Ca Sĩ: (Nguyễn Đức Quang, Nguyễn Ngọc Thạch, Thái Hiền)
Đọc Thêm:
(Nguồn: AV Travel)
Nguyễn Đức Quang
Người Chọn Nước Việt Làm Quê Hương
Ta như nước dâng dâng tràn có bao giờ tàn
Đường dài ngút ngàn chỉ một trận cười vang vang
Lê sau bàn chân gông xiềng cuộc đời xa xăm
Đôi mắt ta rực sáng theo nhịp xích kêu loang xoang!
Ta khua xích kêu vang dậy trước mặt mọi người
Nụ cười muôn đời là một nụ cười không tươi
Nụ cười xa vời nụ cười của lòng hờn sôi
Bước tiến ta tràn tới tung xiềng vào mặt nhân gian!
(…) Ta khuyên cháu con ta còn tiếp tục làm người
Làm người huy hoàng phải chọn làm người dân Nam
Làm người ngang tàng điểm mặt mày của trần gian
Hỡi những ai gục xuống trỗi dậy hùng cường đi lên!
Đó là nhạc phẩm “Việt Nam quê hương ngạo nghễ”, ra đời năm 1966, nhạc phẩm tiêu biểu nhất của nhạc sĩ Nguyễn Đức Quang, con chim đầu đàn của phong trào Du ca, một nghệ sĩ đã có những đóng góp rất lớn trong nỗ lực tác động đến tinh thần quần chúng, đặc biệt là giới trẻ, để hướng họ vào những vấn đề chung của đất nước, của thân phận dân tộc.
Sau một thời gian lâm trọng bệnh kéo dài, nhạc sĩ Nguyễn Đức Quang đã qua đời vào hồi 4 giờ sáng 27-3-2011 vừa qua. Ông sinh năm 1944 tại Sơn Tây, cùng gia đình vào miền Nam trong biến cố 1954 và sinh sống tại Đà Lạt từ năm 1958. Về sau, ông theo học Viện Đại học Đà Lạt và tốt nghiệp phân khoa Chính Trị Kinh Doanh Khóa I.
Thuở thiếu niên, từ năm 12 tuổi, ông tham gia Hướng-đạo, một phong trào trợ giúp giới trẻ trong việc phát triển tâm linh, tâm trí và sức khỏe để đóng những vai trò xây dựng trong xã hội. Sáng tác đầu tiên của ông vào năm 1961, ca khúc “Gươm Thiêng Hào Kiệt”, được dành cho phong trào này, là khởi điểm cho những sáng tác thể hiện trách nhiệm của giới trẻ với nội tình đất nước.
Từ những năm 1963-64, Nguyễn Đức Quang bắt đầu sáng tác các ca khúc chủ đề thái độ của tuổi trẻ với quê hương và dân tộc, và cho ra đời tập ca khúc đầu tiên mang tựa đề “Trầm Ca” (những bài ca để suy nghĩ, trầm tưởng) với các tác phẩm để lại dấu ấn như “Nỗi Buồn Nhược Tiểu”, “Tiếng Hát Tự Do” và nhất là “Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ”. Đó là những bài hát cho thanh niên và thời cuộc khi ấy, vào lúc cuộc chiến huynh đệ tương tàn ngày một khốc liệt, phản ánh tâm trạng thao thức và muốn nhập cuộc.
Đây cũng là giai đoạn chuẩn bị cho sự ra đời của phong trào Du-ca Việt Nam vào năm 1966, mà Nguyễn Đức Quang là một thành viên sáng lập. Hồi tưởng lại, ông cho biết: cuối năm 1965, sau khi đã sáng tác một số ca khúc, ông cùng một nhóm bạn học rất thân tại Đà Lạt cùng học hành, chơi đùa, ca hát và làm việc với nhau. Tuy nhiên, như ông nhớ lại: “Các bạn trong nhóm tôi không có ai sáng tác, chỉ có mình tôi làm nhạc, hát cho các bạn tôi nghe. Tôi không đi vào những con đường cũ của các nhạc sĩ đàn anh.
Hầu hết những người làm thơ, viết nhạc đầu đời là những bài thơ tình, nhạc tình, và sống mãi với dòng nhạc đó. Phần tôi, sau những ngày tập tễnh với nhạc tình trẻ con, tôi quay hẳn sang một hướng khác không có mấy người làm. Nhạc của tôi sau này người ta gọi là nhạc cộng đồng, nhạc sinh hoạt, hay là một loại nhạc nào đó, một thứ tình cảm khác, một thứ tình cảm không phải chỉ dành cho hai người đang yêu nhau, mà là một thứ tình cảm thiết tha nói lên cái liên hệ giữa vùng đất và con người.”
Cần nhớ là vào thời điểm đó, cuộc chiến ở miền Nam đã lan rộng và lên tới cực điểm. Giới nhạc sĩ – ngoài các vấn đề muôn thuở như tình yêu, thân phận con người – đã có nhiều sáng tác về thời cuộc, về vai trò và sự nhập cuộc của người dân với những biến cố lớn của đất nước. Đó là lúc Trịnh Công Sơn bắt đầu dòng nhạc phản chiến với xu hướng chính trị yếm thế, còn Phạm Duy thì cho ra đời nhiều ca khúc trong loạt 10 bài “Tâm Ca” nhận diện lại quê hương, dân tộc, kẻ thù và sự bi đát của thời cuộc, để kêu gọi đoàn kết và đồng lòng.
Đối với Nguyễn Đức Quang, “Tâm Ca” đã để lại ấn tượng rất lớn và là động cơ để ông theo đuổi con đường nhập cuộc, sáng tác phục vụ cộng đồng, xã hội và dân tộc từ khi mới 21 tuổi và đang theo học năm thứ nhất Viện Đại học Đà Lạt. Như ông kể lại, trong một cuộc gặp gỡ giữa Phạm Duy và nhóm các thanh niên tham gia công tác xã hội (dựng 200 căn nhà cho đồng bào Thượng, nạn nhân chiến cuộc), Phạm Duy đã hát liền 5 bài “Tâm Ca”, và Nguyễn Đức Quang cũng được mời trình diễn các bản “Trầm Ca”. Rốt cục, như ông nhớ lại:
“Tôi bị nhạc của Phạm Duy hớp hồn như thế nào, thì ông ngạc nhiên về những ca khúc của tôi như thế. Sau đó hai bên gặp gỡ, với Phạm Duy, ông cho tôi là một khám phá mới. Nó khác hẳn những dòng nhạc của những người đi trước và cùng thời với ông. Do đó Phạm Duy đề nghị mỗi tuần gặp nhau một lần (…) để hát cho nhau nghe những sáng tác mới. Nếu không có sáng tác mới thì đàm đạo chuyện văn nghệ. Tôi đã trình bầy cho Phạm Duy nghe toàn bộ những ca khúc trong tập “Trầm Ca” (…) đặt vấn đề thanh niên đối với vận mạng đất nước, đưa ra những suy nghĩ của tuổi trẻ.”
Những buổi gặp mặt “hát cho nhau nghe” ấy thúc đẩy nhóm “Trầm Ca” của Nguyễn Đức Quang tiếp tục các chuyến đi về địa phương và hoạt động xã hội. Ông kể lại: “Chúng tôi làm việc như điên cuồng, sáng tác, tập tành, đi trình diễn, đi huấn luyện. Chúng tôi không còn biết đến một điều gì khác ở cái tuổi 20 lúc đó. Tôi không hiểu nhóm tôi sống bằng cách gì (…). Hễ có nơi nào “ới một tiếng”, là chúng tôi khăn gói lên đường. Về phương tiện di chuyển thì nơi nào ới, nơi đó chịu trách nhiệm. Còn ăn uống thế nào cũng xong, ngủ nghê chỗ nào mà chả được”.
Nhóm Du ca Việt Nam đã ra đời như thế vào năm 1966, sau những chuyến đi bất tận phục vụ cộng đồng, quy tụ nhóm bạn từ ngày ở Đà Lạt, với Trưởng xưởng Du-ca do Nguyễn Đức Quang điều hành và quy tụ nhiều nhạc sĩ, các cây bút trẻ khác. Xuất phát từ lý tưởng phục vụ một xã hội sống tốt đẹp với một tâm thức mới, Du-ca đẩy mạnh các công tác phục vụ văn hóa, để xây dựng tâm hồn cho người tham dự. Hoạt động của Du-ca, dưới lời kể của nhà văn, nhạc sĩ Nguyễn Đình Toàn:
“Du-ca có nghĩa là đi đây, đi đó để hát. Các buổi trình diễn như thế thường diễn ra tại các sân trường đại học, các giảng đường, sân vận động, các trại hè hay một nơi nào đó có những sinh hoạt cộng đồng và đám đông tụ tập, vào thời ấy có thể là một trại tị nạn, mục đích chính chỉ là để “hát cho nhau nghe”, cho đỡ buồn, để thắp lại hy vọng… Chiến tranh vừa xua đuổi vừa bao vây, người ta không còn biết chạy đi đâu cho thoát. Cũng không ai biết đến bao giờ chiến tranh mới chấm dứt. Phong trào du ca được hình thành trong những ngày khốn khổ đó”.
Hòa mình và hết sức với phong trào, Nguyễn Đức Quang đã để lại nhiều sáng tác lừng danh, như “Xin chọn nơi này làm quê hương” (phổ thơ Nguyễn Ngọc Thạch) với tâm thức không chối bỏ đất nước trong cơn binh biến gian khổ:
Xin chọn nơi này làm quê hương dẫu cho khó thương Ta cùng lo chạy từng lưng cơm áo che thân tàn Khi mùa mưa về cùng lem nhem bước trên ngõ trơn Khi giặc lan tràn cùng lo âu trắng đôi mắt đen… Xin chọn nơi này làm quê hương dẫu đang chiến tranh Xin chọn nơi này làm quê hương dẫu chưa thanh bình Xin chọn nơi này làm quê hương dẫu đang khó khăn Xin chọn nơi này làm quê hương dẫu chưa ấm êm…Nói về ma lực của Nguyễn Đức Quang qua các bản hùng ca mà ông cùng nhóm Du-ca trình diễn trong các chuyến đi, Nguyễn Đình Toàn nhận xét: “Loại nhạc để trình diễn trên sân khấu, trước những đám đông, (…) ngoài âm điệu và lời ca thường còn phải có vài điều gì khác để cho ca sĩ biểu diễn, bằng động tác, bằng nét mặt, nếu không sẽ trở thành nhạt nhẽo đối với khán giả. Nguyễn Đức Quang có đủ các điều kiện để thành công trong “thế giới du ca” của ông: đàn ngọt, hát hay, có duyên, nắm vững nghệ thuật nói trước đám đông, trình diễn nồng nhiệt”.
Còn nhà báo Bùi Bảo Trúc thì lại nhìn thấy sự quyến rũ của ông qua hành động nhập cuộc: “Nguyễn Đức Quang (…) không đứng ngoài để đi hành quân làm lính cậu (…). Không một lời thù hận bên này hay bên kia. Nguyễn Đức Quang là tiếng hét nhân bản, là lời réo gọi của nguyên một thế hệ sắp bị mất đi những giá trị của một xã hội đang bốc cháy. Nguyễn Đức Quang không phòng trà não ruột, không tình ái bi thảm, không chính trị một chiều, không thù hận đằng đằng. Nguyễn Đức Quang đến với người nghe và nhất là những người hát nhạc của ông bằng tất cả chân tình của một thanh niên Việt”.
Trong cảnh chinh chiến ác liệt không có điểm dừng, khi không ít nhạc sĩ đương thời có cái nhìn bi quan, yếm thế, oán trách quá khứ, thời cuộc, thì Nguyễn Đức Quang đã đem lại góc nhìn trách nhiệm và khỏe khoắn, hướng người nghe về những bổn phận công dân trong tinh thần dân tộc, như trong bài “Về với mẹ cha”:
Từ Nam Quan, Cà Mau Từ non cao rừng sâu Gặp nhau do non nước xây cầu Người thanh niên Việt Nam Quay về với xóm làng Tiếng reo vui rộn trong lòng Cùng đi xoay Hoành Sơn Cùng đi lay Trường Sơn Cùng đi biến rừng hoang ra lúa thơm Vượt khơi ra đảo xa, Lướt ngàn nước sang nhà Ta đắp bồi cho Mẹ Cha Nhìn non sông tả tơi Tình quê hương đầy vơi Người thanh niên Việt Nam ngậm ngùi Chờ chi không vùng lên Thiết tha với dân lành Cứ co ro ngồi sao đành Nào anh em cùng nhau Người trước lo người sau Cùng đi cho quên hết tiếng nghẹn ngào Ðường gân căng bàn tay Mắt trong như sao trời Nơi quê hương là sáng ngời (…) Cũng có lúc, Nguyễn Đức Quang đau xót và giận giữ trước cảnh lòng người ly tán, bất hòa: “Hàng chục năm qua ta ngồi ngó nhau – Nghi ngờ nhau, khích bác nhau – Cho cay cho sâu, cho thật đau”, và khẳng định trong ca khúc “Không Phải Là Lúc”: Không phải là lúc ta ngồi mà đặt vấn đề nữa rồi Mà phải cùng nhau ta làm cho tươi mới Không phải là lúc ta ngồi mà cãi suông Không tin nơi nhau thế ta định nhờ ai dẫn đầu Thế giới ngày nay không còn ma quái Thần tượng tàn rồi, còn anh với tôi Chúng ta đi tới bằng cái tầm thường thôi Làm việc đi không lo khen chê Làm việc đi hãy say và mê Cứ bắt tay từ từ chúng ta giải quyết Mình chậm chân theo sau người ta Còn ngồi đây nghĩ lo viển vông Thắc mắc ngại ngùng đến lúc nào mới làm xong Như thế, không chỉ ngồi ngoài đặt vấn đề, Nguyễn Đức Quang còn trực tiếp xắn tay nhập cuộc cùng giới trẻ, kêu gọi tuổi trẻ đến với nhau cùng xây dựng một đất nước và niềm tin. Do đó, nhạc của ông có khía cạnh phản đối chiến tranh, với tâm cảm của một con người khao khát hòa bình, nhưng không thiên về bên nào, như theo lời ông, không làm chính trị cho dù mang ý thức chính trị cao. Cũng như vậy, Nguyễn Đức Quang tự hào vì tính độc lập, không lệ thuộc vào bất cứ cá nhân hoặc phe nhóm nào của phong trào Du-ca, điều khiến nó có được tác động mạnh mẽ và sâu rộng trong cộng đồng. Tuy nhiên, Nguyễn Đức Quang không chỉ sáng tác thể loại nhạc hùng, kêu gọi xã hội. Ông còn làm những bản tình ca được nhiều người biết đến và tới nay vẫn nhớ, mà điển hình là “Cần Nhau”, “Vì Tôi Là Linh Mục” và nhất là “Bên Kia Sông” (phổ thơ Nguyễn Ngọc Thạch): Này người yêu, người yêu tôi ơi Bên kia sông là ánh mặt trời Này người yêu, người yêu anh hỡi Bên kia đồi cỏ hoa đan lối Bên kia núi, núi cao chập chùng Bên kia suối, suối reo lạnh lùng Là bài thơ toàn chữ hư vô Này người yêu anh ơi! Cho anh nồng ấm cuộc đời Hoa thơm có ánh mặt trời Ôi núi mừng vì mây đến rồi! Này người yêu, người yêu anh hỡi! Yêu nhau mình đưa nhau tới Bước nhẹ và nói bên môi Nói cho vừa… mình anh nghe thôi! Này người yêu, người yêu anh ơi! Bên kia sông đường vẫn còn dài Này người yêu, người yêu anh hỡi! Bên kia đồng cỏ non đan lối Trong cơn gió, thoáng nghe nực cười Trong khe núi, thánh thót lòng người Lòng đòi tình vật vã không nguôi Này người yêu anh ơi! Ðêm đêm lòng vỗ tình dài Dây xanh quấn quít vào đời Cho trái tình nở trên tiếng cười Này người yêu, người yêu anh hỡi! Bên trong lòng nôi êm ái Rắc nhẹ từng cánh sao rơi Sẽ âm thầm mình em nghe thôi!Yêu người, yêu đời để sống có trách nhiệm với đất nước, dân tộc là điểm chính yếu trong con người và sự nghiệp ca hát của Nguyễn Đức Quang, và được ông giữ trong suốt phần đời còn lại khi sống xa quê hương. Năm 1979, sau khi bị tù cải tạo 3 năm, ông rời Việt Nam, cùng gia đình đến Hoa Kỳ và hoạt động trong ngành truyền thông tại hải ngoại. Sự ra đi của ông để lại nỗi tiếc thương lớn lao trong lòng những người mến mộ: trong dịp này, ông đã được truy tặng Bắc Đẩu Huân Chương, phần thưởng cao quý nhất của phong trào Hướng đạo.
“Chúng tôi vẫn tin vào trực giác của chúng tôi, trực giác nhậy cảm của những người làm văn nghệ, và chúng tôi tin rằng sẽ có một lúc nào đó chúng tôi sẽ trở về, dựng lại nhà trên một cái nền đổ nát, hệt như lời của một bài thơ, của một ca khúc nào đó của anh em chúng tôi. Ngày đó bắt buộc sẽ phải đến. Nó có thể là sáng mai, nó có thể là năm tới, nó có thể là năm năm, mười năm. Nếu tới ngày đó, và anh em chúng tôi còn sống, cho dù chỉ còn thoi thóp thở chúng tôi cũng sẽ trở về. Trở về để nhắm mắt trên mảnh đất chúng tôi đã sinh ra, đã lớn lên, đã bảo vệ và đã phải bỏ đi chỉ để trở về”.
Nhạc sĩ Nguyễn Đức Quang đã chia sẻ như thế, trong một bài phỏng vấn về tâm thức dân tộc và phong trào Du ca mà ông là người mang tâm huyết đến những khoảnh khắc cuối cùng. Cho dù thân xác ông ở xa quê Việt, nhưng tinh thần và những ca khúc của ông đã về với quê hương, “Việt Nam quê hương ngạo nghễ” đã được giới thanh niên ái quốc hát vang trong những cuộc xuống đường lên tiếng bảo vệ cương vực tổ quốc.
Cầu mong hương hồn ông về với mảnh đất mà ông đã chọn làm quê hương, dẫu chưa ấm êm.