Tư liệu

vanviet.tulieu@gmail.com

7. Văn học Miền Nam 54-75

vanhocmiennam5475@gmail.com

Tra cứu theo tên tác giả

Thứ Năm, 19 tháng 6, 2025

Không khói hoàng hôn (Tập III - kỳ 13)

 Nguyễn Thị Kim Thoa

Mấy điều trao đổi cùng ông Bùi Tín và… (phần 1)

Tôi là một độc giả không thường trực của diễn đàn Talawas và một vài diễn đàn điện tử khác, chỉ trong một vài tháng mới đây – từ sau khi đã nghỉ hưu. Do vậy, mặc dầu nghe danh Bùi Tín nhiều, nhưng đọc những gì do ông viết thì ít. Và vì thế hiểu ông lại càng ít hơn.

Bài báo “Nhìn lại Cuộc cải cách ruộng đất: Những bài học nóng hổi” của tác giả Bùi Tín trên Talawas số 372 là một trong vài ba bài tôi đã đọc của ông và về ông.

Cái tên Bùi Tín và đề tài ông nêu khiến tôi chú ý nhiều hơn và đọc trước trong số các tên bài ở số báo này.

Làm công dân hạng ba trong suốt gần ba chục năm trời dưới chế độ Xã Hội Chủ Nghĩa, do vậy mà hễ nghe thấy những ai, những gì phê phán chế độ là tôi liền chú ý.

Tôi đọc bài ông hơn một lần, không phải vì vấn đề ông nêu mới mẻ và khó hiểu, mà những gì ông gởi gắm tôi chưa hề hình dung là của một người được un đúc và trải nghiệm có tên Bùi Tín.

Sinh ra, lớn lên, giao du bạn bè, học hành tại Huế, gia đình gần gũi với “Mỹ - Nguỵ” hơn với “Cọng sản”, Tết Mậu Thân lần lượt tiếp xúc với bộ đội từ Hà Nội vào, với người của Mặt trận, với lính Mỹ, lính Đại Hàn rồi lính Cọng hoà lúc họ đang hành quân, do vậy những từ, cụm từ như Cọng sản, độc tài đảng trị, tay sai Nga – Hoa, đấu tố, tam vô, cải cách ruộng đất, tòa án nhân dân, trí phú địa hào… không xa lạ gì đối với tôi. Những thông tin, những qui kết, tố cáo, kết luận và đặc biệt là những con số tác giả Bùi Tín nêu ở mục 1 (Cục diện mở đầu đến Cải cách ruộng đất), mục 2 (Đặc sản Trung Quốc) của bài báo chỉ là cụ thể hoá, bổ sung thêm những gì tôi nghe biết về chế độ Cọng sản, chứ không làm tôi ngỡ ngàng sửng sốt. Điều làm tôi ngỡ ngàng, sửng sốt và càng đọc càng khó hiểu là những dòng, những chữ ở mục 3 (Bàn tay Trung Quốc chia đôi Việt Nam). Dòng thứ 22 đến 26 trang 6 Talawas số 372 ông viết:

“Chuyện này khá dài, chỉ xin nói rất gọn để rõ do đâu mà nước ta vốn liền một dải, bỗng nhiên bị chia làm hai, hai chế độ, hai nhà nước, hai chính phủ, hai phe…, vết thương chia cắt đến nay vẫn chưa thành sẹo, sự chia cắt đã tác động sâu sắc đến cuộc sống của mỗi gia đình, mỗi con người Việt Nam trong hơn nữa thế kỷ qua”.

Bốn dòng trên và mấy dòng kế tiếp của mục 3, ông Bùi Tín đã khẳng quyết ba ý sau:

1/ Trước năm 1945 nước ta thống nhất từ Nam chí Bắc.

2/ Do Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản làm tay sai cho Trung Quốc của Mao Trạch Đông và Chu Ân Lai nên Việt Nam phải chia cắt làm đôi…

3/ Sự chia cắt này gây đau thương, tổn thất lâu dài trong đời sống của dân tộc Việt Nam.

Về tiểu tiết, và một vài khía cạnh thứ yếu, tôi thống nhất với những khẳng định của ông; nhưng trên đại thể, nhìn sâu vào bản chất của sự kiện lịch sử, tôi hoàn toàn không đồng ý với ông.

Do đâu mà tôi có sự hoàn toàn không đồng ý này?

Trước khi vào đại học Y khoa, từ các trường phổ thông, từ sách báo, từ gia đình và bạn bè… tôi có được một số kiến thức không đầy đủ và sơ đẳng về lịch sử cận hiện đại Việt Nam như thế này: Năm 1858 hạm đội Pháp –  Tây Ban Nha tấn công vào Đà Nẵng, năm 1859 mở đầu cuộc xâm chiếm ba tỉnh miền Đông Nam kỳ, Triều đình Huế và bọn xâm lược ký hòa ước ngày 5 – 6 – 1862. Hoà ước chưa ráo mực, quân Pháp đánh chiếm ba tỉnh miền Tây. Lấy hết Nam kỳ, quân Pháp đánh Bắc kỳ và buộc triều đình Huế ký hoà ước 1874 rồi hoà ước 1883 (hoà ước Harmand) công nhận chủ quyền của Pháp trên phần lãnh thổ này của tổ quốc. Năm 1884, Pháp đưa quân đánh chiếm kinh thành Huế, triều đình nhà Nguyễn đầu hàng và ký với Patenôtre hiệp ước 1884 công nhận Nam kỳ là đất thuộc địa, Bắc kỳ và Trung kỳ là xứ bảo hộ. Toàn bộ lãnh thổ Việt Nam từ Nam chí Bắc “liền một dải” mà tác giả Bùi Tín đã đề cập trong đoạn văn trên từ năm 1884 thuộc chủ quyền xâm lược của thực dân Pháp. Từ đó, nhân dân Việt Nam từ già đến trẻ, từ vua quan đến thứ dân, từ Nam đến Bắc, từ kinh đến thượng sống trong đêm dài nô lệ. Công cuộc kháng chiến chống ngoại xâm khởi phát từ những ngày đầu giặc đến. Ở Triều đình có vua, có quan, có hoàng thân quốc thích chống giặc. Ở dân gian nhiều nông dân, sĩ phu chống giặc. Binh lính và trí thức do giặc tuyển mộ và đào tạo cũng lâm trận. Công cuộc kháng chiến vô cùng khó khăn, ác liệt, hy sinh, mất mát, đổ vỡ rất nhiều: Chết chóc, tra tấn, tù đày, đói nghèo, bệnh tật, nhà tan cửa nát, ruộng đồng xác xơ, núi rừng sông biển điêu tàn. Bởi tương quan lực lượng giữa dân tộc và ngoại xâm chưa ngang bằng cho nên hết cuộc đề kháng này đến cuộc khởi nghĩa nọ đều bị đánh bại. Trong hàng ngũ dân tộc có kẻ theo giặc, có kẻ đầu hàng, có kẻ bàng quan trốn tránh, có kẻ nửa đường bỏ cuộc. Nhưng tinh thần yêu nước và ý chí chiến đấu để giành lại độc lập cho nước, giành lại tự do cho nhân dân vẫn được bảo lưu, nuôi dưỡng, rèn đúc, để tiếp tục không ngừng tìm đường cứu nước. Bạo động để cứu nước, bất hợp tác để cứu nước, đề huề để cứu nước. Duy tân, Đông du, Tây du cũng để cứu nước. Nhờ Nhật, cậy Tàu, kêu gọi Mỹ, liên Nga, kết Trung cũng để đánh Tây. Tam dân chủ nghĩa, Cọng sản chủ nghĩa, Tư sản Dân quyền chủ nghĩa, vào phe Xã Hội, hay làm tiền đồn của Thế giới Tự do, cũng không ngoài mục đích Đôc lập cho nước, Tự do và Hạnh phúc cho dân, góp phần đem lại an bình thịnh vượng cho thế giới.

Lý tưởng ngất trời, và hoang tưởng thì mênh mông như vũ trụ. Có đúng có sai, có sáng suốt có mê lầm, có nghi ngờ cảnh giác, có mệt mỏi nản lòng, có kiên trì bất khuất, có cả tin dại dột, có cậy có nhờ, có bị lợi dụng khiến sai, có vay có trả.

Từ thời điểm 1884 đến 1954 có thể cay đắng mà nói Việt Nam chưa lúc nào được độc lập và thống nhất. Cuộc Cách mạng tháng 8 – 1945 thực chất là một cuộc cướp chính quyền hụt, bởi tương quan lực lượng giữa thực dân Pháp và đồng minh của họ là Anh và Mỹ với Việt Minh vẫn chênh lệch quá nhiều. Thực dân Pháp sau thế chiến thứ hai vẫn quyết liệt, điên cuồng lập lại quyền thống trị các dân tộc Đông Dương.

Mặc dầu Hồ Chí Minh, đảng Cộng sản và Mặt trận Việt Minh đã làm hết sức mình để có được một nền độc lập tương đối trong khối Liên hiệp Pháp cũng không được. Sự ngoan cố của thực dân Pháp đã đẩy chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và Mặt trận Việt Minh trở lại nông thôn và rừng núi nhằm tiến hành cuộc kháng chiến lâu dài.

Để tiêu diệt Việt Minh, thực dân Pháp đã:

1/ Với sự giúp đỡ của thực dân Anh và viện trợ của Hoa Kỳ, tăng cường lực lượng quân sự đánh bại Việt Minh ra khỏi Hà Nội, Sài Gòn, Huế và các thành phố thị xã khác, tiến hành tiểu trừ “quân phiến loạn” mà họ tin chắc là chỉ trong một vài tháng, thậm chí trong vài tuần là thành công.

2/ Về chính trị, thực dân Pháp một mặt, ký với Hồ Chí Minh hiệp định sơ bộ 6 – 3 – 1946, tiến hành hội nghị Đà Lạt, ký với Hồ Chí Minh tạm ước 14 – 6 – 1946, một mặt cho thành lập nước Nam kỳ tự trị (23 – 12 – 1946), ký với Nguyễn Văn Xuân (thay mặt Bảo Đại) thoả ước Hạ Long (5 – 6 – 1948), ký với Bảo Đại thoả ước Auriol (8 – 3 – 1949).

Bất cứ thoả ước nào dù ký với Việt Minh hay ký với những người cọng tác (nhiều người gọi là bù nhìn, là tay sai), thực dân Pháp vẫn không thi hành, bằng mọi cách tráo trở, lật lọng. Năm 1954, tháng 6 do thua trận ở Điện Biên Phủ, Laniel, thủ tướng Pháp, ký với Bửu Lộc (thủ tướng của Bảo Đại) một hiệp ước xác nhận Việt Nam hoàn toàn độc lập với đầy đủ chủ quyền được công pháp quốc tế công nhận. Nhưng chỉ mấy ngày sau, khi ngồi vào bàn hội nghị Genève, thủ tướng Mandes France và phái đoàn Pháp cũng trực tiếp điều đình với đối phương, xem chính phủ Quốc gia, mà họ vừa mới thừa nhận là hoàn toàn độc lập, như không có.

Như thế, trước khi ký hiệp định Genève, nước Việt Nam vẫn là một xứ thuộc địa của Pháp, lãnh thổ bị chia ba xẻ bốn, chính quyền thì do chúng nặn ra và chi trả lương bổng từ người đứng đầu cho đến tên lính khố xanh, khố đỏ. Trong suốt 9 năm chiến tranh, Việt Minh và chính phủ Hồ Chí Minh đã giải phóng nhiều vùng lãnh thổ từ Nam chí Bắc, đa phần là nông thôn rừng núi. Thực tế tình hình đất nước trước khi khai mở hiệp định Genève là như thế, chứ không phải “liền một dải” như ông Bùi Tín đã khẳng định.

Phải chăng vì “nói rất gọn”, nên độc giả đã không rõ, hay ông Bùi Tín đã không rõ lịch sử đất nước từ 1884 đến 1954, nên người đọc có trình độ sử học phổ thông như chúng tôi buộc lòng phải hỏi để mong nhà báo, nhà văn, nhà đấu tranh dân chủ Bùi Tín chỉ giáo.

Nêu vấn đề “rất gọn” (4 dòng), nhưng giải quyết vấn đề thì rất dài (70 dòng), 15 dòng đầu của 70 dòng này ông Bùi Tín nói mấy điểm sau: (15 dòng cuối của trang 6).

1/ Nước Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa thành lập tháng 10 năm 1949, đến 1954 vị trí quốc tế còn rất thấp nên đã sử dụng chiến tranh Việt Nam để có vị trí cao trên trường quốc tế. Nga tiếp tay cho ý đồ đó, đề nghị Anh, Pháp, Mỹ tổ chức hội nghị Genève có Trung Quốc tham dự. Ba nước (Tư bản chống Cộng) này tán thành. Hội nghị Genève có mục đích tìm giải pháp cho hai cuộc chiến tranh tại Triều Tiên và Việt Nam.

2/ Dự kiến của đoàn miền Bắc là ngưng bắn tại chỗ trong khi chờ đợi cuộc tổng tuyển cử tự do trên toàn quốc, đó là ngưng bắn “da báo” không chia đất nước theo một vĩ tuyến nhất định.

3/ Việc chia cắt đất nước Việt Nam là do ý kiến thâm độc của Trung Quốc.

Về mặt phương pháp luận có cái gì đó trục trặc ở đoạn văn của ông, tôi đề nghị ông chỉ rõ cho:

– Vì lý do gì một nước Trung Quốc tàn ác độc địa, đến năm 1953 – 1954 còn có vị trí rất thấp, như ông đã nhận xét, mà không những được Nga (một đồng minh của Trung Quốc) tiếp tay, mà cả những cường quốc như Anh, Pháp, Mỹ - những nước vừa thù, vừa sợ Trung Quốc - lại tán thành (đề nghị của Nga) để cho nước Cộng sản to lớn và nguy hiểm này có cơ hội tìm kiếm một tư thế ngoại giao trên trường quốc tế?

Phải chăng cách đưa tin và lập luận của ông là bất thường và quá đơn giản. Nó không phải vì “rất gọn” nên gây hiểu lầm, nó còn bày tỏ một tâm trạng mù mờ lẫn lộn, làm cho sự kiện lịch sử vốn chưa được sáng tỏ đối với đa số độc giả bình thường như chúng tôi, càng thêm rối rắm, tối tăm, lệch lạc và nguy hiểm.

Cứ như những gì ông gởi gắm ở đoạn văn trên, một câu hỏi nữa được đặt ra, mong ông làm rõ:

– Một khi Trung Quốc được tứ cường (Nga, Anh, Pháp, Mỹ), những ông lớn của thế giới lúc bây giờ, tiếp tay và tán thành trong mọi mưu toan, bành trướng và xâm lược, thì một đảng như Đảng Cộng Sản Việt Nam tự biến mình thành kẻ tay sai ngay trên đất nước mình (nguyên văn của Bùi Tín, tài liệu đã dẫn Talawas số 173 trang 5) thì có gì là quá đáng để ông Bùi Tín chửi bới bêu riếu tàn tệ như thế?

Đoạn văn bất thường của ông, khiến tôi mày mò tiếp cận với sự thật lịch sử:

1/ Việc tiến tới hội nghị Genève, có ba tác giả không thống nhất với tác giả Bùi Tín.

– Lê Xuân Khoa, trong tác phẩm “Việt Nam 1945 – 1995 – Chiến tranh, Tị nạn và Bài học Lịch sử” (Tiên Rồng xuất bản 2004), chú thích số 24 trang 178: “Tại hội nghị các ngoại trưởng tứ cường ở Berlin từ ngày 25 – 1 đến 20 – 2 – 1954 để thảo luận vấn đề thống nhất nước Đức, hội nghị cũng quyết định rằng vấn đề tương lai của Triều Tiên sẽ được thảo luận từ 20 – 2 tại Genève. Bidault (ngoại trưởng Pháp) nối vấn đề Việt Nam với vấn đề Triều Tiên. Được Eden (ngoại trưởng Anh) và Molotop (ngoại trưởng Nga) tán thành, nhưng đến giờ phút chót mới được Dulles (ngoại trưởng Mỹ) chấp thuận.

– William. L. Griffen và John Marciano, trong cuốn sách có tựa đề: “Nguồn gốc sự dính líu của Hoa Kỳ ở Việt Nam” (trích đoạn và dịch của Ngô Ái Hà, Talawas số 307, 14.2.2006): “Trong tháng 1 và tháng 2 năm 1954 hội nghi bộ trưởng bốn cường quốc tại Berlin quyết định bảo trợ cho hội nghị chín bên tại Genève về Đông Dương (gồm Mỹ, Liên Xô, Anh, Pháp, Lào, Cambodia, Việt Minh do Hồ Chí Minh lãnh đạo, chế độ Bảo Đại, tay chân (nguyên văn client) của Pháp ở miền Nam Việt Nam và Trung Quốc.

–  Khắc Huỳnh, trong một bài báo đăng trên tạp chí Xưa và Nay số 143 (191) tháng 7 – 2003, viết một đoạn dài có đại ý như sau “Sau khi Stalin chết, Liên Xô với sự lãnh đạo của Khơ rút Sốp đề ra sách lược chung sống hoà bình với Mỹ và hoà hoãn với phương Tây. Đồng minh chiến lược của Liên Xô là Trung Quốc có cùng chủ trương này. Tại hội nghị tứ cường tại Berlin, Liên Xô đề xuất với Anh, Pháp, Mỹ tổ chức hội nghị Genève có Trung Quốc tham dự để bàn vấn đề chính trị cho Triều Tiên và lập lại hoà bình cho Đông Dương”.

Như thế, theo ba tác giả trên, tại Berlin từ ngày 25 – 1 đến ngày 18 – 2 – 1954, ngoại trưởng bốn cường quốc là Nga, Mỹ, Anh, Pháp nhóm họp để bàn về việc thống nhất nước Đức. Một đề xuất được đưa ra tại hội nghị này là sẽ tổ chức một hội nghị khác tại Genève để bàn thảo về vấn đề chính trị cho Triều Tiên và vấn đề chấm dứt chiến tranh tại Đông Dương. Trung Quốc sẽ là một trong chín thành viên tham dự hội nghi Genève. Các thành viên còn lại là Nga, Anh, Pháp, Mỹ, Cambodia, Lào, Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và Quốc gia Việt Nam.

Thưa ông Bùi Tín,

Phải chăng lộ trình, các bước tiến hành và các mục đích của hội nghị Genève như ông đã mô tả và xác quyết quá ít trùng khớp với những sự thật lịch sử? Một chi tiết rất nhỏ nhưng cần phải được chỉnh sửa lại là mục đích của hội nghị Genève:

–  Tìm giải pháp chính trị cho Triều Tiên

–  Chấm dứt chiến tranh ở Đông Dương.

Chứ không phải “nhằm tìm giải pháp cho hai cuộc chiến tranh ở Triều Tiên và Việt Nam…” như ông đã viết.

Theo chỗ chúng tôi được biết thì cuộc chiến tranh ở Triều Tiên đã chấm dứt từ tháng 7 – 1953 với hội nghi Bàn Môn Điếm. Hội Nghị Genève chỉ bàn tiếp vấn đề chính trị cho đất nước này, và vấn đề chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình cho cả khu vực Đông Dương, chứ không chỉ cho Việt Nam. Và Trung Quốc xuất hiện trên võ đài quốc tế qua cuộc đụng đầu với Mỹ ở Triều Tiên và hội đàm Bàn Môn Điếm từ trước tháng 7 – 1953 chứ không đợi đến hội nghị Genève mới “tìm kiếm một tư thế ngoại giao”. Cái cách làm “rất gọn” của ông, ít ra đã đem lại sự không rõ cho người đọc và không chỉ gây hiểu lầm, nó chứng tỏ tính cẩu thả mà bất cứ một nhà báo bình thường nào cũng nên tránh. Có người bảo là biết đâu Bùi Tín lập lờ đánh lận con đen. E rằng đây là một khả năng. Bởi làm sao một tên tuổi lớn trong làng báo suốt 40 năm ở miền Bắc và 15 năm ở miền Viễn Tây lại có sự cẩu thả, sai trật đến như thế? Hay là tại tuổi già sức yếu, lại là người được rèn đúc trong lò Xã hội Chủ nghĩa suốt cả thời trai trẻ và trung niên, nên ông Bùi Tín mặc nhiên lây nhiễm cái tinh thần “cống hiến đến hơi thở cuối cùng” của các nhà lãnh đạo Cọng sản?

2/ Vấn đề đình chiến tại chỗ, đình chiến “da báo” hay đình chiến phân vùng, chia hai khu vực đóng quân và quản lí hành chánh tạm thời bởi một bên là quân đội Pháp và chính phủ Quốc gia, một bên là quân đội Việt Minh và chính phủ Việt Nam Dân chủ Cọng hoà, ông Bùi Tín đã khẳng định như đinh đóng cột rằng:

“Thoạt đầu miền Bắc (lúc bây giờ, tại hội nghị Genève, đã có danh xưng đoàn miền Bắc, đoàn miền Nam chưa?: N.T.K.T.) chỉ có một dự kiến là ngưng bắn tại chỗ…đó là ngưng bắn theo kiểu “da báo”, từng vùng xen kẽ nhau, không cắt ngang đất nước qua một vĩ tuyến nhất định…

“Người đưa ra việc chia cắt Việt Nam làm hai là Chu Ân Lai… Chính con dao Bắc Kinh trong tay của Mao Trạch Đông và Chu Ân Lai đã cắt đất nước ta ra làm hai với sự đồng thuận của nhóm Cọng sản Hà Nội…” (Lúc bây giờ nhóm Cộng sản mà ông Bùi Tín muốn cáo buộc còn ở trên núi chưa về Hà Nội: N.T.K.T.).

Ông Bùi Tín đã không đưa ra một cứ liệu nào để chứng minh những thông tin dẫn đến những cáo buộc của mình.

Trái với Bùi Tín, hai tác giả Việt Nam, một người Quốc gia, một người Cộng sản đưa ra những thông tin ngược lại:

Lê Xuân Khoa cho rằng:

“Đình chiến tại chỗ, đình chiến da báo, là đề nghị từ đầu của phái đoàn Pháp”.

“Phạm Văn Đồng đại diện cho phái đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hoà từ 25 – 5 nêu ý kiến thành lập những vùng lớn có phân giới tuyến. Dụng ý của phái đoàn Phạm Văn Đồng là muốn cho Việt Nam Dân chủ Cộng hoà thay vì là một chính phủ của quân du kích trong rừng núi, phải có danh nghĩa với quốc tế là một nhà nước có lãnh thổ, có chủ quyền, có thủ đô, có cửa biển giao thông với thế giới…”

Lê Xuân Khoa đứng trên lập trường của người Quốc gia để dưa ra thông tin có tính cách cáo buộc. Ông không cáo buộc Trung Quốc là thủ phạm số 1 chia cắt Việt Nam như Bùi Tín. Ông lặp đi lặp lại trong sách của mình rằng Trung Quốc đã áp lực để Hồ Chí Minh và phái đoàn Việt Nam Dân chủ Cọng hoà chấp nhận vĩ tuyến 16, rồi vĩ tuyến 17 theo đòi hỏi của Pháp với sự nhượng bộ dễ dàng của Trung Quốc và Nga. Lê Xuân Khoa còn trích dẫn Jean Lacoutur, một nhà nghiên cứu lịch sử Việt Nam cận hiện đại để bảo chứng cho những thông tin và lập luận của mình (VN 1945 – 1995 …trang 182, 183).

Khắc Huỳnh, một cán bộ ngoại giao, một người làm nghiên cứu lịch sử ngoại giao của đảng Cộng Sản và của chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cọng Hoà thì ghi lại rằng chính Krishna Menon, một chính khách nổi tiếng của Ấn Độ (đoàn Ấn Độ tham gia không chính thức hội nghị Genève) là người đã sớm giới thiệu với đoàn Việt Nam lấy sông Bến Hải làm giới tuyến. Như thế, gián tiếp tác giả Khắc Huỳnh thừa nhận rằng việc phân chia giới tuyến là yêu cầu của đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hoà (Khắc Huỳnh Xưa và Nay trang 6 số 143 tháng 7 – 2003).

Thưa ông Bùi Tín,

Không phải là người làm nghiên cứu lịch sử, tôi không có ý định tham dự vào việc tranh luận dài dòng để tìm đến gốc rễ ngọn nguồn và bản chất đích thực của các sự kiện, các biến động lịch sử. Tôi là người đọc báo bình thường, tôi chỉ đề nghi ông Bùi Tín giải đáp những điều tôi chưa rõ khi đọc bài báo của ông. Vì bởi trong bài báo, ông còn bêu riếu, giễu cợt, miệt thị những người mà ông gọi là “trí thức dởm”, nên đồng thời tôi cũng đề nghị ông làm sáng tỏ thế nào là một “trí thức không dởm, thế nào là một trí thức thứ thiệt, đặc biệt là ông tự sắp xếp mình vào loại trí thức nào? Do vậy, tôi tiếp tục muốn cùng ông trao đổi thêm một số điểm cũng từ bài báo của ông.

Thưa ông,

Người đọc báo bình thường như chúng tôi không khó nhận ra rằng mục 3 không phải là phần chính của bài báo. Tuy nhiên mục 3 này lại có vai trò không kém phần quan trọng, tác giả muốn đặc biệt nhấn mạnh để làm nổi bật “các tội lỗi cực kỳ to lớn mà Đảng Cộng Sản Việt Nam và Đảng Cọng sản Trung Quốc đã gây ra cho dân tộc, đất nước Việt Nam qua cuộc cải cách ruộng đất”. Chỉ tiếc là chính mục 3 này với những thông tin và cách lập luận kỳ quặc của ông khiến độc giả nghi ngờ tính chất khách quan, đứng đắn và lương thiện của bài báo và tác giả của nó.

Ở trên tôi đã nêu một vài trong rất nhiều cáo buộc (có người gọi là bới móc) không có căn cứ xác thực của ông qua những lập luận vụng về, dễ dãi và những qui kết chửi bới mà quần chúng Việt Nam đã nghe, đọc nhang nhản ở các phường xã thôn ấp từ các cán bộ tuyên truyền hoặc thông tin chiêu hồi thời chiến tranh của bên này hoặc bên kia.

Tôi đề nghị ông Bùi Tín cùng chúng tôi tiếp tục làm sáng tỏ thêm một số khía cạnh của các vấn đề đã nêu:

–  Ở trên tôi đã nêu thắc mắc về cái mà ông Bùi Tín gọi là “Tư tưởng quân sự của các ông Võ Nguyên Giáp, Nguyễn Chí Thanh, Lê Trọng Tấn, Trần văn Trà…” là đình chiến theo kiểu “da báo”, “từng vùng với nhau” có thật là của các tướng lừng danh ấy không? Nếu thật là như thế thì tác giả Bùi Tín cần ghi chú là lấy tư liệu ấy ở sách báo nào hoặc họ đã trình bày “tư tưởng” ấy ở đâu trong dịp nào?

Theo nhận thức của một người đọc báo bình thường như tôi: nếu quả thật “tư tưởng” đình chiến “da báo” là của các ông ấy thì chúng ta cũng cần xem xét “tư tưởng” ấy có đúng đắn và có lợi ích cho đất nước Việt Nam không? Nó có nhất thiết là “tư tưởng” chỉ đạo cho các nhà ngoại giao ở bàn đàm phán không? Hay là các nhà ngoại giao trong phái đoàn Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà có tư tưởng, có sách lược, có phương pháp riêng của mình và đặc biệt họ được chỉ đạo bởi bộ chỉ huy tối cao là bộ chính trị do Hồ Chí Minh đứng đầu (đại tướng Võ Nguyên Giáp cũng là một thành viên trong đó) chứ không nhận chỉ đạo từ các tướng lãnh ở chiến trường.

– Những thông tin do Lê Xuân Khoa (một nhà nghiên cứu có lập trường chính trị Quốc gia rất sâu nặng) và Khắc Huỳnh (một cán bộ ngoại giao đồng thời là một nhà nghiên cứu lịch sử ngoại giao của đảng Cộng sản và của chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà) đã khẳng định rằng việc chia cắt Việt Nam làm hai, có hai chính phủ, hai vùng lãnh thổ theo lằn ngang (vĩ tuyến 17) do phía Việt Nam Dân Chủ Công hoà đề xuất, theo tôi là hợp lý vì nó có lợi cho Việt Minh hơn. Bởi Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà cần có một thủ đô ở giữa một vùng lãnh thổ rộng lớn, có cảng biển, có sân bay mở thông ra thế giới (ngoài Trung Quốc) xứng đáng là một quốc gia mà chính phủ đã được thành lập từ cách mạng tháng 8 – 1945. Chính phủ ấy có một quân đội riêng (quân đội ấy là chủ lực đánh bại quân Pháp ở Điện Biên Phủ), một nền ngoại giao, kinh tế, văn hoá, giáo dục… riêng.

Trường hợp đình chiến tại chỗ, đình chiến “da báo” như “tư tưởng” của các tướng lãnh mà Bùi Tín đã nêu danh ở trên thì Việt Nam Dân Chủ Công Hoà tuy giữ được một vùng nông thôn và rừng núi rộng lớn, nhưng lại bị kẹp chặt giữa một bên (phía tây và tây nam) là hai nước Lào và Cambodia trung lập (theo qui định của hiệp định Genève), và một bên (phía đông, đông nam) là các thành phố tỉnh lị, vùng lãnh thổ ven biển có hải cảng, sân bay là vùng đóng quân có thời hạn của quân đội Pháp và là khu vực quản lí của chính phủ Quốc gia do Pháp cưu mang, sinh nở và nuôi dưỡng. Đặc biệt sau lưng Pháp và chính phủ Quốc Gia còn có cả một nước Mỹ giàu mạnh hàng đầu thế giới, có bom nguyên tử, có hải lục không quân chính qui hiện đại mà, từ những năm đầu của thập kỷ 50 (thế kỷ 20), đã có ý đồ sẵn sàng thay thế Pháp làm “đồng minh chiến lược của chính phủ Quốc Gia”, nhằm ngăn chặn làn sóng Cộng Sản. Như thế, Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Việt Minh chỉ còn lại một cửa để mở ra thế giới là lãnh thổ nước Trung Quốc mênh mông. Chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà và đảng Cọng Sản Việt Nam biết rõ hơn bất cứ ai trong chúng ta thực tế này.