Tác giả: Li Tana
Việt dịch: Phan Văn Song
Cambridge University Press
Lịch sử dính tới biển của các dân tộc và hàng hoá
Nhưng kể câu chuyện về Việt Nam dính với biển trải rộng qua hai vịnh, vịnh Bắc Bộ và vịnh Xiêm La (vịnh Thái Lan) theo cách nào? Mô hình dân tộc chủ nghĩa xưa cũ không phải là một lựa chọn, vì nó gộp các vương quốc ven biển Việt, Lâm Ấp, Champa và Khmer hạ vào một công thức duy nhất có sẵn và nấu chúng với nhau trong chiếc nồi gọi là 'Việt Nam'.[1] Một cách tiếp cận khả dĩ khác, phản ánh sự bành trướng về phía Nam của Việt Nam, cũng không thỏa đáng. Về mặt lịch sử, sự bành trướng này xảy ra dọc theo bờ biển, và chính tại các khu vực ven biển mà những thay đổi lớn xảy ra trước khi lan dọc theo các con sông và thung lũng tới vùng nội địa. Biển và sông thường đóng vai trò cốt yếu trong việc định hình những thay đổi chính trị khu vực trong ít nhất 2000 năm qua, nhưng việc chỉ đơn giản sắp xếp câu chuyện của chúng theo trình tự thời gian có nguy cơ tạo ra một câu chuyện về sự bành trướng của đế quốc Việt Nam về phía Nam, điều mà tôi cũng còn nghi hoặc. Trong số tất cả các nước Đông Nam Á, Việt Nam có lẽ là nước có lịch sử liên quan đến biển khó kể nhất, đầy rẫy những chướng ngại trong việc liên tục xác định và xác định lại xem khu vực ven biển đương đại nào từng thuộc về người nói tiếng Môn-Khmer, Chăm, Mạ, Stiêng và Khmer. Liệu có một cách tiếp cận tương đối trung lập nào cho phép kể một cách đơn giản câu chuyện biển của hơn 3 000 km phía đông lục địa Đông Nam Á mà không đặt các ranh giới hiện đại lên hàng đầu hay không?
Charles Higham đã chỉ ra một khả năng khi ông viết: 'Lông chim bói cá và ngọc trai, mai đồi mồi và tiền vỏ ốc [được tìm thấy ở miền trung Trung Quốc] từ đâu ra? Ngược lại, làm thế nào mà lưỡi [dao] nha chương (yazhang) lại tìm được đường vào các ngôi mộ thời kì đồ đá mới ở miền Bắc Việt Nam? Chỉ có thể có một câu trả lời, thông qua thương mại và trao đổi ý tưởng giữa các dân tộc ở vùng Đông Nam Á và khu vực lõi của Trung Quốc.'[2] Nghiên cứu của tôi ủng hộ nhận thức thâm trầm của Higham: khu vực này rất quan trọng cho việc đánh giá các quan hệ giữa Đông Nam Á và các cộng đồng rộng mở thời kì đồ đá mới, và các nhà nước sau này, thuộc thung lũng sông Dương Tử và Hoàng Hà. Mặc dù ranh giới hình chữ 'S' hiện tại chỉ mới tồn tại 50 năm lúc người Pháp đến, nhưng sự tương tác giữa các dân tộc trong các ranh giới đó đã có từ hàng chục ngàn năm. Lịch sử gắn với biển của các dân tộc và hàng hoá ở đây xứng đáng được kể lại mà không cần quy chiếu vào các khuôn khổ sử học do nhà nước gợi ra sau này. Đây là cách tốt nhất có thể có để khôi phục lại một quá khứ phong phú, đầy màu sắc và đầy ý nghĩa, nhiều yếu tố trong đó đã bị chìm khuất trong đại dương lãng quên hoặc cố ý xem nhẹ.
Một lịch sử như vậy sẽ cần phải kết nối bờ biển phía nam Trung Quốc với vùng Đông Nam Á quần đảo, Ấn Độ và Tây Á. Tất cả đều tự nhiên thuộc về lịch sử biển của khu vực mà nay là Việt Nam. Để đạt được mục đích đó, cuốn sách này tập trung vào hàng hoá, ý tưởng, dân tộc và tìm cách truy tìm lịch sử của nhiều trao đổi định hình đáng kể các nền văn minh dọc theo bờ biển Đông. Theo định nghĩa, lịch sử dính đến biển của đường bờ biển này phải được đặc trưng bởi sự gián đoạn, đứt gãy và khoảng trống khi các dạng hoàn toàn mới xuất hiện hoặc khi các dạng cũ mất đi và khi sự phân bổ lại đột ngột xảy ra dọc theo bờ biển dài hơn 3 200 km.[3] Cũng theo cách này, cuốn sách đứng ngoài sự liên tục suôn sẻ của các thứ lịch sử kiểu giản lược của nhà nước.
Các chủ đề chính của cuốn sách
Trong cuốn sách này Việt Nam gắn với biển được trình bày trong 10 chương theo trình tự thời gian, được sắp xếp xoay quanh 3 chủ đề chính. Đó là tính đô thị (urbanism) như một lối sống; tầm quan trọng của mạng lưới Hồi giáo đối với cả Champa và Đại Việt; và mối liên hệ giữa các diễn viên phi quốc gia và cộng đồng ven biển trên khắp bờ biển Đông.
Tính đô thị: Một lối sống
Lập luận chính của cuốn sách này là chúng ta cần hiểu phần bờ biển Việt Nam hiện đại bao gồm Giao Chỉ ở phía bắc và Lâm Ấp hay Champa ở phía nam (tiếp giáp miền bắc và miền trung Việt Nam hiện đại) khác với quan điểm nông nghiệp vốn nhiều nhất là chỉ thích hợp với lịch sử sau này của nó. Rất nhiều thứ sẽ đi vào tầm chú ý nếu thay vào đó chúng ta coi nó như một loạt các trạm hoặc trạm chuyển tiếp chính giữa biển Đông và thế giới Ấn Độ Dương. Quan điểm mới này nắm bắt được bản chất của lịch sử ban đầu của nó. Thương mại mang đến đây các tôn giáo chính, ý tưởng lớn, hệ thực vật và động vật từ những thế giới xa xôi được trao đổi và thường được vận chuyển qua các tuyến đường khác tỏa khắp châu Á. Câu chuyện về những mặt hàng có giá trị như 'dầu cánh kiến tuyệt vời của Giao Chỉ', như được nêu trong Chương 2, khi kết hợp với những món hàng từ gỗ trầm hương dùng để trang trí các thanh kiếm hoàng gia ở Nhật Bản thế kỉ 7 và 'âm nhạc Lâm Ấp' được chơi ở các cung điện Nhật Bản thế kỉ 10 (chương 3), đều bộc lộ vị trí quan trọng mà Giao Chỉ và Lâm Ấp từng chiếm giữ trong nền văn hoá bậc cao của châu Á.
Như vậy, Giao Chỉ thế kỉ 10, sớm trở thành nền tảng cho Đại Việt độc lập, đã là một thực thể gắn với biển giống như nước láng giềng Champa hay, xét theo góc độ khu vực, giống như các nước láng giềng trong quần đảo ở phía nam. Sự thịnh vượng chính của nó đến từ biển. Tuy nhiên, không giống như Champa hay khu vực Đông Nam Á đảo, Giao Chỉ là tiền đồn trên biển của các đế quốc Trung Quốc nối tiếp nhau, trải rộng qua các triều đại từ Hán đến Đường. Như vậy, nó không chỉ đơn thuần đóng vai là một tỉnh của Trung Quốc mà còn giống với Hong Kong của Trung Quốc thời nhà Thanh. Nếu sự so sánh này nghe có vẻ gượng ép, hãy xét các đặc điểm sau của Giao Chỉ: một trạm trung chuyển mà hàng hoá của nó có thể được vận chuyển theo cả hai hướng giữa biển Đông và Trung Quốc thuần túy; một không gian an toàn nơi mà mọi người từ các vùng khác nhau của châu Á có thể gặp nhau bên ngoài phần lõi chính trị của đế chế Trung Hoa; một trung tâm chính của những ý tưởng mới du nhập từ phía nam, chẳng hạn như đạo Phật và đạo Bà La Môn; trung tâm đầu tiên tinh chế chất thơm chính cho thị trường Trung Quốc; và cuối cùng là một trung tâm quốc tế, nơi mà nhiều học giả hàng đầu của Trung Quốc thời bấy giờ tìm đến nương náu. Tất cả những người này đến Giao Chỉ không phải vì nó ở xa xôi, biệt lập và lạc hậu, mà chính là vì điều ngược lại: một nơi giàu có, thú vị, nơi mà các dân tộc và ý tưởng đa dạng có thể hoà trộn với nhau. Chẳng phải điều này giống với Hong Kong trong thế kỉ 19 và 20 sao?
Chỉ bằng cách nhìn lịch sử ban đầu của nó dưới góc độ này, chúng ta mới có thể hiểu được sự tăng trưởng dân số nhanh chóng của Giao Chỉ và mật độ dân số lạ thường của nó vào đầu kỉ nguyên hiện tại (Common Era - CE), dù nó có vị trí có vẻ xa xôi, ở phần rìa đế chế Hán. Góc nhìn này cũng lí giải việc trồng cây chất thơm lan rộng vào thế kỉ 4 ở những vùng đất nằm giữa đồng bằng sông Hồng và biên giới với Vân Nam. Chỉ khi xem Giao Chỉ và kinh đô Luy Lâu của nó như một đô thị lớn, chúng ta mới có thể hiểu tại sao có rất nhiều ngôi chùa bắt đầu xuất hiện ở đó vào thế kỉ 3 CE và tại sao Luy Lâu lại trở thành trạm chuyển tiếp chính cho các nhà sư Phật giáo trong hành trình giữa Ấn Độ và Trung Quốc. Rất có thể ở đây những Phật tử Ấn Độ trên đường tới Trung Quốc đã lần đầu làm quen với tiếng Trung. Như Paul Wheatley từ lâu đã lập luận:
Các ngôi chùa ở Tongking (Bắc Việt Nam) có thể là nơi có nhiều khả năng nhất để tìm thấy các nhà sư biết nói cả tiếng Trung lẫn một số ngôn ngữ khác ở vùng các biển phia Nam như tiếng Chăm hoặc tiếng Java, hoặc có thể tiếng Phạn, rằng khu vực này sẽ là một điểm dừng chân thuận tiện, nơi mà một người Java hoặc một tu sĩ Ấn Độ có thể được giải thích những điểm phức tạp của ngữ pháp tiếng Trung bằng ngôn ngữ của họ. . . Giao Chỉ nói chung và nơi đóng của chính phủ nói riêng đã trở thành một phần của hệ thống trật tự tôn giáo vươn từ Trung Quốc đến Ấn Độ và của một mạng lưới thương mại kéo dài từ biển Đông đến Địa Trung Hải.[4]
Với tư cách là các thực thể chính trị, Giao Chỉ lẫn Lâm Ấp/Champa đều chú trọng đến kinh đô và các cảng, cùng nhau tổ chức đời sống và sản xuất và từ đó nảy sinh chế độ chuyên chế đô thị. Các nguồn tài liệu hiện có tiết lộ rằng các chế độ chuyên chế đô thị đã tồn tại trong các xã hội sống ở bờ tây vịnh Bắc Bộ, thậm chí cho đến tận thế kỉ 13 và 14 trong trường hợp Đại Việt, dưới sự bảo trợ của nhà Trần. Như Richard O'Connor đã chỉ ra, trong hai thiên kỉ, tính đô thị (urbanism) là một lối sống của người Đông Nam Á. Các thành phố gắn kết các dân tộc và xã hội đa dạng lại với nhau, và thậm chí cả những dân tộc ở vùng xa xôi cũng có thể tự định hình theo phản ứng của họ đối với quy tắc đô thị. Đối với O'Connor, thành phố Đông Nam Á 'không phải là sự áp đặt xa lạ từ bên ngoài mà là một kiến trúc bản địa [. . . ] khác biệt, vượt trội nhưng vẫn đại diện cho xã hội'.[5] Thừa nhận vị trí trung tâm của thành phố là rất quan trọng đối với sự hiểu biết của chúng ta về trật tự xã hội và văn hoá của cả Giao Chỉ lẫn Champa.
Các mạng lưới Hồi giáo từ lâu ít được kể đến: Tham vọng của Đại Việt và Xuất khẩu của Champa
Việc đồng bằng sông Hồng tách ra khỏi Trung Quốc vào thế kỉ 10 và sự chuyển đổi thành công của nó thành vương quốc Đại Việt đánh dấu một bước ngoặt quan trọng cả về chính trị lẫn kinh tế. Được biết đến nhiều nhất trong lịch sử với cái tên Giao Chỉ vào thời Hán, từ thế kỉ 2 BCE, nó đã là một phần của một số đế quốc và vương quốc Trung Quốc, như các thảo luận trước đây đã lưu ý. Trong phần lớn thời gian đó, khu vực này từng là cửa ngõ chính của Trung Quốc - trong những năm đầu là cửa ngõ chính cho ngoại thương, như Chương 1 và 2 sẽ trình bày. Ngay cả sau khi Quảng Châu trở thành cảng biển lớn vào thế kỉ 7 CE, Giao Chỉ vẫn giữ được vị trí đứng đầu về hàng hải ở vịnh Bắc Bộ. Vai trò này mất đi vào thế kỉ 10. Khi là một vương quốc độc lập, Giao Chỉ nhường lại vai trò của mình cho Tuyền Châu, một sự kiện được thể hiện rõ khi triều đại nhà Tống mới thành lập cơ quan Hải quan (Thị bạc ti) tại Tuyền Châu vào năm 1087. Điều này tạo ra những cơ hội mới cho Champa, ở phía nam Đại Việt. Nó đã tối đa hoá vị thế của mình là 'Cảng và Con đường' (xem Chương 3 và 5) thương mại của vùng Đông Nam Á dính với biển đối với các lãnh thổ trên đất liền như Lào và Campuchia cũng như có thể khai thác hiệu quả các mạng lưới Hồi giáo hiện có của mình trong thương mại với Trung Quốc.
Tuy nhiên, vào thế kỉ 12, sự trỗi dậy của giao thương Giao Chỉ Dương (biển Giao Chỉ trong cuốn sách này) ở vịnh Bắc Bộ đã giúp Đại Việt khôi phục vai trò trung gian béo bở của Giao Chỉ, nối Tứ Xuyên, Vân Nam và Quảng Tây với các thị trường khu vực Đông Nam Á đảo và, thông qua chúng, tới thế giới thương mại Ấn Độ Dương và Tây Á. Trong đó, các mạng lưới thương mại Hồi giáo là rất cốt yếu. Các thương nhân Hồi giáo khi ghé vào Champa và Đại Việt đã mở rộng một cách hiệu quả phạm vi thương mại của biển Giao Chỉ về phía tây qua Ấn Độ Dương. Họ cũng mở rộng nó về phía đông, khi các cộng đồng thương nhân Hồi giáo đang lớn mạnh ở các thành phố Trung Quốc như Tuyền Châu ở Phúc Kiến sáp nhập Champa vào mạng lưới của họ, điều này cũng mang lại lợi ích cho Đại Việt và thúc đẩy tham vọng kiểm soát bờ biển của nước này. Như Chương 6 cho thấy, nhiều diễn biến quan trọng trong lịch sử ban đầu của Đại Việt bao gồm sự bùng nổ dân số, mở rộng nông nghiệp đến bờ biển, hội nhập chính trị với sự phát triển văn hoá ở thượng nguồn, trung du và duyên hải như sự trỗi dậy của tân Nho giáo và xuất khẩu gốm sứ - tất cả đều được thúc đẩy, ít nhất một phần, bởi tác động của những ảnh hưởng và cơ hội dính với biển. Nhiều diễn biến trong số này dính dáng đến các thỏa thuận thương mại Chăm - Việt phi nhà nước có lợi nhuận. Nhưng khi Lê Thánh Tông đập tan Champa vào năm 1471, chiếm lấy vùng đất phía bắc và bắt cóc, giết hại hoặc phân tán phần lớn dân cư của nước này, ông đã vô tình đặt tất cả những điều đó vào vòng nguy hiểm.
Chiến dịch năm 1471 và hậu quả của nó, tách rời các kết nối phi nhà nước Chăm-Việt, đã tạo ra một bước ngoặt ít được biết đến trước đây trong lịch sử Việt Nam. Trước năm 1471, các thương nhân Chăm làm trung gian cho giới thương mại Đại Việt và quần đảo Malay trong một thiên kỉ rưỡi; việc đánh mất họ đã làm tổn hại đến thương mại Đại Việt vì nước này thường dựa vào người bên ngoài để vận chuyển hàng hoá của mình. Việc mất đi những người Hồi giáo này và những kết nối phía nam của họ cũng khiến vùng vịnh mất đi những cơ hội giao thương quý giá mà Giao Chỉ và Đại Việt buổi đầu đã có được trong nhiều thế kỉ. Như Keith Taylor đã lưu ý, chính việc tiếp cận thương mại với Chăm và Khmer - cả hai nền văn hoá không Trung Quốc phát triển tốt - đã mở rộng quan điểm văn hoá của giới tinh hoa cầm quyền Đại Việt trong nhiều thế kỉ.[6] Bây giờ những kết nối đó đã bị hủy hoại. Bắt đầu vào thế kỉ 16, sản xuất của Đại Việt bắt đầu cạnh tranh ngày càng tăng với sản xuất của vùng ven biển Trung Quốc hơn là bổ sung cho nó.
Các diễn viên phi quốc gia: Các xã hội ven biển trên bờ biển Đông
Các nhà sử học chưa hề đặt câu hỏi về tầm quan trọng của thương mại đường biển với Champa, nhưng, như đã thảo luận trước đó, những hạn chế áp đặt lên lịch sử Việt Nam bởi cách viết sử với tầm chú ý hạn hẹp, hướng nội và khoá chặt vào đất liền khiến cho ý tưởng về một Việt Nam thương mại, gắn với biển dường như khó phù hợp với nhiều thế hệ nghiên cứu lịch sử. Nhưng những nghiên cứu điển hình được tập hợp trong cuốn sách này, dựa trên khảo sát tường tận các tài liệu hiện có của Trung Quốc và Việt Nam, cùng với nhiều nguồn khác, giờ đây cho phép chúng tôi tự tin nói rằng những ảnh hưởng của biển rất sâu rộng và thường cực kì quan trọng. Những thứ lịch sử từ trên xuống hiếm khi thừa nhận tầm quan trọng của chúng bởi vì các sử quan chính thống tại các triều đình Việt Nam phần lớn không thừa nhận vai trò kinh tế của các diễn viên không phải người Việt. Nhưng điều này không có nghĩa là không có hoạt động nào như vậy xảy ra. Nhiều nguồn khác nhau gợi ra rằng các thỏa thuận dường như đã được thực hiện giữa các triều đình khác nhau của Việt Nam với nhiều thế hệ thương nhân đường biển để những hoạt động buôn bán này có thể được tiến hành đôi lúc bí mật và hầu hết đều công khai. Những dàn xếp như vậy được thực hiện bởi vì những vấn đề có liên quan không hề tầm thường hay bên lề mà rất trọng yếu đối với cơ cấu cơ bản của nhà nước Đại Việt. Như James Anderson đã lập luận về thương mại ven biển Trung-Việt thời kì đầu sau độc lập, ‘các dân tộc địa phương có thể đã tiến hành thương mại, nhưng các triều đình giờ đây đã biết cách thao túng môi trường thương mại để thu lợi cho chính mình’.[7]
Suy ngẫm về nhiều cách mà các yếu tố này đóng vai trò thiết yếu trong thời gian dài, người ta tự hỏi liệu có quốc gia Đông Nam Á nào dựa vào các liên hệ dính với biển thông qua những người vận hành phi nhà nước nhiều như Đại Việt hay không. Tuy nhiên, 'dàn diễn viên phụ ẩn mình nhưng thiết yếu trong câu chuyện lớn về các sự kiện', như Anderson nói,[8] có quá ít điều để nói về bản thân đến nỗi họ hầu như không xuất hiện trong các tường thuật, ghi chép và thống kê chính thức hiện có. Việc buôn muối giữa bờ biển phía đông của đồng bằng sông Hồng và vùng núi sâu của Vân Nam và Quảng Tây cho thấy những trao đổi quan trọng trong cuộc sống hàng ngày của người dân có thể đã bị loại ra khỏi lịch sử chính thức như thế nào. Như được thảo luận ở Chương 4, một mạng lưới các bên quan tâm - các quan Việt Nam ở bờ biển, các quan nhà Tống ở miền nam Trung Quốc, và các thủ lĩnh Tai-Kadai đứng trung gian – vì mối lợi riêng của họ đã tạo điều kiện cho hoạt động buôn bán muối béo bở được thuận lợi, được làm ra trên bờ biển nhưng được bán qua Vân Nam hay Quảng Tây vào nội địa Trung Quốc. Các xã hội ven biển của cả bờ biển Trung Quốc lẫn Việt Nam - những người làm muối, thương nhân, người bán rong, thủy thủ, người khuân vác và người dẫn đường không để lại ghi chép nào về trải nghiệm hàng ngày và sinh kế gắn với biển của mình.[9] Đối với cả hai xã hội này, việc đó sẽ gây ra sự chú ý không mong muốn từ chính phủ. Đối với người Việt, còn thêm một lí do nữa: ngôn ngữ viết không phải là tiếng mẹ đẻ của họ.[10] Trong số những người có thể viết, rất ít văn nhân quan tâm đến việc ghi lại những điều liên quan đến tiền bạc như học giả Lê Quý Đôn đã làm ở thế kỉ 18. Về khía cạnh này, đàn ông Việt Nam có những điểm tương đồng với đàn ông Đông Nam Á. Đàn ông quan tâm đến những thứ khác, đặc biệt là địa vị, và thể hiện nam tính qua việc coi thường thương mại và đổi chác, thích để những hoạt động đó cho phụ nữ và người nước ngoài làm.[11]
Kết luận
Vì sao câu chuyện liên quan tới biển lại chìm khuất lâu đến mức vắng bóng trong lịch sử dân tộc Việt Nam? Việt Nam với tư cách là một quốc gia-dân tộc (nation-state) đã nhận thức sâu sắc về vị trí lịch sử của mình, nằm giữa Trung Quốc và Champa, một bên là kẻ xâm lược thường trực và bên kia là đối thủ lâu năm đã bị đánh bại. Tuy nhiên, chính Champa mới đặt ra vấn đề gai góc và khó xử nhất đối với các học giả Việt Nam. Như Bruce Lockhart đã chỉ ra, “Vương quốc Champa không còn tồn tại và sự biến mất của nó là hậu quả trực tiếp của sự bành trướng và thuộc địa hoá của người Việt”.[12] Cho đến gần đây, nghiên cứu của họ từ lâu đã bày ra một bãi mìn chứa các vấn đề nhạy cảm tiềm ẩn liên quan đến mối quan hệ lịch sử của Việt Nam với các nước láng giềng và những căng thẳng cũ vẫn tồn tại giữa nhiều dân tộc mà dù sẵn lòng hay không, vẫn muốn hợp thành một quốc gia đa sắc tộc duy nhất. Từ quan điểm này, hình ảnh một “Việt Nam nông nghiệp, làng xã và Nho học” đem lại một cơ sở an toàn hơn, ấm cúng hơn cho các nhà sử học xây dựng trên đó. Sử học sau Thế chiến 2 của trường phái tự trị tìm kiếm lực đẩy địa phương như là lực lượng lịch sử cơ bản củng cố cách tiếp cận này.[13]
Việc xây dựng hình ảnh một nước Việt Nam cách mạng thì phức tạp hơn. Từ những năm 1860 đến năm 1975, hơn một thế kỉ Việt Nam buộc phải đối mặt với câu hỏi liệu mình có thể tồn tại như một quốc gia độc lập hay không. Rất ít dân tộc trên thế giới hiện đại phải chịu đựng những gì mà người Việt Nam từng phải chịu đựng, trước xâm lược của Pháp, Nhật, Mĩ và có lẽ lần cuối cùng là của Trung Quốc trong Chiến tranh Trung-Việt năm 1979. Với tư cách một quốc gia, với những nguồn lực ít ỏi lại còn bị những rào cản kinh tế do những kẻ thù giàu có hơn áp đặt, Việt Nam cần tất cả các nguồn lực mà nó có thể có được để duy trì cuộc chiến đấu để tồn tại. Tuy nhiên, một nguồn lực trọng yếu mà nó có thể vun đắp trong nước là sự quyết tâm tinh thần. Những huyền thoại dân tộc quan trọng đối với mọi quốc gia, nhưng nó càng có vai trò rất lớn trong thời kì chiến tranh ở Việt Nam như một phương tiện truyền cảm hứng cho các lực lượng quân sự còn non trẻ của mình để đương đầu liên tiếp với bọn Goliath quyết tâm tiêu diệt nó. Như vậy, huyền thoại dân tộc về cuộc kháng chiến chống xâm lược của nước ngoài như từ người Hoa và từ người Chăm đã giúp khơi dậy bản chất “chiến binh” của sử học Việt Nam mà Philippe Papin đã chỉ ra một cách sâu sắc, phản ánh bối cảnh mà nó được tạo ra.[14] Trong quá trình đó, dù tốt hay xấu, một số mặt nhất định của lịch sử đã bị đạp đổ. Lịch sử Chăm và lịch sử biển có chung một số phận.
Việc chịu đựng kéo dài. Theo cái nhìn của nhà sử học, Việt Nam không mấy may mắn kể từ cuộc chiến Tây Sơn tai ương (1771-1802) xé nát đất nước. Nỗi khổ đau kéo dài của đất nước dường như cuối cùng đã đến hồi kết. Ngay cả trong năm 2020, khi cả thế giới phải đối mặt với đại dịch và suy thoái kinh tế, Việt Nam vẫn tiếp tục là một trong những quốc gia có nền kinh tế đạt thành quả hàng đầu thế giới và là điểm đến ưa thích của đầu tư nước ngoài, hi vọng đảm bảo một tương lai thịnh vượng cho nhiều thế hệ mai sau.
Gió đã bắt đầu đổi chiều ít nhất 20 năm trước. Từ cuối thế kỉ 20, các nhà sử học Việt Nam đã tiếp cận lịch sử nước mình từ nhiều góc độ khác nhau, tất cả đều mở ra những chân trời mới.[15] Trước đó rất lâu, học giả Việt Nam, Thành Thế Vỹ, đã xuất bản cuốn Ngoại thương của Việt Nam vào thế kỉ XVII-XVIII và đầu XIX vào năm 1961, trong năm khó khăn nhất của Chiến tranh Việt Nam.[16] Tôi rất cảm động khi biết cách ông kiên trì đề cập đến chủ đề này trong khi các sử gia khác lao vào những chủ đề có tính thời thượng hơn như các cuộc nổi dậy của nông dân.[17] Cuốn sách của ông được in trên giấy có chất lượng xấu nhất vì lệnh cấm vận nhưng đó là nguồn cảm hứng tuyệt đối của tôi. Thành Thế Vỹ khiến tôi tin rằng có điều gì đó quý giá và ẩn giấu phải tìm trong lịch sử Việt Nam. Tôi đã được thừa hưởng cả học thuật cũ và mới ở Việt Nam và hi vọng cuốn sách này sẽ có đóng góp vào đó, cùng nhau khám phá một lịch sử Việt Nam phong phú hơn.
1 Việc hình thành biển
Những biến đổi của biển và câu chuyện lịch sử Việt Nam
Từ 15 đến 40 triệu năm trước, tiểu lục địa Ấn Độ đã tiến về phía bắc so với vùng đất Á-Âu làm nâng cao nguyên Thanh Hải-Tây Tạng lên. Dải đông nam lục địa Á-Âu thoát khỏi sự va chạm kiến tạo này, hình thành nên một khối lớn mà ngày nay chúng ta gọi là bán đảo Đông Dương. Vùng đất này tiếp tục biến đổi trong nhiều triệu năm sau đó; cho đến gần đây, nó trông rất khác so với những gì được thấy ngày nay.
Sự biến đổi địa chất đã tác động rất lớn đến sự phát triển của đồng bằng sông Hồng. Gần đây nhất là cách đây 18 000 đến 15 000 năm - một ánh chớp trong thời gian địa chất - vịnh Bắc Bộ vẫn chưa xuất hiện hoàn toàn. Vào lúc đó, mực nước biển thấp hơn hiện nay khoảng 120 mét. Điều này có nghĩa là đường bờ biển của bán đảo Đông Dương vươn xa ra biển Đông, vượt xa lằn ranh hiện tại của nó. Sau đó, từ 8 000 đến 6 000 năm trước, mực nước biển bắt đầu dâng cao, như là một phần của chỉ một pha thay đổi mực nước biển theo thời gian địa chất. Trong pha này, nước biển dâng cao đã đẩy lùi đường bờ biển về phía đất liền, nhấn chìm các dấu tích của các khu định cư ven biển khi lấn vào. Các nhà khảo cổ học đã chỉ ra rằng, khi được nhìn trong bối cảnh mới này của sự thay đổi mực nước biển, cái gọi là nền văn hoá tiền sử của vịnh Bắc Bộ có nhiều khả năng đại diện cho những nền văn hoá còn sống sót trong pha thay đổi mực nước biển này hơn là bất kì nền văn hoá nguyên thủy hoặc riêng biệt nào. Trong quá trình mở rộng biển này, một khi mực nước biển đã tăng cao hơn thời kì trước từ 2-5 mét, các khu định cư ven biển tồn tại từ trước biến mất dưới sóng biển không còn dấu vết. Do đó, các nền văn hoá vùng thượng nguồn sông Hồng như Sơn Vi và Hoà Bình, như là những nền văn hoá còn sống sót sau biến đổi biển, không thể hiện đầy đủ sự đa dạng về dân tộc, văn hoá và hệ thống kinh tế như đã từng tồn tại trên một địa hình rộng lớn hơn nhiều trước khi mực nước biển dâng.[18]
Từ 5000 đến 3000 ВСЕ, môi trường sống ven biển ổn định trở lại. Bờ biển rút vào để lại một vùng biển rộng lớn mà chúng ta gọi là vịnh Bắc Bộ. Đáp ứng với sự thay đổi này, sông Hồng cải biến đồng bằng của nó, nơi mà tổ tiên người Việt sau này sẽ phát triển. Trong các thời kì tiền sử tiếp theo, mực nước biển lại hạ xuống. Khi xảy ra điều như vậy, nước biển hoà lẫn với nước ngọt của sông Hồng chảy xuống để tạo nên vùng đồng bằng thời kì đồ đá cũ và tạo thành một bờ biển mới. Vào lúc đó, nền văn hoá ven biển được biết với tên Cái Bèo xuất hiện ở mũi phía bắc của vùng duyên hải Việt Nam ngày nay, kéo dài đến tận Thanh Hoá và Nghệ An, nơi có các di chỉ khảo cổ Hoa Lộc (có niên đại 4000 BP- [Before the Present]) và Quỳnh Văn có đông đúc những người hái lượm và săn bắn sinh sống.[19] Hơn 70 địa điểm ven biển, có niên đại từ 5000 đến 3000 BCE, nằm dọc theo vòng cung bờ biển dài từ miền nam Trung Quốc đến miền bắc Việt Nam, trải dài trên biên giới hiện đại của hai nước - cho thấy các dấu hiệu rằng cư dân của chúng hoạt động trong một thế giới gắn với biển rộng lớn, nơi mà các cộng đồng ven biển trao đổi hàng hoá và chia sẻ tập tục văn hoá. Theo thời gian, chúng bắt đầu phù trợ cho việc định cư lớn với cấu trúc làng chính thức hoá và nghĩa trang dày đặc đồng thời cũng thể hiện một số nhóm văn hoá đặc biệt.[20] Vì các nhóm tiền sử này có chung hệ sinh thái ven biển nên người ta không thể xác định họ về mặt văn hoá theo các phạm trù dân tộc đương thời. Như Andreas Reinecke đã chỉ ra, đi tìm nguồn gốc của văn hoá Bàu Tró chỉ ở miền Trung Việt Nam sẽ là vô ích, ‘bởi vì có một số “nền văn hoá” ven biển tương tự quanh biển Đông và chúng có nhiều kết nối thương mại, văn hoá và kinh tế với nhau'.[21]
Do đó, vịnh Bắc Bộ thời tiền sử phải bắt đầu ở sâu hơn trong đất liền, thậm chí là xa hơn về phía thượng nguồn, đến tận vùng lân cận Hà Nội ngày nay, nằm cách vịnh Bắc Bộ khoảng 100 km. Để minh họa, tại một cuộc khai quật ở Đại Trạch, chỉ cách Hà Nội 20 km, Nishimura Masanari cho biết rằng các nhà khảo cổ đã nhận diện ra loại phấn hoa vốn chỉ có thể thuộc thực vật vùng nước lợ, xác nhận sự hiện diện của nước mặn vốn thường xảy ra ở các cửa sông nơi có nước biển hoà lẫn với nước ngọt.[22] Truyền thuyết cũng ủng hộ điều này. Một ghi chép lịch sử Việt Nam thế kỉ 14 kể lại chút truyền thuyết về một 'ao cổ' (HV là trì) - về mặt logic nó phải là một đầm phá ở Cổ Loa, kinh đô của vương quốc cổ Âu Lạc (257-179 BCE), mà di tích của nó nằm cách Hà Nội khoảng 16 km về phía đông bắc.[23] Tại đây, các vua Việt đã “thu lượm ngọc trai và dùng nước để rửa ngọc trai”. Quả vậy, lời văn khẳng định, những viên ngọc trai trở nên sáng và đẹp hơn một cách đặc biệt sau khi chúng được rửa sạch bằng nước của đầm phá này.[24] Truyền thuyết này dường như cho thấy rằng Cổ Loa vào lúc điểm đó gần bờ biển hơn nhiều so với chúng ta hình dung theo cảnh quan hiện tại, cách biển khoảng 120 km.
Những phát hiện gần đây này tiết lộ một quá trình thay đổi địa hình dài hạn thách thức các nhà khảo cổ và sử học phải xem xét tác động của đường bờ biển luôn dịch chuyển đối với cách diễn giải của chúng ta về nguồn gốc xã hội Việt Nam ở khu vực đồng bằng sông Hồng. Một quá trình như vậy đã được phản ánh, dù mờ nhạt, trong những câu chuyện chúng ta kể. Nó thậm chí còn được phản ánh qua tác động của nó đối với cách giải thích của chúng ta về lịch sử. Chẳng hạn, theo một truyền thuyết Đạo giáo Trung Quốc phổ biến dọc theo bờ biển Trung Quốc, một nàng tiên tên Magu [麻姑: cô Ma] 'đã thấy ruộng dâu biến thành biển, và biển biến thành ruộng dâu ba lần' trong đời, như thể gợi ý quá trình phế hưng theo chu kì 3 các nền văn hoá đáp ứng với sự thay đổi của môi trường bờ biển hoặc với sự tiến và lùi 3 giai đoạn của biển.[25] Những phát hiện khảo cổ học về thời tiền sử của đồng bằng sông Hồng buộc chúng ta phải coi trọng môi trường năng động của địa lí ven biển luôn thay đổi của vịnh Bắc Bộ như là yếu tố chính trong sự phát triển của các xã hội đồng bằng sông Hồng trong thiên kỉ thứ nhất BCE. Một khi chúng ta đã khôi phục các di tích lịch sử quan trọng như Cổ Loa, biểu tượng chính của văn hoá Việt cổ, trở về bối cảnh lịch sử-địa lí phù hợp, chuyển vị trí của chúng từ bên trong đồng bằng thành bờ biển, thì bối cảnh lịch sử Việt Nam trong giai đoạn đầu này sẽ thay đổi. Một sự thay đổi như vậy đòi hỏi phải xem xét lại những niềm tin có từ lâu về sự khởi đầu của Việt Nam. Bằng chứng rất rõ ràng: biển đã ảnh hưởng đến lịch sử Việt Nam từ trước khi nthật sự bắt đầu.
Người Việt từ biển
Một trăm năm trước, học giả Leonard Aurousseau người Pháp đã nhận định rằng muốn đi tìm bằng chứng lịch sử về người Việt Nam xưa nhất được biết đến thì có thể tìm ra ở dọc theo rìa vịnh Bắc Bộ, cụ thể là phía nam tỉnh Quảng Tây ngày nay của Trung Quốc và vùng hạ lưu của miền bắc và miền trung Việt Nam ngày nay - và thậm chí những người này còn xuất hiện trong các ghi chép lịch sử được ghi không sớm hơn thế kỉ 3 BCE.[26] Ông đặt câu hỏi, 'Vậy họ là ai và từ đâu đến?'
Sau khi nghiên cứu tỉ mỉ sử sách, Aurousseau đã đưa ra một thuyết. Ông cho rằng gốc gác của người Việt nằm ở vùng Dương Tử trung với cuộc chinh phục người Chu đối với một dân tộc tên là Yue - phát âm là 'Việt' trong tiếng Việt hiện đại - ở vùng đồng bằng hạ lưu sông Dương Tử, nơi họ sống vào năm 333 BCE. Để ứng phó, người Việt thua trận đã di cư về phía nam dọc theo bờ biển ngày nay của Trung Quốc về phía 'Nam Hải', hay biển Đông, trước khi rẽ về phía tây vào vịnh Bắc Bộ. Trong quá trình di cư này, nhiều nhánh khác nhau đã định cư dọc trên đường đi. Từ đó phát triển nên xã hội ‘Trăm Việt' - cụ thể là Baiyue (C.) hay Bách Việt (V.) - lớn hơn. Một nhánh mà các tài liệu Trung Quốc xác định là Xi Ou (V. Tây Âu) di cư dọc bờ biển đến phía đông Quảng Tây và phía tây Quảng Đông rồi sau đó vào thung lũng sông Hồng, họ định cư ở đó và đặt nền móng cho xã hội Việt Nam. Nhiều người đã chỉ trích thuyết của Aurousseau từ khi nó được công bố, bao gồm cả đồng nghiệp của ông, Henri Maspero, vốn coi đó là một sự xấu hổ và 'nên lặng lẽ cho qua đi'.[27] Vụ tai tiếng này bị tắc lại. Vào những năm 1960, tán đồng với các thế hệ nhà phê bình trước đó các nhà sử học dân tộc chủ nghĩa Việt Nam đã cho ra đời cuốn sách 4 tập, dày 1400 trang có tựa đề Hùng Vương dựng nước, về cơ bản là một tuyên bố rằng 'các Vua Hùng đã dựng nước’.[28] Kể từ đó, đây vẫn luôn là quan điểm chính thống về nguồn gốc của người Việt.
Trong vài thập kỉ qua, lí thuyết di cư yểu mệnh của Aurousseau cách đây một thế kỉ đã được các nhà khảo cổ và ngôn ngữ học của Việt Nam và miền nam Trung Quốc làm sống lại. Ví dụ, Judith Cameron chỉ ra rằng vấn đề chính trong thuyết của Aurousseau chủ yếu nằm ở niên đại của nó. Nói một cách chính xác, cuộc di cư nói trên của người dân từ đồng bằng sông Dương Tử tới miền nam Trung Quốc đã xảy ra hàng thiên kỉ trước cuộc chinh phục của nhà Chu. Nói cách khác, cuộc di cư của người Việt từ đồng bằng sông Dương Tử tới miền nam Trung Quốc, miền bắc Việt Nam và các vùng khác của Đông Nam Á xảy ra trong thời tiền sử chứ không phải thời có sử. Cameron đã phân tích các bằng chứng khảo cổ về việc kéo sợi và dệt vải tại các di chỉ thời kì đồ đá mới 7000 năm tuổi thuộc nền văn hoá Hemudu [河姆渡: Hà Mỗ Độ], nằm ở hạ lưu đồng bằng sông Dương Tử, và xác định các công cụ kéo sợi chính xác như trục xoay hai hình nón với họa tiết đặc biệt tại các di chỉ như Tianluoshan (田螺山: Điền Loa sơn) và các di chỉ thời kì đồ đá mới giữa dọc theo bờ biển phía nam Trung Quốc trước khi chúng xuất hiện tại các di chỉ ở thung lũng sông Hồng gắn liền với nền văn hoá Phùng Nguyên (2000-1500 BCE) và sau đó là nền văn hoá Đông Sơn (1000 BCE - thế kỉ 1 CE).[29] Judith Cameron kết luận rằng những hiện vật này thể hiện hậu quả của việc các nhóm nông dân sử dụng cả công nghệ trồng lúa lẫn dệt vải nhập cư vào lưu vực sông Hồng vào thời tiền sử.[30]
Cuộc di cư của người dân từ đồng bằng sông Dương Tử được xác nhận qua các lần khai quật gần đây tại Mán Bạc, một di chỉ ở góc tây nam đồng bằng sông Hồng thuộc huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình. Năm 2007, các nhà khảo cổ đã khai quật được nhiều hài cốt của một cộng đồng người di cư. Bằng chứng sinh học từ 32 bộ xương cho thấy những người mới đến địa điểm này, nằm dọc theo lối ra biển phía nam của vùng đồng bằng, trong khoảng từ năm 2500 đến năm 2000 BCE. Việc phân tích hài cốt người đã xác nhận cộng đồng dân cư hoà huyết. Một gen trong mẫu giống với gen của người dân Hoà Bình và Bắc Sơn ở miền bắc Việt Nam và Đa Bút ở Vĩnh Lộc, ở miền bắc và miền trung Việt Nam, trong khi một gen khác cho thấy mối liên hệ di truyền chặt chẽ với những người từ đồng bằng sông Dương Tử xa về phía bắc.[31] Như Ken-ichi Shinoda đã chỉ ra, những người đến từ miền nam Trung Quốc trong thời tiền sử đã góp phần 'vào việc hình thành mô hình di truyền cơ bản được thấy ở dân cư miền bắc Việt Nam hiện đại'.[32] Điều đáng chú ý là Mán Bạc có niên đại từ năm 2500 đến 2000 BCE và trước thời Phùng Nguyên (2000-1500 BCE) mà các chuyên gia thường coi là thời điểm khởi đầu của nền văn minh Việt Nam. Như Cameron chỉ ra, những phát hiện khảo cổ từ địa điểm này gợi nhớ đến truyền thuyết Việt Nam về vua rồng họ Lạc (Lạc Long Quân), người đã từ biển hiện lên để dạy người dân thung lũng sông Hồng cách trồng lúa và dệt vải.
Nhìn vào cuộc di cư này vào vùng hạ lưu đồng bằng sông Hồng, người ta không khỏi thắc mắc về tình hình ở thượng nguồn. Chúng ta có thể nói gì về những người được phát hiện ở Hoà Bình và Bắc Sơn ở vùng đồng bằng phía trên? Khi phân tích trong bối cảnh các nghiên cứu khảo cổ học gần đây nhất về xương người trên khắp Á-Âu, các mẫu lấy từ xương khai quật được ở Bắc Sơn có đặc điểm sọ não giống với những người săn bắt hái lượm thời kì đồ đá mới tìm thấy ở Malaysia, Indonesia và Venddah Sri-Lanka. Được gọi chung là 'người Australo-Papuan', họ tạo thành đợt sóng người đầu tiên di cư vào miền bắc và miền trung Việt Nam khoảng 14 000 năm trước. Trong lớp người di cư thứ hai đến k. 5000 năm trước là người Đông Sơn, những người có đặc điểm sọ não giống với người ở Tanshishan [曇石山: Đàm Thạch sơn], Hemudu [Hà Mỗ Độ] ở Trung Quốc và Ban Chiang ở Thái Lan.[33]
Thuyết của Aurousseau về cuộc chinh phục của người Chu và cuộc di cư của người Yue/Việt vẫn đứng vững được, nhờ nhà ngôn ngữ học dân tộc David Holm, ông đã tiết lộ bằng chứng về sự di cư về phía nam của họ trong một thời kì muộn hơn so với Cameron đã đề xuất. Ông đã thu thập các chữ viết Choang cổ và truy tìm dữ liệu mà nó cung cấp về niên đại và mối quan hệ dựa trên các bằng chứng khảo cổ học và kết luận rằng có nhiều bằng chứng về mối liên hệ văn hoá chặt chẽ giữa trung tâm người Việt ở Chiết Giang và các thể chính trị (polity) người Việt ở Lĩnh Nam, cũng như một tuyến đường biển được thiết lập tốt cung cấp sự cơ động lên xuống bờ biển.[34] Bắt đầu từ cuối thời Xuân Thu (khoảng 550-481 BCE), Holm lưu ý, các di chỉ đồ đồng ở Quảng Đông và đông bắc Quảng Tây cho thấy sự gia tăng rõ rệt về ảnh hưởng của văn hoá Việt, và vào giữa thời Chiến Quốc (khoảng 350 BCE) những ảnh hưởng này trở nên lan rộng và sâu sắc hơn. Số lượng các hiện vật kiểu Việt và sự xuất hiện đột ngột của chúng cho thấy di cư như là nguyên nhân có nhiều khả năng nhất.[35]
Quả thật, có bằng chứng chắc chắn về cuộc di cư về phía nam của giới ưu tú Việt. Năm 1961, một trong những di chỉ khảo cổ phong phú nhất về vấn đề này đã được khai quật ở Việt Khê, nằm ở mũi phía bắc của đồng bằng sông Hồng, nơi giáp biển. Cùng với nhiều đồ đồng Đông Sơn, các nhà khảo cổ đã khai quật được một cái vạc ba chân gọi là đỉnh (C. ding). Hiện vật này rất có ý nghĩa. Vào thời điểm nó được làm ra, việc sử dụng vạc ba chân bị cấm đối với tất cả mọi người trừ các gia đình quý tộc. Không phải ngẫu nhiên mà nó được khai quật cùng với một chiếc chuông, vì một mô tả kinh điển về một gia đình quý tộc là: 'Gia đình ăn thức ăn nấu trong vạc ba chân khi chuông kêu' 鐘鳴鼎食之家 [chung minh đỉnh thực chi gia]. Những điểm tương đồng gần nhất về mặt hình học giữa chiếc vạc ba chân này với những chiếc khác được khai quật ở hạ lưu đồng bằng sông Dương Tử (xem Hình 1.1) được xác định là vào khoảng thế kỉ 5 và 3 BCE.[36] Các chuông tương tự cũng được tìm thấy ở phía tây Quảng Đông, vùng lân cận sông Tây [Giang], hành lang quan trọng cho giao thông Bắc Nam. Cả hai đều có niên đại vào thế kỉ 3 BCE.[37]
Hình 1.1 So sánh vạc ba chân và chuông ở Việt Khê và miền nam Trung Quốc.
Nguồn: Được phép của Wei Weiyan và Shiung Chung-Ching, 'Ngôi mộ Việt Khê 2: Xác định đồ đồng lạ và đánh giá sự tiếp xúc văn hoá giữa văn hoá Đông Sơn và Việt', Khảo cổ học Châu Á 2 (2014), 81.
Người Việt trước hết là những người dùng thuyền và người đi biển. Vua Việt Câu Tiễn có câu nói nổi tiếng rằng người Việt ‘đi bằng đường thủy và sống phía núi; thuyền là xe và chèo là ngựa của họ. Họ đến như gió và khi họ đi thì khó có thể đuổi kịp.'[38] Holm xác minh khẳng định này theo quan sát của ông rằng con đường chính của cuộc di cư Yue/Việt dựa vào đường biển bằng cách sử dụng thuyền đi biển hoặc thuyền chạy dọc bờ biển như là thuyền đôi gọi là fangzhou [方舟: phương chu]. Thuyền quân sự của họ đủ lớn để chứa 50 người, cùng với lương thực dự trữ trong ba tháng, và có thể đi 300 lí (1 lí = 500 mét) xuôi dòng trong một ngày.[39] Ông phát hiện ra rằng những bức vẽ ‘những người đàn ông gắn lông chim chèo thuyền’ (được coi là nét đặc trưng của Đông Sơn) đã được phát hiện không chỉ ở vùng duyên hải Chiết Giang mà còn ở Quảng Tây, Vân Nam và trong lăng mộ hoàng tộc Nam Việt ở Quảng Châu.[40]
Đi lại bằng đường thủy cũng mang văn hoá Đông Sơn tới miền nam Trung Quốc. Một hiện vật rất có ý nghĩa về mặt này. Năm 1974, các nhà khảo cổ Trung Quốc đã phát hiện ra một con dao găm bằng đồng có hình một phụ nữ trong số những đồ đồng khác được khai quật tại địa điểm có tên Shumuling [[樹木嶺: Thụ Mộ Lĩnh], nằm dọc theo sông Tương thuộc vùng Trường Sa, tỉnh Hồ Nam, miền trung nam Trung Quốc. Các nhà khảo cổ xác định thời gian nó được làm ra là từ thế kỉ 4 đến thế kỉ 3 BCE. Hình 1.2 cho thấy hình dạng của nó giống với một trong số những con dao găm Đông Sơn được phát hiện ở khắp miền Bắc và miền Trung Việt Nam, thậm chí xa hơn về phía Nam. Đây chỉ là một ví dụ về việc trao đổi văn hoá luôn bao gồm một chu trình giao thông hai chiều. Một ví dụ khác lấy trong một nghiên cứu của học giả Nhật Bản Yoshikai Masato, ông đã chỉ ra rằng việc truyền trống đồng Heger II và kĩ thuật đúc trống đi từ đồng bằng hạ lưu sông Hồng về phía tây bắc đến Quảng Tây chứ không phải từ Vân Nam đến Quảng Tây như được nghĩ trước đây. [41]
Hình 1.2 (a) Dao găm từ Hà Đông, đồng bằng sông Hồng và
(b) Dao găm từ Thụ Mộ Lĩnh, Hồ Nam.
Nguồn: (a) Dao găm có gốc ở Hà Đông, miền Bắc Việt Nam.
(b) Dao găm có gốc ở Thụ Mộ Lĩnh ở Hồ Nam, do Wei Weiyan,Victor Goloubew, ‘L'âge du copper au Tonkin et dans le Nord-Annam', Bulletin de l'École française d'Extrême-Orient 29 ( 1929), pl.19. Mối liên hệ với Hồ Nam rất quan trọng: John Phan chỉ ra rằng Hồ Nam (Xiang 湘 : Tương) là phía có nhiều khả năng nhất cho 'tiếng Hán An Nam Trung Cổ' cho người Việt gốc Hoa có nguồn gốc từ các vùng sông Hồng, Mã và Cả. John Phan, ‘Re-imagining “Annam”: A New Analysis of Sino-Viet-Muong Linguistic Contact‘ [Hình dung lại “An Nam”: Một phân tích mới về tiếp xúc ngôn ngữ Hán-Việt-Mường”, Chinese Southern Díapora Studies 4 (2010), 9-13.
Bằng chứng về cuộc di cư về phía nam cũng có thể được phát hiện trong ngôn ngữ. Nghiên cứu của Holm về chữ Hán cổ và chữ Choang cho thấy mối liên hệ chặt chẽ hơn nhiều giữa tiếng Việt và tiếng Tai ngày nay. Catherine Churchman đã thiết lập mối liên hệ ngôn ngữ giữa hai thứ tiếng này trong nghiên cứu của bà về các nền văn hoá trống đồng thời kì đầu. Ví dụ, sau khi xác định bằng chứng lịch sử sớm nhất về từ “trống” trong tiếng Việt, mà người Việt ngày nay phát âm là trống, theo từ điển tiếng Việt thế kỉ 17 của Alexandre De Rhodes, sau đó bà so sánh nó với cách ghi bằng chữ Nôm phiên âm lời nói Tai để tiết lộ dạng tiếng proto-Tai tổ tiên của từ này.[42] Nói một cách đơn giản, proto-Tai ảnh hưởng tiếng proto-Việt và nói rộng ra là tiếng Việt hiện đại. Các nghiên cứu của các nhà ngôn ngữ học Việt Nam xác nhận khẳng định của Churchman về vốn từ vựng chung rất lớn giữa hai ngôn ngữ sơ khai này trong các lĩnh vực văn hoá như việc sản xuất lúa gạo.[43] Nhìn chung, các bằng chứng về ngôn ngữ, khảo cổ và lịch sử chỉ ra ảnh hưởng mạnh mẽ của các dân tộc phía Bắc đến sự hình thành văn hoá sơ khai Việt (proto-Vietnamese) ở đồng bằng sông Hồng, mà tới lượt mình nó củng cố tầm quan trọng của yếu tố biển.
Phải chăng bằng chứng này đã lật đổ quan điểm dân tộc chủ nghĩa của Việt Nam hiện nay cho rằng chính các vua Hùng đã tạo ra dân tộc Việt Nam? Không nhất thiết như vậy. Ba điểm trọng tâm trong lập luận của Việt Nam: thứ nhất, thời Hùng Vương là có thật chứ không phải là huyền thoại gốc về lịch sử dân tộc; thứ hai, thời Hùng Vương là thời kì chuyển tiếp lịch sử; và cuối cùng, chính vào thời Hùng Vương mà dân tộc Việt Nam đã ra đời và phát triển.[44] Không có điều gì trong những luận điểm này cho thấy sự không tương thích giữa bằng chứng mới với thuyết cũ. Trên thực tế, một truyền thuyết phổ biến về nguồn gốc Hùng Vương cho thấy chúng rất khớp nhau. Theo câu chuyện này, vua Hùng đầu tiên là con cháu của vua rồng Lạc (Lạc Long Quân), một hoàng tử biển, kết hôn với Âu Cơ, công chúa núi, bà đã sinh ra các vua Hùng đầu tiên.[45] Quả thật, truyền thuyết này có thể phản ánh kí ức văn hoá tập thể của hậu duệ của giới ưu tú Yue/Việt nguyên thuỷ đã di cư từ đồng bằng sông Dương Tử vào khoảng thiên kỉ 3 BCE. Những phát hiện tích lũy về khảo cổ học, ngôn ngữ học và dân tộc học trong vài thập kỉ qua cung cấp chỗ dựa vững chắc cho các ghi chép lịch sử cách đây 2000 năm để giải quyết những mâu thuẫn và làm sáng tỏ những sự thật lịch sử sâu xa hơn trong truyền thuyết và làm rõ hơn là lật đổ các thuyết đã có từ lâu.
Đặt lịch sử Việt Nam vào trở lại bối cảnh rộng lớn hơn nhiều này chỉ làm nổi bật di sản phong phú của dân tộc Việt Nam hơn là làm suy yếu nó. Thu hẹp thế giới đã nuôi dưỡng dân tộc Việt Nam hàng ngàn năm vào không gian chật hẹp của thung lũng thượng lưu sông Hồng sẽ tước đi sức mạnh và sức sống lịch sử của dân tộc Việt Nam. Dù mọi người có thể thấy bất cứ điều gì trong nỗ lực của tôi ở đây nhằm xem xét lại lịch sử xa xưa của người Việt, những gì Keith Taylor đã nói khoảng 40 năm trước vẫn còn đứng vững cho đến ngày nay: 'Những truyền thống theo truyền thuyết xung quanh Lạc Long Quân và nguồn gốc của Hùng Vương tiết lộ một nền văn hoá hướng về biển bắt đầu với môi trường lục địa.'[46] Hay, theo cách nói của Philippe Papin, ‘sử thi truyền thuyết vĩ đại [của người Việt Nam] đã cố gắng giải thích sự phân chia cơ bản giữa thế giới ao hồ, đầm lầy, đất ngập nước và mọi thứ xung quanh, với thế giới của môi trường núi non khắc nghiệt nơi nền móng được phơi bày’.[47]
Việc giới hạn khuôn khổ phân tích của chúng ta vào không gian chật hẹp của thung lũng thượng lưu sông Hồng 'có nghĩa là khoác lên người anh hùng Gióng' - Thánh Gióng, một người khổng lồ trong truyền thuyết những năm 1220 BCE - 'một tấm áo trẻ con’, trích lời học giả Diệp Đình Hoà.[48] Nói cách khác, nó từ khước vô số dòng văn hoá đã góp phần vào sự phát triển của người Việt ngày nay, một khối đa dạng chỉ có thể được phát hiện từ góc nhìn liên-Á rộng lớn hơn. Nếu không có cái nhìn này, chúng ta không thể bắt đầu đánh giá bằng cách nào mà một nền văn hoá hướng biển đã can dự, tương tác và hoà nhập với nền văn hoá hướng núi ở thượng nguồn và bằng cách nào mà các hành vi văn hoá mới phát triển từ sự tổng hợp này đã góp phần vào sự phát triển của một xã hội mới kết nối với núi, đồng bằng, sông và biển, dẫn đến việc hình thành một trung tâm mới quan trọng trong thương mại đường biển đang phát triển ở vùng châu Á biển - nơi mà người Trung Quốc gọi là Jiaozhi [交趾] và người Việt gọi là Giao Chỉ - một sự phát triển sẽ được giải thích trong phần tiếp theo.
Tạo ra Giao Chỉ
Aurousseau nhận thấy chính xác rằng từ ‘Jiaozhi’ (Giao Chỉ), một từ từ lâu chỉ miền Bắc Việt Nam, xuất hiện muộn hơn nhiều so với các từ trước đó gắn liền với khu vực này, như 'Xi Ou' (V. Tây Âu) và 'Luo' (V. Lạc). '[49] Giống như từ 'Luo' (Lạc) ban đầu được dùng để chỉ những người sống ở khu vực ngày nay là Quảng Tây cũng như miền bắc Việt Nam và do đó không thể dùng để chỉ một dòng ngôn ngữ duy nhất dành riêng cho người Việt,[50] từ 'Yue/Việt' tương tự cũng đã từng có phạm vi quy chiếu rộng, mặc dù ngày nay nó thường được sử dụng một cách bất cẩn như thể nó đề cập đến một nhóm dân tộc', như Catherine Churchman đã chỉ ra.[51]
Điều quan trọng nữa là phải giải quyết câu hỏi không thật rõ ràng, như Stephen O'Harrow đã đặt ra, 'cụm từ "người Việt" trở nên hữu ích ở đâu và, ngược lại, nó có thể cản trở quan điểm của chúng ta về mọi thứ ở đâu.’[52] Churchman chỉ ra rằng tổ tiên của những người mà ngày nay thường được gọi là 'Việt' (đa số người 'Kinh' ở Việt Nam ngày nay) đã chọn từ này làm tên gọi nhóm cho chính họ khá muộn. Có lẽ rõ ràng hơn, từ 'Việt', được định nghĩa theo quy ướước là cách phát âm tiếng Việt của chữ Hán 越 (C. Yue), chính xác là cách phát âm của chữ này theo các quy tắc của tiếng Trung Trung đại thời cuối, dạng tiếng Trung tồn tại trong thời Trung Hoa cai trị vùng đồng bằng sông Hồng.[53]
Từ 'Giao Chỉ' cũng gặp phải sự hiểu lầm tương tự. Nó dùng để chỉ lãnh thổ mà hiện nay mở rộng ra khỏi Việt Nam về phía Trung Quốc, giống như 'Yue/Việt' hay 'Lạc'. Quan trọng nhất, và trái ngược với quan sát của Aurousseau, từ này lâu đời hơn đáng kể so với những cái tên Sinitic khác. Trên thực tế, ‘Giao Chỉ’ ban đầu chỉ lãnh thổ cực nam của vị vua thần thoại Thần Nông - nói cách khác, một địa điểm có tính thần thoại hơn là lịch sử khi nó xuất hiện lần đầu trong tác phẩm cổ điển Trung Quốc Hoài Nam Tử, vào thế kỉ 2 BCE.[54] Như Aurousseau đã chỉ ra, chỉ đến thời nhà Hán, từ này mới được sử dụng để chỉ đồng bằng sông Hồng và sau đó mở rộng sang các khu vực khác nằm dưới sự kiểm soát của Trung Quốc và sau này là của Việt Nam.[55] Giao Chỉ là một cái tên bao quát bao gồm những người thuộc nhiều ngôn ngữ trong phạm vi của nó, như Hậu Hán Thư ghi lại: 'Mặc dù các cơ quan hành chính đã được thiết lập ở Giao Chỉ, nhưng có rất nhiều người nói các thứ tiếng khác nhau, nên cần nhiều thông ngôn mới truyền tải được điều muốn truyền đạt.'[56] Nói cách khác, Người Trung Quốc đã lấy một cái tên nẩy sinh trong truyền thuyết để mô tả một vùng lãnh thổ rộng lớn đã chinh phục được, trong khi các thế hệ sau này áp dụng tên này cho các vùng địa lí mới hình thành, do đó 'Giao Chỉ' cuối cùng trở thành đồng nghĩa với Việt Nam. Từ này vẫn giữ nguyên, ngay cả đối tượng nó chỉ đến đã thay đổi.
Điều này xảy ra do hậu quả của cuộc chinh phục của Trung Quốc. Nhiều thế kỉ sau cuộc di cư của người Việt, việc tiếp cận nền thương mại ngày càng lớn mạnh ở biển Đông đã khuyến khích những người lập ra đế chế đầu tiên của Trung Quốc mở rộng sang vùng đông nam Trung Quốc và xa hơn nữa là vịnh Bắc Bộ. Họ đặt tên cho lãnh thổ mới của mình là 'Giao Chỉ' sau khi Hán Vũ đế đánh bại vương quốc Nam Việt đóng tại Phiên Ngung (Quảng Châu) vào năm 111 BCE, mặc dù thành mới của họ là Giao Chỉ, chứ không phải Phiên Ngung, sẽ giám sát mọi công việc của lãnh thổ mới này trải dài từ đông nam Trung Quốc đến miền Bắc Việt Nam. Như vậy, trích lời Catherine Churchman một lần nữa, cụm từ 'dân Giao Chỉ' trên thực tế là một trong những cách gọi xưa nhất để chỉ dân 'Việt' như chúng ta biết ngày nay. Ngày nay nó còn tồn tại như là 'Keeu' trong các ngôn ngữ Tai-Kadai (bao quanh 'người Việt' Nam Á ở vùng đồng bằng), và là 'Kuchi trong tiếng Malay.'[57] 'Keo' có thể cũng là cách người dân Giao Chỉ phát âm chữ 交 - phát âm là jiao trong tiếng Hán hiện đại và giao trong cách đọc Hán Việt; cách phát âm sau mãi cho đến khoảng trước khi kết thúc thiên kỉ thứ nhất mới phát triển.[58] Do đó, thiên kỉ cai trị của Trung Quốc đã bắt đầu xác định lại một cách cơ bản các nền văn hoá của vịnh Bắc Bộ - và quan trọng nhất cho mục đích của chúng ta, nền văn hoá của đồng bằng sông Hồng - nơi đang khởi động quá trình dẫn đến bản sắc Việt Nam riêng biệt xuất hiện vào lúc cuối của quá trình đó.
Người Hán ban đầu ưa thích vùng đồng bằng này và cái vịnh bao quanh nó, một phần là vì họ có thể đến đó dễ dàng hơn Quảng Đông, và nhiều thế kỉ sau, nơi đây trở thành cửa ngõ phía nam được ưa thích của Trung Quốc. Điều này là nhờ vào kênh đào Ling (靈渠: Linh cừ), mà người dân đã đào theo lệnh của hoàng đế đầu tiên của Trung Quốc trong khoảng thời gian từ 223 đến 214 BCE để chuyển quân về phía nam, một thành tựu lớn trong lịch sử Trung Quốc, vì nó nối liền sông Dương Tử của miền Trung Trung Quốc với hệ thống sông Tây [Giang] ở Nam Trung Quốc và cuối cùng với vịnh Bắc Bộ. Từ sông Tương, một nhánh của sông Dương Tử ở tỉnh Hồ Nam ngày nay, kênh Linh đưa tàu thuyền đến sông Li (漓江), qua đó họ có thể đi đến cảng biển mới Panyu [Phiên Ngung] (Quảng Châu ngày nay), hoặc nối với sông Bắc và Nam Lưu của Quảng Tây ngày nay để cuối cùng đến cảng Hepu (Hợp Phố) trên vịnh Bắc Bộ (Bản đồ 1.1).
Bản đồ 1.1 Vị trí Giao Chỉ ở châu Á thiên kỉ thứ nhất
Tầm quan trọng của hành lang kinh tế mới giữa miền Trung Trung Quốc và vịnh Bắc Bộ được bộc lộ qua số lượng lớn các ngôi mộ người Hán mà các nhà khảo cổ đã phát hiện ở tỉnh Quảng Tây. Bằng chứng từ các ngôi mộ được khai quật thời kì Sơ Hán (206 BCE -24 CE), tập trung ở các khu vực Quế Lâm, Ngô Châu, Ngọc Lâm và Tần Châu cho thấy dân số ở khu vực này đã tương đối dày đặc và giao tiếp với phần còn lại của đế quốc được thiết lập tương đối tốt. Chỉ riêng khu vực Hợp Phố ước tính có hơn 10 000 ngôi mộ Hán trải rộng khắp nơi.[59] Trên bờ biển Giao Chỉ, dọc theo sông Đuống và sông Thái Bình, có hàng trăm ngôi mộ có niên đại từ thời nhà Hán.[60] Người dân địa phương cho biết rằng chỉ riêng ở Thủy Nguyên, có vô số các ngôi mộ kiểu Hán nằm đầy ở núi Rùa gần làng Mĩ Cư, và một số ngôi mộ ở đó rất lớn.[61] Kết hợp những ngôi mộ này với hàng ngàn ngôi mộ Hán được phát hiện ở Hợp Phố ở ven biển Quảng Tây, Lạch Trường ở Thanh Hoá và Trà Kiệu ở miền Trung Việt Nam (để biết thêm về những ngôi mộ sau, xem Chương 3) cho thấy vòng tròn các ngôi mộ cổ của người Hán bao quanh toàn bộ rìa vịnh Bắc Bộ. Nó dường như gợi ý một kiểu thống nhất 'Địa Trung Hải' mà cuộc chinh phục và định cư của người Hán đã đáp ứng. Những người ở các bờ biển khác nhau này có thể đã có nhiều mối liên lạc. Tàn tích của những cộng đồng từng ở ven biển này từ lâu đã bị ngăn cách với biển bởi các vùng cát đồng bằng đã mở rộng đáng kể trong thiên kỉ thứ nhất và thứ hai CE,[62] che giấu dấu tích của những bờ bến xưa bên dưới lớp trầm tích khi chúng tiến vào vịnh một cách không thể tránh khỏi. Để đánh giá điều gì đã thu hút người Trung Quốc đến lãnh thổ Giao Chỉ biên viễn này, điều quan trọng là trước hết phải hiểu các mạng lưới thương mại bên ngoài của xứ này, bắt đầu từ các tuyến đường đi lại đã xác định chúng.
[1] Cả Christopher Goscha và Ben Kiernan đều cảnh báo việc lùi các quan niệm địa lí hiện đại về quá khứ, và Goscha chỉ ra rằng đã có nhiều nước Việt Nam khác nhau. Christopher Goscha, Vietnam: A New History [Việt Nam: Một lịch sử mới (New York: Basic Books, 2016), trang 1–3; Ben Kiernan, Vietnam: A History from Earliest Times to the Present [Việt Nam: Lịch sử từ thời sơ khai đến hiện tại] (Oxford: Nxb Đại học Oxford, 2017), tr. 4.
[2] Charles Higham, 'Crossing National Boundaries: Southern China and Southeast Asia in Prehistory' [Vượt qua ranh giới quốc gia: Nam Trung Quốc và Đông Nam Á trong thời tiền sử], trong Ian C. Glover et al. (eds), Uncovering Southeast Asia's Past: Selected Papers from the 10th International Conference of the European Association of Southeast Asian Archaeologists [Khám phá quá khứ của Đông Nam Á: Các bài viết chọn lọc từ Hội nghị quốc tế lần thứ 10 của Hiệp hội các nhà khảo cổ học Đông Nam Á châu Âu] (Singapore: NUS Press, 2006), tr. 14.
[3] William Southworth, 'The Origins of Campa in Central Vietnam, A Preliminary Review’ [Nguồn gốc của Campa ở miền Trung Việt Nam, Đánh giá sơ bộ]. Luận án tiến sĩ, SOAS, Đại học London (2001), tr. 27, trích dẫn Michel Foucault, L'archéologie du savoir, bản dịch tiếng Anh. Khảo cổ học tri thức (New York: Pantheon Books, 1972), trang 169-170.
[4] Paul Wheatley,The Origins of Campa in Central Vietnam, A Preliminary Review [Nagara và Commandery: Nguồn gốc của truyền thống đô thị Đông Nam Á] (Chicago: Đại học Chicago, Khoa Địa lí, 1983), trang 371-373.
[5] Richard O'Connor, 'Indigenous Urbanism: Class, City and Society in Southeast Asia‘ [Lối sống đô thị bản địa: Giai cấp, Thành phố và Xã hội ở Đông Nam Á], Journal of Southeast Asian Studies 26, 1 (1995), 30-31.
[6] Keith W. Taylor, The Birth of Vietnam [Sự ra đời của Việt Nam] (Berkeley: Nxb Đại học California, 1991), tr. 299.
[7] James A. Anderson, ‘Slipping through Holes: The Late Tenth- and Early Eleventh-Century Sino-Vietnamese Coastal Frontier as a Subaltern Trade Network‘ [Trượt qua các lỗ: Biên giới ven biển Trung-Việt cuối thế kỉ 10 và đầu thế kỉ 11 như một mạng lưới thương mại phụ', trong Nola Cooke, Li Tana, và James Anderson (eds), Tongking Gulf through History (Philadelphia: Nxb Đại học Pennsylvania, 2011), trang 99.
[8] Anderson, 'Slipping through Holes', tr. 89.
[9] Quan điểm này được Nguyễn Văn Kim nêu trong Người Việt với Biển (Hà Nội: Thế Giới, 2011), tr. 98.
[10] Mặc dù hệ thống chữ viết bản địa được gọi là Chữ Nôm bắt đầu được sử dụng từ thế kỉ 15, như Woodside chỉ ra, nó thường tạo ra những chữ phức tạp hơn từ những chữ Hán hiện có. Alexander B. Woodside, Vietnam and the Chinese Model: A Comparative Study of Vietnamese and Chinese Government in the First Half of the Nineteenth Century [Việt Nam và Mô hình Trung Quốc: Nghiên cứu so sánh Chính phủ Việt Nam và Trung Quốc trong nửa đầu thế kỉ 19] (Cambridge, MA: Trung tâm Châu Á của Đại học Harvard, 1988), tr. 51.
[11] Anthony Reid, A History of Southeast Asia [Lịch sử Đông Nam Á] (West Sussex: Wiley Blackwell, 2015), trang 24-25.
[12] Bruce Lockhart, 'Colonial and Post-Colonial Construction of "Champa"‘ [Xây dựng thuộc địa và hậu thuộc địa của "Champa"‘, trong Trần Kỳ Phương và Bruce M. Lockhart (eds), The Cham of Vietnam: History, Society and Art [Người Chăm Việt Nam: Lịch sử, Xã hội và Nghệ thuật] (Xinh-ga-po: NUS Press, 2011), tr. 1.
[13] Harry J. Benda, 'The Structure of Southeast Asian History: Some Preliminary Observations' [Cấu trúc lịch sử Đông Nam Á: Một số quan sát sơ bộ], Tạp chí Lịch sử Đông Nam Á 3, 1(1962), 106-138; Victor : Lieberman, Strange Parallels [Những điều tương tự kì lạ], 1: 9-15.
[14] Philippe Papin, ‘Géographie et politique dans le Viêt-Nam ancient', Bulletin de l'Ecole française d'Extrême-Orient 87, 2 (2000), 609.
[15] Chẳng hạn, chỉ nêu tên nhưng một số ít, xem Đồ Bằng, Phố cảng vùng Thuận Quảng thế kỉ XVII-XVIII (Huế: Nxb. Thuận Hoà, 1996) ; Hoàng Anh Tuấn, Silk for Silver: Dutch-Vietnamese Relations, 1637-1700 [Tơ đổi bạc: Quan hệ Hà Lan-Việt Nam, 1637-1700 (Leiden/Boston: Brill, 2007); Nguyễn Văn Khánh và cộng sự. (eds), Việt Nam trong hệ thống thương mại Châu Á thế kỉ XVI-XVII (Hà Nội: Nxb. Thế Giới, 2007); Nguyễn Văn Kim (ed. ), Người Việt với Biển (Hà Nội: Nxb. Thế Giới, 2011); Nguyễn Văn Kim, Vân Đồn- Thượng cảng quốc tế của Việt Nam (Hà Nội: Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, 2014); Đỗ Thị Thúy Lan, Hệ thống cảng thị trên Sông Đàng Ngoài: Lịch sử ngoại thương Việt Nam thế kỉ XVII–XVIII (Hà Nội: Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, 2016). Luận án Tiến sĩ Lê Thị Mai về môi trường và sinh thái biển Quảng Nam (2016), cùng nhiều công trình xuất sắc khác.
[16] Thành Thế Vỹ, Ngoại Thương Việt Nam hồi thế kỉ XVII-XVIII và đầu XIX (Hà Nội: Sử Học, 1961).
[17] Thư từ cá nhân với người bạn cũ Nguyễn Văn Kư.
[18] Andreas Reinecke, Lê Duy Sơn, và Lê Đình Phúc, 'Towards a Prehistory in the Northern Part of Central Vietnam: A Review Following a Vietnamese-German Research Project 59' [Hướng tới thời tiền sử ở Bắc Trung Bộ Việt Nam: Đánh giá tiếp sau công trình nghiên cứu Việt-Đức 59], Beiträge zur allgemeinen und vergleichenden Archäologie 19 (1999), 59-61; Roderich Ptak, 'Quanzhou: At the Northern Edge of a Southeast Asian "Mediterranean"‘ [Tuyền Châu: Ở rìa phía Bắc của "Địa Trung Hải" Đông Nam Á', trong Angela Schottenhammer (ed.), The Emporium of the World: Maritime Quanzhou, 1000-1400 (Leiden: Brill, 2001), trang 395-428.
[19] Charles Higham, The Bronze Age of Southeast Asia [Thời đại đồ đồng của Đông Nam Á] (Cambridge: Nxb Đại học Cambridge, 1996), trang 78-80; Carmen Sarjeant, Contextualising the Neolithic Occupation of Southern Vietnam:The Role of Ceramics and Potters at An Son [Bối cảnh hoá sự chiếm đóng thời kì đồ đá mới ở miền Nam Việt Nam: Vai trò của gốm sứ và đồ gốm ở An Sơn], (Canberra: ANU Press, 2014), tr. 19.
[20] Hsiao-chun Hung, 'Prosperity and Complexity without Farming: The South China Coast, c.5000-3000 BC' [Sự thịnh vượng và phức tạp khi không có nông nghiệp: Bờ biển phía Nam Trung Quốc, khoảng 5000-3000 BCE], Antiquity 93, 368(2019), 346; xem thêm Reinecke, Le, và Le, 'Towards a Prehistory’ [Hướng tới thời tiền sử],52-58.
[21] Reinecke, Le, và Le, 'Towards a Prehistory’ [Hướng tới thời tiền sử], 61.
[22] Masanari Nishimura nhận xét: 'Vietnamese geological studies clearly show that the coastline was inundated during the Holocene transgression and was located near Hanoi, as is apparent from the absence of Neolithic sites across most of the region.' 'Settlement Patterns on the Red River Plain from the Late Prehistoric Period to the 10th Century AD' [Các nghiên cứu địa chất của Việt Nam cho thấy rõ ràng rằng đường bờ biển bị ngập trong quá trình tiến triển Holocene và nằm gần Hà Nội, rõ ràng là do sự vắng mặt của các địa điểm Đồ Đá Mới trên hầu hết khu vực.''Các mô hình định cư trên đồng bằng sông Hồng từ thời Hậu Tiền sử đến Thế kỉ 10 AD], Bulletin of the Indo-Pacific Prehistory Association 25 (2007),99-100.
[23] Nam C. Kim, The Origins of Ancient Vietnam (Oxford: Oxford Studies in the Archaeology of Ancient States, 2015).
[24] Le Trac, Annan zhilue (V. An Nam Chí lược), hoàn thành k. 1330 (Beijing: Zhonghua shuju, 2000), p.29.
[25] Fabrizio Pregadio (ed.), The Encyclopedia of Taoism (New York and London: Routledge, 2008), p.731. Vietnamese expression for this is 'một cuộc bể dâu', như trong Truyện Kiều: ‘Trải qua một cuộc bể dâu'.
[26] Léonard Aurousseau, 'Le première conquête chinoise des pays annamites', Bulletin de l'École Française d'Extrême-Orient 23 |(1923), 250.
[27] Henri Maspero, 'Bulletin critique', in 'Le première conquête chinoise des pays annamites',T'oung Pao 23 (1924), 393; Keith Taylor, The Birth of Vietnam (Berkeley: University of California Press, 1983), p. 314.
[28] Hùng Vương dung nước (Hà Nội: Nxb. Khoa học Xã hội,1970). Để xem xét một cách có hệ thống về cách hệ tư tưởng chính trị đã định hình nên kỉ luật thời tiền sử ở Việt Nam, xem Haydon Cherry, 'Digging Up the Past : Prehistory and the Weight of the Present in Vietnam', [Đào bới quá khứ: Tiền sử và sức nặng của hiện tại ở Việt Nam', Journal of Vietnamese Studies 4, 1 (2009), 84 -144.
[29] Judith Cameron, 'Textile Crafts in the Gulf of Tongking: The Intersection of Archaeology and History' [Thủ công dệt may ở vịnh Bắc Bộ: Giao điểm giữa Khảo cổ học và Lịch sử], trong Nola Cooke, Li Tana, và James A. Anderson (eds), The Tongking Gulf in History [Vịnh Bắc Bộ trong lịch sử] (Philadelphia: Nxb Đại học Pennsylvania, 2011), trang 29-30. Cô cũng đã theo dõi quá trình truyền bá công nghệ này sâu hơn vào Campuchia, Lào và đến tận thung lũng sông Mun phía đông bắc Thái Lan, có lẽ là qua Vân Nam và xuôi xuống sông Mekong, nơi chúng xuất hiện vào khoảng năm 2000 BCE.
[30] Nt, tr. 31.
[31] Ken-ichi Shinoda, ''Mitochondrial DNA of Human Remains at Man Bac' [DNA ti thể của tàn tích con người tại Mán Bạc], trong Marc F. Oxenham, Hirofumi Matsumura, và Nguyễn Kim Dung (eds), Man Bac: The Excavation of a Neolithic Site in Northern Vietnam, the Biology [Mán Bạc: Cuộc khai quật một địa điểm thời kì đồ đá mới ở miền Bắc Việt Nam, Sinh học] ( Canberra: ANU E-Press, 2011), tr.100.
[32] Như trên, tr. 101. Xem thêm Damien Garrett Huffer, 'The Ties that Bind: Population Dynamics, Mobility, and Kinship in the Mid-Holocene in Northern Vietnam', Luận án Tiến sĩ (2012), Đại học Quốc gia Australia.
[33] Hirofumi Matsumura và cộng sự,'Craniometrics Reveal "Two Layers" of Prehistoric Human Dispersal in Eastern Eurasia' [Phép đo sọ tiết lộ "Hai lớp" về sự phân tán của con người thời tiền sử ở Đông Âu Á], Scientific Reports (2019) 9, 1451, 7.
[34] David Holm, 'A Layer of Old Chinese Readings in the Traditional Zhuang Script' [Một lớp các bài đọc tiếng Trung cổ trong chữ Choang truyền thống], Bulletin of the Museum of Far Eastern Antiquities 79/80 (2015), 233.
[35] Nt, 234. Erica Brindley chỉ ra rằng 'Yue' mà các nhà khảo cổ và ngôn ngữ học nhắc tới không nên nhầm lẫn với từ ‘Yue' trong lịch sử vốn có thể hoặc không thể là một dân tộc duy nhất. Erica Brindley, 'Barbarians or Not? Ethnicity and Changing Conceptions of the Ancient Yue (Viet) Peoples, ca. 400-50 BC' [Man di hay không? Dân tộc và những ý niệm thay đổi của người Yue (Việt) cổ, ca. 400-50 BCE], Asia Major 16, 1 (2003), 7.
[36] Wei Weiyan và Shiung Chung Ching, 'Viet Khe Burial 2: Identifying the Exotic Bronze Wares and Assessing Cultural Contact between the Dong Son and Yue Cultures' [Đồ vật chôn ở Việt Khê 2: Xác định đồ đồng lạ và đánh giá sự tiếp xúc văn hoá giữa văn hoá Đông Sơn và Việt], Asian Archaeology 2 (2014), 81.
[37] Wei và Shiung, 'Viet Khe Burial’ [Đồ vật chôn ở Việt Khê 2], 81.
[38] Yuejueshu 越絕書 [Việt tuyệt thư], do Yuan Kang biên soạn vào đầu thế kỉ thứ nhất CN và được Wu Ping hiệu đính (https://ctext.org/yue-jue-shu/zhs, truy cập 4 tháng 4 năm 2019). Người Trung Quốc nói: ‘越人水行而山處, 以船為車,以楫為馬,往若飄風,去則難從 (Việt nhân thủy hành nhi sơn xứ, dĩ thuyền vi xa, dĩ tiếp vi mã, vãng nhược phiêu phong, khứ tắc nan tòng).
[39] 'Trương Nghi liệt truyện‘ 張儀列傳, trong Sử kí của Tư Mã Thiên 司馬遷, hoàn thành k. 90 BCE (Bắc Kinh: Zhonghua shuju, 2013), chương 70, tập. 7: 2290. Việc đề cập đến fangzhou 方舟, thuyền, trong đoạn văn này thực sự thuộc về đế quốc Tần, nhưng công nghệ của họ được mượn từ Yue (trích dẫn trong Holm, 'A Layer of Old Chinese Readings', 233).
[40] Holm, 'A Layer of Old Chinese Readings‘ [Một lớp các bài đọc tiếng Trung cổ', 234.
[41] Được trích dẫn trong Catherine Churchman, The People between Two Rivers: The Rise and Fall of a Bronze Drum Culture, 200-750 CE (New York: Rowman & Littlefield,2016), tr. 32.
[42] Churchman, The People between the Two Rivers [Người giữa hai dòng sông], tr. 33. Stephen O'Harrow lưu ý: 'Văn hoá Đông Sơn gắn liền với một phạm vi rất rộng của văn hoá vật chất trải rộng trên một khu vực rộng lớn hơn nhiều so với khu vực được cho là Urheimat của người Việt, chắc chắn là một khu vực bao gồm nhiều nhóm dân tộc khác nhau vào lúc đó.” Men of Hu, Men of Han, Men of the Hundred Man: Si Nhiệp and the Conceptualization of Early Vietnamese Society' [Người Hồ, người Hán, người Bách Man: Sĩ Nhiếp và khái niệm hoá xã hội Việt Nam sơ khai], Bulletin de l'École française d'Extrême-Orient 75(1986), 255.
[43] Nguyễn Ngọc San, Tìm hiểu tiếng Việt (Hà Nội: NXB|Đại học Sư Phạm, 2000), tr. 135140; trích dẫn trong Churchman, The People between Two Rivers, p.33.
[44] Phan Huy Lê, 'Thời kì dựng nước đời Hùng Vương và An Dương Vương', trong Phan Huy Lê, Trần Quốc Vượng, Hà Văn Tân, và Lương Ninh (eds), Lịch sử Việt Nam (Hà Nội: NXB Đại học và Giao đức chuyển nghiệp, 1991), tập. 1, tr.55.
[45] Taylor, The Birth of Vietnam [Sự ra đời của Việt Nam], tr.304.
[46] Như trên, tr. 1.
[47] Philippe Papin, Géographie et politique dans le Viêt-Nam ancient', Bulletin de l'École française d'Extrême-Orient 87, 2 (2000),612.
[48] Diệp Đình Hoa, 'New finds on Zhang in the Phung Nguyen Culture', [Những phát hiện mới về Choang trong văn hoá Phùng Nguyên], South Pacific Study, 1(1996), 93-94.
[49] Trong trường hợp Luo/Lạc, nhà ngôn ngữ học Việt Nam Trần Trí Do đã truy tìm nguồn gốc của từ này dọc theo nhánh Môn-Khmer của ngữ hệ Nam Á đến thời cổ đại, tiền Trung Quốc, và phát hiện ra rằng từ này có nghĩa là 'con người'. Trần Trí Dõi, 'Trao đổi thêm về từ nguyên của yếu tố "Lạc (lua 雒/駱)" trong tổ hợp "Lạc Việt" (Luoyue 雒越)', Bảo tàng và Nhân Học 2 (2017), 49.
[50] Catherine Churchman, 'Before Chinese and Vietnamese in the Red River Plain: The Han-Tang Period', Chinese Southern Diaspora Studies 4 (2010), 33. Dựa vào nghiên cứu văn bản, Jiang Tingyu chỉ ra rằng các khu vực Lạc Việt chiếm đóng trải dài từ sông Tả (左) và sông Dũng (甬: Yong) đến đồng bằng sông Hồng, trong khi băng qua vịnh Bắc Bộ trên bờ biển phía đông của nó, trong đó bao gồm Hợp Phố, Âu và Lac hỗn hợp. Jiang Tingyu, Guiling kaogu lun wenji [Về khảo cổ học ở vùng núi Quảng Tây] (Bắc Kinh: Kexue chubanshe, 2009),trang. 70-71.
[51] Churchman, The people between two Rivers [Người giữa những dòng sông], tr. 26.
[52] O'Harrow, ‘Men of Hu', 251.
[53] Churchman, 'Before Chinese and Vietnamese', 30.
[54] 'Chủ thuật huấn’ [主術訓], trong Hoài Nam tử [淮南子],biên soạn 139 BCE (https://ctext.org/huainanzi/zhu-shuxun/zhs , truy cập ngày 7 tháng 5 năm 2019). ‘Giao Chỉ', hay ‘ngón chân giao nhau', có thể chỉ một dân tộc ở miền nam Hồ Nam ngày nay. Năm 2010, khoảng 10 000 tượng đá được tìm thấy ở Vĩnh Châu, Hồ Nam. Tượng lâu đời nhất trong số này có niên đại cách đây 5000 năm. Hầu hết các nhân vật đều bắt chéo chân, mà báo chí mô tả là 'Giao Chỉ' (www.chinanews.com/cul/2010/08-18/2473973.shtml, truy cập ngày 12 tháng 1 năm 2011).
[55] Aurousseau, 'Le Premier conquête chinoise des pays annamites', 260.
[56] ‘凡交趾所統,雖置郡縣,而 言語各異,重譯乃通‘. Hậu Hán Thư 後漢書, hoàn thành năm 445 CN (Bắc Kinh: Zhonghua shuju, 2013) chương 86, tập. 10:4.
[57] Churchman, 'Before Chinese and Vietnamese', 30.
[58] Tiếng Trung Trung cổ là kæw. Cảm ơn Charles Wheeler vì thông tin này. John Phan chỉ ra rằng âm đầu ngạc mềm đã mềm đi từ /k-/ thành /z-/, điều này đã xảy ra trong tiếng Hán Trung Cổ ở An Nam, có lẽ vào cuối thiên kỉ thứ nhất. Thư từ cá nhân, ngày 9 tháng 9 năm 2020. Tôi biết ơn John về việc đã soi sáng vấn đề này. Tuy nhiên, Michel Ferlus đề xuất rằng chữ này được phát âm trong tiếng Hán cổ là kraw. Được trích dẫn trong Pain Frederic, '"Giao Chỉ" (Jiaozhi 交趾) như một trung tâm truyền bá các thay đổi lịch đại của Trung Quốc thời Trung cổ: Tương phản trọng lượng âm tiết và âm vị hoá của các tương quan ngữ âm của nó', Tsing Hua Journal of Chinese Studies 50 (loạt bài mới), 3(2020), 370.
[59] Ước tính của Ye Jiwang, giám đốc Bảo tàng Hợp Phố. Hầu hết trong số hơn 1 000 ngôi mộ được khai quật đều có niên đại thời Hậu Hán, tức là cùng thời với Luy Lâu (www.gxmuseum.cn/a/news/8/2014/12/5216.html, truy cập ngày 16 tháng 7 năm 2016).
[60] Đỗ Văn Ninh, 'Liên Lâu', trong Viên Sử Học ed. Đô thị cổ Việt Nam (Hà Nội: Viên Sứ Học, 1989), tr. 79.
[61] ‘Mộ cổ trong núi ở Hải Phòng là kho báu‘, Đất Việt online, nd( http://baodatviet.vn/van-hoa/nguoi-viet/mo-co-trong-nui-o-hai-phong-la-kho-bau-2238154/, truy cập ngày 14 tháng 5 năm 2019).
[62] DS van Maren, 'Morphodynamics of a Cyclis Prograding Delta: The Red River, Vietnam' [Hình thái học của một vùng châu thổ đang tiến triển theo chu trình: Sông Hồng, Việt Nam], Luận án Tiến sĩ, Đại học Utrecht (2004), tr. 12.