Người phụ trách Văn Việt:

Trịnh Y Thư

Web:

vanviet.info

Blog:

vandoanviet.blogspot.com

Danh ngôn

Trong mọi cộng đồng, chúng ta cần một nhóm thiên thần gây rối.

We need, in every community, a group of angelic troublemakers.

(Bayard Rustin – trích bài phát biểu tại New York City 1963)

Trong mọi trường hợp, chắc chắn rằng sự thiếu hiểu biết, đi kèm với quyền lực, là kẻ thù tàn bạo nhất có thể có của công lý.

It is certain, in any case, that ignorance, allied with power, is the most ferocious enemy justice can have.

(James Baldwin - No Name in the Street 1972)

Các cuộc cách mạng và các cá nhân có thể bị giết hại, nhưng bạn không thể giết chết các ý tưởng.

While revolutionaries and individuals can be murdered, you cannot kill ideas.

(Thomas Sankara, một tuần trước khi bị ám sát, 1987)

Không có cảm giác nào cô đơn hơn việc bị chính đất nước mình trục xuất.

There's not a more lonely feeling than to be banished by my own country.

(Kiyo Sato – Kiyo’s Story 2009)

Ban Biên tập

Địa chỉ liên lạc:

1. Thơ

tho.vanviet.vd@gmail.com

2. Văn

vanviet.van14@gmail.com

3. Nghiên cứu Phê Bình

vanviet.ncpb@gmail.com

4. Vấn đề hôm nay

vanviet.vdhn1@gmail.com

5. Thư bạn đọc

vanviet.tbd14@gmail.com

6. Tư liệu

vanviet.tulieu@gmail.com

7. Văn học Miền Nam 54-75

vanhocmiennam5475@gmail.com

Tra cứu theo tên tác giả

Thứ Năm, 12 tháng 6, 2025

Không khói hoàng hôn (Tập III - kỳ 11)

 Nguyễn Thị Kim Thoa

Hoa cỏ quanh tôi (phần 2)

Cây Xuyến Chi

Hồi còn ở Đà Nẵng, sau những buổi làm việc căng thẳng, chúng tôi cùng nhau đi dã ngoại. Đường tắt từ Đà Nẵng đi Hội An qua ngã Non Nước đẹp vô ngần.

Con đường nhỏ đắp đất sỏi, hai bên đường với hàng hàng, lớp lớp xuyến chi trắng và bâng khuâng tím, những nương vườn xanh mượt trồng cau, trồng cây ăn trái đủ loại nối tiếp nhau. Xa xa những mái tranh với khói lam vương vấn. Hình ảnh làng quê yên bình với không khí trong lành, đến nay đâu dễ gì tìm lại được.

Mấy ngày nay cầm máy ảnh đi chụp hoa xuyến chi, tôi nhớ vô vàn con đường Non Nước – Hội An. Con đường này bây giờ không còn nữa, thay vào đó là những khu nghỉ dưỡng, khách sạn cao cấp, chúng che khuất tầm nhìn ra biển, nó thải nước đen vào các bãi tắm, nó chỉ dành riêng cho một số người giàu có.

Đi lại nhiều lần trên đường đất đỏ ven đê, tôi muốn tìm những đóa xuyến chi hàm tiếu, đi buổi sáng, đi buổi chiều cũng chỉ thấy những bông hoa đã nở hoặc những nụ hoa còn búp. Những đóa xuyến chi nhỏ xíu nở bung hết cánh mạnh mẽ, những nụ bông úp kín, hay vài cánh hoa tàn úa, héo rủ đeo bám mảng nhụy màu đen. Tuyệt nhiên không thấy đóa xuyến chi hàm tiếu nào. Hoa xuyến chi giấu đi thuở thẹn thùa chớm nở của mình. Loài hoa đáng yêu này đã bị “kịch bản đô thị hóa” đẩy dần đến nơi không còn đất để sống.

*

Trong thiên nhiên, nhìn nụ lài hé nở: mùa hè đang về, ngọn cúc đơm nụ: gió thu sắp sang. Hải đường ẩn hiện trong khóm lá xanh: mùa đông đang đến và khi hoa mai khoe sắc là mùa xuân sang. Màu sắc hoa lá, cây trái tự nhiên là dấu hiệu thay đổi của thời gian. Cảm nhận thời gian qua cây cỏ lá hoa là một điều thú vị vô cùng. Có hôm đi trên một đoạn đường dành riêng cho người đi bộ, nơi này tôi thấy hoa trang đỏ, nơi kia tôi thấy đóa cẩn vàng, góc cầu chùm tử vi nở rộ, cuối bậc cấp mấy đóa túy điệp hồng, các loại hoa trồng, chăm sóc sao cho lúc nào cũng có hoa bằng những “kỹ thuật xâm lấn”, tôi có cảm giác như mình đang dạo chơi trong hòn non bộ, không biết mình đang ở mùa nào và cũng không biết mình đang thưởng thức hương hoa nào?

Xuyến chi là loài hoa không độc, ngược lại xuyến chi còn là loài cây hút độc. Có một vài nghiên cứu trồng hoa xuyến chi quanh khu công nghiệp, môi trường không khí chung quanh sẽ bớt độc hại.

*Cây xuyến chi còn có tên là hoa quỷ châm, đơn kim, hoa cúc áo, cỏ xuyến, song long nha. Tên khoa học: Bidens Pilosa. Thành phần hóa học: Nước 9,8%, Mn 2,2%, Mg 2,3%, Ca 1,1%, phospho 1,6%, Cr 1,2%, Fe 0,02%, Zn 0,03%, Aceton 2,8%, Methanol 8,6%.

*Theo đông y, xuyến chi có vị đắng, ngọt nhạt, hơi cay, tính hàn giúp thanh nhiêt, giải độc, sát trùng. Dùng trong điều trị: mề đay, da nổi mẩn ngứa, đau răng, đau mắt, viêm họng, vết thương tụ máu, sát trùng vết cắn côn trùng.

*

Cuối bài viết xin được trích một đoạn ngắn trong bài: “Hoa nhài và ô liu” của Hamvas Béla – Hồng Nhung dịch trên báo diendan.org: “Kinh nghiệm đầu tiên thật đặc biệt. Tôi cứ tưởng người làm vườn và người làm ruộng am hiểu nhiều về thiên nhiên. Không đúng. Nghệ sĩ là kẻ thấy thiên nhiên nhiều nhất. Người làm vườn không ngắm cây mà ngắm sản phẩm. Không bận tâm đến quả cà chua, quả bầu, dưa chuột, nho theo kiểu nghệ sĩ. Sinh linh không quan trọng mà lợi nhuận mới quan trọng”...

Cây Bâng Khuâng (cây đuôi chuột)

Một buổi sáng đi dạo, cuối con dốc tôi bắt gặp những cánh hoa màu tím nho nhỏ, xinh xinh, nhánh thấp, nhánh cao chờn vờn trong gió. Vội vàng chụp vài tấm ảnh loài hoa yêu thích từ hồi còn bé, nay mới có dịp gặp lại, hoa bâng khuâng. Một tấm, hai tấm, nhìn không rõ nét, chụp lại tấm thứ ba, máy hết pin. Ra về lấy làm tiếc, tự hẹn rằng ngày mai mình sẽ trở lại chụp thêm mấy tấm. Nhưng rồi ngày mai, ngày mốt, ngày kia, ngày kỉa, ngày kìa... tôi vẫn chưa đi được.

Hoa bâng khuâng nhắc tôi nhớ một ngôi nhà trong Thành nội - Huế, trên đường ven bờ hộ thành gần cửa Chánh Đông: Ngôi nhà của vợ chồng chị Tố Lan, anh Đặng Thanh. Hai anh chị là thành viên của nhóm Hướng Thiện. Cũng như tôi, anh chị thường đạp xe theo bác Phạm Đăng Siêu đi quyên và phát gạo, áo quần cũ cho những người khốn khó. Ngôi nhà cấp bốn đó xây theo kiểu ba gian hai chái, vườn khá rộng có hàng rào ngăn các lối đi không trồng bằng cây chè tàu theo cung cách Huế, mà trồng hoa bâng khuâng. Những hàng bâng khuâng quanh năm có hoa tím, được cắt tỉa ngay hàng thẳng lối. Ở chính giữa sân là bức bình phong cao chừng 1,5 mét, phía trên là hoa lài trắng, phía dưới là hoa tím bâng khuâng. Bức bình phong lạ mắt và đẹp hài hòa với ba màu: xanh của lá, tím và trắng của hoa càng tăng vẻ đẹp giản đơn, thơ mộng của ngôi nhà. Anh chị là người bắc di cư, họ không có con, bà con cũng không thấy có ai. Đi hành thiện anh chị vui vẻ với mọi người nhưng chuyện nhà ít đề cập đến. Hình như họ chỉ có hai người. Ngoài ngôi nhà xinh xắn, anh chị còn quản lý một xưởng nhỏ làm bánh đậu xanh với chừng năm người thợ. Bánh đậu xanh ướt, bánh đậu xanh khô của anh chị rất ngon. Mẹ tôi thường đặt mua làm quà cho bà con bạn bè khi đi đâu đó.

Mùa xuân Mậu Thân (1968) anh bị bắt, rồi không thấy về, lý do là chủ “nhà máy tư bản to lớn”. Buồn bã chị bán nhà, bán xưởng bánh vào Sài Gòn, mua một ngôi nhà nhỏ gần bờ sông ở Bình Quới, nhận nuôi một bé gái mồ côi làm con. Hàng ngày chị muối dưa cải, dưa cà, bày dưa trong hai cái thẩu lớn để trước cổng, bán cho người quanh xóm. Có lần vào Sài Gòn công tác, đi thăm chị, thấy hai bụi bâng khuâng trong sân trước nở rộ, tôi nói: – Chị đem được hoa bâng khuâng vô trồng thích thật. Chị cười hiền hòa nhìn tôi nói: – Hoa mạch lạc này chị xin của một người quen quê miền Tây. Tôi nhìn lại rõ ràng là hoa bâng khuâng sao lại gọi hoa mạch lạc. Biết tôi thắc mắc chị vội giải thích:

– Hoa bâng khuâng còn gọi là hoa mạch lạc. Từ bâng khuâng rất hay nhưng làm chị nhớ người xưa, chốn xưa.

Chị đặt tên cho con gái là Mạch Lạc để nhớ một loài hoa ngày cũ. Năm 1994 vào Sài Gòn học chuyên khoa, tôi đến thăm chị, biết được tin buồn cháu Mạch Lạc học xong trường Y, đi thực tế tại miền Tây đã gặp nạn không còn, cháu bị đuối nước. Nhà hiện có một sinh viên trường luật, cháu kêu chị bằng cô từ quê vào ở trọ cho có tiếng có tăm. Buồn bã ra về, tôi hứa với chị sẽ đến chơi nhiều hơn những khi vào Sài Gòn.

Thế rồi cũng ngày mai, ngày mốt, ngày kia, ngày kỉa ngày kìa... tôi vẫn chưa đến thăm lại chị.

Năm 2008 sau nghỉ hưu, chuyển hẳn vào Sài Gòn, tôi đến thăm người chị trong nhóm Hướng Thiện ngày nào, nhà đã đổi chủ, ngồi lại nhà hàng xóm kế bên, qua lời của chị bạn người Huế tôi được biết: Trong lúc dọn dẹp cửa nhà vào dịp cuối năm, tình cờ chị bắt được những bức thư của đứa cháu trai và bà chị dâu trao đổi qua về, những bức thư có nội dung muốn hại chị để chiếm ngôi nhà, chị âm thầm bán nhà vào nương nhờ cửa Phật. Tôi hỏi hỏi thăm bây giờ chị ở chùa nào, người bạn cho biết chị âm thầm ra đi không từ biệt một ai.

*Cây bâng khuâng còn gọi là cây đuôi chuột, điềm thông, bôn bôn, đũa bếp, cỏ đuôi lươn, mạch lạc, hải tiên, giả mã tiên. Tên khoa học là Stachytarphela Jamaicencis. Thành phần hoạt chất: Glycocid satchytarphin, 7-apigenol, 7-glycosid, alcaloide. Cây bâng khuâng có vị đắng, tính hàn có tác dụng thanh nhiệt, giải độc, lợi tiểu.

Sài Gòn ngày mùa đông trời u ám, tôi nhớ hoa bâng khuâng, nhớ Mạch Lạc, nhớ những con đường ven bờ hộ thành, nhớ cửa Chánh Đông, Chánh Tây... Nhớ mưa, nhớ sương, nhớ gió... nhớ bánh đậu xanh khô, bánh đậu xanh ướt. Chị Tố Lan ơi, không biết chị sinh giờ nào, ngày nào, tháng nào, năm nào mà u buồn đến thế. Nhánh hoa Bâng Khuâng hay làm thơ ngày nào đi về đâu? Mong rằng nơi cửa Phật chị hóa giải mọi nỗi niềm. Chị ơi: “Dù rằng một chữ cũng thơ/ Dù rằng một thoáng cũng thừa xót xa/ Dù rằng một cánh cũng hoa/ Dù rằng một nửa cũng là trái tim/ Dù không nói dù lặng ... (*)

(*) Dù Rằng – thơ Nguyễn Bính

Cây Cỏ Hôi

Hoa cỏ hôi, loài hoa dân dã, bình dị có lẽ ai cũng biết. Những cành hoa cỏ hôi lẻ loi bên đường không gây chú ý cho một ai đi qua, thế nhưng tôi đã ngẩn ngơ trước vẻ hoang dại, man mác buồn của những vạt cỏ hôi trên những trảng cát trắng lẫn mùi thơm riêng biệt của hoa trong một lần đi cứu trợ ở làng An Bằng – Huế trong chiến tranh năm 1972 (Năm 1972 tôi theo đoàn Caritas và hội Hồng Thập Tự Huế đi phân phát gạo, thực phẩm cho dân làng An Bằng).

Từ sau chuyến đi gian nan đó, mỗi lần nhìn thấy hoa cỏ hôi tôi vẫn thường dừng lại ngắm nghía. Tôi đã chụp vài tấm ảnh loại hoa này quanh nơi tôi đang sống. Hoa cỏ hôi có tên không được hay và đẹp, nhưng những người làm vườn như chúng tôi khi làm cỏ không vứt bỏ một ngọn nào. Cuối vườn nhà tôi ngày đó có hai hố phân: Một hố phân sạch và hố phân tạp bì lù. Hố phân sạch dùng để bón cho các cây hoa, bụi chuối, cây ăn trái trồng cho việc cúng Phật, cúng ông bà tổ tiên. Hố phân này chỉ gồm các loại cỏ và lá: đa phần là cỏ hôi, ngoài ra còn có lá cây chay, xơ dừa, hoa cau, rong, bèo vớt từ sông. Hố phân tạp bì lù thì gồm tất cả đồ phế thải của nhà bếp, phân gà, phân heo, hố phân này để hoi rồi bón cho rau, hoa chơi cảnh, cây ăn trái không dùng trong cúng kiếng.

Cư dân thôn Vỹ Dạ ngày đó đa phần theo đạo Phật và thờ cúng ông bà. Trong thôn có đến ba ngôi chùa: chùa Phước Huệ, chùa Pháp Hải, chùa Ba La Mật và một ngôi đình làng. Do vậy nhu cầu hoa và trái cây sạch để cúng không thể thiếu, mặt khác trong việc cúng kiếng, người dân ở đây còn có quan niệm “quí hồ tinh bất quí hồ đa” nên nhà nào cũng tự trồng hoa, trồng chuối, trồng cau trầu và vài thứ cây ăn trái như mãng cầu, sa bu chê, quít, mùa nào thức nấy để cúng Phật mỗi ngày rằm, mùng một, hoặc trong các dịp cúng giỗ, kỵ chạp hằng năm. Mùi của hoa cỏ hôi hăng hắc khiến nhiều côn trùng có hại xa lánh.

Những luống rau lang ăn lá nếu trồng kèm vài gốc cỏ hôi sẽ không bị sâu rầy. Những chói đậu ve, đậu ngự để vài gốc cỏ hôi chung quanh cũng tránh được loại rầy đỏ hại trái. Lá cỏ hôi hay lá thầu đâu giã nhuyễn lọc lấy nước là thứ thuốc trừ sâu rầy rất công hiệu cho hai loại hoa quí ngày tết là cúc đại đóa và lê trắng. Nấu canh tập tàng bỏ thêm vài ngọn cỏ hôi, đọi canh có mùi vị dân dã đặc biệt thơm ngon. Luộc rau tập tàng thêm vài ngọn cỏ hôi cũng có vị lạ như vậy.

*

Cây cỏ hôi còn gọi là cây cứt lợn, cây bù xít, thắng hồng kế, hoa ngũ vị. Tên khoa học: Angeratum Comyzoide Thành phần hoạt chất: tinh dầu, alcaloide, saponin Theo đông y, cây cỏ hôi có vị cay, hơi đắng, tính mát; có tác dụng thanh nhiệt, giải độc, tiêu sưng; thường được dùng chữa viêm họng do lạnh, chữa rong huyết cho phụ nữ sau sinh, viêm đường tiết niệu … Tinh dầu cỏ hôi còn gọi là tinh dầu bù xít dùng để chữa viêm xoang.

Trong chuyến đi cứu trợ làng An Bằng năm đó, hình ảnh những vạt cỏ hôi hoa tím nho nhỏ mọc trên những bãi cát trắng phau cạnh những bụi xương rồng lưỡi gai màu xanh bạc, những chòi tranh xơ xác trên bãi biển, những chiếc ghe cá nằm trơ trên đụn cát, những đứa trẻ suy dinh dưỡng bị ngộ độc khi ăn cây xương rồng, đến lúc này vẫn còn lúc ẩn lúc hiện trong mảng ký ức của tôi.

Ngày nay trở lại làng An Bằng, những ngôi nhà ngói thềm cao, cửa lớn, rào giậu khang trang nằm san sát nhau. Đặc biệt khu nghĩa trang hoành tráng, với những lăng mộ tháp nhọn, tháp tròn xây gạch men, đắp nổi hình rồng phụng bằng những mảnh sứ vỡ, màu xanh màu đỏ màu hồng... Nơi đây đã trở thành “Thành phố ma”, “Thành phố của người chết”, “Khu biệt thự của người chết”, “ thiên đường lăng mộ”...theo cách gọi của một số phóng viên nhà báo. Có lẽ làng An Bằng là làng có nhiều người vượt biên nhất tỉnh Thừa Thiên – Huế.

Trước đó làng An Bằng vốn là một làng chài nghèo sống bằng những chuyến đánh bắt gần bờ. Sau năm 1975 hầu như nhà nào cũng có người vượt biên, định cư ở nước ngoài, đa phần là tại Mỹ. Hàng năm những người định cư ở nước ngoài này gởi tiền về cho thân nhân. Ngôi làng nhanh chóng thay da đổi thịt từ đó. Sửa sang nhà cửa, xây lăng đắp mộ cho bằng chị bằng em, cho cao hơn chú hơn bác là những gì mà người ở đây đã và đang thực hiện.

Nhớ và nghĩ lại tôi tự hỏi: Tại sao không để ông bà mình nằm giữa những vạt hoa cỏ thơm mát? Tại sao không để ông bà mình nằm giữa những rừng phi lao nghe gió biển vi vu thổi? Tại sao lại nhốt ông bà dưới những hầm mộ tối tăm, đè nặng bởi những tảng bê tông nóng bức? Và rồi, tôi vẫn nhớ về những trảng cát trắng đầy hoa cỏ hôi ở làng An Bằng ngày nào, vẫn yêu quí loài hoa dân dã này. Xin đừng biến nông thôn thành phố thị dù bất cứ lý do gì. Xin đừng biến những nghĩa trang xanh thoáng đầy cây cỏ thành “thành phố ma”.

Cây Mần Trầu - Cây Cỏ Mực – Cây Yên Chi

Cỏ mần trầu, cỏ mực, bông yên chi là những hoa cỏ thân thiết với tôi thời con gái. Những lá, những bông, những trái đó xin kể các bạn nghe về một thời đã qua.

1/ Cỏ mần trầu trong vườn xưa mọc từng đám nơi này nơi kia, cha mẹ làm cỏ không bao giờ nhổ hết, ông bà chừa lại vài đám để dành nấu nước cho chị em chúng tôi gội đầu. Ngoài chùm kết chanh, hàng tuần mẹ tôi còn cắt bông mần trầu, vo nát, đun sôi, lọc bỏ bã, lấy nước cho chúng tôi gội đầu. Nước cỏ mần trầu có mùi hăng hăng, gội đầu vô ý chảy vào mắt không gây cay và xót như nước chùm kết. Mẹ tôi hay nói: Chịu khó gội tóc bằng nước mần trầu tóc sẽ xanh mướt, không gãy hay chẻ ngọn, mai nữa khi già tóc sẽ chậm bạc. Mẹ nói đúng vì nhìn tóc mẹ, người đàn bà có mười lần sinh nở nhưng tóc vẫn đen nháy, bối thành một bối lớn sau gáy gọn gàng khỏe mạnh.

2/ Cây cỏ mực là cỏ dại mọc nhiều ở vùng đất ẩm. Trong vườn nhà tôi ngày đó cỏ mực mọc hai bên lối đi xuống bến sông. Mẹ vẫn thường tưới nước sạch cho đám cỏ tưởng chừng như vô dụng này. Mỗi sáng bà hái một nạm chừng mười lăm lá, rửa sạch, ngâm nước muối loãng, tối đến vò nát đặt giữa hai tấm giấy quyến kèm theo một lát nhỏ hành hương (hành tím) xắt mỏng, đắp lên mắt cho chị em chúng tôi trước khi đi ngủ khoảng mười phút. Sáng hôm sau dù học khuya mệt mỏi, nhưng mắt vẫn trong xanh, và bờ mi lại “ươn ướt mộng mị”

3/ Bông yên chi trồng cạnh các bậc cấp quanh nhà, lá xanh, bông hồng nhìn thật vui mắt. Mẹ trồng những luống bông này để làm đẹp cho năm chị em chúng tôi. Yên chi có bông rải rác quanh năm và kết trái vào mùa hè. Những cánh hoa màu hồng được giã nhuyễn, dùng vải tàu tám gói bó vào hai gót chân mỗi đêm khi ngồi học, mẹ thường nói “con gái phải giữ gót son hồng”. Trái của bông yên chi khi già chứa một thứ phấn màu trắng, mẹ hái trái mỗi mùa, lột bỏ vỏ đen, gom phần phấn trắng bên trong để dành trong những chiếc lọ thủy tinh nhỏ. Ngày hè nắng nóng hoặc những ngày có gió lào, da bỏng rát, chúng tôi được xoa mặt bằng thứ phấn trắng này giúp giữ ẩm, bảo vệ da.

Tôi là đứa con gái trốn ngủ trưa, chui hàng rào từ vườn này qua vườn kia vợt bướm, hái hoa, ăn trái dại, tóc lúc nào cũng cháy hoe. Tắm sông, tắm bến, lặn hụp tôi gội đầu chỉ với chút xà bông giặt, đôi lúc tỏ ra khó chịu khi mẹ bắt phải thế này thế kia. Nhưng rồi, lớn thêm vài tuổi, thấy mẹ nhọc nhằn, lo lắng cho mình, để mẹ không buồn lòng, tôi đã làm theo tất cả những gì mẹ bảo ban nhưng thâm tâm không thích lắm. Mẹ thường hay nói với chị em chúng tôi: “Cây cỏ trong vườn có sẵn, làm siêng một chút để tóc da đẹp thêm, nhưng con ơi, miệng sẽ đẹp hơn khi nói lời hay lời thật, mắt sẽ đẹp hơn khi nhìn được nỗi đau của người khác”.

Chị em chúng tôi đã lớn lên cùng nhau bên mẹ như thế. Rồi theo tháng năm chúng tôi chia tay, mỗi người theo những lối rẽ của riêng mình. Chị hai đi làm việc xa nhà, mẹ không quên vài ba tháng gởi cỏ mần trầu khô cho chị gội tóc. Phấn yên chi cho chị xoa mặt. Chị ba lấy chồng, vài ba tháng về thăm nhà, mẹ gói cho nào là cỏ mần trầu, nào là lá cỏ mực khô, nào là phấn hoa yên chi thơm nhẹ nhàng. Rồi mẹ ra đi, chị em chúng tôi bơ vơ, mần trầu, cỏ mực, yên chi... ngủ quên trong vườn.

Nắng mưa theo nhau xóa mờ tất cả. Bên tai tôi có những đêm vọng về câu hát “.../ Lòng Mẹ bao la như biển Thái Bình rạt rào/...Tình Mẹ dâng tới trăng ngàn đứng lặng để nghe/ Lời ru xao xuyến núi đồi suối rừng rặng tre/ Sóng ven Thái Bình im lìm khi tiếng Mẹ ru... (bài hát Lòng Mẹ của Y Vân).

Ghi chú thêm:

– Cỏ mần trầu còn gọi là cỏ vườn trầu, cỏ chỉ tía, ngưu cân thảo, sam tử thảo, tất suất thảo, cỏ dáng, cỏ bắc. Tên khoa học: Eleusine Indica. Mần trầu dùng toàn cây tươi hay khô. Có vị ngọt, hơi đắng, tính mát, Bổ huyết, hành huyết, lợi tiểu, giải độc, mát gan. Dùng ở các trường hợp hư tổn, chướng bụng, tiểu tiện không thông, phong thấp, sốt rét, sốt, gan nóng, huyết áp cao.

– Cỏ mực còn có tên nhọ nồi, hạn liên thảo, kim lăng thảo. Tên khoa học là Eclipa prostraca. Hoạt chất gồm: flavoide, Wedelolactone, vitaminK, tanin caroten. Cỏ mực có tác dung kháng khuẩn, điều trị rối loạn tiêu hóa, táo bona, cầm máu.

– Cây yên chi còn gọi là hoa phấn, sâm ớt, hoa bốn giờ. Tên khoa học: Mirabilis Jalapa. Hoạt chất hóa học: Rễ chứa trigonelline và một cacbohydrat khi thủy phân cho galactose và arabinose. Ngoài ra rễ củ của cây có chứa chất nhựa tẩy, 3% resin. Ngoài ra còn có các chất phytoconstitu như triterpenes và flavonoid. Tác dụng điều trị: Kháng khuẩn, ức chế cơ trơn.

Cây Muồng Trâu

Bên kia vạt cỏ trước nhà tôi những ngày cuối năm bừng sáng một khoảng trời bởi màu vàng tươi thắm của cây muồng trâu. Không biết cây có từ bao giờ, từ khi dọn về ở nơi đây tôi đã thấy nó. Cha tôi từ kháng chiến trở về, chuyên tâm làm vườn, vui thú điền viên, mẹ tôi quanh năm chợ đò lặn lội buôn bán nuôi chồng, nuôi con.

Nhưng rồi mọi chuyện không được yên vui như vậy, cha phải đi làm. Ông vào làm thư lại tại quận Tiên Phước Quảng Nam. Tại đây ông ở nhờ nhà một lương y. Vị lương y này tự trồng cây thuốc, tự chế biến, khám và chữa bệnh cho dân quanh vùng với tâm nguyện “làm phúc”. Ai cho gì cũng nhận, biếu ít tiền cũng xong, không trả gì cũng không sao.

Vốn thích cây cỏ, mỗi cuối tuần về thăm nhà, ông đem giống các cây thuốc này về trồng trong vườn nhà mình: Nào là tam thất, sâm đại hành, hy thiêm, khổ sâm, nhân trần, muồng trâu... Cây muồng trâu tỏ ra hữu ích nhiều, cư dân quanh xóm thường vào xin lá về điều trị bệnh ngoài da hay rối loạn tiêu hóa.

Màu vàng của hoa muồng trâu thay đổi theo mùa, theo thời tiết nắng mưa, tùy buổi sáng, buổi chiều hoặc đêm trăng. Những chiều mùa đông, trời lạnh, hoa muồng trâu có màu nghệ thẫm làm tôi nhớ đến màu y của một vị tỳ kheo ở Thiền Lâm Tự trên đồi Quảng Tế - Huế năm xưa: tỳ kheo Thích Hộ Nhẫn thường gọi một cách thân thương là sư Thiện. Tôi đến Thiền Lâm Tự mỗi ngày rằm, mùng một hàng tháng cùng mẹ để nghe sư thuyết pháp. Tại đây tôi được học về: Tứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo, được sư giảng giải cho nghe về Bi Trí Dũng và thế nào là Đại hùng, Đại lực, Đại từ bi...

Tại đây tôi cũng đã gặp được các vị cư sĩ là bạn của mẹ tôi: Bà Bố, tôi không nhớ tên nhưng biết bà là chị ruột của nhạc sĩ Dương Thiệu Tước, cháu nội cụ nghè Vân Đình Dương Khuê, bà Lê Khắc Duyệt, bà phán Triêm..., tôi còn được các bà chỉ dẫn về lời thưa, tiếng gọi, cách cắm hoa, làm bánh cúng Phật. Sư Thiện tu theo hệ phái Theravada, nhưng sư ăn chay, đi khất thực quanh vùng đồi núi Nam Giao, tín hữu cúng đồ mặn ngài chia lại cho trẻ con quanh vùng.

Một đôi lần tôi theo mẹ lên đồi sớm chờ cúng dường bình bát cho sư. Hình ảnh vị sư choàng tấm y vàng nghệ cũ kỹ, đi chân đất tay ôm bình bát, đầu trần, chậm chậm đi từng bảy bước một trong sương mờ còn lưu giữ mãi trong tôi cho đến tận ngày nay.

Vào một sáng mùa xuân, chị em chúng tôi trở lại thăm chùa xưa. Thiền Lâm Tự đơn sơ ngày xưa nay đã trở thành ngôi chùa nguy nga, tráng lệ. Chánh điện rộng rãi, nền lát gạch men màu vàng bóng lộn, bệ thờ đèn nháy xanh đỏ rực rỡ, chuông mõ to lớn hơn. Bên cạnh đó có một bục cao đặt tượng sư Thiện bằng sáp. Trông bức tượng không giống vị sư ngày xưa của tôi, vì thân tượng mập mạp, mặt tượng phương phi. Sư Thiện ngày xưa gầy ốm, khắc khổ hơn nhiều.

Quanh ngôi chánh điện còn có hai dãy nhà trai cũng rộng rãi, sơn vàng sáng chói. Cánh rừng thông quanh chùa như hẹp lại bởi các tháp thờ, lăng mộ, đồi hoa, cổng chào. Tại đây tôi gặp vị trù trì mới (Sư Thiện qua đời do một tai nạn giao thông, ngài bị xe tông khi đi khất thực), vị sư trẻ chưa quá 50, quấn y vàng may bằng một loại vải mềm sáng loáng. Vị sư tiếp chúng tôi:

– Mô Phật đạo hữu từ mô lại? Chị tôi, một phật tử thuần thục chắp tay thưa:

– Mô Phật chúng tôi từ xa về. Trong lúc chị tôi và vị sư trẻ nói về chuyện trùng tu chùa, về cây cỏ, hoa lá chung quanh, tôi đi lui đi tới trong sân ngắm các chậu cảnh đủ các thứ hoa: Sứ, sim, mai, đào... Tôi nhớ vị sư già trong căn cốc đơn giản của ngài ngày xưa, tôi chen ngang câu chuyện của hai người:

– Bạch sư, sư thường thuyết pháp vào ngày nào trong tháng? Vị sư không trả lời câu hỏi của tôi mà nói qua chuyện khác:

 – Người em của sư là phó chủ tịch phường này.

 – Hàng ngày sư đi khất thực quanh vùng, sư thấy dân chúng có no đủ không? Tôi hỏi tiếp:

– Mẹ và em gái của sư đã lên ở đây, nấu ăn cho sư hàng ngày. Vị sư trả lời tiếp. Nghe vị sư trẻ trả lời, tôi ngẩn ngơ. Níu tay chị, tôi tỏ ý muốn về.

Chị tôi e chừng còn muốn ở lại tham quan thêm, nhưng tôi nói tiếp:

– Mình về thôi chị. Không để cho chị chào từ biệt “vị trù trì” tôi kéo chị vội vã lui ra.

Chị và tôi đi xuống những bậc cấp dài, màu y vàng cũ kỹ ngày xưa đâu mất rồi!

*Cây muồng trâu còn có tên muồng lác, cây lác. Tên khoa học: Senna Alata Cây muồng trâu có vị đắng, tính mát, mùi hắc nhẹ, lá vị cay ấm. Phần thân, quả, lá, cành của cây muồng trâu đều được sử dụng để bào chế thành thuốc. Theo nghiên cứu hiện đại, trong hạt muồng trâu có chứa tới 15% protein, Mg, Mn, Ca, Na. Phần lá và quả muồng trâu có các dẫn xuất anthraquinon và phần rễ cây chứa sitosterol (là dẫn xuất của steroid thường xuất hiện trong các sản phẩm điều trị bệnh ngoài da).

* Ngày qua ngày, màu vàng hoa muồng trâu nhắc tôi nhớ ngôi chùa xưa, nhớ lời sư dạy, nhớ bốn mùa mưa nắng nơi vườn cũ. Buồn bã nghĩ về các “vị sư quốc doanh” hiện nay.

Than ôi còn đâu?

Cây Lưỡi Rắn

Có một loài hoa rất nhỏ, nhỏ chỉ bằng hạt gạo với bốn cánh màu trắng, màu trắng giấy tinh, nhụy là những sợi tơ mảnh như tóc trẻ thơ cũng màu trắng. Hoa mọc lẫn trong những đám cỏ rối rất khó nhìn thấy nếu không chú tâm tìm kiếm.

Từ kháng chiến trở về, cha tôi đi làm thư lại tại một huyện miền núi của tỉnh Quảng Nam, huyện Tiên Phước. Mặc dù chỉ mới bảy, tám tuổi nhưng mỗi cuối tuần khi cha về thăm nhà, nhìn nét mặt cha bơ phờ, nghe những câu chuyện giữa mẹ và cha, tôi biết rằng nơi cha tôi đang làm việc là một vùng bất ổn về nhiều mặt.

Để có thể bình an trong một vùng như thế, cha chọn cư trú trong nhà của một thầy lang. Hàng ngày ngoài công việc hành chánh ở huyện lỵ cha dồn hết tâm sức và thời gian cho việc trồng, hái chế biến cây thuốc nam giúp vị lương y già chẩn bệnh phát thuốc cho dân nghèo. Do cơ duyên này cha tôi biết thêm rất nhiều cây thuốc và mỗi cuối tuần về thăm, vườn nhà tôi có thêm một cây thuốc mới.

Một chiều cuối tuần, cha thận trọng, nâng niu mang về một vài gốc cây rất mảnh gói trong lá chuối, cha bảo mẹ: “Đây là cây lưỡi rắn trắng, bà đem để cạnh bể cạn sáng mai tôi sẽ trồng. Loại cỏ này thấy vậy nhưng rất quí vì chữa được rất nhiều bệnh”.

Cây lưỡi rắn trắng lớn lên, phát triển trong vuông đất cây thuốc nhà tôi ở Vỹ Dạ và đã giúp rất nhiều cho bà con lối xóm chung quanh.

*Lưỡi rắn trắng hay bạch hoa xà thiệt thảo, cỏ lưỡi rắn hoa trắng, an điền lan, bòi ngòi bò (danh pháp hai phần: Oldenlandia diffusa) là một loài thực vật thuộc họ Thiến thảo. Loài này được (Willd.) Roxb. mô tả khoa học đầu tiên năm 1814. Cây mọc dại ở Nhật Bản, Trung Quốc, Nepal, Bangladesh, Bhutan, Sri Lanka, Thái Lan, Việt Nam, Đài Loan, Indonesia, Malaysia, Philippines.

*Tài liệu y học phương đông ghi chép nó được sử dụng làm dược liệu trong điều trị một số bệnh liên quan hệ miễn dịch, sốt, ung thư.

*

*Cây lưỡi rắn trắng Tên khoa học: Hedyotis diffusa Willd. Tên khác: Bạch hoa xà thiệt thảo, Xà thiệt thảo, Giáp mãnh thảo, Nhị diệp luật, xương cá, vương thái tô, đơn đòng, nọc sởi, mai hồng, an điền lan. Họ: Cà phê

Lưỡi rắn trắng là một loại cây cỏ nhỏ, chỉ cao chừng 0,3m, hình dáng của thân hơi vuông, mềm yếu, nhẵn, có màu xanh và trên thân mọc nhiều cành nhỏ. Lá của cỏ lưỡi rắn có hình mác hẹp dài hoặc hơi rộng, kích thước của phiến lá khoảng 1 – 5cm, rộng 1 – 5mm. Tuy nhiên, có những lá rộng tới 1cm, hai đầu lá nhọn. Đa số chúng không có cuống, mép nguyên và chỉ có gân ở giữa lá là có thể nhìn thấy rõ.

Hoa nhỏ, có màu trắng hoặc hồng nhạt, đài hoa có kích thước khoảng 2mm, còn tràng hoa dài khoảng 2,5mm. Chúng mọc thành cụm, trong mỗi cụm có khoảng 2 – 5 bông hoa. Những cụm này lại chụm lại với nhau thành xim ở các kẽ lá. Cuống hoa được chia thành cuống chính và cuống phụ. Chúng đều nhỏ và ngắn khoảng 5 – 10mm.

Quả của cây cỏ lưỡi rắn hình bán cầu, đỉnh hơi phồng, dài chừng 1,8mm. Quanh quả nang có đài, bầu quả được chia thành 2 ngăn và trong quả có nhiều hạt. Những quả của loại dược liệu này có màu nâu, bề mặt có những gợn mịn, nhỏ.

Cây lưỡi rắn thường mọc hoang ở những vùng đất ẩm ướt và được tìm thấy nhiều ở các nước nhiệt đới ở châu Á, châu Phi, châu Mỹ, miền Nam Trung Quốc.

*Trong thành phần của cỏ lưỡi rắn có chứa các thành phần hóa học chủ yếu sau: Hentriaconotane, Corymbosin, Acid geniposidic, Ursolic acid, Stigmastatrienol, Oleanolic acid, p-Coumnic, b-Sitosterol...

Cây lưỡi rắn hoa trắng có tính hàn, vị ngọt, vào kinh vị, tâm, can, tiểu tràng, đại tràng. Nó có tác dụng thanh nhiêt, giải độc, tán ứ, lợi thấp, chống u.

Cây Màn Màn

Cây Màn Màn còn gọi là cây Màn Màn tím, Mần Ri Tía có nơi còn gọi là hoa Túy Diệp.

Tên khoa học: Cleome Chelidonii L

Vị cay, tính ấm, không độc

Hoạt chất hóa học: Trong hạt: 0,1% acid viscosic, 0,04% Viscocin

Dùng trong điều trị cảm cúm, hen suyễn, viêm thận, rắn cắn.

Những ngày sau tết Mậu Thân, vườn nhà tôi tan nát, cây cỏ cháy xém trông thật điêu tàn. Trong vườn hầm hố rải rác nơi này nơi kia, chứng tích cho những cuộc đánh xáp lá cà giữa quân Cộng Hòa và quân Cộng Sản.

Trở về nhà sau 21 ngày chạy trốn tên bay đạn lạc để kiếm lại vài tấm áo, vài quyển sách, vài nắm rau nhưng tất cả đã ngập trong bùn và lá cây mục nát. Không còn gì ngoài đổ nát tan thương. Chúng tôi đau buồn khôn xiết.

Một loại cây thân thảo mọc lên rất mạnh, chúng đan thành từng bụi rậm quanh các hố nước, lá nhỏ xanh xanh lẫn nâu xám, hoa tím có những tua nhị trắng vươn dài, chúng níu vào nhau như cố vượt lên trong bối cảnh hoang tàn hiện tại.

Ngắm nhìn nó lòng tôi thầm nghĩ: Hãy cố lên chị ơi! em ơi! hoa cỏ vẫn còn quanh đây kia mà.

Khi thấy chị em chúng tôi ngồi cố nhổ vài ngọn rau má còn lại đâu đó, chị Phước người hàng xóm đến ngồi cạnh và nói: “Mấy em ăn thử loại rau này, chị vừa nói vừa chỉ đám rau xanh nâu mọc bên cạnh hố nước, loại rau màn nàn này luộc không ngon nhưng làm dưa chua ăn cũng dễ đưa cơm, thời buổi này có rau này để ăn cũng tốt lắm rồi”.

Nghe chị nói, chúng tôi hái một rổ cây màn màn về ăn thử. Rau luộc mềm ăn hơi nhão, không mùi vị. Rau muối chua ăn giòn và có vị thơm cay cay.

Ngày qua tôi ra vườn, sau những cơn mưa, cây màn màn lên đọt rất non, đơm hoa nhiều, tôi hái về làm dưa chua. Món dưa chua ăn để nhớ lại những ngày đau thương, khốn khó. Nhớ để quên ngày tháng Mậu Thân.

* Có nơi viết là màng màng