Peter R. Kann
Wall Street
Journal- Ngày 2 tháng 5 năm 1975
Người dịch: Nguyễn Đức Tùng
Nam Việt Nam, hay đúng hơn Nam Việt Nam như
tôi biết trong vài năm qua, đã chết.
Có thể có nhiều người Mỹ thở phào nhẹ nhõm
khi hay tin này. Chắc chắn có một số người Mỹ, vì những lý do khác nhau, ước gì
nó chết sớm hơn. Nhưng chắc chắn cũng có nhiều người khác khóc thương cho miền
Nam.
Tôi ở trong số ấy.
Đối với tôi sự sụp đổ của Nam Việt Nam cũng
tựa như cái chết của một người thân quen cũ. Tôi càng chỉ trích miền Nam nhiều
chừng nào, tôi lại càng tin rằng đáng ra nó không phải chết.
Khuyết điểm và thất bại của miền Nam đã được
người ta nhìn thấy rõ hơn rất nhiều so với những ưu điểm của nó và tôi, cũng
như hầu hết các ký giả, đã dành hết tâm trí cho những sai lầm của miền Nam. Rất
ít chế độ xã hội, và nhất là những chế độ hãy còn non yếu, đã từng hứng chịu sự
chỉ trích tàn tệ ở một mức độ dai dẳng đến như vậy. Tôi và một ngàn ký giả khác
đã mổ xẻ chi li từng khía cạnh của nó, đã phân tích hết thảy mọi lỗi lầm của
nó, đã hô hoán lên với thiên hạ về mọi tì vết của nó. Điều này không có nghĩa
là nếu những ngọn đèn săm soi kia tắt phụt đi, Nam Việt Nam bỗng tiến triển tốt
hơn hoặc tồn tại lâu hơn, nhưng có thể tin chắc rằng khi ấy số người đến cúi
đầu thương tiếc trong tang lễ của nó sẽ nhiều hơn.
Cuối cùng, tất nhiên, những kẻ chỉ trích độc
miệng nhất và những người bi quan u ám nhất đã chứng tỏ là họ đúng. Thực ra Nam
Việt Nam đã có khả năng tồn tại lâu hơn, vượt xa cái mức mà những kẻ bi quan kia
hằng mong đợi, nhưng rồi nó đã sụp đổ - một cách bất ngờ, một cách hỗn loạn, một
cách tuyệt đối. Và, tôi nghĩ, một cách vô cùng bi thảm.
Nam Việt Nam, trong suy nghĩ của tôi, không
hề tốt hơn mà cũng chẳng hề xấu hơn so với phần lớn những chế độ xã hội khác
trên thế gian này.
Ít nhất trên một số phương diện, nó cũng
chẳng hề khác so với xã hội Hoa kỳ của chúng ta. Rõ ràng cấu trúc xã hội của
nó, chính phủ của nó và quân đội của nó sau cùng đã tỏ ra quá yếu để có thể
kháng cự lại những người Cộng sản Việt Nam. Ít rõ ràng hơn điều ấy, là ý tưởng
cho rằng thật ra nó đã có khả năng kháng cự mãnh liệt đến như thế trong nhiều
năm trời và không phải bao giờ cũng với sự trợ giúp lớn lao của nước Mỹ. Rất ít
có một quốc gia nào hay một xã hội nào, mà tôi có thể nghĩ tới, lại có thể
chiến đấu một cách bền gan đến thế.
Cuộc thánh chiến của những người cộng sản
Quả thật Nam Việt Nam đã thiếu hẳn một lý
tưởng để đoàn kết và để huy động mọi người nhằm chống lại cuộc Thập tự chinh
của những người cộng sản. Chủ nghĩa chống cộng chưa bao giờ đủ sức hấp dẫn hoặc
ngay cả có thể hiểu được đối với Chủ nghĩa Tư bản miền Nam (1), thể hiện bằng
xe gắn máy Honda và những hàng hóa nhập cảng khác, rõ ràng không phải là một
thứ chính nghĩa có thể thuyết phục trí óc và làm xao xuyến con tim. Chủ nghĩa
quốc gia là một lý tưởng bị tranh cãi, và cũng chính vì sự hiện diện đông đảo của
người Mỹ ở miền Nam mà những người cộng sản bỗng dưng hóa thành người quốc gia thực sự. Vì vậy, miền Nam bỗng trở thành
một đất nước không có chính nghĩa. Nhưng chúng ta hãy dừng lại để nghĩ xem: có
thứ lý tưởng nào có thể giúp bạn hay tôi cầm súng lên chiến đấu suốt 25 năm?
Đúng là miền Nam thiếu một giới lãnh đạo sáng
tạo, năng động, có thể tập hợp nhiều hơn tinh thần và sự hy sinh từ một xứ sở mỏi
mòn cạn kiệt vì chiến tranh. Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu không phải là một nhân
vật tầm cỡ quốc gia có khả năng thu hút quần chúng. Ông là một người sống nội
tâm và là một sĩ quan đa nghi, người đã chứng tỏ một cách đáng ngạc nhiên sự tài
giỏi của mình trong việc điều hành hệ thống chính trị cung đình, nhưng lại chưa
bao giờ thực sự học được cách lãnh đạo đất nước. Nhưng phải chăng vì vậy mà có
thể cho rằng tổng thống Thiệu kém tài lãnh đạo hơn so với bất kỳ một vị tướng
về hưu nào khác, cầm đầu những đất nước nửa phát triển khác, khắp nơi trên thế
giới?
Tôi không nghĩ thế. Ông ấy là một người Việt
Nam yêu nước, theo cách của ông ấy. Và, trước khi tỏ ra quá khắt khe đối với
những người lãnh đạo thua trận của miền Nam, có lẽ bạn nên dừng lại để lập một
danh sách những lãnh tụ thành công và được dân chúng yêu mến ở bất kỳ nơi nào,
trong thế giới không cộng sản của chúng ta hôm nay. Danh sách những người như
vậy của tôi chỉ có thể viết trên một miếng băng dán vết thương nhỏ xíu.
Quả thực các chính khách và dân chúng miền
Nam chưa bao giờ có khả năng đoàn kết lại, xã hội của họ dường như chia rẽ và
đầy những mối xung đột bất hòa. Giao thông hỗn độn của đường phố Sài Gòn thường
được đem ra làm biểu tượng cho một xã hội thiếu trật tự và thiếu kỷ luật. Nhưng
liệu có một chế độ xã hội không cộng sản nào ngày nay có thể tự hào tuyên bố về
mức độ thống nhất chính trị và đoàn kết xã hội cao hơn? Liệu chúng ta, với bậc
thang giá trị của mình, có thể nào tôn thờ tính trật tự và tính kỷ luật như là
những mục tiêu xã hội và những phẩm chất đạo đức?
Liệu có phải những xã hội tốt đẹp nhất là
những xã hội ở đó các chuyến xe lửa phải chạy đúng giờ và mọi người phải bước đều
răm rắp như trong lễ duyệt binh?
Quả thật miền Nam chưa hề có dân chủ thực sự.
Các thiết chế dân chủ của nó, được nhập cảng từ Mỹ cùng với bom và bột mì, chỉ
mới là các biểu tượng chứ chưa có nhiều thực chất. Thế mà, trong khi các chính
phủ miền Nam chưa bao giờ tỏ ra hoàn toàn hữu hiệu, thì Nam Việt Nam, khác với
Bắc Việt Nam, cũng chưa bao giờ trở thành những chế độ độc tài toàn trị cả. Có thật,
những tù nhân chính trị và những buồng tra tấn và những yếu tố của một chế độ
đôi khi hà khắc. Nhưng cũng có những giới hạn đối với quyền lực của tổng thống,
có một lề lối phê bình chỉ trích rộng khắp – chứ không phải lúc nào cũng thì
thào thì thụt vào tai nhau – đối với các chánh sách của chính phủ, và có sự
khác biệt đa nguyên rất đáng ngạc nhiên trong ý kiến và hành xử cá nhân của dân
chúng. Nếu Miền Nam có cơ hội tồn tại lâu hơn nữa, liệu nó có trở thành độc tài
hơn, cứng rắn hơn và khắc nghiệt hơn không?
Tôi không tin.
Nhưng tôi cũng không cho rằng nếu nó có cơ
hội tồn tại thêm nữa, các thể chế nghị viện của nó sẽ có nhiều quyền lực hơn và
sự kiểm soát đối với báo chí sẽ được nới rộng hơn.
Vấn nạn tham nhũng
Quả thật Nam Việt Nam có vấn đề tham nhũng.
Vấn nạn tham nhũng lan rộng và trầm trọng hơn là chuyện chỉ có vài viên tướng
mập ú gởi nhiều triệu đồng vào két sắt Thụy Sỹ. Về một mặt nào đó, tất cả hệ
thống là tham nhũng. Ở mức thấp nhất là chuyện một số công chức tự tăng thu
nhập ít ỏi của mình bằng cách bỏ túi vài món hối lộ vặt vãnh. Ở mức cao hơn
thường gặp là một chức vụ béo bở được đem bán cho kẻ có tiền, thay vì dành cho
người xứng đáng. Ở mức cao nhất là các trường hợp mua chuộc thẳng thừng. Nhưng
không phải tất cả, và có lẽ không phải là đa số, những sĩ quan hay viên chức
miền Nam ăn hối lộ. Việc nói rằng tệ tham nhũng ở Việt Nam tồn tại cùng mức độ
như trong hầu hết các nước Đông Nam Á không phải để làm giảm tội cho nó. Cũng
như việc cho rằng rất ít quốc gia phương Tây trong sạch đến mức có thể ném đá vào
người khác không phải là sự giảm khinh đối với tệ tham nhũng châu Á.
Quả thật xã hội miền Nam là một xã hội mất
bình đẳng và của giới tinh hoa. Người giàu thì rất giàu, người nghèo thì rất
nghèo, và sự khác biệt quá rõ ràng. Tiền bạc và địa vị mang lại những ưu đãi
như trong việc hoãn dịch và, cuối cùng, trốn lính. Tuy vậy sự phân biệt đẳng
cấp này ở Việt Nam còn thua xa ở những nước đồng minh của Mỹ từ Phi Luật Tân
cho đến Brazil.
Người nông dân Nam Việt Nam, chừng nào mà ngọn
lửa chiến tranh chưa cháy lan tới thửa ruộng của họ, quả thực là những nông gia
giàu có, tính trên tiêu chuẩn Á châu.
Tôi không hề có ý giảm thiểu sự khổ đau của
hàng triệu người lưu lạc qua những trại tị nạn khi tôi nêu bật hình ảnh về hàng
triệu nông gia khác làm chủ mảnh đất của mình ở miền Nam và sống một cuộc đời
ung dung dựa trên hoa màu thu hoạch của mình.
Người nông dân Nam Việt Nam, nói cho ngắn
gọn, chưa bao giờ là những nông nô làm thân trâu ngựa, ngày ngày mong chờ được
giải phóng khỏi gông cùm của chủ nô lệ.
Cần nói thẳng ra, hoặc cần thú nhận nếu bạn
muốn thế, rằng có rất nhiều con người đáng yêu trong giới tinh hoa điều hành
chính phủ ở miền Nam. Hầu như tất cả ký giả từng sống ở đây đều đã làm bạn với
các viên chức chính phủ, các sĩ quan quân đội, những thương gia, những chính
trị gia – tức là thành viên của giới đẳng cấp cao ấy. Những người này hầu hết
đều sống quá xa người dân và các vùng nông thôn của họ. Nhiều người quá sức
giàu có hay quá Tây đến mức khó có thể song hành cùng với nông dân hoặc với
người lính. Họ có thể không phải là những con người tốt nhất dựa trên các tiêu
chuẩn của thánh kinh Cơ đốc hay của Phật giáo. Nhưng một số họ đã là bạn của
tôi và rồi đây tôi sẽ thương nhớ họ biết chừng nào.
Quả thật quân đội miền Nam Việt Nam vào thời
kỳ cuối tỏ ra không ngang sức với quân đội miền Bắc Việt Nam. Thời kỳ cuối là
sáu tuần lễ đáng xấu hổ của việc rút lui, tan vỡ, hỗn độn, và sụp đổ. Ngay cả
thế đi nữa, quân đội miền Nam không phải là một đạo quân ngờ nghệch và hèn
nhát. Đó là một quân đội đã từng đứng vững và chiến đấu với lòng dũng cảm vô bờ
và khả năng xông pha trận mạc lạ lùng, trong vài trường hợp bạn còn nhớ, chẳng
hạn cuộc tự thủ An Lộc.
Nó đã từng đứng vững và chiến đấu dũng mãnh ở
nhiều mặt trận mà chúng ta đã quên lãng. Nó đã từng đứng vững và chiến đấu dũng
mãnh trong hàng ngàn trận đánh nhỏ và trên hàng ngàn tiền đồn muỗi vắt bùn lầy,
mà tên của chúng không một người Mỹ nào biết tới.
Đó là một đạo quân của những người lính lẽ ra
phải có một giới lãnh đạo xứng đáng hơn nhiều đối với họ.
Đó là một quân đội trong nhiều năm từng quan
sát người Mỹ đánh nhau với quân Cộng sản bằng những trang bị vũ khí hiện đại,
những thứ một ngày kia đột nhiên biến mất, để mặc họ đối diện với quân địch,
với những chiến thuật theo kiểu người Mỹ nhưng không có vũ khí tối tân tương
ứng. Đó là một quân đội người Việt có lẽ không nên được Mỹ hóa và vì thế sau đó
lại phải Việt Nam hóa một lần nữa. Đó là một quân đội trong nhiều năm được lệnh
bảo vệ vững chắc từng tấc đất của tổ quốc, và với mức độ thành công nhiều hay
ít, nó đã cố gắng làm đúng như thế.
Và khi đột nhiên nó bị ra lệnh từ bên trên phải
từ bỏ hết các tỉnh và các thành phố, nó đã tuân lệnh từ bỏ cuộc chiến.
Đó không phải là một quân đội của những sĩ
quan và những người lính có khuynh hướng xông lên lấp đầy vị trí địch, hay
những người sẵn sàng sống nhiều năm trong hầm trú ẩn dưới bom đạn B52 rải đầy mặt
đất, hay những người đã làm cuộc hành trình dài trên đường mòn Hồ Chí Minh, hay
những người đã đi vào trận đánh với ý tưởng rằng cái chết gần như cầm chắc của
họ là phục vụ cho một tương lai dân tộc tốt đẹp hơn. Quân đội miền Bắc mới là
đạo quân như thế, nhưng liệu có bao nhiêu quân đội khác nữa, kể cả quân đội Hoa
Kỳ của chúng ta, được huấn luyện theo một mô thức tinh thần kiểu ấy? Quân đội
miền Nam là đạo quân của những người lính giản dị, những người không được trang
bị lý tưởng gì cả, nhưng đã chiến đấu dũng cảm suốt hai mươi năm. Hàng trăm
ngàn người lính như thế đã tử trận. Hơn nửa triệu người lính của họ đã bị
thương. Và, trong những tuần lễ cuối của cuộc chiến tranh, khi tất cả những
người Mỹ ở Sài Gòn đều biết thua trận đến nơi, một số những người lính ấy vẫn
tiếp tục chiến đấu ở những nơi chốn khác nhau, như ở Xuân Lộc, và do đó đã mang
lại nhiều giờ khắc quý báu hơn cho những công dân Mỹ, và những công dân Việt
Nam được chọn lựa, đi thoát khỏi nước.
Thật ra đó là một quân đội thiện chiến hơn
nhiều so với hình ảnh của nó trong ngày cuối cùng.
Quả tình Nam Việt Nam đã nhận được nhiều trợ
giúp của Hoa Kỳ và đã trở nên quá lệ thuộc vào chúng ta. Lính Xô viết và lính
Trung cộng chưa hề chiến đấu ở Việt Nam như lính Mỹ. Trong hơn mười năm, miền
Nam, vì những mục đích thực tế, đã buộc phải trở thành một kiểu thuộc địa của
Hoa Kỳ. Quân đội Mỹ đã tự mình gánh lấy trách nhiệm chính trong cuộc chiến
tranh này và có lần đã hứa với mọi người là sẽ chiến thắng. Người dân Mỹ đã
đóng thuế để giúp đỡ Việt Nam. Washington đã đề ra các sách lược cho Sài Gòn và
tòa đại sứ Mỹ ở Sài Gòn đã dựng nên hầu hết bộ mặt chính trị ở đó.
Tuy vậy Nam Việt Nam không phải bao giờ cũng
là một con rối và có những thời gian nó không chịu khiêu vũ cùng nhịp với dàn
nhạc Mỹ. Nhưng qua nhiều năm chế độ miền Nam đã đi đến chỗ mặc định, hay bị dẫn
đến chỗ mặc định, rằng nước Mỹ là đồng minh của nó và là người bảo vệ nó. Đó
không phải là một mặc định vô lý. Cũng không phải là hoàn toàn vô lý rằng nhiều
người Việt Nam đôi khi rũ bỏ trách nhiệm của họ đối với sự sụp đổ, và trách cứ
người Mỹ về những vấn đề của chính họ, và rồi trong những ngày cuối cùng, khi
nước Mỹ muốn bỏ rơi cuộc chiến và rời khỏi Việt Nam, họ đã trở nên cay đắng đối
với nước Mỹ và người Mỹ.
Những người thắng cuộc
Cuối cùng bên mạnh hơn đã thắng. Những người
cộng sản Việt Nam mạnh hơn và bền gan hơn. Họ có lý tưởng, một thứ kết hợp giữa
chủ nghĩa cộng sản và chủ nghĩa quốc gia, và họ theo đuổi lý tưởng ấy với sự
bền bỉ đáng kinh ngạc. Họ đã vượt qua mọi chướng ngại, vượt qua những thất bại rõ
ràng gần như vô phương cứu chữa, và cuối cùng họ đã chiến thắng.
Nhưng bên mạnh hơn không nhất thiết phải là
bên tốt hơn.
“Tốt hơn” trở thành một câu hỏi về các giá
trị, và tôi càng kính trọng sức mạnh và sự bền bỉ của người Cộng sản chừng nào,
tôi lại càng không thừa nhận rằng xã hội Cộng sản chủ nghĩa khổ hạnh của miền Bắc
(2) thì tốt hơn xã hội không được hoàn
hảo lắm của miền Nam, một xã hội như tôi từng được biết.
Đây là lời ai điếu dành cho Nam Việt Nam ấy.
Không phải là lời ai điếu dành cho cả nước
Việt Nam hay ngay cả dân tộc Việt Nam. Những đất nước không bao giờ chết. Nam
Việt Nam sẽ tiếp tục tồn tại vài ba tháng nữa hay thậm chí vài năm nữa với một
chính phủ mới, những chính sách mới, một hệ thống xã hội mới. Rồi chắc chắn nó
sẽ sáp nhập vào với miền Bắc và một nước Việt Nam lớn hơn sẽ kiểm soát Đông
Dương và tất cả sẽ trở thành một lực lượng đáng kể ở châu Á. Nó sẽ là một nước
của 40 triệu (3) người dân bền gan, chịu thương chịu khó. Nó sẽ trở nên giàu có
vì có sẵn tài nguyên bao la. Nó sẽ có một quân đội mạnh vào bậc nhất, có thể là
mạnh nhất, trên thế giới.
Có lẽ toàn bộ năng lượng của 40 triệu người
Việt Nam sẽ được dành cho việc tái xây dựng đất nước và mở mang kinh tế.
Hay có lẽ toàn bộ năng lượng ấy sẽ được dùng
vào việc chăm chú mở rộng guồng máy chính trị và sức mạnh quân sự.
Dù trong trường hợp thứ nhất hay thứ hai,
nước Việt Nam sẽ đáng được, và có lẽ sẽ khiến cho, thế giới phải chú ý trong
những năm sắp tới đây. Một số người miền Nam sẽ mau mắn chụp bắt lấy cơ hội
trong chính thể mới và xã hội mới. Một số người sẽ gặp nhiều khó khăn nhưng
cuối cùng cũng tìm được chỗ đứng của mình, đâu đó. Một số khác sẽ không bao giờ
chấp nhận, hay sẽ không được chấp nhận, đứng vào hàng ngũ mới. Họ sẽ bị loại
trừ bằng cách này hay cách khác, nhưng con cháu của họ sẽ được nuôi dạy sao cho
chúng trở nên một bộ phận thích hợp của xã hội mới.
Một nước Việt Nam mới sẽ hùng mạnh và sẽ
thành công và đó là những phẩm chất quan trọng giữa các quốc gia, cũng như của
mỗi con người. Những cuốn sách lịch sử xưa nay vẫn dạy ta thế thôi, và vì vậy, lịch
sử sau này có lẽ sẽ không dành nhiều trang thiện cảm cho miền Nam Việt Nam, vì
nó đã không tiếp tục chiến đấu để sống còn.
Nhưng đây không phải là lịch sử.
Đây là lời ai điếu đọc trước quan tài Nam
Việt Nam, như tôi từng được biết.
Peter R. Kann
Nguyên tác: “Obituary
for South Vietnam”, by Peter R. Kann, Deadline Artists, edited by John Avlon,
Jesse Angelo & Errol Louis, Overlook Press, New York, NY, 2011.
Chú thích của người
dịch:
(1)
Nguyên văn “South
Vietnamese Capitalism”.
(2)
Nguyên văn
“Spartan Communist society of North Vietnam”.
(3)
Ước chừng của tác
giả về dân số Việt Nam trong cả nước năm 1975. Thực tế có thể nhiều hơn.
(4)
Các chữ in
nghiêng là từ nguyên tác in nghiêng. Chữ in hoa cũng vậy.