Người phụ trách Văn Việt:

Trịnh Y Thư

Web:

vanviet.info

Blog:

vandoanviet.blogspot.com

Danh ngôn

Trong mọi cộng đồng, chúng ta cần một nhóm thiên thần gây rối.

We need, in every community, a group of angelic troublemakers.

(Bayard Rustin – trích bài phát biểu tại New York City 1963)

Trong mọi trường hợp, chắc chắn rằng sự thiếu hiểu biết, đi kèm với quyền lực, là kẻ thù tàn bạo nhất có thể có của công lý.

It is certain, in any case, that ignorance, allied with power, is the most ferocious enemy justice can have.

(James Baldwin - No Name in the Street 1972)

Các cuộc cách mạng và các cá nhân có thể bị giết hại, nhưng bạn không thể giết chết các ý tưởng.

While revolutionaries and individuals can be murdered, you cannot kill ideas.

(Thomas Sankara, một tuần trước khi bị ám sát, 1987)

Không có cảm giác nào cô đơn hơn việc bị chính đất nước mình trục xuất.

There's not a more lonely feeling than to be banished by my own country.

(Kiyo Sato – Kiyo’s Story 2009)

Ban Biên tập

Địa chỉ liên lạc:

1. Thơ

tho.vanviet.vd@gmail.com

2. Văn

vanviet.van14@gmail.com

3. Nghiên cứu Phê Bình

vanviet.ncpb@gmail.com

4. Vấn đề hôm nay

vanviet.vdhn1@gmail.com

5. Thư bạn đọc

vanviet.tbd14@gmail.com

6. Tư liệu

vanviet.tulieu@gmail.com

7. Văn học Miền Nam 54-75

vanhocmiennam5475@gmail.com

Tra cứu theo tên tác giả

Thứ Ba, 10 tháng 6, 2025

Không khói hoàng hôn (Tập III - kỳ 10)

 Nguyễn Thị Kim Thoa

Hoa cỏ quanh tôi (phần 1)

Những lần đi khám bệnh quanh xóm, những buổi đi dạo trên đường đê bao, tình cờ hay cố ý nhìn thấy những bông hoa, cây cỏ bên đường, tôi đã cố gắng chụp cho chúng những tấm hình “đẹp” bằng khả năng mình có được. Những hoa cỏ tôi đã biết tên, hoặc hỏi dân địa phương, tôi ghi lại bằng hình ảnh và đôi điều nhớ nghĩ về chúng.

Cây Lạc Tiên

Cạnh nhà có cô gái trẻ chiều chiều đi hái dây nhãn lồng về điều trị chứng động kinh sau tai nạn cho tía. Tôi theo cô gái một đôi lần, đi dọc theo bờ kênh và chụp vài tấm ảnh dây nhãn lồng. Dây nhãn lồng quê tôi gọi là cây lạc tiên hay cây mắm nêm. Mùi hăng hăng, vị đắng đắng của lá hay vị chua chua, ngọt ngọt của trái lạc tiên tôi đã thưởng thức từ lúc còn 5 - 6 tuổi.

Trong vườn nhà tôi ngày đó lạc tiên mọc hoang nơi này, nơi kia, cha mẹ tôi không nhổ bỏ đi, cũng không ủ phân tưới nước, nó tự mọc, tự tàn, nhánh này vàng úa, nhánh kia đâm chồi xanh nghít, cây ra hoa, trổ trái quanh năm. Cha tôi bị chứng mất ngủ kinh niên, mẹ tôi khi thì luộc lá vông nem, lá dâu, khi thì pha trà tim sen, khi thì nấu chè táo đỏ bạch quả, nhưng thứ ngày nào cũng có là nước hãm cây lạc tiên phơi khô. Lạc tiên hái về gồm cả thân và lá, rửa sạch treo trên các chói tre cho ráo nước, chặt thành từng khúc nhỏ chừng 4 hay 5 phân rồi phơi hai nắng trên những cái nia lớn. Lạc tiên khô được bỏ vào túi lát, cất giữ trên giàn bếp. Mỗi ngày mẹ lấy chừng hai nắm bỏ vào bình tích sứ, pha nước đang sôi, đậy nắp bình hãm chừng mươi phút, bỏ bình sứ vào vỏ trái dừa khô giữ nóng, để dành cho cha uống dần trong ngày. Mẹ tôi bảo thời thanh niên cha ngủ rất khỏe nhưng từ khi rời vùng kháng chiến trở về, ngày nào cũng ôm cái ra-đi-ô Philips mỗi sáng, mỗi chiều nghe ngóng tin tức rồi mất ngủ triền miên. Mẹ lại bảo cha mất ngủ một phần cũng do dư chứng của bệnh sốt rét.

Không những cha tôi mất ngủ mà ông cậu Mới, người làm vườn, người bạn vong niên của tôi cũng không ngủ được. Trong căn chòi ở cuối vườn, cái ấm nhôm và bao tải lạc tiên khô đã cho tôi thấy điều đó. Về sau, khi lớn lên, qua sách báo, nhớ lại lời kể của cha, của ông cậu Mới tôi nghiệm ra rằng nhiều người thuộc thế hệ cha, thế hệ ông cậu đã mất ngủ vì một lý do chung là “khóc cười theo mệnh nước nổi trôi”(1).

*Cây lạc tiên còn gọi là cây mắm nêm, người Nam bộ gọi là dây chùm bao, dây nhãn lồng, dây lưỡi, người Quảng Nam gọi là dây bầu đường. Người Tày gọi là tay phiên liên, mò pì, quanh mon. Người Thái gọi là cỏ hồng tiên. Tên khoa học là Passiflora Foetida. Thành phần hóa học: Quả, hạt và lá có chứa một acide không bền: acid cyahydric và acéton. Quả chín có chứa muối Ca, P, Fe.

* Hôn nhân của cha mẹ tôi là hôn nhân mai mối nhưng ông bà sống với nhau rất chan hòa. Mẹ tôi lo cho cha từng miếng ăn, giấc ngủ với tình thương bao la chân thành. Cha tôi sống giản dị, yêu thương vợ con rất mực. Nói như người trong Nam: “Chim quyên ăn trái nhãn lồng/ Thia lia quen chậu, vợ chồng quen hơi” hay “Chim quyên ăn trái nhãn lồng/ Thương em lao khổ anh ngồi chẳng yên”(2).

Ghi chú

(1) lời bài hát Tình Ca của Phạm Duy

(2) ca dao Nam bộ.

Cây Trinh Nữ

Ngày còn nhỏ, theo cha ra vườn, tôi rất thích những bụi hoa trinh nữ, một loại cây mọc từng cụm, có hoa màu hồng, lá xanh non, xanh thẫm mọc xen kẽ nhau. Mỗi lần chạm nhẹ tay vào cành lá, lá e thẹn khép lại. Loài hoa này có những gai nhỏ ở thân làm xước da, nhưng tôi vẫn thích chạm nhẹ vào chúng, xem chúng từ từ khép lá, đoạn ngồi chờ cho đám lá mở ra, rồi lại chạm tay vào, cứ thế tôi mãi mê chơi với đám lá nhỏ có gai này. Lang thang quanh bờ đê bao, tôi bắt gặp lại những cụm hoa màu hồng đáng yêu, nhưng không còn ngồi mê mẩn chạm vào chúng. Tôi chụp vài tấm ảnh lưu giữ về các loài hoa cỏ quanh nơi tôi đang ở. Hoa trinh nữ còn gọi là cây xấu hổ, cây mắc cỡ, cây thẹn, hàm tu thảo. Tên khoa học là: Mimosa Pudica L Cây có nguồn gốc từ Nam Mỹ và Trung Mỹ, nhưng hiện nay đã có mặt tại nhiều nơi. Cây phát triển chủ yếu ở những khu vực râm mát, yên tĩnh.

*Thành phần hóa học: Cây trinh nữ chứa một alcaloid là mimosin có tác dụng ức chế tăng trưởng. Cây trinh nữ còn có chất chống oxy hóa và kháng khuẩn. Ngoài ra còn các alcaloide khác như: Flavonoide C- glycoside, sterols, terenoids, tannin và các acide béo. Cây xấu hổ còn chứa rocetin-dimethylester, tubulin và một loại dầu béo tương tự như dầu đậu nành, thành phần chất béo gồm các acid panmitic 8,7%, stearic 8,90%. Oleic 31%, linoleic 51%. Ngoài ra còn một số ít protein.

*Công dụng điều trị của cây trinh nữ: – Giảm đau, an thần, tiêu viêm, kháng khuẩn. – Tiêu ích, lợi tiểu. – Ổn định huyết áp, hạ nhiệt, trị sốt rét. – Chữa hen suyễn. – Giảm lo âu, căng thẳng, chống trầm cảm, suy nhược thần kinh. – Điều hòa kinh nguyệt. – Điều trị đau lưng, nhức mỏi xương khớp.

Hồi nhỏ tôi rất thích ngắm những cánh lá nhỏ xíu tự khép lại, tự mở ra của loại cây mọc hoang này. Tôi hỏi cha, cha bảo: con đụng vào khiến nó xấu hổ nên nó khép lá lại, do vậy hoa còn có tên là hoa xấu hổ. Tôi hỏi mẹ, mẹ lại giải thích: Nó sợ con người quấy phá nên giả vờ ngủ. Lớn lên qua sách báo tôi biết: Ở cuối cuống lá có một mô tế bào mỏng gọi là bọng lá, bên trong chứa đầy nước. Khi đụng tay vào, lá bị chấn động, nước trong lớp tế bào bọng lá dồn lên phía trên, phần dưới bọng lá xẹp xuống. Điều đó làm cho cuống lá sụp xuống, lá khép lại. Phản ứng xảy ra rất nhanh, chừng 10 giây. Khi một lá khép lại, nó chuyền tín hiệu đến các lá khác cứ thế chúng lần lượt xếp lại. Nhưng chỉ vài phút sau, nước trở về bộ phận bọng lá, lá lại xòe ra như cũ. Cơ chế dẫn truyền các kích thích chưa được giải thích rõ ràng. Có một số nghiên cứu cho rằng: dù không có não bộ, cây trinh nữ vẫn có khả năng tạo lập hành vi học hỏi được trong vài giây như ở động vật. Quá trình nhận biết, học hỏi này sẽ nhanh hơn trong điều kiện ánh sáng thấp. Các nhà khoa học vẫn chưa rõ cơ chế học hỏi và ghi nhớ của cây, nhưng họ nhận định: đó có thể do mạng lưới phát tín hiệu dựa vào calci trong các tế bào của chúng. Quá trình này được cho là tương tự như quá trình ghi nhớ ở động vật.

Những tháng cuối đời của cha tôi, vào những đêm trăng ông hay ôm đàn ra sân ngồi đàn hát một mình. Một hôm cha vừa đàn vừa hát: “Nắng chia nửa bãi chiều rồi/ Vườn hoang trinh nữ xếp đôi lá rầu...Tay anh em hãy tựa đầu/ Cho anh nghe nặng trái sầu rụng rơi.” Tôi rất thích những câu, những chữ trong bài hát mà cha vừa hát. Mặc dù cha đang đau tôi vẫn năn nỉ ông đọc cho tôi chép bài hát này. Cha vui vẻ đọc và giảng cho tôi bài thơ “Ngậm Ngùi” của Huy Cận. Bài thơ được Huy Cận sáng tác vào năm 1940 để khóc thương, tiếc nuối người em gái vừa qua đời, mãi 20 năm sau 1960 Phạm Duy mới phổ nhạc. Năm đó tôi 13 tuổi và vài tháng sau cha tôi ra đi. Từ đó mỗi lần thấy hoa trinh nữ tôi lại thì thầm hát: “Nắng chia nửa bãi chiều rồi/ Vườn hoang trinh nữ xếp đôi lá rầu...” Xin nghiêng mình kính cẩn tưởng nhớ thi sĩ Huy Cận và nhạc sĩ Phạm Duy đã để lại cho đời một kiệt tác của thơ và nhạc


 Cây Rau Mương

Hàng ngày làm cỏ trong sân tôi phải nhổ bỏ rất nhiều cây rau mương, nhất là vào mùa mưa. Rau mương mọc trong bồn cây, trong chậu hoa, trên lối đi. Ở một góc sân tôi để lại vài cây, tưới nước hàng ngày, cây lên khỏe mạnh, khi cao chừng nửa thước cây trổ những đóa hoa bốn cánh màu vàng xinh xinh. Nhìn cây tốt tươi, chụp vài tấm ảnh, tôi nhớ “vạt rau mương của mẹ”.

Ở Sài Gòn và có lẽ ở Nam bộ cây rau mương mọc nhiều, ở Huế quê tôi, rau mương là cây hiếm và ít người biết.

Tháng 3 năm 1957 Viện Đại Học Huế thành lập với các phân khoa: Sư Phạm, Khoa Học, Văn Khoa, Luật Khoa. Hai anh con cậu tôi từ Hội An ra Huế học. Anh Huỳnh Đắc Tân đậu vào Sư phạm Lý hóa khóa 1, anh Huỳnh Đắc Cương ghi danh vào đại học Văn Khoa. Đến năm 1959 viện mở chương trình dự bị Y khoa. Năm 1961 thành lập thêm trường đại học Y trực thuộc viện đại học Huế. Anh Hai tôi thi đậu vào khóa 1 trường Y. Như vậy nhà tôi có ba người vào học khóa đầu tiên của Viện Đại Học Huế. Một người bạn hàng xóm của các anh chị tôi là cô Phùng Khánh cũng đậu vào trường Sư phạm ban Anh văn. Phấn khởi, sung sướng, vui mừng vì con cháu học hành có kết quả, nhưng cha mẹ tôi vẫn không dấu được nỗi lo.

Nhà đông người, cái ăn, cái mặc không phải là chuyện dễ dàng. Đôi lần mẹ tôi than thở: “thời buổi gạo hai lon”. Tôi không biết nhiều về giá cả gạo cơm, thực phẩm hồi đó, nhưng trong những năm tôi học lớp năm, lớp tư (bây giờ là lớp một, lớp hai) (1957, 1958) đã có lúc gạo trắng chỉ dành riêng cho bọn nhỏ chúng tôi. Anh chị lớn, cha mẹ và người làm trong nhà ăn một thứ gạo đỏ gọi là gạo xô, có khi ăn bắp hay khoai lang trừ bữa. Càng khó khăn hơn khi anh Tân bị đau bao tử. Mẹ phải nấu riêng cho anh ấy mỗi bữa một om xôi nếp cũ. Trước mỗi bữa ăn tự tay mẹ bóp hột xôi xem thử chị bếp nấu đã chín tới chưa. Kỹ lưỡng là vậy nhưng thỉnh thoảng anh ấy vẫn lên những cơn đau xé ruột, quằn quại trên giường cùng câu than vãn: “Cóc kêu cạnh bụi tre ngâm/ Cóc kêu mượt cóc, tre dầm mượt tre”.

Tuy vậy cha mẹ tôi vẫn một mực thương quí anh. Để chữa bệnh cho anh cha tôi trồng một vạt rau mương sau nhà, khi rau lên độ hai tấc, chưa ra hoa mẹ tôi nhổ lên, cắt bỏ rễ, rửa sạch, phơi khô để dành hãm nước cho anh ấy uống. Cả nhà không ai được động đến vạt “rau mương của mẹ”. Ăn xôi, uống nước hãm rau mương cơn đau của anh thưa dần và đã có lúc anh ấy leo lên cây đào ăn đầy bụng lúc đói mà không bị đau. Cha mẹ tôi vui vô cùng.

Học hết ba năm, ra trường anh ấy nhận nhiệm sở tại trường trung học Trần Quốc Tuấn Quảng Ngãi. Vào Quảng Ngãi ăn cơm tháng, làm việc vất vã, bệnh cũ tái phát rồi bị biến chứng thủng bao tử, đồng nghiệp đưa vào bệnh viện cấp cứu, và nghe đâu được chuyển xuống tàu bệnh viện quân đội Mỹ phẫu thuật. Gần ba tháng sau anh ấy ra viện, được thuyên chuyển về trường Trần Quí Cáp Hội An. Mẹ tôi vội vã vào Hội An cùng cậu tôi bàn chuyện cưới vợ cho anh (mẹ anh ấy mất trong chiến tranh). Chị Lưu Bích Trâm trở thành chị dâu họ của tôi.

Anh chị xin chuyển vào Nha Trang lập nghiệp. Chị Trâm đã chăm sóc anh rất mực chu đáo (theo lời kể của anh Tân), anh ấy sống thọ trên 80 tuổi. Vào những năm cuối thập niên 50 của thế kỷ trước, bệnh viêm dạ dày chưa biết rõ nguyên nhân nên việc điều trị rất khó khăn.

*Mãi đến năm 1982, Robin Warren và Barry Marshall mới phân lập được chủng vi khuẩn mới từ mẫu sinh thiết dạ dày của một bệnh nhân loét hành tá tràng và đặt tên là Campylobacter pylori. Năm 1983, các ông đã nuôi cấy thành công chủng vi khuẩn này và công trình nghiên cứu này được đăng trên tạp chí Lancet. Những nghiên cứu tiếp theo cho thấy Campylobacter pylori này khác hẳn với những Campylobacter cũ về đặc điểm sinh hóa học, do đó Goodwin và cộng sự đề nghị xếp vào giống Helicobacter. Tháng 6 năm 1989, Thompson phát hiện ra thành phần 16S RNA nhiễm sắc thể đặc trưng cho Campylobacter pylori, mà không có ở nhóm Campylobacter cũ. Từ đó Campylobacter pylori có tên là Helicobacter pylori (viết tắt: H. pylori). Do tìm được nguyên nhân gây viêm dạ dày nên ngày nay việc điều trị bệnh dễ dàng hơn.

*Rau mương còn có tên rau mương nằm, rau mương thon, rau lục, cỏ cuốn chiếu. Tên khoa học: Ludwigia Prostrate. Thành phần các hoạt chất chưa được nghiên cứu. Rau mương có tác dụng thanh nhiệt giải độc, trừ thấp tiêu thủng, trị viêm ruột, viêm dạ dày, tiêu chảy, đắp ngoài da chữa mụn lở sưng đau.

*Mùa hè năm 1968 anh Tân ra Huế tham gia hội đồng chấm thi, cùng năm đó tôi thi tú tài phần một. Trước khi rời Huế về lại Nha Trang anh ấy nói với tôi: “Anh chắc là em sẽ đậu và đậu có thứ hạng. Khi chị ba thi đậu tú tài anh tặng chị ấy một chiếc xe Velosolex để chị ấy làm đẹp phố phường. Còn em anh tặng hai tập Hồng Lâu Mộng, em đọc để biết thêm về văn chương Trung Hoa”. Đó là hai tập Hồng Lâu Mộng của Tào Tuyết Cần do Nguyễn Quốc Hùng dịch, nhà xuất bản Chiêu Dương ấn hành năm 1965 tại Sài Gòn. Dưới anh đèn dầu tù mù của những ngày sau tết Mậu Thân (1968), tôi đọc mê mẩn hai tập truyện này. Một cuốn tiểu thuyết có đến 448 nhân vật trong vương phủ họ Giả: Giả Bảo Ngọc, Lâm Đại Ngọc, Tiết Bảo Thoa, Giả Nguyên Xuân, Vương Hy Phượng... Những nhân vật xuất hiện dưới ánh đèn tù mù ngày đó và bây giờ vẫn còn ẩn hiện tù mù. Giả Bảo Ngọc, Chân Bảo Ngọc, giả và chân... Ngày nay nhìn những đóa hoa rau mương màu vàng bé tí tôi nhớ cha mẹ, nhớ người anh họ của tôi vô cùng. Bao nhiêu chân, bao nhiêu giả trong cuộc sống hở ba me kính yêu! Bao nhiêu chân, bao nhiêu giả trong cuộc sống hiện tại hở anh Tân thương quí!

 Cây Rau Trai

Vào đông trời se se lạnh, chỉ cần khoác chiếc áo mỏng là đủ khi đi dạo. Vùng tôi ở thuộc địa phận ngoại ô thành phố nên tương đối yên ắng. Buổi sáng khi nắng vừa lên, hai bên vệ đường cỏ dại còn đẫm sương đêm, một loài hoa nho nhỏ màu xanh da trời e ấp dưới những đám lá thon thon xanh mướt: hoa rau trai. Nhớ hồi còn bé, trong vườn nhà tôi quanh năm có nhiều hoa đủ sắc màu: Hoa yên chi vàng, hoa trang đỏ, hoa cẩn trắng, hoa tường vi hồng, hoa lan đất tím, hoa thiên lý xanh non... Tôi đi tìm đóa hoa màu xanh da trời chỉ thấy có loài hoa nho nhỏ là hoa rau trai. Tôi yêu thích đóa hoa ba cánh mỏng màu xanh, nhụy vàng này.

Có lần tôi hỏi cha tại sao hoa trắng, hoa đỏ, hoa vàng, hoa tím có rất nhiều, nhưng hoa màu xanh lại rất hiếm, cha bảo: “Hoa màu xanh nói chung và màu xanh da trời nói riêng vốn hiếm xưa nay, cha đã đi nhiều nơi trên đất nước, hiếm khi gặp được hoa màu xanh dương, có lẽ do thổ nhưỡng và khí hậu”. Tôi hỏi ông cậu Mới (người làm vườn của nhà tôi), ông cậu trả lời: “Cháu nhìn lên trời, khi không có mây chỉ thấy một màu xanh gọi là màu xanh da trời, màu đó chỉ dành cho Trời, hoa cỏ hay muông thú hiếm khi có màu xanh này”. Biết tôi thích hoa màu xanh, ông cậu trồng cho tôi mấy chói hoa thiên lý. Cha rào một vuông đất nhỏ, trồng cho tôi vạt rau trai.

Tại sao hoa màu xanh dương lại hiếm? Có nghiên cứu cho rằng hoa mang sắc tố xanh hiếm một phần vì loại hoa đó rất khó sinh sản. Giống hoa này chỉ thụ phấn do côn trùng ong, bướm. Gió hay các tác động cơ học khác không giúp chúng thụ phấn được. Lý do thứ hai là do hạn chế khả năng nhìn của mắt người. Các nhà khoa học cho rằng độ nắm bắt màu sắc của các tế bào hình nón ở võng mô mắt người tùy thuộc vào độ dài của bức xạ ánh sáng. Các tế bào hình nón ít nhạy với quang phổ xanh lam nên khó nhìn ra màu xanh này. Giả thuyết này theo tôi chưa thuyết phục lắm vì chúng ta vẫn nhìn thấy bầu trời rộng lớn, hay biển cả bao la có màu xanh dương đẹp vô cùng.

Có một giải thích khác cho rằng: Các loại hoa có màu đỏ, vàng, cam, trắng ít chịu tác dụng nhiệt của ánh sáng mặt trời phá hủy. Các loại hoa màu xanh dương dễ bị bức xạ ánh sáng thiêu cháy nên ít thấy xuất hiện. Nói một cách khác hoa màu đỏ, cam, vàng, trắng ít hấp thụ bức xạ của ánh sáng mặt trời nên chúng khó bị thiêu hủy, các loại hoa có màu xanh da trời hấp thụ nhiều ánh sáng nóng nên chúng dễ bị đốt cháy, vì vậy chúng có số lượng rất ít.

* Rau trai luộc chấm nước ruốc kho, rau trai xào tỏi, rau trai nấu canh tập tàng... là những món ăn dân dã.

Những lúc đi dạo quanh vùng thỉnh thoảng tôi vẫn hái về một vài nạm rau trai, rửa sạch, xào tỏi, tôi ăn, nhớ mẹ, nhớ vườn xưa và có lúc đã rưng rưng.

Tôi cũng không quên món xương heo hầm với rau trai của mẹ. Rau trai nấu nhừ sền sệt xanh nghít lẫn trong mấy miếng giò heo chặt nhỏ, mẹ hầm cho cha những ngày mệt mỏi, lo âu, nóng nảy.

* Cây rau trai còn gọi là cỏ lài trắng, rau trai thường, thài lài trắng. Tên khoa học: Commelina communis L. Thành phần hóa học: Chất khô có: 21% cellulose, 12,8% tro, 7,8% protéin, 0,09% lipid. Trong cây tươi có: delphin, commelinin, flavocommelin, awobanin.

Cây rau trai có tính bình, vị ngọt có tác dụng giải nhiệt, chống viêm dùng điều trị viêm hong, viêm đường tiểu.

Ngày nay muốn có một bó hoa đẹp, một chậu hoa xinh xắn là chuyện không khó. Kỹ thuật trồng, ghép, lai giống hoa đã cho chúng ta nhiều chủng loại mới, đẹp và lạ cả về hình thức lẫn màu sắc, hương thơm. Nhưng màu xanh thiên thanh của đóa hoa trai nhỏ bé, xinh xắn, mộc mạc, hồn nhiên vẫn luôn quyến rũ tôi.

 Cây Thương Lục

Bên kia hói là nhà của người chăn bò, ngôi nhà vách tôn mái lợp lá dừa, chỉ có một cửa ra vào và hai cửa sổ ở hai bên vách. Nói là cửa nhưng thật ra chỉ là những khoảng trống cắt từ mấy tấm tôn, nắng hay mưa chỉ cần thả một tấm bạt đã sườn màu. Tôi đã đến đó vài lần. Chủ nhân ngôi nhà là một công nhân, anh là thợ nguội của một công ty nay đã nghỉ việc ở nhà chăn bò trên đất bỏ hoang của cha mẹ mình.

Ngôi nhà của anh chăn bò đâu chừng 50 – 60 mét vuông nằm trong khoảng đất rộng trồng mấy luống rau lang, hai cây chanh, mấy cây tràm hoa vàng, đất còn lại để cỏ ống mọc tự nhiên dành cho bò ăn.

Tôi chú ý đến một dải hàng rào ngay trước ngõ, dài chừng 3 mét cao chừng 8 tấc trồng một loại cây lần đầu tiên tôi thấy: cây thương lục. Tôi hỏi sao làm hàng rào ngắn vậy, anh cười vui vẻ nói:

– “Vườn tược ở trong này không có hàng rào rõ ràng, con trồng một đoạn ngắn cây nho dại (tên gọi dân dã của cây thương lục) cho vui mắt vì nó có bông, có trái quanh năm, vả lại khi nào bỏng da có vài lá để đắp”.

Cây thương lục có nhiều ở miền nam, dân ở đây hay trồng thương lục cho leo lên chói làm hàng rào. Thoạt trông, hàng rào thương lục giống hàng rào mồng tơi ngoài miền trung hay miền bắc: lá xanh, cọng tím, hoa trắng, trái tím đen.

Anh chăn bò nói thêm:

“Đường ranh giới giữa các khu vườn ở trong Nam không rõ ràng, các nhà ngầm phân biệt đất của mình và đất của hàng xóm qua các giồng (vồng) cây hay các mương nước gọi là “mương ranh”. Nhìn tổng thế đất vườn nhà này nối tiếp nhà khác không có rào ngăn cách, trông thoáng đạt, rộng rãi, người dân qua lại dễ dàng, thân thiện”.

Khác với miền nam, ở miền trung hay miền bắc, vườn nhà nào cũng có hàng rào chung quanh, giới hạn giữa các vườn phân định rõ rệt. Ở Huế trồng hàng rào bằng cây chè tàu (trà cọc rào). Chè tàu trồng ở hàng rào mặt tiền, hàng rào các lối đi. Hàng rào chung quanh trồng hóp, tre hay các lọai cây có gai như mắc mèo, keo tây, chùm kết.

Ở bắc trung bộ nhiều nhà trồng hàng rào bằng cây râm bụt (dâm bụt), một đôi nơi là cây ruối (duối). Một dịp công tác ở Nghệ An, tôi đã ngắm mê mẩn những hàng rào cây duối được cắt tỉa thật đẹp ở những ngôi làng cận sơn.

Làng Mỹ Lợi ở Huế có kiến trúc vườn giống với vườn ở Nam bộ. Lần đầu tiên về Mỹ Lợi, tôi rất ngạc nhiên khi không thấy có hàng rào ngăn cách giữa các khu vườn. Vườn nọ cách vườn kia bởi các ao nước hay các vồng cau. Do vậy không gian vườn ở đây thoáng đãng, thân thiết. Về sau có dịp quan sát các khu vườn miệt Lái Thiêu, Thạnh Mỹ Tây ở trong Nam tôi thấy làng quê Mỹ Lợi gần gũi với nam bộ nhiều hơn. Theo tôi vườn Mỹ Lợi là vườn nam bộ trong xứ Thừa Thiên - Huế.

* Cây thương lục còn gọi là cây nho dại, cây nho cong queo. Thương lục hay còn được gọi là Bạch mẫu kê, Dã la bạc, Sơn la bạc, Trường bất lão, Kim thất nương, tên khoa học là Phytolacca acinosa Roxb, thuộc họ Thương lục (Phytolaccaceae).

*Thành phần hóa học

Rễ của cây thương lục có chứa nhiều thành phần hóa học như Saponin Esculentoside M và Esculentoside A, Kali nitrat, Axit Oxymiristinic và chất độc được gọi là Phytolaccatoxin. Ngoài ra, rễ của cây thương lục có hình dạng tương đồng với rễ nhân sâm nhưng lại chứa chất độc.

Hàng rào, hàng giậu của các vùng miền ở Bắc – Trung – Nam là một phạm trù rất rộng. Tôi chỉ ghi lại mấy điều nghe và thấy khi viết về cây thương lục, rất cần những bài viết về hàng rào nhà của các vùng miền.

Nhắc đến hàng rào, bờ giậu có lẽ nhiều người trong chúng ta không ai không nhớ đến những câu thơ: “Nhà nàng ở cạnh nhà tôi/ Cách nhau cái giậu mồng tơi xanh rờn” (Người hàng xóm –Nguyễn Bính). Hay: “Gió thu hoa cúc vàng lưng giậu/ Sắc mạnh huy hoàng áo trạng nguyên” (Thu – Xuân Diệu).

Và tôi rất thích một khổ thơ haiku của Basho do Nhật Chiêu dịch:

Ta nhìn sâu xa

Bên hàng giậu nở

Cành Nazuna

 

Cây Chua Lẻ

Những ai ở nhà vườn, ăn rau vườn, không khỏi không nhớ đến một loại rau mọc hoang, mỗi năm chỉ có trong vài ba tháng mùa mưa, từ tháng tám đến tháng mười hai: Cây rau chúa lẻ. Tôi bắt gặp loại rau này trên bờ đê bao khi đi dạo. Cây mọc riêng lẻ, hoa từng búp nhỏ màu tím, lá màu xanh thẫm, nếm có vị chua do vậy gọi là cây “chua lẻ” chăng? Cũng có nơi gọi là cây “chúa lẻ”.

*Rau chúa lẻ còn có tên: cây rau má lá rau muống, đề thảo, tiết gà, cỏ mặt trời, tam tróc, nhất điểm hồng, hồng bối diệp, dương thảo đề. Tên khoa học Emila Sonchifolia.

*Thành phần hoạt chất: Stearin glycosil và một ít alcaloide Cây chúa lẻ vị đắng, tính mát, có tác dụng thanh nhiệt, tiêu viêm, sát khuẩn dùng điều trị cảm cúm, viêm long hô hấp trên, viêm họng, viêm ruột.

Ngày còn ở với mẹ, mưa lâm thâm ra vườn hái rau đủ loại để nấu canh tập tàng, tôi luôn cố tìm cho được mấy ngọn rau chua lẻ để món canh thơm thơm mùi lá hẹ, và khi đưa đũa rau vào miệng lại cảm nhận được vị chua chua, độ giòn giòn của rau.

Rau chúa lẻ luộc chấm với nước ruốc kho ớt xanh là món đặc sản mà chị em tôi luôn nhớ về. Rau chúa lẻ còn là một loại rau ăn ghém với các loại rau sống khác khi ăn thịt phay tôm chua.

Canh tập tàng là món ăn có cả ở ba miền đất nước. Mỗi nơi nấu với nhiều loại rau khác nhau tùy từng vùng miền. Ngoài những thứ rau chính như bồ ngót, mồng tơi, dền, rau lang, rau má ...miền Bắc còn có thêm rau đay, rau sam. Miền Nam có thêm rau ráng, rau choai, đọt ớt. Miền Bắc nấu với cua đồng. Miền Trung nấu với tôm. Miền Nam hay ăn tập tàng luộc.

Ở Huế canh tập tàng ngoài các thứ rau trồng trong vườn: bồ ngót, mồng tơi, dền, má, lang, bát bát, còn có các loại rau mọc hoang khác. Những thứ rau mọc hoang theo mùa này giúp đọi canh có mùi vị riêng: Mùi thơm của lá sưng, lá lốt hoặc vài ngọn lá cỏ hôi. Vị chua của rau chua lẻ. Vị đắng của mã đề. Giòn của rau rìu rau éo. Dẻo của tàu bay, bồ công anh.

Gặp lại cây rau chúa lẻ với những nụ hoa tím tím nho nhỏ, tôi như gặp lại hình ảnh những bữa cơm cùng mẹ cha mỗi trưa mỗi chiều:

Cá trê nướng, nước mắm gừng

Canh rau tập tàng, cá bống kho tiêu

Cơm trưa, cháo sáng, cơm chiều

Cơm bao nhiêu hạt bấy nhiêu nồng nàn. (ca dao)

Cây Cam Thảo Đất

Bắt gặp cây Cam Thảo Đất trong một buổi chiều đi dạo trên đường đê, loại cây có lá nhỏ xanh nghít, lấm tấm bông màu trắng có tua nhụy cũng màu trắng, tôi vui vì gặp lại loài hoa như một người bạn nhỏ thời ấu thơ.

Cam Thảo Đất mọc hoang ven bờ sông sau vườn nhà, mẹ tôi không nhổ bỏ đi, bà vun gốc, ủ phân, cây nở hoa, đâm cành xanh nghít một vùng. Khi anh chị em chúng tôi bị cảm sốt, ho hen mẹ lại nấu nước Cam Thảo Đất đã sao cử thổ(1) cho chúng tôi uống. Nước Cam Thảo Đất sao cử thổ có vị ngọt, nồng nồng giống vị Thạch Xương Bồ khô. (Thạch Xương Bồ là một loại cỏ mọc ở đầu nguồn sông Hương, đem lại mùi thơm cho dòng sông này – theo “Hương Giang Hành” của Vân Bình – Tôn Thất Lương: “Cỏ thơm có giống Thạch Xương Bồ/ Sống ở hai nguồn tả hữu trạch/ Hơi thơm dầm nước nước trong veo/ Hợp thành sông thơm chảy róc rách…”)

*Cam Thảo Đất còn gọi: Cam Thảo Nam, Dã Cam Thảo, Thổ Cam Thảo, Tên khoa học: Scopariol DulisL Vị ngọt, tính mát. Thành phần hóa học: Ameline, Acid silisic, Manitol, Duciol, glucose...

*Tác dụng điều trị: Nhuận phế, thanh nhiệt, giải độc, mát gan, lợi tiểu. Hoa Cam Thảo đất có mùi thơm nhẹ về chiều và đêm, rất dễ trồng, phát triển mạnh nơi quang đãng.

Mùa dịch bệnh, chiều chiều nhìn qua màng sương, dáng mẹ nơi góc vườn lom khom tìm nạm lá xông, hái nhúm rau tần giải nhiệt lại thấp thoáng đâu đây. Mẹ ơi! dịch bệnh đang hoành hành.


 Ghi chú

(1) Sao cử thổ: dùng trách rang thuốc cho tới vàng nâu rồi úp trách trên một tờ giấy tinh trải trên nền đất chờ cho thuốc nguội, đem chưng hay sắc.